Lời Dẫn Truyện.

“Ma quỉ” xưa nay vốn là chuyện khó tin, tuy nó được thêu dệt qua những lời đồn đại nhưng thực tế thì ít ai chứng minh được sự tồn tại của thế giới âm hồn. Những câu chuyện nhân gian kể về chốn âm cung về những oan hồn vất vưởng và những mối oán thù truyền kiếp thật ra cũng chỉ là tưởng tượng mà thôi. Người ta luôn tin rằng dù ở cuộc sống thực tại lúc còn sống hay nơi chốn diêm đình lúc hồn lìa khỏi xác thì nơi nào cũng có những qui định như nhau. Chốn nhân gian có tòa án, có pháp đình phân xử chuyện sai trái, lỗi lầm thì chốn âm cung cũng có những sự phán xét và những hình phạt thích đáng.

Muốn thoát được sự đối mặt với các “quan tòa” chỉ duy nhất một điều là không phạm lỗi. Nhưng trong cuộc đời một con người, có mấy ai tránh khỏi lỗi lầm?

Điều quan trọng là sai phải biết sửa. Có những người do tuổi trẻ nông nổi đã gây nhiều tội lỗi, khi thức tỉnh nhìn lại họ biết mình đã phạm tội và muốn chuộc lại lỗi lầm đó. Như thế vẫn chưa muộn. Quãng đời của một người rất dài, bất cứ khi nào ý thức được mình sai thì chúng ta vẫn còn cơ hội để sửa chữa. Chỉ cần thành tâm hối lỗi và chứng minh sự hối hận đó bằng những hành động của mình, tích cực làm từ thiện, giúp đỡ người nghèo, siêng năng đến chùa chiền để nghe kinh niệm phật ... tất cả đều là những việc làm cao đẹp đáng trân trọng, góp phần làm giảm nhẹ tội lỗi của chính mình ...

Những câu chuyện được viết nên trong tập truyện này hoàn toàn hư cấu với mục đích mong mọi người hướng thiện, sống đúng đạo lý, đừng bao giờ làm hại đến ai ... một cuộc sống bao dung đầy lòng nhân hậu sẽ đem đến cho chúng ta một tâm hồn thanh thản ...

***

Kỳ hạn của một cái chết

Thằng Trúc năm nay mười sáu tuổi, người gầy gò, so với mấy đứa bạn đồng trang lứa thì nó thuộc hàng nhỏ con hơn cả.

Nó nghỉ học từ hồi lớp ba rồi từ đó chỉ ở nhà phụ cha nấu rượu, thổi cơm và làm tất cả các công việc vặt.

Cha nó là một tay buôn lậu khét tiếng trong vùng từ nhiều năm trước, bây giờ đã trở thành một ông già nát rượu, người ta chỉ thấy hắn say sưa từ lúc tinh mơ và tới lúc chiều tà thì bắt đầu những trận đòn nhừ tử với thằng con trai.

Mẹ Trúc là người đàn bà thành thị, không chịu được những ngày đơn độc khi ông chồng mải miết phiêu bạt theo những chuyến hàng lậu trên khắp miền biên giới, thị đã bỏ lại thằng con mới biết đi chập chững mà khăn gói theo một tên trai làng trẻ hơn thị đến mấy tuổi.

Thằng Trúc lớn lên nhờ bàn tay săn sóc của bà nội, được mấy năm thì bà mất.

Cha nó cũng kiệt sức cùng những chuyến đi buôn và những cuộc rượu chè trai gái suốt cuộc đời phiêu bạt, cuối cùng cũng về ở hẳn lại trong làng, trong căn nhà nhỏ mà bà nội Trúc đã lam lũ cả đời mới gầy dựng lên được. Từ đó những ngày bình yên của Trúc cũng không còn nữa.

Năm tháng trôi qua, lầm lũi với công việc nấu rượu từ sớm đến tối và những trận đòn chí tử của cha khiến Trúc trở nên một đứa ít lời. Khuôn mặt nó gầy khô khan, sạm đen khói bếp.

Một buổi trưa, nhân lúc cha nó đi đâu vắng, Trúc ta lẻn ra sau vườn để làm cho xong cái ná bắn chim mà mấy hôm nay nó kỳ công đục đẽo. Vừa làm nó vừa thấp thỏm ngó ra đường cái dè chừng sự trở lại của cha. Được một lúc thì cái ná đã gần thành hình đẹp đẽ, chỗ chẻ giữa hai cái chạng ná không còn xù xì nữa mà đã trở nên nhẵn láng hẳn.

Cũng vừa lúc ấy, Trúc ngơi tay ngước lên một cái, nó giật mình thấy một cái bóng trắng vừa đi lướt qua chỗ hàng rào ngoài ngõ ngoặt vào trong sân nhà nó.

Nó liền buông cái ná và con dao nhíp xuống đất, chạy vội ra nhà trên.

Trong sân im vắng như thường, con Mực vẫn nằm ngủ ngon lành ngay bậu cửa, buổi trưa oi bức không một ngọn gió lay trên các cành cây và không khí như đọng lại, nóng khan.

Nghe tiếng chân nó, con Mực khẽ cựa mình, phát ra vài tiếng ư ử rồi cũng không thèm mở mắt ra nhìn, cứ thế nằm ngủ tiếp. Chắc mẩm không có ai vào nhà Trúc mới trở lại tìm món đồ chơi của nó.

Thế mà lạ không, mới chưa đầy năm phút cái ná nó vừa thả xuống ngay chỗ nó đang đứng lúc này, ngay dưới cái gốc ổi già sau chái bếp đã không cánh mà bay, cả con dao nhíp cũng chẳng thấy đâu nữa.

Trúc tìm quanh quẩn một hồi lâu, lại nhìn qua hàng rào sân nhà bên cạnh, nó đoán chắc có đứa nào bên kia hàng rào đã chơi khăm lấy mất cái ná của nó. Nó tức tối tìm thêm khắp mấy lượt nữa xung quanh cũng chẳng ích gì, cuối cùng đành buồn bã ngồi bệt ngay dưới gốc cây ổi, trong lòng vừa thắc mắc lại vừa buồn nghĩ đến món đồ chơi bị mất.

Nó đang tiu nghỉu nhìn bâng quơ thì một lần nữa lại giật bắn người:

một người đàn ông đang đứng ngay bậu cửa bếp nhìn nó trân trân. Không phải cha nó, cũng không phải bất cứ người quen nào mà nó có thể nhận mặt trong cái làng này, hay cả làng trên xóm dưới.

Nó đâm hoảng, nói năng cũng không mạch lạc:

– Ông, ông là ai, sao tự tiện vô nhà tui như vậy?

Người đàn ông yên lặng nhìn nó trong giây lát, ông ta ăn mặc cũng kỳ khôi, trên người là bộ bà ba trắng, đi chân đất mà trên đầu lại đội một cái khăn theo kiểu các bà lớn tuổi đội khăn rằn, có điều cái khăn trên đầu ông ta đủ màu sặc sỡ lại có những sợi vải tua rua.

Ông ta lên tiếng như để phá tan bầu không khí hoang mang đang đè nặng trên đầu Trúc:

– Cha cậu có nhà không?

Một cuộc đấu tranh giữa trí khôn và sự thành thật nảy ra trong đầu nó. Cuối cùng Trúc trả lời:

– Cha tui sang nhà bên cạnh mượn cái cuốc. Sắp về rồi.

Cái mẹo nói dối khiến nó hy vọng nếu người đàn ông này có ý định gì mờ ám thì sẽ sợ cha nó sắp về đến mà không hại tới nó. Quả nhiên câu trả lời của nó có hiệu quả ngay. Ông ta chắp hai tay ra sau lưng, nước da bánh mật nổi rõ trên bộ bà ba trắng muốt:

– Vậy để lúc khác tôi trở lại.

Ông ta nói nhanh, gọn và bước đi rất nhẹ nhàng qua gian bếp trở lại nhà trên rồi mất hút ra ngoài ngõ. Trúc đứng cạnh con Mực trên bậu cửa, nhìn theo.

Cái lưng áo bà ba trăng trắng của người khách lạ đã khuất sau mấy lũy tre cuối đường thì cha nó về đến. Lão ta đã say mèm, mặt mày đỏ ké như con gà trống đang say tiết.

Vừa vào đến sân lão cởi tuốt cái áo sơ mi nhàu nhò màu cháo lòng, vắt hờ lên vai. rồi cứ với cái dáng xiêu vẹo lão ta tiến dần về phía chỗ thằng Trúc đang đứng, càu nhàu mấy tiếng gì không rõ.

Thằng Trúc thấy cha về thì thưa ngay:

– Cha ơi! Hồi nãy có người tới nhà tìm cha đó!

– Đứa nào tìm tao, có chuyện chi, hử?

Lão ta cao giọng, cúi sát gương mặt của thằng con trai lão, hơi thở phả ra nồng nặc mùi men rượu làm nó cố lắm mới giấu được vẻ khó chịu, lảng sang một bên góc cột nhà.

Trúc đáp một cách rụt rè:

– Con không biết có chuyện chi cha à ...

Cha Trúc lè nhè mắng:

– Mày coi nhà mà khách tới mày lại không biết gì, mày là một thằng đần, tao sẽ dạy cho mày khôn con ạ ....

Nói xong lão ta phá lên cười nhìn khuôn mặt đầy vẻ hãi hùng của thằng Trúc. Giọng cười của lão cứ khùng khục mãi trong cổ họng.

Lão đưa một tay ra cố tóm lấy nó, lúc nắm được cái cánh tay gầy trơ xương của Trúc, lão ta chới với trên đôi chân đã say mèm một lúc mới gượng lên được.

Thằng Trúc sợ hãi lên tiếng:

– Cha đừng đánh con, ông khách nói sẽ quay lại tìm cha ...

– Mày nói sao?

Lão ta lại nhừa nhựa mấy tiếng.

– Ông khách đó bận đồ bà ba trắng, đầu đội khăn, con có hỏi ...

Thằng Trúc chưa kịp nói dứt câu, nó đã nhận ra ngay một sự thay đổi lớn trên mặt cha nó. Lão ta sựng người lại, bàn tay đang nắm lấy cánh tay nó cũng buông hẳn ra. Gương mặt lão chuyển từ màu đỏ tía sang một màu xam xám kỳ dị. Lão lắp bắp những tiếng gì không rõ.

Thằng Trúc tưởng lão hỏi lại nên vội vàng nói:

– Ông khách mặc đồ bà ba trắng, đầu đội khăn như người Chàm cha à ...

Cha nó vẫn nín bặt không trả lời hay hỏi han thêm gì nữa.

Lão chạy vụt ra chái nhà sau chỗ gốc ổi thằng Trúc chơi ban trưa, lục lọi một hồi sau bếp rồi lôi ra một cái cuốc và cứ thế lão hùng hục đào xới lung tung quanh cái gốc cây ấy gần cả giờ đồng hồ.

