Chương 1

Dù người cha đã hình dung anh sẽ có một tương lai rực rỡ trong quân đội, Hervé Joncour cuối cùng lại kiếm sống bằng một nghề khác thường, cái nghề không phải xa lạ, như một sự trớ trêu kỳ cục, với các nét sắc sảo dễ thương của tướng mạo anh, để lộ ra một sự đổi giống nữ mơ hồ.

Để sống, Hervé Joncour mua và bán tằm.

Ta đang ở vào năm 1861 . Flaubert viết tiểu thuyết Salammbo, đèn điện còn là một giả thuyết và Abraham Lincoln, bên kia bờ Đại Dương, đang tiến hành một cuộc chiến tranh mà ông sẽ không thấy hồi kết thúc.

Hervé Joncour được ba mươi hai tuổi.

Anh mua, và anh bán.

Những con tằm.

Trong thực tế, Hervé Joncour mua và bán tằm khi tằm còn là trứng bé tí xíu, màu xám hay vàng, bất động và tưởng như chết . Chỉ cần một lòng bàn tay đủ nắm hàng ngàn trứng như thế.

"Đó là điều ta gọi là nắm một tài sản trong tay".

Vào những ngày đầu tháng năm, trứng nở ra con sâu tằm ăn lá dâu để lớn lên thành tằm, ăn suốt ba mươi ngày, ăn rào rào, ăn bỗ bã; tằm chín thì thu mình kéo kén, hai tuần sau thì thân tằm bị tách ra khỏi kén vĩnh viễn để lại đằng sau một di sản tương đương, nếu tính bằng sợi, một ngàn thuộc tơ sống, nếu tính bằng tiền, một số lượng to tát quan Pháp: với điều kiện là mọi sự được tiến hành theo đúng phép tắc, bài bản, và phải ở một vùng miền nam nước Pháp, như trường hợp của Hervé Joncour.

Lavilledieu là tên cái thị trấn nơi Hervé Joncour sinh sống.

Helène, tên người vợ anh.

Họ không có con.

3.

Những trận dịch bệnh càng ngày càng tàn phá ngành chăn tằm ở châu Âu . Để tránh những sự tác hại, Hervé Joncour phải đi mua trứng tằm bên kia bờ Địa Trung Hải, tận Syrie và Ai Cập. Đó là khía cạnh phiêu lưu đặc thù của nghề anh. Hằng năm vào những ngày đầu tháng giêng, anh lên đường. Anh băng qua một ngàn sáu trăm dặm trên biển và tám trăm cây số trên bờ. Anh ra tay chọn trứng, trả giá, thu muạ Rồi anh quay lưng, băng qua tám trăm cây số đường bộ và một ngàn sáu trăm dặm đường biển, về đến cái thị trấn nhỏ Lavilledieu thường vào ngày chủ nhật đầu tiên của tháng tư, thường kịp giờ dự lễ ca trong nhà thờ. Anh còn làm việc suốt hai tuần nữa cho trứng vào bao bì và đem bán.

Thời gian còn lại trong năm, anh nghỉ ngơi.

4.

- Và châu Phi nó ra sao ? người ta hỏi anh.

- Mệt mỏi.

Anh có một ngôi nhà lớn nằm ngoài thị trấn một chút và một xuồng nhỏ ở trung tâm, ngay trước mặt ngôi nhà bỏ hoang của ông Jean Berbek. Jean Berbek, một ngày đẹp trời nào đó bỗng nổi hứng quyết định từ nay về sau không mở miệng nói gì nữa. Ông giữ lời hứa. Vợ và hai đứa con gái bỏ ông ra đi. Ông chết. Nhà ông chẳng ai muốn mua và như thế bây giờ thành nhà hoang.

Mua và bán tằm, nội việc này thôi cũng mang lại cho Hervé Joncour hàng năm một số lợi tức đủ bảo đảm cho anh và vợ một cuộc sống tiện nghi thoải mái mà ở tỉnh lẻ người ta dễ cho là sang trọng, xa hoa. Anh hưởng thụ của cải mình một cách kín đáo, và anh thấy mình hoàn toàn lạnh nhạt trước cái viễn tưởng không xa thực tế lắm là anh có thể trở nên thực sự giàu có. Ngoài ra, anh là một trong những người thích làm khán giả trước chính cuộc đời của mình, mọi tham vọng sống cuộc đời mình được xem là không thích đáng, là lạc lầm.

Ta sẽ nhận ra là những người như thế lặng ngắm số mệnh mình cùng một cách như phần lớn những người khác lặng ngắm một ngày mưa.

5.

Nếu được hỏi, có lẽ trả lời rằng cuộc đời anh sẽ tiếp tục như thế mãi mãi. Tuy nhiên, vào những năm đầu thập niên sáu mươi, trận dịch bệnh tằm gai, sau khi đã làm cho số trứng tằm nuôi ở châu Âu trở thành vô dụng, lan tràn sang bên kia biển, tận châu Phi và ngay sang cả Ấn Độ, theo lời một số người. Năm 1861, Hervé Joncour trở lại quê nhà sau chuyến đi xa thường lệ, mua về một số trứng mà hai tháng sau mới biết bị nhiễm bệnh gần hết. Đối với Lavilledieu cũng như các thành phố khác đã dựa trên nền sản xuất tơ lụa mà làm giàu, năm đó tưởng như báo hiệu sự bắt đầu cho sự suy sụp, tàn cuộc. Khoa học tỏ ra bất lực trong việc tìm hiểu những nguyên nhân gây dịch bệnh. Và khắp mặt đất, tận những vùng xa xôi hẻo lánh, tưởng như bị giam hãm, đày đoa. bởi cái phù phép, tai ương không lời giải thích đó.

- Không phải khắp mặt đất đâu, Baldabiou nói nhẹ nhàng, không khắp đâu, và rót một chút nước lạnh vào ly rượu anizét của mình.

6.

Hai mươi năm trước Baldabiou là người vừa đặt chân đến cái thị trấn này thì đi ngay tới văn phòng viên thị trưởng, vào thẳng trong chẳng thèm thông báo, và đặt lên bàn giấy tấm khăn quàng bằng lụa màu hoàng hôn rồi hỏi viên thị trưởng.

- Ông biết cái gì đây không ?

- Chuyện đàn bà.

- Sai. Chuyện đàn ông: tiền.

Viên thị trưởng sai người tống cổ ông ra ngoài. Chẳng sao, ông cho dựng lên một nhà máy sợi ở phía dưới thị trấn gần bờ sông, một trại chăn tằm cạnh rừng và một nhà thờ nhỏ dành cho nữ thánh Agnès nằm ở ngã ba đường đi về Viviers. Ông thu dụng khoảng chục người thợ, gọi mua từ Ý về một cổ máy bằng gỗ trông bí hiểm, toàn bánh xe và guồng máy không à, và không nói gì thêm suốt bảy tháng. Rồi ông trở lại văn phòng viên thị trưởng, đặt ngay ngắn trên bàn giấy ba chục ngàn quan Pháp bằng những tờ giấy bạc lớn.

- Ông biết cái gì đây không ?

- Tiền.

- Sai. Đây là bằng chứng ông là một thằng ngu.

Rồi ông thu xếp lại các tờ giấy bạc, bỏ vào ví và làm bộ đi ra.

Viên thị trưởng chận lại.

- Tôi phải làm cái quái gì đây ?

- Không gì cả: và ông sẽ là thị trưởng một thành phố nhỏ giàu có.

Năm năm sau, Lavilledieu có bảy nhà máy sợi và trở thành một trong những trung tâm hàng đầu châu Âu trong ngành chăn tằm và dệt lụa. Không phải tất cả những nhà máy đó đều thuộc quyền sở hữu của Baldabiou đâu. Các chức sắc, thân hào và các địa chủ trong vùng đã theo chân ông trên bước đường phiêu lưu công nghiệp lạ lùng này. Ông chẳng bao giờ giấu nghề, lúc nào cũng chia xẻ những bí mật với mọi người trong bọn họ. Ông thấy vui thích làm như vậy hơn là làm ra tiền xúc không hết. Chỉ dạy. Và có những điều bí mật để kể ra. Ông ta như thế đó, cái ông Baldabiou này.

7.

Baldabiou cũng là người mà tám năm về trước đã làm thay đổi cuộc đời Hervé Joncour. Đó là vào thời kỳ những trận dịch bệnh đầu tiên phát khởi những đợt tấn công vào công cuộc chăn tằm ở châu Âu. Không tỏ ra bối rối chút nào, Baldabiou để tâm xem xét tình hình và rút ra kết luận là không thể giải quyết vấn đề này, chỉ còn cách là đi vòng tránh nó thôi. Ông có ý nhưng thiếu người, một người. Khi trông thấy Hervé Joncour đi ngang trước quán cà phê Verdun lịch sự trong một bộ quân phục thiếu úy bộ binh, đĩnh đạc với tướng bộ một quân nhân đang nghỉ phép, ông biết mình đã tìm ra người đó. Lúc đó Hervé Joncour được hai mươi bốn tuổi. Baldabiou mời anh về nhà, mở rộng đuôi mắt anh một tập bản đồ địa lý mang đầy những tên ngoại lai xa lạ và nói:

- Chúc mừng cậu. Rốt cuộc cậu cũng tìm ra một công việc đứng đắn.

