Mưa - Chương 01 - 02
Chương 1 Đã gần tới giờ đi ngủ và sáng hôm sau người ta sẽ trông thấy bờ. Bác sĩ Mácphâylơ đốt thuốc hút, rồi nghiêng mình ra mạn tàu, tìm chòm sao chữ thập ở phương Nam. Sau hai năm ở ngoài mặt trận – Ông đã bị thương tích lâu lành- ông vui vẻ được nghỉ ngơi yên tĩnh ít nhất là mười hai tháng tại Apia, và ngay chuyến đi này đã làm cho ông khoan khoái rồi. Vì hôm sau có nhiều hành khách xuống Pagô Pagô, nên tối hôm đó, người ta tổ chức một cuộc khiêu vũ, và tiếng dương cầm e é còn vang trong tai ông. Nhưng ở trên boong tàu, thì đã yên lặng. Cách chỗ ông đứng chừng vài bước, bà Mácphâylơ nằm trên chiếc ghế dài, đương nói chuyện với ông bà Đavitxơn. Ông tiến lại phía đó, ngồi vào chỗ sáng cởi nón ra. Người ta thấy đầu ông hơi sói, tóc hung hung đỏ, mặt có tàn nhang cũng hung hung; ông khoảng tứ tuần; gầy, mặt choắt, có vẻ tỉ mỉ, hơi gàn; ông nói giọng Tô Cách Lan, nhỏ nhẹ, bình tĩnh. Cặp Mácphâylơ và cặp Đavítxơn -một gia đình truyền giáo- thân với nhau –không phải vì thành khí mà vì gặp nhau hàng ngày ở trên tàu. Họ có một điểm gần nhau là cùng ghét hạng hành khách ngày đêm đánh bạc và uống rượu trong phòng hút thuốc. Trong số hành khách, ông bà Đavítxơn chỉ làm quen với ông bà Mácphâylơ điều đó là cho bà Mácphâylơ hãnh diện: mà bác sĩ Mácphâylơ, nhút nhát chứ không ngây thơ, cũng hơi cảm động về thịnh tình của cặp Đavítxơn. Nhưng vốn có óc dị nghị, nên ban đêm, trong phòng riêng, bác sĩ thường chỉ trích ông bà Đavítxơn. Bà Mácphâylơ vừa chải kỹ mớ tóc, vừa nói. - Bà Đavítxơn tự hỏi nếu không có vợ chồng mình thì không biết làm sao chịu nổi chuyến đi này. Bà ta bảo rằng khắp trên tàu, ông bà chỉ muốn làm quen với tụi mình thôi. - Anh lại cứ nghĩ rằng một nhà truyền giáo đâu phải là một nhân vật quan trọng gì mà khó tính đến thế. - Không phải là khó tính. Em hiểu ý bà ta lắm. Ông bà ấy mà phải tiếp xúc với hạng người thô lỗ ở trong phòng hút thuốc thì chịu sao nổi? Bác sĩ cười nhạo: - Vị sáng lập ra tôn giáo của họ không chấp nhất tới như vậy. Bà vợ đáp: - Em van mình biết bao lần rồi, rằng đừng đem tôn giáo ra mà giễu. Anh Alec à, em không ưa cái tính đó đâu. Anh chỉ nhận thấy mặt trái của kẻ khác thôi. Bác sĩ đưa cặp mắt xanh nhạt liếc nhìn bà vợ và làm thinh. Sống chung với nhau, ông đã có kinh nghiệm rằng muốn cho yên thân thì nên nhịn vợ một chút. Ông thay quần áo, xong trước, leo lên cái giường treo trên cao rồi lấy sách ra đọc để vỗ giấc ngủ. ********** Sáng hôm sau, khi ông lên trên boong thì tàu đã tới sát bờ. Ông chăm chú nhìn. Sau đường viền trắng như bạc ở bão biển, nổi lên những ngọn đồi cây cối um tùm. Những bụi dài rậm và mọc lan tới tận bờ nước, ẩn hiện những chòi lá của thổ dân và đây đó một ngôi nhà thờ nhỏ ló ra rực rỡ nắng. Bà Đavítxơn tiến lại, đứng bên cạnh bác sĩ. Bà bận đồ đen, cổ đeo một dây chuyền vàng, đầu dây lủng lẳng một chiếc thánh giá xinh xinh. Bà nhỏ con, tóc đen, không bóng, chải, vén kỹ, mắt lồi sau cặp mắt kính kẹp mũi, không gọng. Mặt dài như mặt ngựa, nhưng không có vẻ đần mà trái lại, có vẻ rất linh lợi, linh hoạt như con chim. Nhất