Thằng Trúc lo lắng nhìn cha nó, trong lòng đầy rẫy những câu hỏi. Cuối cùng cha nó thấm mệt, buông cái cuốc xuống ngồi tựa lưng vào thân cây thở hổn hển. Một bên tay lão cầm vật gì vừa đào xới được trông như một cái túi vải nâu cũ mèm, rách bươm và đầy bụi đất.

Lão ta lúc này như đã tỉnh hẳn cơn say nhưng cũng không để ý gì đến thằng con trai đang đứng nhìn mình, thập thò chỗ cửa bếp. Gương mặt lão hằn rõ một nỗi sợ hãi lạ lùng mà Trúc chưa bao giờ thấy.

Lão đưa cái túi lên ngay trước mặt, thò tay vào mò mẫm bên trong một hồi lại lấy ra những vật trong đó, bày lên ngay trên nền đất trước mặt. Vừa làm lão vừa lầm bầm như kiểm tra sự có mặt hay trò chuyện với những đồ vật đó.

Dường như có thiếu thứ gì. Trúc thấy lão vừa điểm qua mấy món đồ lạ mắt đó một lượt thì hết hoảng cho tay lại vào trong túi sục sạo cặp mắt lão nổi lên những tia máu đỏ tươi, đầy vẻ hoang mang như người vừa mất của. Lão lộn trái cái túi ấy, rung, lắc nghe ngóng rồi giũ mạnh cái túi vào không trung mấy lần.

Cuối cùng nhìn lại cái túi ấy với một vẻ thất vọng đến thiểu não.

Thằng Trúc chỉ đứng yên quan sát, nó không dám hé răng cũng không dám hỏi một tiếng nào, để mặc cha nó với những hành động quái gở của ông ta.

Một chốc lão ta lại cho những thứ đồ trên mặt đất trở vô trong túi rồi hờ hững đem chôn vào chỗ cũ. Lấp đất lên xong, lão quẳng cái cuốc sang một bên, thở dài đánh thượt rồi đi vào nhà.

Thằng Trúc thấy cha đến liền bỏ chạy biến ngay vào trong buồng. Nó không muốn bị bắt gặp đứng đây nãy giờ để rồi lại nhắc cha nó nhớ đến trận đòn mà nó vừa may mắn thoát được.

Cha đã đi lên nhà, tuy bao nhiêu sự tò mò đều vây lấy tâm trí nhỏ bé của nó, Trúc vẫn không dám thực hiện ý muốn xem xét những thứ đồ cha nó vừa chôn lại ngay dưới gốc ổi sau vườn. Nó đành bỏ vô bếp nấu cơm chiều.

Buổi tối hôm ấy trôi qua vô cùng chậm chạp. Cha nó không ăn cơm cũng không quát mắng hay ngó ngàng gì đến nó. Lão chỉ nằm yên trên bộ ván ngoài gian nhà trên, mình ở trần, tay gác lên trán, hai mắt mở trao tráo nhìn bất động lên trần nhà.

Thằng Trúc lủi thủi một mình, không dám hé lấy một lời. Nó chỉ dọn mâm cơm lên rồi để đó.

Bất chợt cha nó bật dậy từ bộ ván, lão ta lớn tiếng hỏi làm nó giật bắn người lên:

– Cái người hồi chiều tới đây có nói chừng nào quay lại không?

Trúc lắc đầu.

Cha nó lại hỏi:

– Vậy người đó có hỏi gì tao nữa không và mày đã nói những gì?

Trúc nói rành rọt:

– Dạ, ổng có hỏi cha đâu thì con bảo cha qua nhà bên mượn cuốc sắp về. Ổng nghe vậy thì bỏ đi luôn.

Cha nó thở dài một tiếng nặng nề rồi lại gieo mình xuống bộ ván, hai mắt nhìn trân trân lên trần nhà như một kẻ vô hồn.

Trúc lủi thủi ăn cơm một mình rồi chui vô buồng nằm, nó vẫn nghĩ tới cái ná đang đẽo dở thì bị mất ban chiều và người khách lạ đến tìm cha nó hôm ấy. Tâm trí đã mỏi mệt, nó chìm sâu vào giấc ngủ lúc nào không hay.

Đến nửa đêm, trời trở lạnh, Trúc quơ chân khắp giường tìm cái chăn. Trong cơn mê ngủ, nó nghe loáng thoáng bên tai những tiếng gì như có người đang trò chuyện.

Một giọng nhừa nhựa quen thuộc:

– Lạy ông tôi đã bỏ nghề buôn, bây giờ chỉ làm một thằng nhà quê ... ông xem xét cho ...

Một giọng trầm trầm bình tĩnh:

– Nhưng ta đã nói đó chỉ là cái kỳ hạn, là một món nợ đến hồi, mà mày đâu thể khất mãi được. Mày còn hai đêm để lo toan mọi sự, ngày kia tao lại tới. Mày rõ chưa, như thế đã công bằng lắm rồi ...

Cái giọng nhừa nhựa lại cất lên mấy tiếng van lơn đầy khổ sở:

– Lạy ông đừng lấy mạng tôi như thế, tôi hãy còn một số ít của ...

– Không có cái giá thứ hai đâu, mày chuẩn bị đi là vừa.

Giọng nói sắc đanh trả lời lại.

Lúc bấy giờ Trúc đã gần tỉnh ngủ, nó cố ngồi dậy mở hai mắt ra nhìn qua cái kẽ ván trên cửa sổ thì chỉ thấy căn phòng nhà trên tối âm, ngọn đèn bồ quân không đủ chiếu sáng gian nhà. Nó thấy một bóng người mờ mờ đang quì trên phản, người ấy ở trần bận độc một cái quần đen, trông dáng có lẽ là cha nó. Còn người đang trò chuyện với ông ta lúc nãy thì đã bỏ đi đâu không thấy nữa.

Nó thả mình lại xuống dưới giường, bất giác cảm thấy có ai đang nhìn mình qua cửa chớp phía cuối chân giường. Nó lại ngồi dựng người dậy, chăm chăm nhìn về phía đó.

Lúc hai mắt đã mỏi và sắp sửa ngủ lại nó chợt nghe một tiếng cười tinh quái từ ngoài vườn vọng vào hinh hích. Tiếng động khiến Trúc mở choàng mắt, nó thoáng thấy một tròng mắt trắng dã vừa nhìn nó từ cái khe nhỏ trên cửa chớp.

Chỉ trong một giây thôi, lúc nó vặn to đèn lên thì không còn thấy đâu nữa. Đêm lạnh nhưng người nó vã mồ hôi mà không sao ngủ lại được.

Căn cứ vào những điều nghe thấy từ cuộc nói chuyện ban nãy, nó đoán chắc người khách lạ ban trưa đã trở lại, và chắc hẳn hắn ta là một tay chủ nợ còn cha nó chính là con nợ. Chắc cũng chính gã khách lạ đó là người đã dòm ngó nó qua khe cửa.

Lý giải mọi điều rõ ràng trong tâm trí, Trúc lại nghĩ đến cha. Xưa nay nó rất ghét cha vì những khi ông say xỉn và những trận đòn roi vô cớ. Thế nhưng dù gì ông ta cũng là người nuôi nấng nó, lại là người thân duy nhất của nó trên cõi đời này. Mà món nợ kia dù to lớn đến đâu nó cũng không muốn cha vì thế mà bị hại tới tính mạng như lời lão chủ nợ đe đọa.

Nghĩ thế, trời vừa tờ mờ sáng, Trúc đã phóng xuống giường chạy lên nhà trên. Cha nó gục trên ván, nửa quì, nửa ngồi. Nó phải lay mãi lão mới tỉnh giấc.

Gương mặt xám ngoét của lão như không còn chút sinh khí nào. Thấy thế Trúc vội vàng đem một ly nước tới trước mặt cha rồi lấy hết can đảm mà lên tiếng:

– Con biết rồi cha à, cha đã mang nợ người ta phải không. Bây giờ mình bán nhà này đi, con sẽ đi làm công thêm rồi trả cho họ. Con không để cha bị người ta lấy mạng đâu.

Cha nó không trả lời, lão chỉ thở dài rồi trên khuôn mặt khốn khổ nở ra một nụ cười chua chát:

– Mày thì làm được gì con ơi!

Rồi lão ta đấm tay thùm thụp xuống ván.

– Con đã nói là làm.

Trúc cương quyết.

– Mày phải bảo toàn cái mạng cho mày nghe chưa, thằng oắt!

Cha nó gầm lên như than oán, ghì chặt lấy hai cánh tay gầy của Trúc. Đoạn lão buông ra gieo người xuống ván, giọng tắt lịm.

Trúc vẫn còn băn khoăn lắm. Nếu không trả được nợ thì cùng lắm là cha con nó dắt nhau đi trốn, hà cớ gì một con người phiêu bạt cả đời như cha nó lại đi hãi hùng trước một tên chủ nợ thế kia. Trúc không thể nào hiểu nổi. Nó đành bấm bụng chờ ngày hắn ta quay lại để hỏi rõ ngọn ngành rồi nó sẽ cùng cha bàn cách giải quyết.

Nghĩ thì như thế nhưng hai ngày trôi qua lâu hơn nó tưởng. Nhất là khi cha nó càng lúc càng trở nên quẫn trí hơn. Buổi trưa lão ta lại kêu nó đến quát tháo hỏi han về một mảnh gỗ gì đó mà nó không mảy may biết đến trước đây. Nó lại lắc đầu quầy quậy thì thấy gương mặt thảm não của cha nó càng thẫn thờ thêm.

Rồi lão ta lại lập một cái bàn thờ ngay giữa sân, bắt nó ra quì cạnh lão mà lầm rầm khấn vái liên hồi mặc cho hàng xóm tò mò đưa mắt qua hàng rào dò xét mãi. Đoạn lão ta lại đến bên bàn thờ bà nội Trúc van vỉ, cầu xin.

Cuối cùng lão lại ra sau bếp mài nhẵn một con dao rồi đặt xuống ngay dưới chỗ đầu nằm trên ván, dưới cái chăn mỏng của lão. Trúc không can ngăn cha thôi những trò cúng vái, cũng không nói gì thêm, nó chỉ cố vững tâm chờ cái ngày người lạ mặt kia quay lại.

Đêm đó sau khi đã đóng cửa cài then cẩn thận, Trúc phủi chân lên giường sau một ngày dài mệt nhọc. Lúc nó vẫn còn chưa ngủ hẳn thì nó bỗng nghe thấy một tiếng gì nhè nhẹ như có người rón rén đi đi lại lại gần giường nó. Nó nín thở nằm im chờ đợi cái tiếng động ấy đến gần rồi gần hơn nữa.