Hervé Joncour ngồi nghe một hồi cái chuyện dài về tằm, về trứng, về những Kim Tự Tháp và những chuyến hải hành. Rồi anh nói:

- Tôi không thể làm được.

- Tại sao ?

- Vì hai hôm nữa hết hạn nghỉ phép, tôi phải lên lại Paris.

- Nghề lính ?

- Dạ phải. Cha tôi đã quyết định như thế.

- Chuyện dễ.

Ông dẫn Hervé Joncour đi thẳng tới nhà cha anh.

- Ông biết ai đây không ?

- Thằng con tôi.

- Nhìn kỹ hơn đi.

Viên thị trưởng thả người dựa vào lưng ghế bành bằng da, và bắt đầu đổ mồ hôi.

- Thằng con trai tôi, Hervé, hai ngày nữa trở lên Paris, một tiền đồ sáng giá trong quân đội chúng ta đang chờ đón nó, nếu Thượng Đế và nữ thánh Agnès muốn thế.

- Đúng. Có điều Thượng Đế thì bận rộn chỗ khác và thánh Agnès không ngửi được lính tráng.

Một tháng sau Hervé Joncour lên đường đi Ai Cập. Anh đi biển trên con tàu mang tên Adel . Trong các cabin mùi nấu nướng bay từ bếp vào, có một người Anh khoe mình đã từng đánh nhau trong trận Waterloo, chiều tối ngày thứ ba của chuyến đi người ta thấy các con cá heo lóe sáng ở chân trời như những con sóng say, ở bàn cờ quay con số mười sáu cứ ra hoài.

Anh trở lại nhà hai tháng sau - ngày chủ nhật đầu tiên của tháng tư, vừa kịp giờ dự lễ cả - với hàng ngàn trung tâm gói trong bông đặt trong hai hộp lớn bằng giỏ. Anh có hàng lô chuyện để kể. Nhưng khi chỉ có Baldabiou và anh ngồi lại với nhau, điều ông ta muốn nghe là:

- Cậu kể tớ nghe về những con cá heo.

- Cá heo ?

- Cái lần mà cậu thấy chúng nó.

Baldabioiu, ông ta như thế đó.

Chẳng ai biết được tuổi thật của ông.

8.

- Không phải khắp mặt đất đâu, Baldabioiu nói nhẹ nhàng, không khắp đâu, và rót một chút nước lạnh vào ly ruou anizét.

Đêm tháng tám, hơn nửa đêm tối. Vào giờ này, Verdun đã đóng quân từ lâu theo thường lệ. Ghế được lật ngửa, đặt ngay ngắn trên bàn. Cái quày rượu, ông đã lau chùi, và những chỗ còn lại cũng vậy. Chỉ còn tắt đèn rồi đóng cửa. Nhưng Verdun đợi: ông Baldabiou đang nói chuyện.

Hervé Joncour ngồi bất động trước mặt ông, điếu thuốc tắt ngấm còn trên môi, lắng nghe. Giống như tám năm trước, anh để cái ông này ung dung viết lại số mệnh mình. Tiếng nói ông đến tai anh nhỏ nhẹ và rõ ràng, bắt nhịp theo từng ngụm rượu anizét đều đặn. Không ngưng nghỉ, tiếng nói kéo dài một lèo nhiều phút. Điều cuối cùng nói ra là:

- Không có chọn lựa nào cả. Nếu ta muốn tiếp tục sống, phải đi xuống đó.

Im lặng.

Verdun chống cùi chỏ lên quày rượu, giương mắt nhìn hai người kia.

Baldabiou tìm cách uống thêm một ngụm rượu anizét nữa, từ đáy cốc.

Hervé Joncour đặt điếu thuốc lạ lên mép bàn trước khi nói:

- Và cái xứ Nhật ấy, nó nằm ở đâu, nói cho chính xác ?

Baldabiou giơ cây gậy bằng gỗ song lên trời, chỉ về hướng bên kia mái nhà thờ Saint - Auguste.

- Ngả đó, thẳng một đường.

Ông nói:

- Tận chân mây cuối trời.

9.

Vào thời điểm đó, nước Nhật thực sự Ở tận chân mây cuối trời. Đó là một đảo quốc hợp thành từ nhiều đảo và từ hai trăm năm nay sống hoàn toàn biệt lập với phần còn lại của loài người, từ chối giao tiếp với lục địa và nghiêm cấm tất cả người ngoại quốc vào nước mình. Bờ biển Tàu chỉ cách chừng hai trăm hải lý nhưng một sắc chỉ ban ra làm cho nó càng xa thêm bằng cách cấm cản trên toàn đảo quốc đóng thuyền quá một cột buồm. Theo một logic sáng suốt theo kiểu của nó, luật pháp kể ra không ngăn cấm những ai muốn rời khỏi nước: nhưng lên án tử hình những ai tìm cách trở về . Những tay buôn Tàu, Hà Lan, Anh đã nhiều lần tìm cách phá bỏ sự cô lập phi lý này nhưng cuối cùng họ chỉ dùng được một mạng lối buôn lậu bấp bênh và đầy nguy hiểm. Họ kiếm chác chẳng được bao nhiêu tiền, chi dùng nhiều phiền toái và chỉ tạo ra được một vài huyền thoại buổi tối đem đổi vài ly trong các quán rượu ở bến tàu cho vui anh, vui em. Họ thất bại, nhưng người Mỹ đã thành công bằng cách cho vũ khí nói chuyện. Vào tháng bảy năm 1853, viên đề đốc Matthew C . Perry dẫn đầu một hạm đội hiện đại gồm các tàu chiến chạy bằng hơi nước tiến sâu vào vịnh Hoành Tân và trao cho người Nhật một tối hậu thư bày tỏ "lòng mong ước" đảo quốc mở cửa thông thương.

Người Nhật, tới lúc đó, chưa bao giờ thấy tận mắt những chiếc tàu đi biển ngược gió.

Bảy tháng sau khi Perry trở lại để nhận câu trả lời cho tối hậu thư của mình, chính quyền Mạc Phủ của đảo quốc chịu nhún mình ký vào một thoa? ước mở hai cửa khẩu ở miền bắc cho người ngoại quốc vào buôn bán và thiết lập một cách thận trọng một vài quan hệ thương mại đầu tiên. Vùng biển bao quanh đảo này - viên đề đốc tuyên bố trịnh trọng - bớt sâu đi nhiều lắm từ nay về sau.

10.

Baldabiou biết tất cả mấy chuyện này. Nhất là ông biết được một huyền thoại lúc nào cũng trở đi trở lại trên miệng những người đã đi tới đó. Họ kể rằng cái đảo đó sản xuất ra lụa đẹp nhất thế gian. Lụa được làm từ hơn ngàn năm nay, theo những nghi thức và những bí mật đạt tới mức độ chính xác thần kỳ. Baldabiou, chính ông ấy, nghĩ rằng đây không phải là một huyền thoại mà là một sự thật không hơn không kém. Một hôm, ông nắm được trong tay một cái khăn phủ dệt bằng sợi lụa Nhật. Nó nhẹ như thể không có gì giữa những ngón taỵ Như thể, khi mọi sự tưởng như trôi theo dòng nước vì nạn dịch tằm gai và trứng lây nhiễm, ông nghĩ ra ý này:

- Cái đảo này có đầy tằm. Và một cái đảo mà suốt hai trăm năm chẳng có tên lái buôn Tàu hay tên bán bảo hiểm Anh vào được thì cũng chẳng bao giờ có bệnh dịch nào vào.

Ông đâu bằng lòng chỉ biết ngẫm nghĩ một mình thôi, ông đem ý này nói ra với tất cả những nhà sản xuất tơ lụa ở thị trấn Lavilledieu sau khi tập hợp họ Ở quán cà phê Verdun. Tới bây giờ, không ai trong bọn họ đã nghe nói đến nước Nhật.

- Chúng ta phải đi xuyên qua cả mặt đất để tìm mua những trứng tằm theo ý Thượng Đế, ở một nơi chốn mà khi bắt gặp một tên ngoại quốc thì họ xách cổ treo lên ?

- Trước kia thì thế, bây giờ hết rồi, Baldabiou nói cho chính xác.

Họ chẳng biết nghĩ tới, nghĩ lui ra sao. Một ý bắc bẻ hiện ra trong đầu một người trong bọn họ.

- Không ai trên thế gian nghĩ ra chuyện đi xuống đó tìm mua trứng, vậy phải có lý do chứ bộ không à ?

Baldabiou có thể "đại ngôn" với họ, rằng trên thế gian này không có một Baldabiou thứ hai. Nhưng ông thích nói thẳng vào thực tế hơn.

- Người Nhật đành cam chịu bán lụa. Nhưng trứng tằm, không bao giờ. Họ giữ lại riêng cho họ. Và ai tìm cách đem trứng ra khỏi đảo sẽ bị khép tội.