là tiếng nói the thé, khàn khàn, không uốn giọng của bà làm cho ai cũng để ý tới. Nó đập vào tai ta một điệu đều đều, tàn nhẫn như tiếng động một cái máy khoan, đến bực mình. Cặp môi mỏng của bác sĩ ráng nhoẻn ra: - Tới đây, bà có cảm giác là tới nhà rồi chứ? - Những đảo san hô của chúng tôi thấp hơn miền này. Đây là đất hỏa sơn. Còn phải đi biển mười ngày nữa mới tới. Ông Mácphâylơ vui tính, bảo: - Trong miếng này thì đảo sang hô với đất hỏa sơn cũng là kế cận nhau cả, như phố trên phố dưới, ở xứ mình. - Ông nói cũng hơi quá, nhưng quả thật là ở miền Nam này, quan niệm về không gian có hơi khác. Vậy lời của ông cũng không sai hẳn. Bác sĩ Mácphâylơ thở dài nhẹ nhàng. Bà Đavítxơn nói tiếp: - Đáng mừng là chúng tôi không phải truyền giáo ở đây. Nghe nói miền này công việc khó khăn lắm. Những tàu cặp bến làm cho dân chúng láo nháo cả lên; lại thêm có một quần cảng nữa, ảnh hưởng tai hại tới thổ dân. Trong khu vực chúng tôi, không có những khó khăn ấy. Tất nhiên có một vài con buôn, nhưng chúng tôi ráng kìm họ được, nếu họ kháng cự thì chúng tôi sẽ làm cho họ chịu không nổi mà phải tự ý đi nơi khác. Sửa lại cặp kính, bà ta ngó quanh đảo, vẻ dửng dưng. - Ở đây công việc của nhà truyền giáo thật là vô vọng. Tôi không ngớt cảm ơn chúa đã tránh cho vợ chông tôi phải chịu sự thử thách đó. Khu truyền đạo của ông Đavítxơn gồm một nhóm cù lao ở phía Bắc Xamon, vì đảo nọ cách xa đảo kia nên ông dùng ghe máy, đi hằng ngày đường để bà ở lại tổng hành dinh chỉ huy giáo hội. Nghĩ đến cái lối chỉ huy đắc lực của bà mà bác sĩ rùng mình. Bằng một giọng không có sức nào át nổi, bà mạt sát sự trụy lạc của thổ dân, làm cho ta ghê tởm kịch liệt mà thấm thía. Cái lối thẹn thùng của bà thật cũng lạ. Ngay từ hồi mới quen nhau, bà đã rỉ tai bác sĩ: - Ông ạ, hồi chúng tôi tới đảo, tục lệ cưới hỏi của họ nó chướng làm sao ấy, đến nổi tôi không dám tỏ cho ông nghe. Nhưng tôi sẽ kể cho bà nghe rồi bà kể lại cho ông. Thế là hai bà, bà Đavítxơn và bà Mácphâylơ, xích ghế lại gần nhau, nghiêm trang nói chuyện với nhau khoảng hai giờ đồng hồ. Bác sĩ Mácphâylơ đi bách bộ qua lại cho khí huyết lưu thông, bắt nghe được lời thì thầm liếng thoắn thao thao bất tuyệt của bà Đavítxơn; thấy vợ há hốc miệng ra, nước da nhợt nhạt, ông biết rằng bà khoái nghe câu chuyện ghê tởm đó lắm. Ban đêm, trong phòng riêng, bà vợ hổn hển kể lại hết cho chồng nghe. Thế nào? Tôi nói có đúng không? Bà Đavítxơn thốt lên một cách đắc ý vào sáng hôm sau - Có bao giờ ông được nghe những câu chuyện gớm ghiếc như vậy không? Làm sao mà tôi có thể kể thẳng cho ông nghe được! Mặc dầu ông là bác sĩ. Rồi bà ta dò xét nét mặt của Mácphâylơ xem câu chuyện có gây kết quả như mình muốn không. - Ông hiểu rằng hồi mới tới, chúng tôi lợm giọng chứ? Ông tưởng tượng giùm tôi, trong khắp các làng xóm, không làm sao kiếm được một thiếu nữ ngoan. Bà ta nói tiếng “ngoan” đó bằng một giọng nghiêm khắc ngụ một ý riêng. - Vợ chồng tôi suy nghĩ kỹ rồi quyết định rằng việc đầu tiên phải làm là cấm ngặt khiêu vũ. Dân bản xứ họ mê cái đó lắm. Bác sĩ Mácphâylơ đáp: - Hồi trẻ tôi cũng