Ánh trăng vàng vọt chiếu qua ô cửa chớp rọi lên tường một cái bóng mờ mờ.

Nó không dám quay lưng lại, chỉ ti hí mắt cố nhìn vào cái bóng trên tường hy vọng có được chút manh mối gì về “cái” đang đi lại bên giường nó.

Cái bóng ấy đến gần hơn nữa, có lẽ đang nhìn về phía nó, lúc bây giờ nó mới nhận rõ cái hình in trên tường dưới ánh trăng là bóng một người đàn bà đang mang bầu, bà ta có mái tóc búi cao và dáng người đẫy đà.

Thoáng một cái, cái bóng trên tường biến mất, có lẽ nó đã quay bước bỏ đi ra ngoài, Trúc nhắm nghiền mắt chờ cho cái tiếng bước chân nhẹ nhàng ấy đi xa dần rồi im bặt hẳn. Trống ngực đánh liên hồi, Trúc nằm chờ thật lâu rồi mới ngồi hẳn dậy, nó vặn lớn đèn lên. Chạy ra nhà ngoài thì thấy cha nó đang ngủ say sưa lắm. Nó đành trở vào trong.

Suốt đêm ấy và cả đêm hôm sau nữa nó cũng không tài nào ngủ được. Cứ chong đèn suốt đêm mà thao thức mãi. Những gì nhìn thấy và mọi sự thắc mắc trong lòng Trúc cũng giấu kín không cho cha hay chỉ sợ sẽ làm lão càng thêm hoảng loạn.

Cuối cùng cái đêm thứ ba cũng đến. Trúc quyết định không chong đèn nữa mà chỉ đóng mọi cửa nẻo rồi vào phòng nằm chờ. Nó đoán chắc người khách lạ hôm nay sẽ đến để hỏi món nợ từ cha. Nó nằm im nghĩ ngợi. Gian nhà ngoài vẫn vọng vào những tiếng khấn vái rì rầm của cha nó.

Đợi mãi đợi mãi đến gần nửa đêm Trúc vẫn không nghe thấy một tiếng gõ cửa hay dấu hiệu nào của tên chủ nợ. Trong lòng nó phân vân không biết nên mừng hay lo.

Nó trở dậy, vặn cây đèn dầu lên một nấc cho đở buồn ngủ rồi lặng lẽ ngồi thu lu trong mùng, hai tay ôm lấy đầu gối, gục mặt xuống. Vừa lúc ấy một tiếng động lạ tai đưa đến khiến Trúc bật ngay dậy. Nó ngồi thẳng trên giường nhìn qua cái kẽ ván.

Đúng như dự đoán của Trúc, gã chủ nợ đã đến. Gã vẫn bận bộ bà ba trắng và quấn khăn Chàm như cái hôm thình lình xuất hiện trên bậu cửa bếp nhà nó, khơi dậy những nỗi khốn khổ cho cha con nó. Trong lòng Trúc thầm căm ghét hắn.

Lần này cha nó và lão người Chàm trò chuyện có vé nhỏ nhẹ hơn. Cha nó cũng không van nài ầm ĩ như hôm trước, chỉ thấy lão ta thì đứng còn cha nó thì quì. Đoạn lão đưa cho cha nó một vật gì không rõ màu trăng trắng. Trúc ước sao có thể vặn lớn ngọn đèn bồ quân để trông thấy rõ ràng hơn.

Nó chợt dựng người lên khi thấy lão Chàm rút từ trong người lão ra một con dao bằng bạc sáng lóa. Vật ấy thì không cần vặn đèn tỏ Trúc cũng trong thấy rõ như in. Tất cả nỗi sợ hãi và lòng nghi ngại trong nó cháy bừng lên ngay trong chốc lát. Nó biết mình là người duy nhất trong nhà có thể ngăn lão chủ nợ man rợ kia khỏi cái việc ghê gớm mà gã sắp làm là lấy mạng cha nó. Trúc tung mùng chạy thẳng lên nhà trên. Nó định la lớn để xóm làng đến cứu nhưng không hiểu sao cái lưỡi nó ríu chặt lại, chỉ phát ra mấy tiếng ú ớ dị thường.

Nó lao ngay về phía con dao đang chĩa ra, tay nó túm lấy tay người Chàm và cắm phập hàm răng nó vào bàn tay đang cầm cái dao. Con dao rơi xuống đất đánh xoảng một tiếng rồi nó bị hất mạnh ra về phía cha nó, lão ôm gọn nó trong lòng, bốn phía im thin thít.

Người Chàm cúi nhặt con dao lên, hất mặt về phía nó và cha nó:

– Trễ cái hạn đêm nay là may cho ngươi. Ta sẽ trở lại sớm thôi.

Trúc ngoác miệng toan phân trần và hỏi cho ra lẽ dàn xếp thì nó nhìn thấy trên sàn nhà chỗ cái vật trăng trắng ban nãy người Chàm đưa cho cha nó vừa văng ra lúc ông ôm lấy nó là một vũng máu. Cái thứ trắng muốt ấy là một bàn tay, một bàn tay đàn bà còn nổi gân xanh với những ngón thon dài bất động.

Đôi mắt hãi hùng của Trúc dừng lại trên cái vũng đỏ thẫm ấy, còn người lạ mặt thì bước nhanh ra phía cửa sau rồi mất hút vào chỗ bóng tối. Cha dìu Trúc dậy, nó vẫn chưa thôi nỗi sợ hãi kỳ quặc. Nó lại thấy căn phòng quay cuồng và cái hình người đàn bà mang bầu lại hiện ra, đi lòng vòng quanh căn phòng.

Cuối cùng lúc nó tỉnh hẳn người cũng là khi trời sắp sáng. Cha nó đang ngồi bên cạnh nhìn nó, mặt lão đã mất đi những nét hung hãn thường ngày.

Vừa bật dậy Trúc đã nhìn ngay xuống nền nhà tìm cái bàn tay và vũng máu như thể muốn chứng thực rằng những gì nó thấy đêm qua hẳn không phải một cơn ác mộng.

Nhưng cái vũng máu không còn và cũng không thấy dấu vết gì dù là mơ hồ của cái bàn tay ấy. Trúc thẫn thờ nhìn sang cha. Ông không nói một lời nào mà chỉ im lặng nhìn nó.

Đợi cho Trúc hoàn hồn lại, lúc nó mở miệng chưa kịp hỏi, cha nó mới lên tiếng:

– Con à, chuyện này con không thể ngăn được.

Rồi ông lấy một hơi dài như để thêm can đảm, mặt cúi gầm xuống để lộ ra những khoảng tối tăm dưới xương gò má.

Ông nói chậm, tiếng nói lẫn vào hơi thở như thì thào:

– Cha cho con biết chuyện này. Nhưng con phải hứa rằng dù có chuyện gì xảy ra với cha đi nữa con cũng không được nói ra với bất kỳ ai.

Trúc nhìn cha lo ngại. Bao nhiêu cái ghét trong lòng nó giờ không còn nữa, nó chưa bao giờ thấy cha đáng thương đến thế. Trúc gật đầu vâng theo.

Cha nó bắt đầu kể bằng một giọng run run, nỗi sợ hãi dường như còn phảng phất trên gương mặt dù ông đã cố giấu đi:

– Cách đây gần hai chục năm, trong một chuyến đi buôn lên miền ngược gần vùng biên giới Campuchia ở phía Bắc ta đã làm một chuyện mà suốt đời ta dù có chạy trốn đến tận đâu cũng không thoát khỏi cái tên người Chàm ấy. Con hãy nghe cho kỹ để sau này lấy làm bài học về lòng tham lam của một đời người phải trả giá rất đắt.

Cha nó ho lục khục mấy tiếng, cố che đi cái vẻ kinh hoàng và những tội lỗi trên gương mặt của ông.

Ông lại tiếp:

– Dạo ấy ta đi buôn cổ vật cùng với lão người Chàm ấy. Lão ta không rõ xuất xứ từ đâu chỉ biết rằng lão làm nghề buôn cũng đã nhiều năm, khét tiếng là tay ruồng rừng không biết sợ thú dữ hay ma quỉ gì cả. Chuyến hàng nào có hắn cũng đi trót lọt qua rừng biên giới mà không phải đụng mặt bất cứ một tay kiểm lâm hay biên phòng nào. Nhờ thế công việc làm ăn của ta phát đạt hết sức. Việc chia chác của ta với hắn cũng rất công bằng.

Một hôm ta có được món hàng quí là một chiếc kiềng bằng ngọc Tàu, tương truyền là cái kiềng của công chúa Khơ-me, một thứ báu vật đã mấy ngàn năm tuổi.

Cùng đoàn buôn năm ấy còn có mấy người nữa, nhưng không một ai biết ta mua được thứ hàng đáng giá ấy chỉ với vài xu lẻ từ một tên nhà quê người Miên sống gần biên giới.

Đêm ấy vì nôn nóng về lại dưới xuôi để tiêu thụ món hàng, cũng vì không muốn phải chia chác một xu nào cho tên Chàm, ta lặng lẽ bỏ lại đoàn người đi buôn nhân lúc họ ngủ say, một mình băng rừng giữa đêm trở lại đồng bằng.

Đang lúc đi không nghỉ ta mới nghe tiếng bước chân vọng lên từ đằng sau.

Ta đi nhanh, tiếng bước chân ấy cũng đi nhanh, ta đứng hẳn lại tiếng bước chân cũng dừng hẳn lại. Đoán biết đang bị người bám đuôi, ta liền đi ngay đến một trảng rừng thưa cây cối, tay đã nắm chặt lấy con dao phay dắt bên sườn, ta mới đột ngột dừng lại.

Khoảng rừng thưa không có cây cối, ánh sáng trên bầu trời đêm soi rọi xuống đủ để ta nhận mặt cái kẻ đi theo mình. Kẻ ấy xem chừng bất thình lình thấy ta đừng lại cũng không kịp lẩn trốn vào đâu đành lộ diện. Ấy là một người đàn bà chửa. Ta ngạc nhiên hết sức không hiểu vì sao nó lại theo ta đi băng rừng giữa đêm như thế. Ta lại nhìn kỹ thì thấy nó hẳn không phải là người Kinh, lại chẳng có một thứ hung khí gì trên tay để làm hại được ta. Bấy giờ ta mới lên tiếng hỏi nó:

– Mày đi theo tao làm gì hả con kia?

Nó liền quì thụp ngay xuống trước mặt ta, hai tay chắp lại phía trước ngực như van nài. Nó nói bằng một thứ tiếng dân tộc pha lẫn với tiếng Việt đơn đớt:

– Khơ-lây-muồng cai ki-êng, con lạy, tra lai chong con cai kieng.