Những nhà sản xuất tơ lụa ở Lavilledieu, ít hay nhiều, là những nhà quân tử, không bao giờ họ có ý nghĩ vi phạm một luật lệ nào ở trong nước mình. Nhưng ý tưởng là họ sẽ phạm luật của một nước ở tít mù cuối trời thì có vẻ hợp lý, hợp lẽ lắm đối với họ.

11.

Ta đang ở vào năm 1861. Flaubert hoàn thành tiểu thuyết Salammbo, đèn điện còn là một giả thuyết và Abraham Lincoln, bên kia bờ Đại Dương, đang tiến hành một cuộc chiến tranh mà ông sẽ không thấy hồi kết thúc. Những người nuôi tằm ở Lavillediu hợp lại thành công ty và tập trung một số vốn to tát cần thiết cho cuộc viễn hành. Cả bọn họ thấy giao phó chuyến đi này cho Hervé Joncour là đương nhiên. Khi Baldabiou hỏi anh có chấp nhận không, anh trả lời bằng một câu hỏi:

- Và cái xứ Nhật ấy, nó nằm ở đâu, nói cho chính xác ?

-Ngả đó, thẳng một đường. Chỗ tận cùng trời cuối đất.

Anh lên đường ngày 6 tháng mười . Một mình.

Ở cửa ngõ thị trấn Lavilledieu, anh ôm chặt người vợ Hélène và nói với nàng một cách giản dị.

- Em đừng lo sợ gì cả.

Đó là một người đàn bà lớn con, cử chỉ chậm rãi, nàng có mái tóc đen dài không bao giờ búi lại trên đầu. Nàng có một giọng nói tuyệt vời.

12.

Hervé Joncour ra đi với tám chục ngàn quan bằng vàng và ba cái tên ông Baldabiou đã tìm ra đưa cho anh: một người Tàu, một người Hà Lan và một người Nhật . Anh qua biên giới gần thành Metz, đi xuyên qua vùng Wurtemberg và vùng Bavière, vào nước Áo, lên thành Vienne rồi thành Budapest bằng tàu lửa, tiếp tục đi đến thành Kiev . Anh cưỡi ngựa băng qua hai ngàn cây số vùng thảo nguyên Nga, vượt rặng núi Oural, tiến vào vùng Sibérie, mất hết bốn chục ngày nữa anh mới tới hồ Baikal mà người dân địa phương gọi là: biển . Anh xuôi dòng sông Amour, đi dọc theo biên giới Tàu cho đến bờ Đại Dương, và khi tới đó anh nằm dài mười một ngày ở hải cảng Sabirk chờ đợi một con tàu của bọn buôn lậu Hà Lan đưa anh tới Capo Teraya nằm ở bờ biển phía tây nước Nhật . Đi bộ trên những con đường phụ, anh xuyên qua các tỉnh Thạch Xuyên, Hộ Sơn, Tân Tích, vào sâu trong tỉnh Phúc Đạo và khi đến gần thành phố Bạch Xuyên thì anh đi vòng tránh nó bằng ngả phía đông rồi chờ suốt hai ngày một người đàn ông mặc đồ đen bịt mắt anh lại và dẫn anh đi cho tới một ngôi làng nằm giữa những ngọn đồi anh ngủ lại qua đêm, và sáng hôm sau anh thương lượng mua trứng tằm với một người đàn ông không mở miệng một lời và khuôn mặt được che kín bằng một khăn phủ bằng lụa . Đen . Khi mặt trời lặn, anh giấu trứng tằm trong hành lý, quay lưng về phía nước Nhật và sửa soạn lên đường về quê nhà.

Anh vừa mới qua khỏi mấy nếp nhà cuối cùng trong làng thì một người đàn ông chạy theo chận anh lại . Hắn nói với anh điều gì đó với một giọng kích động và kiên quyết, rồi với cả sự nhã nhặn pha lẫn cứng rắn, bắt anh quay trở lại.

Hervé Joncour không nói được tiếng Nhật và không thể hiểu ông ta nói gì . Nhưng anh đoán ra là Nguyên - Mộc muốn gặp anh.

o0o

13.

Một tấm vách bằng giấy bản kéo lướt qua và Hervé Joncour bước vào . Nguyên Mộc ngồi xếp bằng trên sàn nhà, ở một góc lùi xa nhất của gian phòng . Ông ta mặc một chiếc áo rộng màu sẫm và không đeo một thứ trang sức nào cả . Chỉ có một dấu hiệu thấy được ông ta có uy quyền là một người đàn bà nằm dài bên cạnh, đầu gối lên đùi ông, mắt nhắm nghiền, đôi tay che giấu dưới bộ áo rộng thùng thình màu đỏ trải xung quanh người nàng, như một ngọn lửa trên mặt chiếu màu xám tro . Nguyên Mộc chậm rãi dùng tay lùa tóc nàng: trông như ông đang vuốt ve bộ lông một con thú quý hiếm, và đang ngủ.

Hervé Joncour đi xuyên gian phòng, chờ chủ nhân ra hiệu rồi ngồi xuống đối diện ông . Cả hai người giữ im lặng, nhìn thẳng vào mặt nhau . Một người đầy tớ đi vào, lặng lẽ như không, đặt trước mặt họ hai tách trà . Rồi biến đi . Bây giờ Nguyên Mộc mới bắt đầu nói, bằng tiếng mẹ đẻ, giọng đều đến đơn điệu, pha loãng với một thứ giọng kim giả tạo một cách khó chịu . Hervé Joncour lắng nghe . Anh cứ nhìn thẳng vào mắt Nguyên Mộc và trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, ngay anh cũng không để ý đến, hạ ánh mắt mình xuống khuôn mặt người đàn bà.

Đó là khuôn mặt một cô gái trẻ.

Anh đưa mắt lên.

Nguyên Mộc ngưng nói, cầm một trong hai tách trà đưa lên miệng, chờ một lát rồi nói.

- Ông thử kể tôi nghe ông là ai.

Ông nói câu này bằng tiếng Pháp, hơi kéo lê những nguyên âm, với một giọng khàn khàn, thật sự của mình.

o0o

14.

Trước một con người gần như bất khả xâm phạm nhất ở Nhật, chúa trùm tất cả những gì thiên hạ xoay sở đem lậu ra khỏi đảo quốc, Hervé Joncour cố kể mình là ai . Anh nói bằng tiếng mẹ đẻ, phát âm chậm rãi, không biết chính xác Nguyên Mộc có hiểu được anh không . Theo bản năng, anh bỏ qua mọi thận trọng, cứ kể lại không bịa cũng không giấu tất cả những gì có thật, giản dị thế thôi . Anh kể ra những chi tiết nhỏ nhặt và những biến cố mâu chốt cùng một giọng đều đều, đơn điệu và rất ít điệu bộ, như thể tập tành theo cái nhịp không vui, lãnh đạm, thảng thốt của một người đọc danh sách những đồ vật sống sót sau cơn hoa? hoạn . Nguyên Mộc lắng nghe, không một thoáng phản ứng nào lộ ra trên khuôn mặt điềm tĩnh, lạnh lùng của mình . Mắt ông nhìn đăm đăm cặp môi của Hervé Joncour như thể đôi môi ấy là những hàng cuối cùng của một lá thư vĩnh biệt . Trong gian phòng, mọi sự đều im ắng và bất động đến nỗi cái gì xảy ra thình lình, dù từ nó chẳng có gì, cũng thành to lớn, vô hạn.

Bỗng dưng.

Vẫn nằm im không động đậy.

Cô gái trẻ này, mở mắt.

Hervé Joncour không ngừng nói nhưng theo bản năng đưa ánh mắt về phía nàng, và cái anh thấy, vẫn không ngừng nói, cái anh thấy là đôi mắt ấy không có dáng phương đông, và đôi mắt ấy với một cường độ làm bối rối nhìn thẳng vào anh: như thể đôi mắt ấy chẳng làm gì khác cả ngay từ lúc đầu, đuôi mi mắt khép, Hervé Joncour cố giữ vẻ tự nhiên, đưa mắt sang chỗ khác, ráng tiếp tục câu chuyện, không để lộ ra cái gì khác lạ trong giọng nói . Anh chỉ ngừng khi anh chợt thấy lại cái tách trà đặt trên sàn, trước mặt anh . Anh cầm đưa lên môi, uống từ từ chậm rãi . Rồi anh bắt đầu nói lại, sau khi đặt tách trà xuống chỗ cũ, trước mặt mình.

o0o

15.