không ghét môn khiêu vũ. - Tối qua, nghe ông bà rủ nhảy một bản tôi cũng đã đoán được rằng ông không ghét môn đó. Trong chỗ vợ chồng cũng vui vui. Ở cái chỗ nhốn nháo như vậy, đừng nên chen chân với họ làm gì! - Thế nào là nhốn nháo? Bà Đavítxơn lườm bác sĩ qua cặp kính kẹp mũi mà không trả lời, cứ tiếp tục: - Trong giới người da trắng thì khác, nhưng tôi đồng ý với nhà tôi là, thật là khó coi khi ông chồng đứng bên mà nhìn người khác ôm vợ mình mà nhảy. Tôi thì từ hồi cưới tới giờ, không hề nhảy lấy một bước. Mà cái lối khiêu vũ của dân bản xứ khác hẳn. Nó không những trái luân thường mà còn đưa tới sự trụy lạc nữa. Thật là nhờ Trời, chúng tôi đã diệt được rồi. Có nói mà không ngoa rằng tám năm nay, trong khu vực của chúng tôi, không có một người nào khiêu vũ nữa. Tàu đã tới bờ, bà Mácphâylơ lại nhập bọn. Thình lình tàu quẹo rồi chầm chậm tiến vô. Hải cảng rộng đủ chứa một hạm đội, chung quanh là những ngọn đồi xanh, cao, dựng đứng lên. Dinh của viên thống đốc ở cửa biển, dưới ngọn gió khơi thổi vào, giữa một khu vườn. Ngọn cờ đầy ngôi sao và sọc ngang phấp phới nhè nhẹ. Tàu chạy ngang qua ba tòa dinh thự xinh xắn, một sân quần vợt, rồi ghé bờ, bên cạnh nhiều kho hàng. Bà Đavítxơn lấy tay chỉ một tàu buồm đậu cách đó hai ba trăm thước, bảo sẽ đáp tàu đó đi Apia. Thổ dân ở khắp nơi trong đảo ùa lại, ồn ào, vui vẻ, hoặc để coi, hoặc để bán hàng cho những hành khách đi Xitnây. Họ đem lại những trái khóm, những nải chuối lớn, những thứ vải Apia, những chuỗi dây răng cá mập, vỏ ốc, chén kava, và những kiểu xuồng chiến nhỏ xíu. Lính thủy Mỹ ăn vận đàng hoàng, sạch sẽ, râu mới cạo, mặt sáng sủa, đi đi lại lại như một nhóm công chức. Trong khi phu khuân đồ của họ lên bờ, ông bà Đavítxơn và ông bà Mácphâylơ nhìn đám đông. Ông bác sĩ nhận xét những mụn lở loét ghê tởm không sao lành được, mà đa số trẻ em và thanh niên bản xứ mắc phải. Cặp mắt nhà nghề của ông sáng lên khi ông thấy - lần ấy là lần đầu - những con bệnh mắc chứng da sùi lên như da voi, chân tay họ sưng vù, to lớn nặng nề dị thường. Đàn ông và đàn bà đều quấn cái lava lava. Bà Đavítxơn nói: - Thứ y phục đó thật sỗ sàng. Nhà tôi bảo phải cấm ngặt thứ đồ đó mới phải. Những kẻ chỉ quấn mỗi một miếng khăn đỏ ở bụng thay cho quần áo thì còn có tinh thần đạo đức, luân lý gì nữa. Bác sĩ Mácphâylơ lấy khăn thấm mồ hôi ở trán đáp: - Nó hợp với khí hậu chứ. Khi họ lên bờ, ánh nắng đã oi ả mặc dầu lúc đó còn sớm. Chung quanh là đồi, thành thử Pagô Pagô khuất gió. Bà Đavítxơn nói tiếp, giọng như xé tai người ta: - Trong những cù lao của chúng tôi, chúng tôi đã cấm tuyệt cái lava-lava. Chỉ còn vài người già cả bận nó thôi; còn đàn bà thì bận áo choàng mà đàn ông thì bận quần và áo nịt. Ngay từ hồi mới tới, nhà tôi đã tuyên bố như vậy trong một tờ thuyết trình: “Ngày nào mà con trai trên mười tuổi vẫn không bận quần thì ngày đó đạo Kitô vẫn chưa gọi là thắng được trên những đảo này.” Nhưng cặp mắt xanh như cắt của bà Đavítxơn đã ngó những đám mây đen thường đùn lên ở cửa biển. Đã bắt đầu có vài giọt mưa. Bà khuyên: - Nên kiếm chỗ trú mưa thôi. Chương 2 