Rồi nó lại xì xụp lạy ta mấy cái. Ta đoán được ngay nó muốn lấy lại cái kiềng có lẽ là một của quí trong nhà nhưng thằng chồng ngốc nghếch đã lỡ bán mất.

Nói đoạn nó lại rút trong lưng quần ra mấy đồng bạc còn mới keng ta đã đưa cho thằng chồng nó để mua lấy cái kiềng ban sáng, cứ chìa mãi mấy đồng bạc có ý trả lại cho ta vừa níu tay ta khóc ngắn khóc dài.

Dĩ nhiên lúc bấy giờ ta chẳng chút mảy may mà động lòng. Của quí ta hẳn nhiên sẽ không trả lại cho nó, mà nấn ná giữa rừng như vầy cũng không hay ho chút nào. Ta lại chưa đi xa được, rủi bọn kia thức dậy đi tìm thì chuyện lại vỡ lở ra. Ta đành hất tay con đàn bà ấy thật mạnh về phía sau rồi im lặng đi tiếp. Con đàn bà ấy ngã lăn quay nhưng lại vô sự, mụ ta chồm dậy kéo lấy hai cái chân của ta, ta phải giằng co gỡ mãi mới thoát được. Ta quay lại đánh cho mụ ta mấy cái ngã nhào ra phía sau tưởng ngất đi mất, ta mới lại lên đường.

Nhưng mụ ta vẫn còn dai sức, mặc kệ cái bụng chửa đã to lồ lộ, mụ nhào tới bằng hết sức bình sinh nắm cái áo ta mà giật mạnh. Cái kiềng ngọc cũng vì thế mà rơi ra. Mụ mừng húm nhặt ngay cái kiềng toan bỏ chạy nhưng ta cũng đã nắm ngay được cái tay đang cầm chiếc kiềng của mụ.

Ta dùng cả hai tay cố gỡ thị ra, một tay kia của thị chống trả dữ đội. Trong lúc giằng co, thị sượt chân vào một cái hố bẫy thú rất lớn. Có lẽ cái chân đã bị bẫy ngốn thị thét lên những tiếng đau đớn kinh hoàng nhưng vẫn không buông tay khỏi cái vòng ngọc.

Thị lấy một tay còn lại cố kéo ta luôn xuống hố. Sẵn con dao phay giắt bên sống lưng, ta liền không suy nghĩ mà rút ngay ra chặt một phát thật mạnh vào cánh tay đang cầm chắc chiếc kiềng ngọc. Thế là mụ ta rơi cả người xuống hố bẫy, bàn tay vẫn còn nắm lấy chiếc kiềng lủng lẳng.

Ta nhìn theo xuống thì thấy cái bẫy sắt có lẽ để bẫy gấu đã nghiến lấy mụ.

Cái bụng máu me bê bết, mụ vẫn mở trừng hai mắt và nhìn thẳng vào ta, từ miệng hố xuống đến độ hai thước rưỡi, ta vẫn nghe tiếng mụ đưa lên:

– Mày phải bị quỉ bắt Khơ-lai-muồng ...

Ta vốn dĩ đã quen với cảnh chết chóc nên quyết định bỏ lại con đàn bà chửa dưới cái hố ấy và tiếp tục lên đường.

Nhưng kỳ quặc thay, cái bàn tay đã chặt đứt khỏi thân thể bà ta vẫn cứ nắm chặt lấy chiếc kiềng ngọc. Ta cố gỡ mãi mà vẫn không sao gỡ ra được. Lúc ngước mặt lên thì đã thấy gã người Chàm đang đứng trước mặt ta tự bao giờ. Gã nhìn ta với một ánh mắt không biểu lộ chút cảm xúc gì.

Biết chuyện đã vỡ lở ta nhìn quanh quất mà chẳng thấy ai theo cùng hắn cả, trong lòng cũng mừng thầm liền hỏi hắn:

– Có ai đi theo ông không?

Hắn lắc đầu rồi hất cái cằm dẹt của hắn về phía chiếc kiềng đang tòng teng trên tay người đàn bà:

– Mày không gỡ ra được đâu, cái của ấy thiêng lắm.

Nói rồi gã người Chàm lại đi vòng quanh đến gần cái miệng hố xem xét.

Đoạn gã quay mặt về phía ta, nói tiếp:

– Tao giúp mày cũng được nhưng mày phải liệu thế nào ...

Ta đã hiểu ngay ra gã này đang muốn một sự chia chác. Vừa để bịt miệng hắn trước khi những người khác đến cũng là để công việc được nhanh chóng hơn, ta liền đưa ra một cái giá hậu. Gã gật đầu ngay.

Thế rồi gã cúi xuống cầm lấy cái bàn tay đưa lên ngang mắt xem xét, xong gã lại lấy ra một miếng gỗ to bằng bàn tay, chà xát vào tấm khăn đội trên đầu.

rồi gã đặt tất cả xuống nền đất, đánh diêm và mồi lửa vào miếng gỗ.

Gã cầm miếng gỗ xoay tròn xung quanh cái bàn tay mấy lượt vừa lầm rầm khấn vái. Chưa đầy một phút sau những ngón tay buông thẳng ra, cái kiềng được tự do. Ta mừng rỡ nhặt ngay nó và cho vào túi.

Hắn vừa thổi tắt cái mồi lửa vừa cúi nhặt cái bàn tay lên và len lét nhìn ta:

– Cái của ấy gây họa đấy.

Gã ám chỉ cái kiềng đoạn tiếp lời:

– Con đàn bà chửa kia là dòng giống tộc người đã không còn nhiều ở đất rừng này nữa. Mà dòng giống nó thiêng lắm. Trước khi chết nó có nguyền rủa mày không?

Ta đem câu chuyện mua được chiếc vòng như thế nào và lý do tại sao con đàn bà đi theo ta đến tận chỗ này kể lại cho tên người Chàm nghe, cả lời nói cuối cùng của mụ ta vang lên từ dưới hố đe dọa ta.

Hắn nghe đến đâu thì khuôn mặt sợ hãi và lo ngại càng lộ rõ, sau cùng hắn bảo:

– Bao nhiêu tiền của mày rồi sẽ đổ sông đổ biển hết.

Ta không mảy may để ý đến những lời nói của hắn. Chỉ cho là lời bâng quơ.

Hắn xé một miếng vải gói lấy cái bàn tay một cách thật cẩn thận rồi cho vào trong áo.

Ta lấy làm lạ bèn thắc mắc thì hắn chỉ trả lời ngắn gọn:

– Con đàn bà kia đã nguyền rủa mày. Tao giữ lại bàn tay này có khi sẽ cần đến. rồi mày sẽ thấy nhanh thôi, mày chẳng sống yên đâu.

Ta phát cáu lên, mắng hắn rồi tiếp tục đi cùng hắn xuyên qua rừng trong đêm để về xuôi.

Về đến dưới xuôi ta liền bán ngay chiếc vòng, số vàng kiếm được từ vụ mua bán ấy khá nhiều, ta hậm hực chia phân nửa cho tên người Chàm nhưng đột nhiên hắn lại từ chối.

– Mày đưa tao số vàng mày đã hứa nhưng là chỗ vàng sẵn có của mày kia.

Khoản kiếm được từ cái của này tao không đụng vào đâu.

Gã Chàm bảo.

Thế là ta đành giữ lấy toàn bộ số vàng ấy, thay vào đó lấy tất cả chỗ vàng ta dành dụm được để đưa cho hắn.

Việc xong được không lâu thì ta mắc chứng thương hàn nặng đã hơn mười ngày vẫn không dậy được. rồi thì bệnh càng lúc càng trầm trọng hơn. Trong mồm và chân tay đều lở loét cả. Cầm chừng như không qua khỏi. Số vàng cũng vơi dần sau hai tháng ròng chữa chạy.

Sau khi mẹ ta bán đến thứ tài sản có giá trị cuối cùng trong nhà thì ta cũng đã trên ngưỡng của những hơi thở sau chót.

Trong lúc ấy ta chợt thấy những hình ảnh dị kỳ của người đàn bà chửa và cái đêm trong rừng hiện về trong những giấc chiêm bao giữa ban ngày. Lúc tỉnh giấc ta mới nhớ ra những lời nói của tên người Chàm.

Thế là ta cho người tìm hắn khắp nơi. Ba ngày sau thì một người làng đưa hắn đến tận nhà gặp ta. Hắn dường như không chút thương hại cũng chẳng hề ngạc nhiên nhìn cái thân thể hấp hối của ta.

Hắn chỉ cúi thật sát khuôn mặt vào ta mà thì thầm đúng một câu duy nhất:

– Tao chỉ giúp được mày đẩy lùi cái kỳ hạn này. Cho mày bảo toàn tính mạng một thời gian khỏi cái chết khủng khiếp ngay trước mắt. Mười lượng vàng.

Lúc đó ta không còn chút sức lực nào mà hỏi han hay suy nghĩ nữa đành gật đầu đồng ý ngay.

Gã người Chàm lại lấy bàn tay từ trong áo hắn ra cùng cái miếng gỗ đã cháy xém. Gã đặt các thứ ấy lên đầu giường ta rồi đi vòng vòng mấy bận xung quanh, vừa đi vừa niệm chú.

Xong việc rồi gã im lặng bỏ đi không nói lấy một câu nào. Đến chiều hôm đó là ta đã dậy ra khỏi giường được. Trong lòng ta thầm kiêng dè gã người Chàm, sau đó lại tiếp tục lao vào công việc buôn bán qua miền biên giới, cơ thể khỏe mạnh và các chuyến hàng đều trót lọt cả, chẳng mấy chốc ta kiếm đủ số vàng trả nợ cho hắn.

Thế là không hẹn, hắn đến tìm ta khi ta đang ở đêm lại trên một thái ấp vùng núi cao xứ Bắc.

Nhận số vàng xong, hắn liền đưa ta cái mẩu gỗ cháy xém mà lúc nào hắn cũng mang bên người vừa dặn:

– Mày hãy giữ lấy cái mẩu gỗ này, nó là vật để chứng cho việc tao đã gia hạn lại cái chết thảm khốc cho mày vào một thời điểm khác trong cuộc đời này. Khi nào đến hạn tao sẽ tới lấy lại miếng gỗ, đó cũng là lúc mày phải hoàn trả thân xác cho cái chết thảm khốc dưới lời nguyền của người đàn bà nọ.

Tuy không tin hẳn vào tất cả những lời nói của gã Chàm nhưng vì đã tận mắt chứng kiến hắn làm những bùa phép công hiệu nên ta cũng thuận tình nghe theo.

Hắn còn nói thêm:

– Mày đã chịu sự nguyền rủa của con đàn bà ấy thì không có cách gì hóa giải nổi. Tao chỉ có thể giúp mày được một lần, sau này bất cứ khi nào thần chết đến tìm tao thì tao sẽ phải giao nộp mày ra.