Nước Pháp, những chuyến hải hành, hương thơm từ những cây dâu ở thị trấn Lavilledieu, tàu lửa chẳng bằng hơi nước, giọng nói của Hélène . Hervé Joncour tiếp tục kể chuyện đời mình như thể anh chưa bao giờ làm thế trong đời mình . Cô gái trẻ vẫn nhìn anh đăm đăm, với một sự mãnh liệt khiến anh cảm thấy bó buộc phải dùng những lời lẽ có ý nghĩa, đáng ghi nhớ . Gian phòng từ bấy giờ hình như đã rơi trượt vào một trạng thái tĩnh lặng cố định khi bất thình lình, và không gây ra một tiếng động hay một âm thanh nhỏ nào, cô gái để một bàn tay trượt ra khỏi tầm áo, trượt từ từ trên chiếu, trước mặt nàng . Hervé Joncour thấy, từ khoé mắt mình, cái đốm sáng này, thấy nó vượt nhẹ tách trà của Nguyên Mộc, rơi, một cách lạ thường, tiếp tục trượt dần dần đến cái tách trà thứ hai, rồi chụp nó không chút do dự, cái tách mà anh đã uống, nhẹ nhàng cầm lên đưa về phía nàng . Nguyên Mộc không ngừng nhìn, dù một chút xíu, vào đôi môi của Hervé Joncour, mặt không đổi sắc.

Cô gái nhấc đầu lên một chút.

Lần đầu tiên ánh mắt nàng rời khỏi Hervé Joncour để sang tách trà.

Chậm rãi, nàng xoay nó dưới môi cho đến ngay chỗ anh đã đặt môi uống.

Khép mắt nửa chừng, nàng uống một ngụm.

Nàng đưa tách rồi mời.

Nhẹ nhàng đặt nó trở lại chỗ cũ.

Kéo tay vào dưới lớp áo.

Gối đầu lên đùi Nguyên Mộc.

Đôi mắt mở, đăm đăm nhìn mắt Hervé Joncour.

16.

Hervé Joncour còn nói lâu lắm . Anh chỉ ngừng khi Nguyên Mộc đưa mắt nhìn chỗ khác và hơi nghiêng người chào anh.

Im lặng.

Bằng tiếng Pháp, hơi kéo lê những nguyên âm, giọng khàn khàn, thật sự của mình . Nguyên Mộc lên tiếng:

- Nếu ông muốn trở lại đây lần nữa, tôi rất vui đón tiếp ông.

Lần đầu tiên, ông ta mỉm cười.

- Trứng ông mua được chẳng có giá trị gì hết . Toàn trứng cá.

Hervé Joncour hạ ánh mắt . Trước mặt anh, tách trà của anh . Anh cầm lên, xoay tròn, xem xét nó như thể anh muốn tìm cái gì đó trên cái đường chỉ viền màu ở mép tách . Khi anh tìm được, anh ấn môi mình lên đó, và uống cạn chén . Rồi anh đặt tách trà xuống trước mặt và nói:

- Tôi biết.

Nguyên Mộc bật cười, tỏ vẻ khoái trá.

- Vì thế mà ông trả bằng vàng giả, phải không ?

- Tôi trả đúng những gì tôi mua.

Nguyên Mộc tỏ vẻ nghiêm nghị trở lại.

- Khi ông rời đây, ông sẽ nhận được những gì ông muốn.

- Khi tôi ra khỏi cái đảo này, toàn mạng, ông sẽ nhận đúng số vàng thuộc phần ông . Tôi hứa danh dự.

Hervé Joncour không chờ câu trả lời . Anh đứng lên, đi lùi vài bước, rồi cúi người chào.

Đôi mắt cô gái cứ nhìn theo mắt anh, hoàn toàn câm nín . Đó là điều cuối cùng anh thấy trước khi ra khỏi gian phòng.

o0o

17

Sáu ngày sau, ở Cao - Cương, Hervé Joncour lên một chiếc tàu của bọn buôn lậu Hà Lan đưa anh về lại Sabirk . Từ đó anh đi ngược lên, dọc theo biên giới Tàu cho tới hồ Baikal, băng qua bốn ngàn cây số vùng đất Sibérie, vượt rặng núi Oural, đến lại thành Kieve rồi lên tàu lửa đi suốt châu Âu, từ đông sang tây, và như thế sau một cuộc hành trình về nước dài ba tháng, cuối cùng anh đến Pháp . Ngày chủ nhật đầu tiên của tháng tư - vừa kịp giờ dự lễ cả - anh về đến cửa ngõ vào Lavilledieu . Anh dừng chân, tạ Ơn Thượng Đế và đi bộ vào thị trấn, đếm từng bước chân để mỗi bước có một tên gọi, để mà không bao giờ quên được bước chân mình.

- Nó ra sao, cái xứ sở ở chân mây cuối trời đó ? Baldabiou hỏi anh.

- Vô hình, vô ảnh.

Người vợ Hélène, anh tặng cho nàng một áo dài bằng lụa nhưng nàng chẳng bao giờ mặc cả, nàng ngượng . Nếu nắm chặt tấm áo đó trong lòng bàn tay, ta có cảm tưởng chẳng nắm gì cả giữa những ngón tay.

o0o

18

Những trứng tằm Hervé Joncour mang từ Nhật về - cả hàng trăm trứng bám trên những phiến vỏ cây dâu - đều tỏ ra hoàn toàn lành mạnh . Năm đó, sự sản xuất tơ lụa trong vùng Lavilledieu đạt kết quả đặc biệt, về số lượng cũng như chất lượng . Hai nhà máy sợi khác được mở thêm, và Baldabiou cho xây một tu viện sát với ngôi nhà thờ nhỏ Sainte - Agnès . Ông muốn xây nó hình tròn, chẳng ai hiểu rõ tại sao, và giao phó dự án này cho một kiến trúc sư người Tây Ban Nha tên là Juan Benitez, khá có tiếng trong lĩnh vực xây quảng trường đấu bò mộng hình tròn.

- Tất nhiên, không đổ cát ở trung tâm tu viện, nhưng một cái vườn . Và nếu có thể được, treo đầu cá heo thay vì đầu bò ong, ở lối ra vào.

- Dạ thưa ông, cá heo ?

- Một loài cái, Benitez, hiểu không ?

Hervé Joncour tính toán sổ sách và biết ra là anh bây giờ giàu có . Anh mua ba chục mẫu tây đất nằm ở phía nam nhà anh, và cặm cụi suốt mấy tháng hè ngồi vẽ kiểu một công viên mà sau này ai đi dạo ở đây sẽ thấy lòng mình tĩnh lặng và thanh thản . Anh tưởng tượng nó sẽ vô hình, vô ảnh như một cõi tận cùng cuối trời cuối đất . Mỗi buổi sáng anh đi bộ đến tận quán Verdun, ngồi nghe những câu chuyện đầu hè cuối ngõ xây ra trong cái thành phố nhỏ này, hay liếc qua những tờ báo đến từ Paris . Buổi tối, anh ngồi rất lâu dưới hiên cổng, bên cạnh người vợ Hélène . Nàng đọc một quyển sách, nghe to và rõ, và anh cảm thấy sung sướng vì anh tự nhủ thầm trên đời này chẳng có được một cái giọng hay hơn giọng nàng.

Anh được ba mươi tuổi vào ngày 4 tháng chín 1862.

Đời đổ mưa, đời anh, trước mắt anh, cảnh tượng lặng lẽ.

o0o

19.

- Em đừng lo sợ gì cả.

Vì Baldabiou đã quyết định như thế, Hervé Joncour lại lên đường đi Nhật vào ngày đầu tiên tháng mười . Anh qua biên giới Pháp gần thành Metz, đi xuyên qua vùng Wurtemberg và vùng Bavière, vào nước Áo, lên thành Vienne rồi thành Budapest bằng tàu lửa, tiếp tục đi đến thành Kiev . Anh cưỡi ngựa băng qua hai ngàn cây số vùng theo cao nguyên Nga, vượt rặng núi Oural, tiến vào Sibérie, mất hết bốn chục ngày nữa anh mới đến được hồ Baikal mà người dân địa phương gọi là: con quỷ . Anh xuôi dòng sông Amour, đi dọc theo biên giới Tàu cho đến bờ Đại Dương, và khi tới đó anh nằm dài mười một ngày ở hải cảng Sabirk chờ đợi một con tàu của bọn buôn lậu Hà Lan đưa anh đến Capo Teraya ở bờ biển phía tây nước Nhật . Đi bộ trên những con đường phụ, anh xuyên qua các tỉnh Thạch Xuyên, Hộ Sơn, Tân Tích, vào sâu trong tỉnh Phúc Đạo và khi đến gần thành phố Bạch Xuyên thì anh tránh nó bằng cách đi vòng về phía đông, rồi chờ suốt hai ngày một người đàn ông mặc đồ đen bịt mắt anh lại và dẫn anh đến ngôi làng của Nguyên Mộc . Khi anh được mở mắt ra, anh thấy mình đứng trước hai người đầy tớ, họ khiêng hành lý cho anh và dẫn anh tới một bìa rừng, chỉ cho anh thấy một con đường mòn rồi bỏ đi . Hervé Joncour bắt đầu bước đi dưới bóng râm của những tàng cây xung quanh anh, cắt thành từng mảnh dưới ánh sáng ban ngày . Anh chỉ ngừng bước khi cây cối bên đường thình lình mở rộng ra, trong một giây phút ngắn ngủi, như một cánh cửa sổ . Một cái hồ hiện ra, chừng ba mươi thước phía dưới . Và bên bờ hồ, anh thấy Nguyên Mộc ngồi xổm trên đất, lưng quay về phía rừng, bên cạnh một người đàn bà mặc áo dài màu cam, tóc dài thả lỏng ngang vai . Ngay lúc Hervé Joncour trông thấy nàng, nàng quay người lại, chậm rãi, trong một khoảnh khắc bắt được ánh mắt của anh.