Họ theo đám đông chạy lại một cái xưởng lợp bằng tôn uốn, và mưa đổ xuống như trút nước. Được một lúc ông Đavítxơn lại. Khi ở dưới tàu, mặc dù đối đãi với ông bà Mácphâylơ một cách rất lễ độ, ông ít giao du hơn với bà vợ, chỉ đọc sách. Ông ít nói, gần như lầm lỳ, vì đạo bác ái mà gắng sức tỏ ra vui tính, chứ bản tính ông kín đáo, gắt gỏng là khác nữa. Bộ dạng kỳ dị: rất cao mà gầy, chân lêu nghêu, má hóp, gò má nhô, môi dày, có vẻ da đục, trái hẳn với nước da nhợt nhạt của ông. Tóc để rất dài. Mắt đen, sâu hoắm, trông thấy mà ghê; bàn tay tuyệt đẹp mà có vẻ mạnh mẽ lạ. Đặc biệt nhất là nhìn ông, ta có cảm giác rằng ông cố nén một ngọn lửa bừng bừng trong nội tâm. Cảm giác đó làm cho ta khó chịu. Không thể nào thân mật với con người như vậy được. Ông lại báo tin không may bệnh sởi, một bệnh truyền nhiễm nguy hiểm thường làm cho dân Kamaka chết, đương phát ở đảo, và một thủy thủ trên chiếc tàu chạy Apia mà họ sẽ đáp, đã mắc bệnh đó. Người ta đã chở bệnh nhân lên bờ, đợi hết thời gian kiểm dịch; nhưng ở Apia người ta đều đánh điện tới cấm tàu vào bến cho tới khi biết chắc là bệnh không phát ra ở tàu nữa mới thôi. - Thế là chúng ta phải ở lại đây ít nhất là mười ngày. Bác sĩ Mácphâylơ bảo: - Ở Apia người ta cần tôi gấp mà. - Gấp cũng phải chịu. Nếu dưới tàu không còn người nào mắc bệnh nữa thì tàu mới được phép chở những hành khách da trắng đi, còn những người bản xứ thì phải đợi ba tháng nữa. Bà Mácphâylơ hỏi: - Ở đây có khách sạn không? Ông Đavítxơn mỉm cười: - Tuyệt nhiên không. - Thế thì làm sao bây giờ? - Tôi mới nói với ông thống đốc. Trên bãi biển, một nhà buôn có phòng cho mướn: tôi đề nghị hễ ngớt mưa một chút, chúng ta lại đó xem thử. Đừng hòng có tiện nghi đâu đấy. Miễn có được một cái giường để nằm và một cái mái để che là quý rồi. Nhưng mưa vẫn chưa muốn ngớt và họ đành khoác áo mưa, che dù, đi đại. Thực ra không phải là một thành phố, chỉ có một dãy công sở, vài cửa hàng, rồi phía sau là ít nhà lá của thổ dân lụp xụp trong đám dừa và chuối. Đi độ năm phút là tới căn nhà họ kiếm. Nhà bằng cây, có hai từng, từng nào cũng có hiên rộng, mái lợp tôn uốn. Chủ nhà là một người lai tên Hơn,vợ là người bản xứ, chung quanh là một bầy con còn nhỏ da ngăm ngăm; họ mở một cửa tiệm ở từng dưới bán đồ hộp và vải. Phòng cho mướn không có đồ đạc gì cả. Phòng của ông bà Mácphâylơ chỉ có mỗi một cái giường tồi tàn, với một cái mùng rách, một cái ghế khập khiễng và một cái bồn rửa mặt. Họ ngó quanh mà ngán ngẫm. Mưa vẫn không ngớt. Bà Mácphâylơ bảo: - Em chỉ lấy ra những đồ cần thiết thôi nhé? Bà đương mở va li thì bà Đavítxơn nhanh nhẹn bước vô, không có vẻ gì buồn bực về cảnh tồi tàn của phòng. Bà ta khuyên: - Trước hết, bà lấy kim chỉ vá ngay cái mùng lại đi bà ạ, không thì đêm không thể nào nhắm mắt được đâu. Bác sĩ Mácphâylơ hỏi: - Muỗi dữ vậy kia à? - Mùa này là mùa muỗi mà. Tới Apia, trong những buổi tiếp tân của ông thống đốc, ông sẽ nhận thấy rằng người ta đưa cho mỗi bà một cái áo gối để bao chân cho khỏi bị muỗi đốt. Bà Mácphâylơ thở dài: - Nếu ngớt mưa cho mình được một lúc nhỉ? Trời có nắng