Ta cũng tin như thế nhưng gần hai chục năm trôi qua ta vẫn khỏe mạnh như thường. Còn gã người Chàm cũng bặt vô âm tín luôn từ đó. Ta nghĩ rằng cái kỳ hạn nọ đã không còn hiệu lực nữa, hoặc giả những gì gã Chàm đã nói với ta đã không còn hiệu nghiệm lâu rồi.

Thế là ta chôn mảnh gỗ cùng một số những đồ vật cũ ở gốc ổi sau bếp mà không ngờ rằng có một ngày hắn lại đến tìm ta để giao nộp cho cái chết.

Cuối cùng ta cũng ngộ ra một điều rằng, cái chết cũng chẳng có gì là ghê gớm cả. Điều quan trọng là từ ý nghĩa của sự sống, những năm tháng mà ta đã sống trên đời mới quan trọng con à.

Trúc lắng nghe không sót một lời từ cha nó. Bây giờ nó mới hiểu ra đầu đuôi sự việc. Nó cũng cảm nhận được những điều sâu xa thấm thía trong lời nói của cha nó.

Buổi trưa ngày hôm ấy, gã Chàm trở lại. Thằng Trúc cố tỏ ra can đảm nhưng nó cũng phải khóc nấc lên khi thấy cái lưỡi dao bạc cắm xuyên qua thân thể người cha. Máu nhuộm đỏ tươi trên sàn nhà, và trong lúc mắt nó hoa lên trước cảnh tượng ấy, nó thấy chập chờn cái bóng người đàn bà chửa đi lại trong phòng, vừa đi vừa cười thỏa thuê.

Gã người Chàm rút từ trong túi ra một cái ná nhỏ rồi đưa lại cho nó, gã vừa nói:

– Thứ này chính từ mảnh gỗ phép ta đã đưa cho cha cậu, chính cậu tình cờ nhặt về làm ná bắn chim. Nay ta tặng lại cho cậu như một thứ bùa hộ mệnh, cậu phải giữ lấy đó.

Nói rồi, hắn để mặc thằng Trúc quay cuồng đau buồn trước cái chết của cha nó, lặng lẽ lôi cái xác bỏ đi.

Người trong làng có thấy trưa hôm ấy cha thằng Trúc bước đi xiêu vẹo một mình trên con đường làng, vừa đi vừa ra bộ vui vẻ lắm lại còn nói chuyện một mình. Có ai còn lạ gì, lão ta đang say đấy mà. Nhưng cũng từ đó về sau không một ai còn thấy lão ta ở trong làng nữa.

Thằng Trúc thì vẫn cặm cụi những công việc thường ngày, nó trông vui tươi sáng sủa hơn. Chỉ thỉnh thoảng có người bắt gặp nó đứng thẫn thờ cạnh gốc ổi sau nhà có một mình. Trên cổ lúc nào cũng đeo cái ná gỗ tòng teng.

Chiếc vòng cẩm thạch Sau sự ra đi đột ngột của Ngọc và Diệp, nhóm “Ngũ Long Công Chúa”.

chúng tôi chỉ còn lại ba người. Hai tuần cuối cùng của năm học cũng trôi qua chậm chạp, bọn tôi không hay cười đùa rơm rả sau những giờ học nữa, phần lớn thì giờ chỉ dành cho việc ôn bài và thi cử.

Ngày cuối cùng của niên học, sau khi làm lễ bế giảng tôi cùng Lan và Thảo đi thăm mộ hai người bạn xấu số. Hai nấm mồ còn mới tinh quét vôi trắng muốt khiến cả ba đứa tôi không cầm được nước mắt.

Thảo hỏi tôi:

– Phụng còn nhớ chuyện xảy ra vào cái hôm cuối cùng ở nhà Ngọc không?

Tôi vừa quệt nước mắt vừa trả lời:

– Sao Phụng có thể quên được chứ!

Thảo nhìn tôi nói thêm:

– Ý Thảo hỏi là Phụng có nhớ chi tiết những gì đã xảy ra với chiếc vòng không?

Tôi gật:

– Có, Phụng nhớ!

Mọi chuyện bắt đầu khi Diệp mua được một chiếc vòng cẩm thạch rất đẹp sau một chuyến đi chơi cùng người họ hàng lên Đắc Lắc. Chiếc vòng xinh đẹp rất vừa vặn với Diệp và cả bọn chúng tôi không đứa nào là không thích mê đi.

Rồi Diệp đột ngột qua đời sau một trận cảm, trước lúc trút hơi thở cuối cùng, Diệp tặng lại chiếc vòng cho nhỏ Ngọc. Thế là chỉ vài ngày sau Ngọc cũng bỏ chúng tôi ra đi vì một căn bệnh lạ mà các bác sĩ cũng chưa biết tên nhưng vì một linh tính khác thường tôi đã nhận ra sự có mặt kỳ lạ của chiếc vòng trong những giờ phút hấp hối của cả hai cô bạn.

Trước lúc ra đi, nhỏ Ngọc bạn tôi cũng muốn trao lại chiếc vòng cho nhỏ Lan trong nhóm, nhưng vì những linh tính thôi thúc tôi đã ngăn không cho Lan đeo chiếc vòng. Chiếc vòng ấy bị cú hất khá mạnh của tôi đã va vào tường, vỡ tan ...

Tôi nhớ lại mà bỗng cảm thấy dờn dợn trong bao tử.

Chiếc vòng đã vỡ tan thành một vũng máu và hai tròng mắt.

Nhỏ Lan tò mò:

– Sau đó thì sao hả Phụng, có ai xem xét gì đến nó nữa không?

Tôi ôm đầu nhớ lại:

– Lúc đó mọi người trong nhà đang lo tang lễ nên chẳng ai để ý đến. Nhưng Phụng quá kinh ngạc nên không thể rời mắt khỏi chỗ đó, đến lúc làm lễ khâm liệm cho Ngọc thì người ra vào trong nhà cũng đông lên, tụi mình cũng ra về.

Phụng có ý định xem xét cái vũng máu đó thêm một lần nữa nhưng lúc lại gần thì chỗ đó sạch trơn hà. Chắc ai đó trong nhà đã lau dọn đi.

Lan nói:

– Cái vòng đó thật sự không bình thường chút nào!

Cả tôi và Thảo đều đồng ý với Lan. Chúng tôi bàn lại kế hoạch tìm hiểu bí mật về chiếc vòng cũng là để làm sáng tỏ cái chết của hai đứa bạn. Ý định này của chúng tôi đã có từ sau ngày đám tang của Ngọc nhưng mãi đến hôm nay, khi kỳ nghỉ hè đã bắt đầu chúng tôi mới có thể tiến hành.

Tôi hỏi:

– Hai bạn có cho rằng chính cái vòng là nguyên nhân trong chuyện này không?

Lan và Thảo lặng lẽ gật đầu.

Nhỏ Lan buột miệng:

– Nói vậy không lẽ cái vòng đó bị ma ám?

Chữ ma trong câu nói của Lan khiến chúng tôi dún người lại, cái cảm giác ấy đã nhân lên gấp bội từ sau những gì đã xảy ra với Diệp và Ngọc. Cái giọng cười tôi nghe thấy lúc chiếc vòng vỡ tan lại loáng thoáng trong tâm trí.

Tôi lên tiếng để trấn át hai bạn, cũng là để làm yên lòng chính mình:

– Mình không thể nói chắc được nó là cái gì. Nhưng thế nào đi nữa Phụng cũng quyết tâm tìm ra chân tướng sự việc. Hai bạn có sợ không, có quyết định cùng làm rõ chuyện này với Phụng không?

Dường như những tình cảm bạn bè khăng khít trong chúng tôi đã đẩy lùi nỗi sợ hãi trong lòng mỗi người, nhất là hai nhỏ bạn thường ngày vốn rất sợ ma của tôi. Thảo và Lan cùng lên tiếng:

– Tụi này đã nhất trí là sẽ làm!

Nói rồi Lan không quên quay sang mộ bạn và bảo tôi cùng Thảo khấn vái để có thêm lòng can đảm cho những công việc sắp tới trong dự định của chúng tôi.

rồi chúng tôi dắt xe lững thững ra về sau khi đã quyết định một cuộc hẹn ở nhà nhỏ Lan tối nay sẽ bàn bạc cụ thể hơn mọi chuyện.

Nghĩa trang buổi chiều vắng hoe, ánh nắng cuối ngày vàng vọt trên những ngọn cây.

Mới bảy giờ tối, cả bọn đã tụ tập đông đủ trong căn phòng nhỏ ở nhà Lan.

Trời đêm tháng tư oi nồng nên tụi tôi mở toang cửa sổ cho gió lùa vào pha loãng cái không khí đêm hè.

Nhỏ Thảo lên tiếng trước.

– Chúng mình phải đến hỏi thăm mẹ của Diệp trước đã.

Lan nói:

– Đúng rồi, phải hỏi xem nhỏ Diệp đã mua nó từ ai, khi nào. Mà có lẽ người họ hàng đã từng đi cùng Diệp lên Đắc Lắc sẽ cho mình biết được điều gì đó có ích.

Tôi gật đầu đồng tình:

– Phụng cũng đồng ý như vậy. Nhưng sau khi hỏi ra, nếu đúng là nhỏ Diệp đã mua cái vòng đó của một người bán dạo nào trên đó rồi thì mình sẽ làm gì tiếp theo?

Thảo mạnh mẽ:

– Có lẽ tụi mình sẽ phải đi lên tận nơi để tìm cho ra ngọn ngành. Nhưng trước mắt cứ phải đi nói chuyện với mẹ của Diệp đã, sau đó mới có thể lên kế hoạch tiếp theo được.

Tôi nghi ngại:

– Mà nè, mấy bạn có thấy chuyện gì là lạ xảy ra với Diệp và Ngọc trước lúc mất không?

– Không!

Nhỏ Thảo lắc đầu. Nhưng lúc nhìn về phía Lan tôi đã thấy một sự nghi hoặc và đồng tình với câu hỏi của tôi trong ánh mắt nhỏ.

Lan nói chậm rãi:

– Hình như cả Diệp và Ngọc đều rất muốn truyền chiếc vòng lại cho một người khác trong số bọn mình.

Tôi gật:

– Phụng cũng nghĩ vậy đó. Mà nhỏ Diệp đã từng nói nó có những cảm xúc lạ kỳ lắm sau khi đeo chiếc vòng trên tay, đúng không?

Thảo xác nhận:

– Ừ, tụi mình còn chọc nhỏ tương tư cái vòng đó nhớ không?

Lan thắc mắc:

– Tiếc là không đứa nào trong bọn mình nhận ra những cái không bình thường đó. Mà nè, tại sao lúc ấy Phụng biết mà ngăn mình lại không đeo chiếc vòng ấy?