Đôi mắt nàng không có dáng phương đông, và khuôn mặt nàng là khuôn mặt của một cô gái trẻ.

Hervé Joncour lại bước đi trong những lùm cây dày đặc rồi khi anh ra khỏi đó, anh thấy mình đã đến bên họ . Cách anh vài bước, Nguyên Mộc, một mình, lưng quay về phía rừng, ngồi bất động, mặc đồ đen . Bên cạnh ông, chiếc áo dài màu cam bỏ rơi xuống đất, và hai chiếc dép rơm . Hervé Joncour bước lại gần . Những làn sóng đồng tâm nhỏ xíu đùa nước hồ lên bờ như thể được gởi đến từ một nơi nào xa xăm.

- Ông bạn Pháp của tôi, Nguyên Mộc thầm thì, không quay người lại.

Hai người ngồi bên nhau hàng giờ, khi nói chuyện, khi im miệng . Rồi Nguyên Mộc đứng dậy, và Hervé Joncour đứng lên theo . Bằng một cử chỉ không ai nhận thấy được, trước khi đặt chân lên con đường mòn, anh để rơi một chiếc găng tay xuống bên cạnh chiếc áo dài màu cam bỏ lại bên bờ hồ . Họ về đến ngôi làng thì trời đã tối.

o0o

20.

Hervé Joncour là thượng khách của Nguyên Mộc trong bốn ngày . Như thể sống trong cung điện một ông vua . Cả ngôi làng sống cho ông, và không có một hành động nào, trong vũng đời này, mà không có mục đích để bảo vệ Ông hay mang lại niềm vui cho ông . Cuộc sống rì rầm, vẫn đọng chậm chạp một cách cố tình, mưu mẹo, giống như một con thú bị vây đón trong hang . Thế giới hình như xa đây hàng thế kỷ.

Hervé Joncour được dành riêng một ngôi nhà và năm người đầy tớ lúc nào cũng đi theo anh, bất cứ nơi nào . Anh ăn uống một mình, dưới bóng mát một cây nở những sắc hoa anh chưa từng thấy bao giờ . Một ngày hai lần, anh được dâng trà nước một cách trịnh trọng . Buổi tối, anh được đưa vào căn phòng lớn nhất nhà, nền lót đá, và anh thuận lòng làm theo nghi thức tắm rửa . Ba người đàn bà có tuổi, mặt đánh một loại phấn trắng nào đó, cho nước chảy trên thân thể anh và kỳ cọ, lau rửa bằng những tấm khăn lụa ấm . Bàn tay các bà rập nhúng nhẹ nhàng . (Chòy... được tắm cho nữa . Đã nghe !!!)

Buổi sáng ngày thứ hai, Hervé Joncour trông thấy một người đàn ông da trắng đến làng: theo sau là hai xe kéo bốn bánh chất đầy những thùng gỗ lớn . Anh ta người Anh . Đến đây không phải để mua . Đến đây để bán.

- Vũ khí đó ông . Còn ông ?

- Tôi à, tôi mua . Những con tằm.

Họ ăn tối với nhau . Tên người Anh có rất nhiều chuyện để kể: từ tám năm nay anh ta đi đi về về giữa châu Âu và Nhật Bản . Hervé Joncour chỉ nghe và chỉ vào phút chót mới lên tiếng hỏi.

- Ông có biết một người đàn bà, trẻ, người châu Âu, tôi nghĩ thế, da trắng, sống ở đấy ?

Tên Anh tiếp tục ăn, tỉnh queo.

- Không có đàn bà da trắng ở Nhật . Không có lấy được một người đàn bà da trắng nào trong khắp nước Nhật.

Tên Anh ra đi ngày hôm sau, túi nặng vàng.

o0o

21

Hervé Joncour chỉ gặp lại Nguyên Mộc vào sáng ngày thứ ba . Anh chợt nhận ra là năm người đầy tớ bỗng dưng biến đâu mất, tưởng như bị hóa phép, và một lát sau anh thấy ông đến nhà . Con người mà tất cả người, việc trong làng này sinh tồn xung quanh, lúc nào cũng di chuyển trong một cái bong bóng trống rỗng . Làm như có một mệnh lệnh ngầm nào đó bắt mọi người phải để ông sống một mình.

Họ cùng nhau trèo lên sườn đồi, đến một quãng rừng trống mà bầu trời trên đầu bị hàng chục con chim bay với những đôi cánh lớn màu xanh nước biển vạch ngang, vạch dọc.

- Dân ở đây nhìn chim bay, và đoán được tương lai, hậu vận theo đường bay của chim.

Nguyên Mộc nói.

- Khi tôi còn là đứa trẻ, cha tôi dẫn tôi đến một chỗ giống như chỗ này, ấn vào tay tôi cái cung và ra lệnh cho tôi bắn một con trong đám chim như thế này . Tôi bắn, và một con chim lớn có đôi cánh xanh màu nước biển rớt xuống đất như một cục đá . Hãy đọc đường tên bay, nếu con muốn biết tương lai mình ra sao, cha tôi nói với tôi lúc đó.

Những con chim bay chậm chạp, bay lên trời cao rồi bay xuống lại như thể chúng muốn xóa đi, một cách tỉ mỉ, bầu trời bằng đôi cánh.

Họ trở về làng, bước đi trong ánh sáng lạ thường của một buổi chiều lại giống như buổi tối . Đến trước ngôi nhà dành riêng cho Hervé Joncour, họ chào chia tay . Nguyên Mộc quay lưng và bắt đầu bước, chậm rãi, đi xuống trên con đường chạy dọc theo bờ sông . Hervé Joncour vẫn đứng yên, trước ngưỡng cửa, nhìn theo ông: anh chờ ông đi chừng hai chục bước chân mới lên tiếng.

- Khi nào thì ông nói cho tôi biết cô gái đó là ai ?

Nguyên Mộc vẫn bước tiếp, chậm chạp nhưng không phải vì mệt mỏi . Chung quanh ông, chỉ có sự im lặng tuyệt đối, và sự trống không . Như thể tuân một mệnh lệnh đặc biệt, đi bất cứ đâu, ông luôn đi trong một nỗi cô đơn vô điều kiện, và hoàn hảo.

o0o

22.

Buổi sáng ngày cuối cùng, Hervé Joncour ra khỏi nhà và bắt đầu đi lang thang trong làng . Anh gặp những người đàn ông cúi gập người khi anh đi qua và những người đàn bà vừa hạ mặt xuống đất vừa mỉm cười chào anh . Anh biết là mình đã đến gần nơi cư ngụ của Nguyên Mộc khi thấy một cái chuồng chim to quá có chứa một số lượng chim nhiều không thể tin được, đủ các loại: một cảnh tượng . Nguyên Mộc có lần kể cho anh nghe là chim ông mua đến từ khắp nơi trên thế giới . Một vài con trong đám chim đó có giá trị cao hơn tất cả tơ lụa Lavilledieu sản xuất ra trong một năm . Hervé Joncour dừng chân để ngắm nghía sự chơi ngông tuyệt diệu này . Anh nhớ lại đã đọc trong một sách nào đó người phương đông thường không có tập tục tặng nữ trang để vinh danh sự chung thuỷ của các nàng tình nhân, mà tặng chim, những con chim quý hiếm, và tuyệt đẹp.

Ngôi nhà của Nguyên Mộc dường như đắm chìm trong một cái hồ tĩnh lặng . Hervé Joncour tiến lại gần và dừng lại chừng vài thước cách lối ra vào, không có cửa và trên những tấm vách bằng giấy hiện lên rồi biến mất nhưng bóng người không gây ra một tiếng động, một âm thanh nào . Cuộc sống đâu phải như thế: nếu có một cái tên cho tất cả cảnh này, đó là: sân khấu . Hervé Joncour cứ đứng đó chờ, không biết chờ gì . Đứng im lặng, cách ngôi nhà chừng vài thước . Trong suốt quãng thời gian anh đứng đó để mặc cho số phận định đoạt, nhưng cái bóng và sự lặng lẽ là tất cả những gì chắt lọc được từ cảnh tượng đặc biệt này . Thế thì anh đành quay lưng và bước đi, những bước chân vội vã, hướng về nhà . Đầu cúi xuống, anh nhìn bước chân mình để giúp anh khỏi phải nghĩ ngợi gì nữa.

o0o

23.