lên, tôi mới vui dọn dẹp lại cái phòng này được chứ. Đợi cho hết mưa thì còn lâu, Pagô-Pagô là nơi mưa nhiều nhất trên Thái Bình Dương. Cái vịnh này, những đồi kia, đều giữ mưa lại. Đương giữa mày mà. Bà hết nhìn ông Mácphâylơ tới bà Mácphâylơ, cả hai đều đứng trơ trơ mỗi người một nỗi như kẻ mất hồn, rồi cắn môi suy nghĩ. Cái cặp nhu nhược này thấy họ mà bực mình. Bẩm tính hoạt động, bà Đavítxơn thấy tay ngứa ngáy, phải lăng xăng dọn dẹp lại căn phòng giúp họ. - Đâu, đưa cho tôi kim chỉ đi. Tôi vá mùng lại cho trong khi bà mở va li lấy đồ. Bữa cơm trưa vào lúc một giờ đấy nhé. Còn bác sĩ thì xuống bến xem người ta có đặt những đồ đạc cồng kềnh của ông vào một chỗ khô ráo không. Ông còn lạ gì dân bản xứ nữa, chúng có thể xếp đại nó ở giữa trời lắm. Ông Mácphâylơ lại khoác áo mưa xuống thang. Ở cửa, Hơn đang nói chuyện với một người thủy thủ trưởng và một cô hành khách đi hạng nhì mà bác sĩ đã gặp nhiều lần ở dưới tàu. Thủy thủ trưởng nhỏ bé, nhăn nheo, ngả đầu chào ông khi ông đi qua, và nói: - Cái bệnh sởi thật là tai hại. Bác sĩ đã mướn được phòng rồi? Mácphâylơ thấy giọng đó hơi sỗ sàng, nhưng vốn rụt rè nên ông không tỏ vẻ bực mình. - Phải, chúng tôi đã mướn được phòng ở trên lầu. - Cô Thômsơn cũng phải tới Apia với ông. Nên tôi dắt cô ấy lại đây. Vừa nói vừa lấy ngón tay chỉ một ả đứng bên cạnh. Khoảng hai mươi bảy tuổi, mập, thô, ả bận áo dài trắng và đội một chiếc nón lớn cũng trắng. Bắp chân mập mạp của ả đeo vớ sợi, lòi ra khỏi đôi giày cổ cao bằng da dê sơn trắng bóng. Ả cười tình với bác sĩ, rồi nói, giọng khàn khàn. - Thằng tướng này đòi cứa cổ em đấy, cái phòng khốn nạn đó mà đòi đồng rưỡi một ngày. Người thủy thủ trưởng nói: - Tôi bảo chú rằng cô ấy là bạn thân của tôi. Cô ấy không thể trả trên một đồng, thôi thì nhận cái giá đó đi. Chủ tiệm mập mạp, bình tĩnh mỉm cười, ngọt như mía: - Ông Xoan à, nếu vậy thì tôi ráng làm vui lòng ông. Để tôi bàn với nhà tôi xem, có thể được thì hạ giá một chút. Cô ả Thômxơn nói: - Thôi đi, đừng giở trò khỉ ra nữa. Quyết định phắt đi. Tôi trả chú một đồng một ngày đấy, không thêm một trinh. Mácphâylơ mỉm cười, thấy cô ả trả giá tách bạch như vậy, ông ta phục quá. Ông thuộc vào hạng người không ưa trả giá, thà chịu hớ chứ không muốn cò kè thêm bớt. Chủ tiệm thờ dài. - Nể lời ông Xoan quá. Vâng, thì tôi nhận. Cô ả đáp: - Ừ, biết điều đấy. Thôi vô! Tôi đãi các người một chầu rượu. Có thứ Wisky chính hiệu trong cái xắc này đây. Anh Xoan, đem giùm vô. Bác sĩ nữa, vô cho vui. - Thôi, cảm ơn. Tôi còn phải đi xem hành lý của tôi ra sao. Nói xong, Mácphâylơ đi ra đường; mưa ở ngoài biển hất vào, bờ bên kia mù mịt. Ông ta gặp hai ba người bản xứ bận lava-lava, che cây dù lớn. Họ uyển chuyển, cử động khoan thai, đi đứng ngay ngắn. Khi họ ngang qua ông, họ mỉm cười chào bằng ngôn ngữ của họ. Tới bữa, ông về tiệm. Bàn ăn đã dọn trong phòng khách, một phòng để trưng chứ không phải ở, buồn tẻ, hôi hám. Chung quanh tường bày những hàng ghế bành ngay ngắn, rất có thứ tự, giữa trần thòng xuống một cây đèn treo mạ vàng, bao giấy lụa vàng để che ruồi. Ông Đavítxơn