Tôi khẽ lắc đầu buồn bã:

– Phụng không biết tại sao nữa, chỉ là ... chỉ là tự nhiên vậy thôi ...

Trong đầu tôi lại hiện rõ như in đôi mắt của Ngọc cái hôm ấy. Đôi mắt ấy sáng rỡ và khỏe khoắn lạ thường, ánh nhìn của nhỏ chẳng giống chút nào cái nhìn của một người đang hấp hối. Vả lại trong lúc cố trao chiếc vòng cho Lan, nhỏ Ngọc cũng trở nên tỉnh táo, nói năng rõ ràng hẳn.

Trong ánh mắt của nhỏ Ngọc hôm ấy tôi cảm nhận được một sự gì khang khác, một niềm khát khao, một nguồn sống mạnh mẽ và những tia sáng sắc lạnh trong đó. Phải chăng đó là những gì còn lại chút năng lượng cuối cùng trong con người Ngọc.

Tôi băn khoăn, buột miệng:

– Phụng làm vậy là vì ánh mắt của Ngọc hôm đó nó khiến Phụng thấy sợ ....

Mà ... cái lúc chiếc vòng bị bể tan, ngoài Phụng và Lan là hai người đứng gần nhỏ Ngọc nhất, không biết những người khác có nhìn thấy hay nghe thấy những thứ giống như Phụng đã thấy không?

Giọng nhỏ Lan run run:

– Lan có thấy cái vũng máu đó, nhưng Phụng nói nghe thấy nữa là sao?

Tôi nhìn về phía Thảo như để chờ xem một sự xác nhận.

Nhỏ Thảo thành thật:

– Lúc chiếc vòng va vào tường, vì quá bất ngờ với hành động của Phụng nên mọi người đều đổ dồn ánh mắt sửng sốt về phía tiếng động vỡ của chiếc vòng nhưng Thảo không tận mắt nhìn thấy vì ngồi khuất phía sau. Sau này Thảo mới nghe nhỏ Lan kể lại thôi.

Tôi lại hướng về phía Lan:

– Lan thấy chưa, không phải tất cả tụi mình đều nhìn thấy hay nghe thấy cùng một thứ. Vậy điều thứ hai cần phải kiểm chứng lại chính là hỏi xem những người khác đã nhìn thấy và nghe thấy gì lúc đó.

Tôi quả quyết nói thêm:

– Mà còn một điều nữa:

Phụng nói “nghe thấy” là bởi vì chính Phụng có nghe thấy một tiếng cười lanh lảnh vang lên trong căn phòng ngay lúc đó.

Tôi thấy nhỏ Lan và Thảo đều đang nhìn thẳng về phía mình, rồi tụi nó lại quay sang nhìn nhau, lấy làm lạ về điều tôi vừa nói.

– Lan không có nghe thấy cái âm thanh đó.

Nhỏ Lan trả lời.

– Thảo cũng không.

Thảo nhìn tôi, không giấu được vẻ hoang mang.

Vậy là đã rõ, có lẽ chỉ duy nhất mình tôi nghe thấy mà thôi. Có thể nào đó chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng riêng tôi. Nhưng không, rõ ràng nhỏ Lan cũng nhìn thấy vũng máu lúc chiếc vòng vỡ ra.

Tôi nhìn hai bạn:

– Chính vì vậy mà mình phải kiểm chứng lại những điều người khác thấy.

Lan và Thảo lặng lẽ, bầu không khí hơi chùng lại. Mỗi đứa đều ra vẻ nghĩ ngợi. Một cơn gió bất chợt khiến cánh cửa phòng đánh rầm vào song khiến bọn tôi như tỉnh giấc.

– Thôi ngày mai tụi mình sẽ bắt đầu, bây giờ đi xuống nhà đi mấy bạn, mẹ mình có nấu chè đó.

Nhỏ Lan mời mọc.

Nồi chè không làm bọn tôi phấn khởi lên nhưng cũng bước theo Lan. Ăn xong ai lại về nhà nấy.

Tối hôm đó tôi trằn trọc mãi mà không ngủ được nên quyết định thức dậy để dọn dẹp những sách vở cũ trong năm học trước.

Số sách cũ cũng khá nhiều nên không còn chứa vừa trên cái kệ gỗ cũ kỹ của tôi nữa, chúng chỉ chực đổ nhào xuống sàn. Tôi đành lôi hết chúng ra, xếp lên bàn. Trong lúc ấy tôi chợt nhận thấy một cuốn tập bìa vàng trông quen quen, tôi bắt đầu giở từng trang một. Nét chữ tròn trịa thân thuộc của nhỏ Diệp hiện ra rõ ràng trên từng trang giấy khiến tôi cảm thấy buồn buồn.

– Thôi đúng rồi, đây là tập địa lý của nhỏ, hôm nhỏ còn nằm viện mình đã lấy về định chép bài hộ.

Tôi nhủ thầm rồi đặt cuốn tập sang một bên trên bàn. Số sách vở đã dọn dẹp xong đâu đấy, tôi chui vô mùng ngủ thẳng một giấc.

Sáng hôm sau ba đứa tụi tôi lại đạp xe đến nhà Diệp. Mẹ Diệp vẫn nghỉ ở nhà vì cú sốc sau cái chết của con, thấy chúng tôi đến bà tỏ ra vui mừng nhưng trong đôi mắt vẻ buồn rầu vẫn chưa vơi đi.

Chúng tôi thắp nhang cho Diệp xong, chần chừ nhìn nhau được một lúc tôi mới đề cập đến chuyện cái vòng và có ý định hỏi xem chuyến đi ấy Diệp đã đi với ai, mua chiếc vòng từ người nào.

Mẹ Diệp yên lặng nghe tôi giải thích, gương mặt bà thoáng vẻ ngạc nhiên và hoảng hốt:

– Những gì cháu nói có thật không? Làm sao mà một chiếc vòng có thể gây ra những chuyện tai hại khủng khiếp như vậy được?

Tôi vừa nói vừa đưa mắt nhìn Lan:

– Thưa cô cháu chỉ nói những gì bọn cháu nhìn thấy và cảm nhận thôi. Còn sự thật thế nào chúng cháu vẫn đang tìm hiểu.

Mẹ Diệp thở dài:

– Nghe cách cháu lý giải những hành động của con gái cô và cả con bé Ngọc trước lúc chết thì cũng có lý. Nhưng cô khó lòng mà tin được chuyện cái vòng ...

Hôm đó Ngọc đã đi Đắc Lắc với chị Thu, người giúp việc của gia đình.

Nói rồi mẹ Diệp đi nhẹ nhàng ra sau nhà, chưa đầy một phút sau chị giúp việc đã lấp ló sau bậu cửa phòng khách, ánh mắt dè dặt nhìn chúng tôi khắp lượt. Mẹ Diệp đỡ lời:

– Chị Thu, bọn nhỏ muốn hỏi thăm chút chuyện, chị tiếp tụi nó nhé. Tôi phải giải quyết một số việc.

Mẹ Diệp không quên quay sang dặn chúng tôi:

– Có gì cần thì gọi cô nhé!

Chờ cho mẹ Diệp khuất sau cánh cửa, tôi nhìn chị giúp việc mỉm cười và hỏi:

– Chị Thu ơi, tụi em muốn biết lúc trước Diệp đã mua chiếc vòng cẩm thạch rất đẹp đó ở đâu ạ?

– Ờ ...

Chị giúp việc lưỡng lự một giây như để cố nhớ ra điều gì rồi tiếp:

– Ờ ... Chị nhớ là hôm đó chị và Ngọc đi xem voi ở suối Cau thì có người đàn bà bán hàng rong đến mời mọc ...

Lan nhanh nhảu:

– Chị có thể mô tả bà ta cho em không chị?

Chị Thu ấp úng:

– Chị cũng không nhớ chính xác lắm ... Người đó khó mà xác định được tuổi tác, có lẽ tầm ba mươi. Ăn bận cũng loàng xoàng thôi, chị không nhớ cụ thể được ... Chỉ có điều dáng dấp rất cân đối và mái tóc búi cao ... Chị cũng không nhìn rõ mặt mũi cô ta nhưng lúc thoáng qua thì thấy có nét gì đó khá là thu hút ...

Chúng tôi nhớ như in những lời mô tả của chị Thu tuy chúng chỉ hoàn toàn là những điều chung chung và hết sức mơ hồ nhưng dù sao cũng là một chút thông tin quí báu đối với cả bọn.

Tôi hỏi lại:

– Vậy là Diệp đã mua chiếc vòng từ người phụ nữ đó hả chị?

Chị Thu gật đầu:

– Ừ, đúng vậy! Bà ta bán toàn những đồ trang sức cũ kỹ, cũng không có thứ gì bắt mắt cả. Duy chỉ có cái vòng cẩm thạch mà nhỏ Diệp mua là đẹp nhất trong số đó.

Nhỏ Thảo im lặng nãy giờ mới lên tiếng:

– Mà sao chị với nhỏ Diệp lại đi Đắc Lắc chơi? Em nghe nói quê ngoại, quê nội nhỏ đều ở Cà Mau mà?

Chị Thu từ tốn trả lời:

– À, trên đó là quê chị. Chị về thăm nhà hai ngày thì nhỏ Diệp xin theo chơi.

– Ra vậy!

Nhỏ Lan nói như reo:

– Vậy thì chị có biết được người bán hàng rong đó là dân ở xứ mình hay ở đâu không chị? Chị cũng biết rõ đường đi lên chỗ suối gì mà chị với nhỏ Diệp từng đi phải không?

Nghe nhỏ Lan hỏi dồn, chị Thu hơi lúng túng. Tôi đành phải giải thích với chị những chuyện lạ lùng đã xảy ra mà chúng tôi cho là liên quan đến chiếc vòng. Gương mặt chị nổi rõ một vẻ sợ sệt và lo lắng:

– Vậy ra các em định tìm hiểu chuyện này sao. Chị nghe thấy sợ quá! Về phần chị, chị dám chắc người bán hàng rong đó là dân xứ mình qua giọng nói của chị ta. Nhưng cụ thể là người thôn xóm nào thì chị không biết vì đó là lần đầu tiên chị gặp chị ta ở suối Cau. Đường đi nước bước lên suối ấy thì chị cũng không lạ gì. Mà ... mà các em định lên đó hay sao?

– Nếu đã biết chắc chị ta là dân vùng ấy thì chỉ có lên tận nơi may ra mới hỏi ra được những chuyện khác phải không mấy bạn?

Tôi nhìn sang tìm ánh mắt ủng hộ của hai nhỏ kia.

Chị Thu lo lắng:

– Nhưng rủi mấy đứa không tìm được chị ta thì sao?

Nhỏ Lan lém lỉnh trấn an chị:

– Thì tụi em coi như là một chuyến đi chơi hè.