Tối đó, Hervé Joncour sửa soạn hành trang . Rồi anh được dẫn tới căn phòng lớn có sàn lát đá sẵn sàng theo nghi thức tắm rửa như mấy ngày qua . Anh nằm xuống, khép mắt lại, và nghĩ đến cái chuồng chim to ngoài kho, bằng chứng ngông cuồng của tình yêu . Có ai đặt lên mặt anh cái khăn ướt . Hơi lạ, vì những lần tắm trước có ai làm vậy đâu . Theo bản năng, anh muốn gỡ nó ra, nhưng một bàn tay nắm lấy bàn tay anh, giữ chặt, giữ yên . Đây không phải bàn tay già nua của một người đàn bà già nua.

Hervé Joncour cảm thấy nước chảy trên thân thể mình, trên hai chân đầu tiên, rồi dọc theo hai cánh tay, rồi trên ngực . Nước như dầu . Và một sự im lặng lạ thường bao quanh . Anh cảm thấy một tấm khăn phủ bằng lụa, ôi nhẹ biết bao, đặt lên người mình . Và hai bàn tay của một người đàn bà - của một người đàn bà - lau thân anh, vuốt ve da thịt anh, cùng khắp: hai bàn tay và mảnh lụa nhẹ như không . Anh nằm im không nhúc nhích chút nào, ngay cả khi anh cảm thấy hai bàn tay lần từ vai lên cổ, và những ngón tay - lụa, ngón tay = tiến dần lên tay mời anh, vuốt nhẹ qua đôi môi anh, một lần, rất chậm, rồi thôi, rồi biến mất.

Hervé Joncour còn cảm thấy được tấm khăn lụa kéo lên cao và rời khỏi anh . Cảm giác cuối cùng là một bàn tay mở bàn tay anh ra và đặt vào lòng bàn tay cái gì đó.

Anh chờ đợi rất lâu, bất động, trong im lặng . Rồi, chậm rãi, anh gỡ tấm khăn ướt ra khỏi mặt . Chẳng còn chút sáng nào trong phòng . Chẳng còn ai xung quanh anh . Anh đứng lên, cúi nhặt tấm áo choàng xếp gọn nằm dưới đất, vắt lên vai, ra khỏi phòng, đi xuyên qua căn nhà, đến trước tấm chiếu của mình, ngả người xuống . Anh bắt đầu quan sát ngọn lửa run rẩy bé xiú bên trong cái đèn lồng . Và, một cách chuyên chú, anh bắt Thời Gian dừng lại, đứng lại trong suốt quãng thời gian anh mong muốn.

Sau đó, anh mở bàn tay ra, đâu khó gì, và thấy miếng giấy . Vài chữ Nhật viết thảo chữ này nằm dưới chữ kia . Mực đen.

24.

Ngày hôm sau, sớm, buổi sáng, Hervé Joncour lên đường . Anh mang theo anh, giấu trong hành lý, hàng ngàn trứng tằm, nói cách khác, anh mang tương lai của thị trấn Lavilledieu, công ăn việc làm cho hằng trăm người và sự giàu có cho chục người khác . Khi con lộ quẹo về phía trái và ngôi làng bị che khuất mãi mãi sau lưng đồi, anh ngừng lại, chẳng bận tâm đến hai người đàn ông tháp tùng anh . Anh xuống ngựa và dừng một lúc ở ven đường, đưa mắt nhìn đăm đăm những ngôi nhà nằm rải rác lưng chừng đồi.

Sáu ngày sau, ở Cao - cương, Hervé Joncour lên chiếc tàu của bọn buôn lậu Hà Lan đưa anh trở lại Sabirk . Từ đó, anh đi ngược lên, dọc theo biên giới Tàu cho tới hồ Baikal, băng qua bốn ngàn cây số trên đất Sibérie, vượt rặng núi Oural, đến lại thành Kiev, và xuyên qua châu Âu bằng tàu lửa, từ đông sang tây, như thể sau một cuộc hành trình về nước dài ba tháng trời, anh đến Pháp . Ngày chủ nhật đầu tiên của tháng tư - vừa kịp giờ dự lễ ca - anh về đến cửa ngõ vào thị trấn Lavilledieu . Anh thấy người vợ Hélène chạy ra đón anh, và ngửi được mùi thơm da thịt khi ôm sát nàng trong vòng tay, và cảm được cái mượt mà như nhung trong giọng nói khi nàng lên tiếng.

- Anh đã về.

Âu yếm, dịu ngọt.

- Anh đã về.

o0o

25.

Cuộc sống ở thị trấn Lavilledieu trôi đều, giản dị, bình thường, điều chỉnh bằng trật tự và phương pháp . Hervé Joncour để cuộc sống đi lướt qua mình trong bốn mươi mốt ngày . Ngày thứ bốn hai, anh đầu hàng, mở ngăn kéo trong chiếc rương hành lý, rút ra một tấm bản đồ Nhật Bản, mở ra, và cầm lên mảnh giấy nhỏ anh đã giấu trong đó từ mấy tháng nay . Vài chữ Nhật viết thảo chữ này nằm dưới chữ kia . Mực đen . Anh ngồi vào bàn, và nhìn mảnh giấy ấy, rất lâu.

Anh tìm được Baldabiou ở quán Verdun, đang đánh bi da . Ông bao giờ cũng chơi một mình, chống lại chính mình . Những ván bi da kỳ quặc . Tên lành lặn chống tên cụt tay, ông gọi thế . Ông đánh một cú bình thường, và cú tiếp theo, chỉ dùng một tay . Ngày nào tên cụt tay thắng - Ông tuyên bố - ngày đó ông sẽ bỏ thị trấn này ra đi . Từ bao nhiêu năm nay, tên cụt tay thua hoài.

- Ông Baldabiou, tôi phải tìm cho ra người nào, ở đây, biết đọc tiếng Nhật.

Tên cụt tay phóng ra một cú "hai băng" với "ếp phê lùi".

- Thì hỏi Hervé Joncour, hắn cái gì cũng biết hết.

- Tôi à ? Tôi chẳng hiểu mô tê gì cái thứ tiếng đó.

- Nhưng ở đây, cậu là một người Nhật.

- Có lẽ thế, nhưng tôi chẳng biết gì cái tiếng đó cả.

Tên lành lặn khom người trên bàn biđa và thọc một cú "ngọn đèn trần" tính sáu điểm.

- Như vậy thì chỉ còn Bà Bạch nương . Bả có một tiệm bán vải ở thành phố Nimes.

Trên lầu tiệm bán vải là nhà thờ . Bả cũng làm chủ luôn . Giàu . Người Nhật.

- Người Nhật à ? Và làm sao bà ta sang tận đây được ?

- Đừng hỏi bả gì cả, nếu cậu muốn nhờ bà chuyện gì . Chó đẻ!

Tên cụt tay vừa mới đánh hông một cú "ba băng", mất tới mười bốn điểm.

o0o

26.

Hervé Joncour nói với người vợ Hélène anh phải đi Nimes, vì công việc làm ăn . Và anh sẽ quay về nhà cùng ngày.

Anh leo lên tầng thứ nhất ở trên tiệm vải, số 12 đường Moscat, và tỏ ý muốn gặp Bạch nương . Họ bắt anh đợi rất lâu . Phòng khách được bày biện như thể cho một cuộc truy hoan bắt đầu từ nhiều năm trước và không bao giờ chấm dứt . Các chị em ta đều trẻ và đều là người Pháp . Một tên nhạc công dương cầm đang chơi, một cách nhỏ nhẹ, nhưng điệu nhạc mang hương vị Nga . Mỗi khi chấm dứt một bài nhạc, anh ta đưa bàn tay mặt lên vuốt tóc và nói thầm thì.

- Thế đấy.

o0o

27

Hervé Joncour ngồi chờ gần hai tiếng đồng hồ . Rồi anh được dẫn đi dọc theo một hành lang cho tới cánh cửa cuối cùng . Anh mở và bước vào.

Bạch nương đang ngồi trong một chiếc ghế bành lớn, không xa cửa sổ . Nàng mặc một áo kimono bằng vải mỏng, nhẹ: toàn một màu trắng . Nàng đeo ở những ngón tay, như thể đeo nhẫn, những nụ hoa nhỏ màu xanh nước biển rất đậm . Tóc đen nhánh, nét mặt phương đông, tuyệt đẹp.

- Cái gì khiến ông nghĩ rằng ông đủ giàu để ngủ với tôi ?

Hervé Joncour vẫn đứng, trước mặt nàng, mũ còn trên tay.

- Tôi muốn nhờ bà một việc . Bất kể giá cả.

Rồi anh móc từ túi trong của áo vét mảnh giấy nhỏ, được gấp làm tư, đưa ra trước mặt nàng:

- Tôi phải biết cái gì viết trong đó.

Bạch nương không để một bắp thịt nào trên mặt động đậy . Vẫn giữ đôi môi hé nở, tưởng như thời tiền sử của một nụ cười.

- Thưa bà, tôi xin nhờ bà.

Nàng chẳng có lý do gì trên đời để làm chuyện này . Vậy mà nàng cầm lấy tờ giấy, mở ra, nhìn vào . Nàng nhướng mắt nhìn Hervé Joncour rồi hạ ánh mắt xuống . Nàng gấp miếng giấy lại, chậm rãi . Khi nàng nghiêng người về phía trước, để trả lại tờ giấy cho anh, chiếc áo kimônô mở hé ra trước ngực nàng . Hervé Joncour thấy rõ nàng chẳng mặc gì bên trong, da thịt nàng tươi và trắng ngần.