vắng mặt. Bà Đavítxơn giải thích: - Nhà tôi lại thăm ông thống đốc, chắc ăn cơm trong dinh. Một thiếu nữ bản xứ bưng ra một đĩa thịt bò. Ít phút sau, chủ nhân vô phòng soát lại xem còn thiếu cái gì không. Bác sĩ Mácphâylơ bảo: - Ông Hơn, ông mời thêm một khách trọ phải không? - Cô ta chỉ mướn phòng thôi ạ, cơm nước tự lo lấy. Hơn liếc nhìn hai bà khách vẻ khúm núm: - Tôi để cô ấy ở tầng dưới, như vậy khỏi sợ phiền đến hai bà. Bà Mácphâylơ hỏi: - Có phải cô ta cũng ở tàu lên không? - Thưa bà vâng, đi hạng nhì ạ. Cô ấy tới Apia để làm chân thu tiền nào đó. - Vậy à? Khi chủ nhà ra, Mácphâylơ nói: - Ăn một mình trong buồng thì chắc buồn lắm. Bà Đavítxơn hỏi: - Nếu là một hành khách hạng nhì thì như vậy cũng là chuyện thường. Ai đấy nhỉ? - Lúc tôi ở dưới nhà, người thủy thủ trưởng dắt cô ta lại. Tên cô ta là Thômxơn. Bà Đavítxơn hỏi: - Phải cô ả tối hôm qua khiêu vũ với hắn không? - Có lẽ. Tôi cũng không biết rõ. Coi bộ cũng hơi đúng. Bà Đavítxơn nói: - Đồ hư thân mất nết. Rồi họ nói qua chuyện khác. Ăn xong, mệt mỏi vì sáng hôm đó dậy sớm, họ chia tay nhau, về phòng riêng nghỉ ngơi. ********** Sáng hôm sau, trời vẫn xám, mây vẫn thấp, nhưng không mưa, họ dạo chơi trên con đường lớn mà người Mỹ xây dọc bờ vịnh. Khi về tới nhà thì ông Đavítxơn cũng vừa mới về, ông bảo: - Có lẽ chúng ta phải ở lại đây đến nửa tháng. Tôi đã trình bày với ông thống đốc, ông ấy bảo không có cách nào khác. Bà Đavítxơn ngó chồng, vẻ ái ngại nói: - Nhà tôi nóng về khu vực để làm việc lắm Đavítxơn đi đi lại lại trong hiên nói tiếp: - Chúng tôi vắng mặt một năm rồi; tôi ngại rằng dưới sự chỉ huy của các mục sư bản xứ, giáo hội không còn giữ được kỷ luật nữa. Phải nhận rằng họ tốt, sùng đạo, sợ Chúa, đức tin thành thật của họ có thể làm cho nhiều người tự cho là ngoan đạo ở xứ mình phải thẹn. Nhưng họ thiếu nghị lực một cách thảm hại. Họ chống cự được một lần, hai lần thôi, không thể nào kiên nhẫn hơn được. Dù họ là người đáng tin tới mấy, mà giao cho họ thay mình thì rồi thế nào cũng có chỗ hỏng. Ông ta nói xong, đứng lại. Thân hình gầy mà cao, cặp mắt sáng ngời trong một gương mặt xanh xao, có vẻ suy nghĩ lắm. Tấm lòng thành thực hiện rõ trong cử chỉ hăng hái, giọng nói trầm trầm, sang sảng. - Tôi tin rằng bổn phận tôi vạch rõ. Phải hoạt động, hoạt động gấp. Nếu cây mà đã mục rồi thì phải cưa liệng vô lửa. Tối hôm ấy, họ không ăn cơm mà uống trà và ăn bánh ngọt. Trong phòng khách nghiêm trang, các bà ngồi đan, bác sĩ hút thuốc; còn nhà truyền giáo thì kể cho họ nghe hoạt động của mình trên các đảo. - Hồi chúng tôi mới tới, thổ dân không có quan niệm về tội lỗi, phạm tất cả những giới luật của thiên chúa mà họ không ngờ. Nhiệm vụ khó khăn nhất của tôi là dạy cho họ hiểu thế nào là điều ác. Ông bà Mácphâylơ biết rằng ông Đavítxơn đã truyền giáo năm năm ở quần đảo Salamôn trước khi gặp bà ấy. Hồi đó bà truyền giáo ở Trung Hoa. Họ về xứ sở nghỉ phép và gặp nhau ở Boston, trong một cuộc hội nghị các nhà truyền giáo. Họ cưới nhau rồi được phái tới miền này luôn cho tới ngày nay. Trong khi chuyện trò với ông Đavítxơn, ông bà