Chợt nhớ ra, tôi hỏi thêm:

– À, mà lúc nhỏ Diệp mua cái vòng chị có thấy gì lạ không?

Chị Thu yên lặng một giây rồi đáp:

– Không, chị không thấy gì lạ hết. Cả người mua người bán đều vui vẻ ... Sau đó Diệp có bảo với chị nó đeo vòng vào thì thấy xúc động lắm. Chị cũng không hiểu sao nó lại nói như vậy.

Tụi tôi lại nhìn nhau.

Chị Thu suy nghĩ một chốc rồi quay sang chúng tôi:

– Nếu mấy em định đi lên đó, chị sẽ chỉ nhà mẹ chị cho để tụi em có chỗ ở.

Còn đường lên suối Cau thì chị sẽ dặn mẹ chị chỉ cho tụi em.

Tôi nhanh nhảu:

– Cám ơn chị! Khi nào đi tụi em sẽ ghé sang báo cho chị biết.

Lan cẩn thận dặn dò thêm:

– Còn nếu chị có nhớ thêm được gì về người bán hàng rong đó hoặc bất cứ cái gì lạ về nhỏ Diệp hay chiếc vòng thì chị nhớ cho tụi em biết với.

Chị Thu gật đầu và giữ chúng tôi lại dùng cơm trưa. Tới xế trưa cả bọn mới cảm ơn chị và chào mẹ Diệp để ra về.

Không lãng phí thời gian, chúng tôi đạp xe ngay sang nhà Ngọc giữa cái nắng trưa hè như đổ lửa. Lũ ve kêu râm ran trên những ngọn cây hai bên đường, con phố vắng tênh chỉ có hơi nóng hắt lên từ những mặt đường trải nhựa.

Nhà Ngọc vắng hoe, chỉ có ngoại nhỏ cùng người anh trai ở nhà. Tôi đánh bạo hỏi chuyện thì thấy cả ngoại và anh trai Ngọc đều thảng thốt trả lời rằng vì hôm ấy mọi người quá kinh ngạc trước hành động bất ngờ của tôi nên đều cùng nhìn về phía chiếc vòng vở tan chứ không hề thấy bất cứ một vết máu hay thứ gì ghê gớm như tôi vừa mô tả.

Ngoại của Ngọc có vẻ phật ý, bà nhìn chúng tôi một cách nghiêm khắc:

– Các cháu không được nói những chuyện ma quỉ như thế không nên. Có lẽ con Ngọc nhà này yểu mệnh ...

Nói đến đây bà nhìn chúng tôi mà không cầm được nước mắt.

Sau bữa trưa hôm ấy chúng tôi quyết định hai ngày sau sẽ lên đường đi Đắc Lắc để hỏi cho ra tung tích của chiếc vòng.

Tuy không thu thập được nhiều thông tin nhưng ít ra chúng tôi cũng biết được ít nhiều về việc cần phải tìm ai, đường đi nước bước cụ thể như thế nào cũng được chị Thu chỉ bảo hết cả. Chỉ có một điều khiến tôi và Lan không khỏi băn khoăn chính là việc nhận ra rằng hình như chỉ có hai đứa tôi đã nhìn thấy cái vũng máu và hai tròng mắt lúc cái vòng vỡ tan mà chính tôi và nhỏ cũng không thể lý giải được là tại sao.

Đặc biệt là tôi, chẳng những nhìn thấy mà trong đầu tôi còn vang rõ như in cái giọng cười lanh lảnh hôm đó ... Thật không tài nào hiểu được.

Buổi tối hôm trước khi lên đường đi Đắc Lắc, tôi quyết định lên giường đi ngủ sớm. Nhưng có lẽ vì mãi nghĩ ngợi đến những chuyện vừa qua đầu óc tôi cứ căng ra không sao ngủ được.

Tôi ước gì đã có thể có cơ hội nói chuyện với Diệp nhiều hơn trước khi nhỏ mất để biết cụ thể hơn những cảm xúc của nhỏ lúc mới đeo cái vòng vào tay, rồi trong đầu tôi lại loáng thoáng ánh mắt khác lạ của nhỏ Diệp lúc trao lại chiếc vòng cho Ngọc, ánh mắt đó cũng khiến tôi lo sợ hệt như cái nhìn của Ngọc sau này ...

Đang lơ mơ chờn vờn với những hình ảnh ấy trong tâm trí, một tiếng động lạ đánh “phạch” một cái ngay trên đầu giường khiến tôi mở choàng mắt. Trong phòng vẫn chong điện sáng trưng, tôi thầm trách mình tâm trí để ở đâu cứ tưởng đã tắt hết đèn đi ngủ vậy mà đèn còn chong thế này, vừa đưa tay lên dụi mắt tôi vừa nhìn quanh quất trong phòng tìm chỗ phát ra cái tiếng động đã đánh thức mình. Đồng hồ trên tường đã điểm hai giờ sáng. Dưới chân bàn học của tôi, cuốn tập màu vàng đang nằm lăn lóc, các trang giấy mở ngửa bay bay trong gió.

Tôi cúi xuống nhặt cuốn tập lên đặt vào góc bàn như cũ rồi khép cửa sổ lại, tắt điện và trở lên giường.

Lúc nhắm mắt lại cố thư giãn một lúc tôi lại nghe cái tiếng phạch ấy thêm một lần nữa, đoán chắc là mình nghe lầm nhưng tôi cũng tò mò ngồi dậy bật đèn xem sao. Như trêu ngươi tôi, cuốn tập ban nãy lại rớt xuống chân bàn, nằm mở ngửa.

Không nhặt lên vội, tôi đi lại gần bàn, cửa sổ vẫn đóng kín như bưng, mấy chồng sách cao cao trên bàn cũng không có dấu hiệu nghiêng đổ gì khiến tôi không sao giải thích nổi cuốn tập kia lại có thể rơi xuống được.

Lại là cuốn tập địa lý của nhỏ Diệp mà tôi đã tìm thấy hai ba ngày trước.

Thoáng nghĩ đến nhỏ, tôi như có một linh tính trong lòng. Thế là tôi đi ngay đến chỗ chân bàn, cầm cuốn tập lên, lật lật từng trang.

Những nét chữ tròn trịa quen thuộc của nhỏ hiện ra theo từng bài học. Không thấy gì lạ cả, tôi lật tới lật lui cuốn tập mấy bận, lúc định đặt xuống mới thấy loáng ,thoáng mấy dòng chữ trên một trang cuối cuốn tập:

“Dưới gốc phong già nắng đã phai, Dáng ai thờ thẫn suốt đêm dài.

Gió sương hờn tủi cùng nhan sắc, Năm tháng chôn vùi dưới lá khô.

Hỡi ai có lòng thương phận bạc, Đốt lá tưởng tình dưới gốc cây ...

Người xưa lại thấy lòng phơi phới, Thả hồn bay ... với tiếng hát cao”.

Bài thơ lạ hoắc khiến tôi không khỏi băn khoăn, nhỏ Diệp xưa nay đâu phải đứa thích sưu tầm văn chương?

Tôi đọc đi đọc lại bài thơ mấy lần vẫn không thấy được ý nghĩa gì lạ liền xé luôn trang giấy có bài thơ ấy cho vào trong ví. Sau đó tôi đi ngủ. Cuốn tập cũng thôi không rơi nữa, nằm ngay ngắn trên góc bàn.

Cuối cùng tụi tôi cũng lên đường, chỉ sau mấy tiếng ngồi xe ba cái mặt ngây ngơ đã đặt chân lên xứ đất đỏ bađan.

Bến xe tỉnh nằm xéo một bên hông thị xã trù phú, cảnh nhộn nhịp cũng không kém dưới thành thị. Theo lời chỉ dẫn của chị Thu, bọn tôi đón một chiếc xe đa-su (loại xe chạy những quãng ngắn chở các bà đi chợ và các thứ hàng hóa, rau củ từ vùng cao xuống thị xã), tôi không mấy khó khăn chìa cái địa chỉ mà chị Thu đã viết trên giấy cho người phụ lái. Anh ta gật đầu rồi thúc chúng tôi lên xe.

Đã trưa nên cũng vắng người đi chợ về, chúng tôi ngồi thoải mái, mặc sức ngó nghiêng mấy thứ rau củ chất trên nền xe ngay chính giữa và ngắm nghía cảnh vật hai bên đường. Chiếc xe rẽ vào con đường nhỏ rộng chừng một thước, rải sỏi rồi chạy chậm dần và dừng hẳn bên cạnh một cái chợ nhỏ xíu hàng quán thưa thớt, người mua người bán cũng lác đác.

Anh phụ lái nói lớn:

– Bến cuối rồi, chợ Nhạn, bà con xuống xe đi!

Chúng tôi còn hoang mang chưa biết từ chợ này về đến nhà má chị Thu còn bao xa nữa thì anh lơ xe cũng đã lên tiếng:

– Mấy đứa, nhà bà Hai Đường ngay chỗ tiệm tạp hóa quẹo vô bên tay trái đó!

Bọn tôi nhìn theo tay anh chỉ, một cái nhà bán tạp hóa có tấm bảng màu mè và các thứ hàng bày cả ra đường ngay cái ngã ba. Ba đứa mừng rơn liền cảm ơn anh lơ rồi đi thẳng một mạch.

Má chị Thu là một người phụ nữ quắc thước và trẻ trung hơn cái tuổi bảy mươi của bà rất nhiều. Bà ra đón chúng tôi trong sân hết sức niềm nở, tuy lưng đã còng nhưng trông bà vẫn còn nhanh nhạy lắm. Bà bảo chúng tôi gọi bà bằng bà ngoại rồi dẫn cả đám vào trong nhà.

– Ngoại nghe con Thu nói ba đứa con lên đây chơi mấy ngày hè phải không?

Xứ này nhiều thứ hay lắm, mấy đứa đi mỏi chân cũng chưa chơi hết được.

Bà cười móm mém vừa cho trầu vào ngoáy trong cái ống bằng đồng nhỏ.

Tụi tôi dạ ran, đứa nào cũng chắc mẩm chị Thu không cho bà cụ biết mục đích thật sự trong chuyến đi của bọn tôi. Mà có lẽ như vậy tốt hơn vì nếu biết được bà cụ sẽ thêm lo, có khi còn ngăn cản chúng tôi.

Ba đứa ríu rít phụ bà cụ nấu cơm trưa. Dường như cái cảnh quạnh quẽ thường ngày khiến bà vui hẳn lên khi có chúng tôi. Suốt bữa cơm bà chỉ toàn thúc giục:

– Lan, ăn nữa đi con. Sao con ăn toàn cơm khô mà không chan canh vậy Thảo? ...

Bà cháu chuyện trò vui vẻ suốt buổi.