- Trở lại, không tôi chết mất.

Hervé Joncour bỏ mảnh giấy vào lại túi trong áo vét.

- Cám ơn bà.

Anh gật đầu chào, quay người, bước về phía cửa và sắp sửa đặt vài tờ giấy bạc lên bàn.

- Bỏ qua đi.

Hervé Joncour lưỡng lự một lát.

- Tôi không nói chuyện tiền bạc. Tôi nói chuyện người đàn bà đó. Bỏ qua đi . Cô ta sẽ không chết đâu và ông cũng biết vậy.

Không quay người lại, Hervé Joncour đặt những tờ giấy bạc xuống bàn, mở cửa và ra về.

o0o

28.

Baldabiou kể rằng đôi khi có những người đàn ông đến từ Paris để làm tình với Bạch nương . Về lại kinh đô, họ đeo trên ve áo đuôi tôm một vài nụ hoa xanh nhỏ xíu, giống như những nụ hoa nàng lúc nào cũng đeo trên những ngón tay như đeo từng ấy chiếc nhẫn.

o0o

29.

Mùa hè năm đó, lần đầu tiên trong đời Hervé Joncour đưa vợ đến vùng biển nghỉ mát Riviera . Họ ngụ hai tuần lễ trong một khách sạn ở thành phố Nice mà phần lớn khách là người Anh; khách sạn cũng có tiếng nhờ những đêm hòa nhạc dành riêng cho khách mình . Hélène tin rằng trong một khung cảnh, một nơi chốn đẹp đẽ như thế này, vợ chồng nàng sẽ thụ thai được một đứa con mà hai người hoài công chờ đợi từ bao năm nay . Cả hai đồng tình nghĩ rằng đứa con đó sẽ là con trai . Và nó sẽ mang tên Philippe . Họ tham dự một cách kín đáo vào sinh hoạt vui chơi nơi thành phố biển, rồi sau đó trong những phòng riêng, vui đùa với nhau bằng cách cười cợt những nhân vật kỳ quặc mà họ gặp . Một buổi tối, nơi hòa nhạc, họ làm quen một người Ba Lan làm nghề buôn bán áo choàng da lông: ông ta nói ông có đi Nhật.

Đêm trước ngày họ ra về, Hervé Joncour tự nhiên tỉnh giấc dù trời còn tối, ngồi dậy, rồi lại gần giường Hélène . Ngay chính lúc nàng mở mắt, anh nghe giọng nói của chính mình thì thầm dịu dàng:

- Anh sẽ yêu em mãi mãi.

o0o

30

Vào đầu tháng chín, những nhà chăn tằm ở Lavilledieu họp nhau lại để quyết định những gì phải làm . Chính phủ đã gởi xuống Nimes một nhà sinh học trẻ để nghiên cứu chứng bệnh đã làm cho trứng tằm nuôi ở Pháp trở nên vô dụng . Anh tên là Louis Pasteur: anh làm việc với những ống kính hiển vi đủ sức nhìn ra những cái vô hình: người ta kể anh đã tìm được những kết quả lạ lùng . Từ Nhật, những tin tức đến tại đấy loan rằng nội chiến sắp xảy ra đến nơi, xúi giục bởi những lực lượng chống đối sự mở cửa cho người ngoại quốc vào nước . Tòa lãnh sự Pháp, mới mở ở Hoành Tân, gửi về những bức điện khuyên can hiện nay hãy khoan thiết lập những quan hệ thương mãi với đảo quốc, nên chờ một thời điểm khác thuận lợi hơn . Là những người quen thận trọng, ưa dặn dò và nhạy cảm với những chi phí lớn lao phải chi ra cho mỗi chuyến đi bí mật vào Nhật, nhiều chức sắc ở Lavilledieu nói rằng tốt hơn nên dẹp sang một bên các chuyến viễn hành của Hervé Joncour, và chờ năm nay, nên mua trứng tằm qua trung gian những nhà nhập cảng lớn ở vùng Trung Đông: sự cung cấp trứng từ họ ít hay nhiều được bảo đảm, đáng tin . Baldabiou nghe họ nói, nghe tất cả, nhưng không mở miệng . Vào lúc cuối, khi đến lượt mình lên tiếng, ông chỉ đặt cây gậy bằng gỗ sòng lên bàn và giương mắt nhìn về phía người đang ngồi trước mặt ông . Và chờ.

Hervé Joncour biết rõ những nghiên cứu của Pasteur, và anh cũng đọc những tin tức đến từ Nhật nhưng anh luôn luôn từ chối lên tiếng bình luận về những gì mình biết. Anh thích dùng thời gian xem đi, xét lại dự án cái công viên anh muốn xây chung quanh nhà. Trong một góc kín nơi bàn làm việc, anh giữ mảnh giấy nhỏ xíu gấp làm tư, với vài chữ Nhật viết thảo chữ này nằm dưới chữ kia, mực đen. Anh có một số tiền dự trù khá lớn ở ngân hàng, sống cuộc đời yên lặng và vuốt ve cái ảo tưởng không hoàn toàn vô lý là anh sẽ thành cha một ngày gần đây. Khi Baldabiou đưa mắt nhìn anh, anh nói.

- Chính ông phải quyết định, ông Baldabiou.

o0o

31.

Hervé Joncour lên đường đi Nhật vào những ngày đầu tháng mười. Anh qua biên giới Pháp gần thành Metz, đi xuyên vùng Wurtemberg và vùng Bavière, vào nước Áo, lên thành Vienne rồi thành Budapest bằng tàu lửa rồi tiếp tục đi đến thành Kiev . Anh cưỡi ngựa băng qua hai ngàn cây số vùng thảo nguyên Nga, vượt rặng núí Oural, tiến vào vùng Sibérie, mất hết bốn chục ngày nữa mới đến được hồ Baikal mà người dân địa phương gọi là: người cuối cùng. Anh xuôi dòng sông Amour, đi dọc theo biên giới Tàu cho đến bờ Đại Dương, và khi tới đó anh nằm dài mười ngày ở hải cảng Sabirk chờ đợi một con tàu của bọn buôn lậu Hà Lan đưa anh tới Capo Teraya ở bờ biển phía tây nước Nhật. Điều anh nhận thấy được ở đây là cả nước rơi vào sự chờ đợi hỗn độn và kéo dài một cuộc chiến chưa chịu bùng nổ. Anh đi suốt mấy ngày đường không cần phải thận trọng như những lần trước, bản đồ các quyền lực cũng như các hệ thống kiểm soát đường sá hình như tan biến xung quanh anh khi mà cuộc chiến sắp xảy ra đến nơi sẽ vẽ lại hoàn toàn các bản đồ trên. Ở Bạch Xuyên, anh gặp người sẽ dẫn anh đến chỗ Nguyên Mộc. Họ đi ngựa suốt hai ngày thì thấy ngôi làng . Hervé Joncour xuống ngựa đi bộ vào làng để cho cái tin anh đến đây vào trong làng trước anh.

o0o

32

Anh được đua đến một trong những căn nhà cuối cùng trong làng, nằm trên cao, cạnh bìa rừng. Năm người đầy tớ cho anh. Anh giao hành lý cho họ và đi ra ngoài hiên nhà. Cuối làng nhưng ở phía bên kia, đối diện nơi anh đang đứng, anh nhận ra dinh thự của Nguyên Mộc, cao hơn các nhà khác không bao nhiêu nhưng được bao bọc xung quanh bằng những cây thông bá hương to cao, ngạo nghễ, che cho sự cô đơn quạnh quẽ của ngôi nhà. Hervé Joncour tiếp tục nhìn mãi cái dinh thự đó, làm như chẳng có gì khác từ đây đến tận chân trời. Như vậy mà anh thấy, cuối cùng, thình lình, bầu trời phía trên dinh thự đen nghịt hàng ngàn con chim bay loạn xạ như thể chúng bùng nổ tan tác từ mặt đất, những con chim đủ loài, choáng váng, phát cuồng bay trốn bốn phương tám hướng, hót líu lo và kêu oang oác, pháo bông nổ bùng tung tóe những cánh chim, mây đầy màu dội lên ánh sáng và trời đầy tiếng hoảng hốt, âm nhạc trốn chạy, bầu trời đó, bay lên.

Hervé Joncour mỉm cười.

o0o

33.

Cả làng bắt đầu xáo xác như tổ kiến phát khùng: mọi người chạy lên chạy xuống, ngược xuôi, la hét lung tung, ngóng mắt lên trời như theo dõi những con chim vừa sổ lồng, những con chim trong bao nhiêu năm là niềm hãnh diện của chủ nhân chúng, bây giờ là sự xúc phạm mang trên những đôi cánh bay loạn xạ trên trời.