Mácphâylơ có cảm giác là con người đó bất khuất, can đảm lạ lùng. Vừa truyền giáo, vừa làm y sĩ, ông phải đi tới đảo này, đảo khác bất kỳ lúc nào. Mùa mưa, trong những cơn giông tố, ngồi trong một chiếc thuyền đánh cá voi còn nguy thay, mà người ta thường lái chiếc ca nô lại đón ông đi. Hễ có một người bị tai nạn hay ốm đau, thì không khi nào ông do dự. Trên mười hai lần rồi, ông phải chống cự với sóng gió, ở giữa biển, ban đêm và nhiều lần bà vợ tưởng mình đã thành quả phụ. Bà ta kể: - Thỉnh thoảng tôi năn nỉ ông ấy đừng đi hoặc đợi cho bớt sóng gió rồi hãy đi, nhưng vô ích! Nghị lực sắt đá, hễ quyết định thì không có gì ngăn cản được. Đavítxơn lớn tiếng: - Làm sao mà tôi có thể bảo thổ dân họ tin Chúa được nếu chính tôi, tôi không làm gương cho họ? Trong cơn nguy mà họ cho gọi tôi thì họ biết rằng thế nào tôi cũng tới, trừ phi là một việc ngoài sức của con người. Thử nghĩ coi, Chúa có thể nào bỏ tôi trong khi tôi làm việc cho Ngài? Ngài mà ra lệnh thì gió sẽ dậy, sóng sẽ gầm. Mácphâylơ vốn nhút nhát. Không thể nào ông ta quen được tiếng đạn vèo vèo trên miệng hầm; và khi ở tiền tuyến, có lần ông gắng tự chủ cho tay khỏi run; đến nỗi mồ hôi chảy ròng ròng trên trán, làm mờ cả cặp kiếng. Cho nên nhìn nhà truyền giáo, ông hơi rùng mình, bảo: - Tôi ước sao có thể nói rằng không hề biết sợ một cái gì. Đavítxơn bẻ ngay: - Tôi ước sao ông có thể nói rằng ông tin Chúa. Tới đó, ông ta nhớ lại những buổi đầu tiên hai vợ chồng sống ở quần đảo. - Đôi khi vợ chồng tôi ngó nhau mà nước mắt ròng ròng trên má! Là việc không ngừng suốt ngày đêm mà cơ hồ không có kết quả. Không có nhà tôi không biết tôi đã ra sao. Khi tôi mềm lòng, chán nản, nhà tôi làm cho tôi can đảm lại, tin tưởng lại. Bà Đavítxơn e lệ cúi mặt xuống, cặp má hốc hác bỗng ửng lên một chút. Tay bà run run. Không nói năng gì cả. - Không có ai giúp chúng tôi cả. Cô độc trong cảnh tối tăm, cách cả ngàn cây số mới có người đồng hương. Mỗi lần thấy tôi tuyệt vọng, thì nhà tôi ngưng may vá, mở Thánh Kinh ra đọc cho tới khi nào sự bình tĩnh trở lại tâm hồn của tôi như giấc ngủ trở lại cặp mi em bé thì mới thôi, lúc đó gấp kinh lại, nhà tôi bảo: “Dù họ không muốn thì ta cũng cứ cứu họ”. Và mạnh mẽ tin trở lại ở Chúa, tôi đáp: “Phải nhờ Chúa Phò hộ, anh phải cứu họ, anh phải cứu họ”. Ông ta lại đứng bên cạnh bàn như đứng trước một cái thánh giá đặt kính. - Bản chất của họ bết quá rồi, đến nỗi không thể nào giảng cho họ thấy cái xấu của họ được. Những hành động mà họ cho là tự nhiên thì chúng tôi phải biến đổi thành tội lỗi; chẳng những sự gian dâm, nói dối, ăn cắp, mà ngay như sự lõa lồ, thói khiêu vũ, không lại nhà thờ, cũng là tội lỗi. Tôi đặt ra cái luật rằng đàn bà mà để hở ngực, đàn ông mà không mặc quần là có tội. Bác sĩ Mácphâylơ ngạc nhiên hỏi: - Làm cách nào vậy? - Dùng cách phạt tiền. Tất nhiên chỉ mỗi một cách làm cho người ta hiểu rằng một hành động nào đó là có tội lỗi là phạt nếu họ làm hành động đó. Vậy tôi phạt tiền nếu họ không tới nhà thờ, nếu họ khiêu vũ hoặc ăn bận không đứng đắn. Tôi đặt ra một tà-ríp; tội nào cũng phải chuộc bằng tiền hay bằng công. Rốt cuộc họ hiểu. - Có khi nào họ không chịu nộp phạt không? - Làm sao có thể như vậy được? Bà Đavítxơn mắm đuôi môi, tiếp lời chồng: - Dám chống cự ông Đavítxơn thì phải là gan cóc tía. Bác sĩ ngó ông bạn, vẻ suy nghĩ. Tuy thấy chướng tai mà còn do dự chưa dám chỉ trích. - Ông đừng quên là tới nước cùng, tôi có thể đuổi họ ra khỏi giáo đường nhé! - Họ sợ hình phạt đó à? Ông Đavítxơn xoa tay nhè nhẹ, mỉm cười: - Vô phương bán dừa, và đi chài về hết chia phần. Gần chắc chắn là chết đói. Họ sợ lắm chứ! Bà Đavítxơn góp ý: - Sao mình không kể chuyện Phrết Ôtxơn cho ông bà nghe? Nhà truyền giáo nhìn bác sĩ bằng cặp mắt nẩy lửa: - Phrết Ôtxơn là một con buôn Đan Mạch lập nghiệp ở đảo từ lâu. Nhờ buôn bán, hắn khá giàu và thấy chúng tôi tới, hắn không vui. Hắn quen làm mưa làm gió, mua dừa của thổ dân muốn trả sao thì trả, có khi trả bằng hàng hóa, có khi trả bằng rượu Wisky. Vợ hắn là người bản xứ, mà hắn công nhiên lừa vợ. Lại thêm cái tật say sưa. Tôi cho hắn cơ hội sửa tính, nhưng hắn không nghe lại còn cười nhạo tôi nữa. Khi nói những lời cuối cùng đó, giọng Đavítxơn trầm hẳn xuống, rồi ông ta ngừng một hai phút. Người ta đoán có cái gì kinh khủng sắp xảy ra. - Trong hai năm, hoàn toàn phá sản, công lao cắp nhặt trong một phần tư thế kỷ tiêu tan hết. Bị áp đảo, sau cùng hắn phải lại tôi, thảm hại như một tên hành khất, năn nỉ tôi cho hắn giấy tàu về xứ ở Xítnây. Bà Đavítxơn nói: - Phải thấy cái bộ mặt của hắn lúc đó! Xưa kia khỏe mạnh đẹp đẽ, bệ vệ, dõng dạc, bây giờ nhận không ra nữa, tay chân run lẩy bẩy. Hắn đã hóa thành một ông già mau quá! Đavítxơn chăm chú ngó trong bóng tối. Mưa lại đổ. Bỗng có tiếng ở nhà dưới đưa lên, ông ta quay lại nhìn vợ, như cố ý hỏi: “Cái gì vậy?”. Một chiếc máy hát phát ra một điệu ồn ào, như nghẹt mũi, chướng tai. Ông ta hỏi: - Cái gì vậy? Bà vợ sửa lại cặp kính kẹp mũi. - Có một cô hành khách hạng nhì mướn phòng ở dưới nhà. Có lẽ tiếng hát ở phòng đó phát ra. Họ yên lặng. Rồi tiếng người khiêu vũ. Rồi âm nhạc ngưng bặt, tiếng nút chai nổ lốp bốp, trong khi tiếng cười nói vang lên. Bác sĩ Mácphâylơ bảo: - Chắc cô ta đãi tiệc từ biệt bạn bè dưới tàu. Tàu nửa đêm nhổ neo thì phải? Ông Đavítxơn làm thinh. Rồi ngó đồng hồ hỏi vợ: - Mình về phòng chứ? Bà ta đứng dậy, gấp đồ đan lại, đáp: - Vâng, về. Bác sĩ hỏi: - Giờ này mà đi ngủ, e sớm chăng? Bà Đavítxơn đáp: - Chúng tôi còn phải đọc kinh. Bất kỳ ở đâu, chúng tôi cũng phải đọc một chương Thánh Kinh trước khi đi nằm, đọc hết những lời chú giải nữa ông ạ, rồi lại bình luận với nhau cho thấu nghĩa. Một cách luyện tinh thần rất kiến hiệu. Hai cặp vợ chồng đó chia tay nhau. Ở lại trong phòng, vợ chồng bác sĩ ngồi im một lát, rồi chồng bảo vợ: - Anh muốn đi kiếm cỗ bài đánh chơi một ván. Bà vợ chăm chú ngó chồng, do dự. Câu chuyện của gia đình nhà truyền giáo làm cho bà không được yên lòng; bà không dám thú với chồng rằng bà ngại họ trở lại lắm, thấy mình đánh bài sẽ coi mình ra sao. Ông chồng trở về với cỗ bài, bà nhìn ông chơi một mình mà nơm nớp sợ. Ở nhà dưới, cuộc chè chén say sưa vẫn tiếp tục.