Hervé Joncour rời nhà và đi xuống xuyên qua làng lần nữa, chân bước chậm, mắt nhìn về phía trước và anh có vẻ không thấy gì quanh mình. Anh là sợi chỉ bằng vàng chạy thẳng trong sợi khổ của một tấm thảm do một tên điên ngồi dệt. Anh qua cầu trên sông, đi xuống tận những cây thông bá hương to cao, bước vào dưới bóng chúng rồi ra khỏi ở chỗ khác. Trước mặt anh, anh thấy cái chuồng chim to kếch sù hoàn toàn trống trơn, những cửa chuồng mở toang hoác . Và trước chuồng chim, một người đàn bà. Hervé Joncour không nhìn quanh nhưng cứ tiếp tục bước đi, chậm rãi, chỉ ngừng khi anh đến ngay trước mặt nàng.

Đôi mắt nàng không có dáng phương đông, và khuôn mặt nàng là khuôn mặt của một cô gái trẻ.

Hervé Joncour bước thêm một bước về phía nàng, đưa cánh tay ra trước và mở bàn taỵ Trong lòng bàn tay, mảnh giấy nhỏ gấp làm tự Nàng thấy và nở ra một nụ cười tỏa sáng cả khuôn mặt . Nàng đặt bàn tay mình lên bàn tay của Hervé Joncour, dịu dàng nắm lại, giữ như thế một lát, rồi rút tay về, nhưng ngón tay kẹp theo mảnh giấy nhỏ, cái mảnh giấy đã đi vòng quanh thế giới đó. Nàng vừa mới giấu nó vào trong nếp áo thì đã nghe tiếng của Nguyên Mộc.

- Hoan nghênh ông đã đến, người bạn Pháp.

Ông đứng cách họ vài bước . Áo kimônô màu sậm, tóc đen cột túm sau gáy một cách hoàn hảo. Ông bước lại gần. Xem xét chuồng chim, nhìn kỹ từng cánh cửa một bị mở toang hoang.

- Chúng sẽ quay về đây. Đâu dễ gì cưỡng lại sự cám dỗ lôi kéo ta quay về, phải thế không ?

Hervé Joncour không trả lời. Nguyên Mộc nhìn thẳng vào mắt anh và nói dịu dàng:

- Đi với tôi.

Hervé Joncour theo ông. Anh đi được vài bước thì quay về phía cô gái và cúi người chào.

- Tôi hy vọng sớm gặp lại cô.

Nguyên Mộc vẫn bước tiếp.

- Cô ta không biết tiếng nước anh đâu.

Ông nói.

- Đi.

o0o

34.

Tối hôm đó Nguyên Mộc mời Hervé Joncour đến nhà ông. Dự tiệc có vài người đàn ông trong làng, và những người đàn bà ăn vận rất sang trọng, trang nhã, mặt đánh phấn trắng và tô những màu rực rỡ. Người ta uống rượu sakê, người ta hút bằng những ống gỗ dài một loại thuốc lá có vị chát và gây choáng váng. Những tên làm trò đến, và một tên trong bọn làm mọi người cười nghiêng ngả bằng cách bắt chước người và thú vật. Ba người đàn bà già chơi những nhạc cụ bằng dây, lúc nào cũng cười. Nguyên Mộc ngồi chỗ danh dự, áo quần đen, đi chân không. Ngồi bên cạnh ông là người đàn bà có khuôn mặt cô gái trẻ trong một cái áo dài bằng lụa thật lộng lẫy. Hervé Joncour lại ở tận cuối phòng, xa nhưng đối diện nàng: anh thấy ngột ngạt vì mùi nước hoa ngai ngái của những người đàn bà xung quanh và anh cười ngượng nghịu, lúng túng, với những người đàn ông vui thích kể cho anh nghe đủ thứ chuyện mà anh chẳng hiểu gì hết. Cả ngàn lần anh tìm ánh mắt nàng, và cả ngàn lần nàng bắt được ánh mắt anh. Như một bản khiêu vũ buồn, thầm kín và không bao giờ thoa? mãn. Hervé Joncour khiêu vũ như thế cho đến khi đêm đã khuya, thật khuya, rồi anh đứng dậy, nói vài điều gì đó bằng tiếng Pháp để xin lỗi, gỡ tay một người đàn bà muốn cùng anh về nhà, và anh mở đường đi giữa đám khói thuốc lá mù mịt và những người đàn ông vỗ vai, chào hỏi anh bằng ngôn ngữ không thể hiểu của họ, anh đi tới cửa. Trước khi ra khỏi căn phòng, anh nhìn về phía nàng một lần nữa . Nàng đang nhìn theo anh, từ đôi mắt hoàn toàn câm nín, nhìn anh từ bao thế kỷ này.

Hervé Joncour đi lang thang trong làng, hít thở không khí mát mẻ ban đêm, bị lạc trong những con lộ nhỏ dẫn lên sườn đồi. Khi về đến nhà, anh thấy một cái đèn lồng thắp sáng lung lay sau tấm ván bằng giấy. Anh vào nhà và bắt gặp hai người đàn bà, đứng trước mặt mình. Một người phương đông, trẻ, mặc một chiếc áo kimônô trắng, giản dị. Và nàng. Mắt nàng sáng lên, cuống quít một niềm vui. Không để cho anh kịp nói hay làm gì, nàng đến gần, cầm bàn tay anh, đưa lên mặt, vuốt nhẹ lên đôi môi nàng, rồi nắm thật chặt, nàng để nó lên đôi bàn tay của cô gái đứng cạnh nàng, giữ như vậy một vài giây ngắn ngủi để bàn tay anh không thể thoát ra. Sau cùng nàng rút tay mình về, bước lui hai bước, cầm cái đèn lồng, nhìn vào đôi mắt của Hervé Joncour một khoảnh khắc rồi đi như chạy. Cái đèn lồng màu cam. Nàng biến mất trong đêm đen, cái ánh sáng nhỏ nhoi sao nỡ trốn đi.

o0o

35.

Hervé Joncour chưa từng thấy cô gái này bao giờ, và thực tình anh cũng không thấy nàng, đêm hôm ấy. Trong căn phòng không có ánh sáng, anh cảm thấy cái đẹp của thân thể nàng, và anh biết nhận ra bàn tay và môi miệng nàng. Anh làm tình với nàng hàng giờ, làm những cử chỉ anh chưa bao giờ làm trước đó, và để cho nàng dạy anh sự chậm rãi, khoan thai mà tới bây giờ anh không biết. Trong bóng tối, thực không hề gì làm tình với nàng, và không làm tình với nàng . Trước rạng đông một lát, cô gái đứng lên, mặc lại chiếc áo kimônô trắng, và ra đi.

o0o

36.

Một buổi sáng, Hervé Joncour trông thấy một người phụ tá cho Nguyên Mộc chờ mình trước nhà. Ông ta mang đến mười lăm phiến vỏ cây dâu phủ đầy trứng tắm: nhỏ xíu, màu ngà. Hervé Joncour xem xét từng phiến một, kỹ lưỡng, rồi thương lượng giá cả và trả bằng những thỏi vàng. Trước khi ra về, anh làm cho ông ta hiểu là anh muốn gặp Nguyên Mộc. Ông ta lắc đầu quầy quậy. Hervé Joncour hiểu ra, qua điệu bộ Ông, là Nguyên Mộc đã ra đi ngay sáng nay, sớm, với đoàn tùy tùng, và chẳng ai biết khi nào ông ấy về lại đây.

Hervé Joncour chạy băng qua đường làng đến tại nhà của Nguyên Mộc. Anh chỉ gặp được những người đầy tớ chỉ biết lắc đầu trước mỗi câu hỏi của anh. Ngôi nhà có vẻ trống vắng. Và mặc dầu cố tìm kiếm, lục lọi xung quanh, ngay trong những đồ vật nhỏ nhặt, vô nghĩa nhất, anh chẳng thấy có gì giống như một lời nhắn gửi để lại cho anh. Anh rời ngôi nhà, và trên đường về làng, đi ngang trước cái chuồng chim to lớn ngoài khọ Những cánh cửa đã được khép kín lần nữa . Bên trong, hàng trăm con chim bay qua bay lại, như núp tránh trời cao.

o0o

37.

Hervé Joncour còn chờ thêm hai ngày nữa một dấu hiệu nào đó . Rồi anh lên đường.

Độ chừng hơn nửa giờ đi đường sau khi rời làng, anh bỗng dưng nghe một âm thanh lạ thường và trông như tiếng bạc phát ra từ một cánh rừng . Giấu mình giữa những tàng lá là hàng ngàn đốm sậm của một đàn chim dừng bay ở đây để nghỉ ngơi . Chẳng nói chẳng rằng với hai người tháp tùng, Hervé Joncour dừng ngựa , rút khẩu súng lục ra khỏi bao và bắn sáu phát lên cao . Đàn chim hoảng hốt đập cánh bay vút lên trời, trông như cột khói bốc lên từ một đám cháy . Đàn chim bay cao, rất cao, đến nổi ta còn thấy chúng cách đây mấy ngày đường . Chim bay làm bầu trời tối sầm, đâu có mục đích nào khác hơn là lạc một lối về.