Bà chợt lên tiếng:

– Ngoại nghe Thu nói con bé Diệp mới mất, nghe thương hết sức, dạo trước nó mới lên đây chơi, vậy mà ...

Tụi tôi chỉ im thin thít khi bà nhắc đến nhỏ. Không đứa nào muốn để lộ ra cuộc điều tra sắp tới với bà cụ. Xem chừng cũng không mấy dễ dàng.

Tôi liền chuyển đề tài sang những thắc mắc về cây cà phê ...

Nắng chiều như mật ong đổ quạch xuống ngọn đồi sau lưng căn nhà. Không khí vùng cao mát mẻ hẳn so với cái nắng thiêu đốt dưới phố, ba đứa bọn tôi như thấy thoải mái và phấn chấn hơn.

Bà ngoại (má chị Thu) sau khi nghe tôi bày tỏ nguyện vọng đi xem suối Cau đã tận tình chỉ thật cặn kẽ những đường dễ đi tắt lên suối, nhưng bà cũng khuyên nên để đến sáng mai hãy đi vì đi về mất nhiều tiếng đồng hồ, bây giờ cũng đã về chiều.

Không ai bảo ai tụi tôi vâng dạ mà trong lòng nao nức hết sức. Ba đứa tôi lẻn ra sau nhà, nói là đi xem cái chuồng bò và mấy cây điều nhưng thực chất là để bàn bạc những điều suy nghĩ trong lòng.

Lúc được ở một mình, nhỏ Lan thở ra một cái thật mạnh:

– Bà ngoại tốt bụng thiệt nhưng mình muốn đi ngay chiều nay!

Nhỏ Thảo phản bác ngay:

– Cứ đợi đến sáng mai. Như vậy tốt hơn, Thảo không muốn về qua rừng lúc trời tối đâu!

Tôi thì lại đang nghĩ đến chuyện khác:

– Rủi ngày mai tụi mình tìm không được người phụ nữ bán hàng rong đó thì sao?

Thảo quay sang tôi, trách:

– Phụng cứ nói chuyện xui xẻo thôi hà!

– Nhưng là chuyện có khả năng sẽ xảy ra, đúng không?

Tôi nói và đưa mắt tìm sự ủng hộ của nhỏ Lan.

Lan dịu giọng:

– Thôi không bàn lùi, tụi mình đã nói rằng nếu không tìm được manh mối gì thì coi như là một chuyến đi chơi hè. Vả lại tụi mình cũng là cố gắng hết sức mà.

Tôi bày tỏ sự lo lắng của chính mình:

– Nhưng mình đâu có biết những gì sẽ xảy tới, nếu liên quan đến ma quái thì tụi mình đâu có cách gì đối đầu được.

Hai nhỏ kia nghe đến chữ “ma” thì mặt mày cũng đổi khác.

Nhỏ Lan lên tiếng:

– Lan có mặt dây chuyền phật bà quan âm, có thể bảo vệ bọn mình.

Thảo góp ý:

– Nếu thấy có thể nguy hiểm thì tụi mình sẽ cầu cứu đến người lớn.

Tôi đồng tình theo ý kiến hai nhỏ nhưng trong bụng vẫn cứ lo lo.

Mặc dầu vậy, sáng sớm hôm sau chúng tôi vẫn lên đường như kế hoạch đã định sẵn chiều hôm trước.

Suối Cau cách nhà bốn cây số, cứ men theo con đường mòn dẫn lên ngọn đồi sau nhà rồi băng qua rừng độ năm trăm mét là tới. Chúng tôi nghe theo lời chỉ dẫn của bà ngoại.

Gọi là đi qua rừng nhưng con đường nhỏ lác đác mấy người đi hái củi, hái lá, lại rải rác có những căn nhà của người dân tộc ở hai bên đường nên cũng không mấy hoang vu, lần lần ba đứa tôi dạn dĩ lên.

Vốn là dân thành thị nên chỉ mới đi bộ lên lưng chừng đồi cả ba đều thở hồng hộc, mấy đứa bé người dân tộc thấy bộ dạng chúng tôi đều chỉ trỏ ra chiều thích thú.

Cuốc bộ một đoạn dài tới đỉnh đồi cả bọn đều ngạc nhiên trước khung cảnh một thung lũng rộng lớn phủ kín một màu xanh ngát của cây rừng. Chúng tôi như quên hẳn nhiệm vụ, đứa nào cũng ngây người ra thích thú. Lúc qua hết ngọn đồi, con đường mòn đất đỏ nhỏ dần rồi rẽ vào một trảng rừng thưa. Bấy giờ tôi đã có thể nghe thấy tiếng nước đổ ầm ầm từ xa. Không khí dưới những tán cây trong rừng mát rười rượi, nắng không lọt xuống đến đầu người. Tôi cũng không thấy bóng dáng những người hái củi hay mấy đứa trẻ con như lúc trên đồi nữa, con đường phủ kín những lá khô và mấp mô dưới mỗi bước chân.

Đến giữa trưa, ba đứa đều đã thấm mệt, âm thanh tiếng nước đổ từ con suối cũng nghe gần tai hơn, như khuyến khích chúng tôi.

– Có lẽ bọn mình đã sắp đến nơi.

Thảo nói.

– Phhhhì ... chân tui mỏi nhừ rồi nè!

Nhỏ Lan rên rỉ. Khuôn mặt lấm tấm mồ hôi của nhỏ nhìn thấy tội.

Tụi tôi đi thành một hàng dọc như lính hành quân vì con đường cứ hẹp dần, không đứa nào muốn dàn hàng ngang để dẫm vào những bụi rậm hai bên vì sợ rắn. Nhỏ Thảo đi đầu, Lan chính giữa vì là đứa nhát gan nhất, tôi đi sau cùng, mỗi đứa cách nhau ba bốn bước chân.

Tôi đang định lên tiếng chọc ghẹo cái tính tiểu thư của nhỏ Lan thì đã nghe nhỏ la lên một tiếng, ngã sóng soài ngay trước mặt tôi.

– Hu hu.

Lan vừa khóc vừa chống tay ngồi dậy, tôi và nhỏ Thảo hớt hải chạy lại gần.

Tôi hỏi ngay:

– Lan làm sao vậy?

Lan nhăn nhó:

– Hu hu, Lan vấp phải khúc cây gì to lắm, đau muốn chết luôn.

Hai đứa tôi dìu nhỏ đứng dậy, vừa nhìn xuống dưới chân chỗ ngón tay của Lan trỏ xuống:

một cái rễ cây già nua gồ lên trên mặt đất, bám đầy rêu mốc màu xanh. Bấy giờ tôi mới nhìn theo cái rễ ấy chạy dài đến một thân cây cách bọn tôi độ năm chục mét. Cái thân cây ấy to dễ đến bảy tám người lớn ôm không xuể, tán cây tỏa rộng khắp trên đầu, bên dưới thân cây ấy là những cây bụi thấp, lá khô phủ những lớp dày trên mặt đất.

Tôi trầm trồ:

– Ồ mấy bạn nhìn kìa, cái cây to quá!

Nhỏ Lan cũng quên cả đau ngẩng lên nhìn. Đúng là cả sáu con mắt của mấy đứa trẻ thành thị tụi tôi chưa bao giờ trông thấy thứ cây gì to lớn đến thế. Thân cây lại xù xì phủ đầy rêu và mọc lởm chởm những loại dương xỉ. Cái cây cao lắm, lá lẫn vào những cành lá của các loại dây leo khác.

Ba đứa nhìn mỏi mắt cũng không biết được là cây gì.

Nhỏ Lan đã bớt đau và thôi cự nự cái rễ cây. Tụi tôi đi tiếp, rẽ qua một khúc ngoặt thì đến bên bờ suối Cau.

Con suối phơi mình dưới ánh nắng ban trưa, lộng lẫy và khỏe khoắn như một con thú hoang giữa thung lũng rừng đại ngàn. Quanh suối là một bờ đất trống trải, có lẽ nhiều khách tham quan đã từng qua lại làm mòn vẹt cái mỏm đất nhô ra ngay dưới chân ngọn suối.

Một túp lều nhỏ, có lẽ là cái quán cóc dựng bằng tre và phủ vải bạt màu lính ẩn mình cạnh một bụi tre ngà.

Ba đứa tôi đều thở ra, mừng rơn trước cảnh đẹp của con suối và nhất là được nghỉ ngơi sau cả một đoạn đường dài.

Nhỏ Thảo đề nghị:

– Tụi mình vào quán kia kiếm nước gì uống đi mấy bạn!

Tuy có mang sẵn theo hai chai nước suối nhưng tôi cũng muốn ngồi xuống nghỉ chân nên bước theo hai bạn về phía quán.

Bà chủ quán đã ngoài bốn mươi thấy chúng tôi đến thì niềm nở ra chào.

– Mấy hôm nay không có khách lên suối chơi nên quán buồn thiu hà! Các cháu muốn uống gì?

Bà ta đon đả mời.

Hai nhỏ bạn gọi nước ngọt còn tôi lấy chai nước của tôi ra tu liền một hơi.

Lúc nhỏ Lan lên tiếng hỏi tôi mới đặt chai nước xuống:

– Cô ơi, chỗ gần khúc ngoặt ra suối này có một cái cây to rễ nó đâm ra đường làm bạn con té chỏng gọng luôn. Cô có biết nó là cây gì không cô?

Người phụ nữ đang lui cui sau cái kệ nhựa để đập đá bấy giờ mới ngẩng đầu lên:

– À, cây đó hả, là cây giữ rừng của người xứ này đó cháu.

Tôi hỏi:

– Cây ấy chắc nhiều tuổi rồi cô nhỉ?

– Cả trăm tuổi có ấy chớ!

Bà trả lời. Rồi vừa cẩn thận đặt cái khay nước lên bàn bà ta vừa nói:

– Cây phong đó là cây linh giữ rừng. Theo như chồng cô kể hồi ổng còn sống thì cây đó năm nay cũng được một trăm chín chục tuổi rồi. Người làng có oan khuất hay nỗi khổ gì đều lên đây xin thần cây phò hộ cho họ vượt qua. Nhưng rồi cách đây một năm có cô gái treo cổ chết trên cây ấy nên cây không còn thiêng như xưa nữa, người ta đến xin xỏ việc cũng không thành ...

Tôi hỏi lại:

– Cô ơi, cô nói cây ấy là giống cây gì hả cô?

Bà chủ quán điềm đạm:

– Cây phong cháu à!

Hai tiếng “cây phong” khiến tôi thoáng ngờ ngợ. Không rõ mình đã nghe cái tiếng đó ở đâu nhưng có lẽ là quen lắm.

Tôi chợt nghĩ đến bài thơ chép đằng sau cuốn tập của nhỏ Diệp hôm nọ nhưng cố lắm tôi cũng không nhớ ra được đầu đuôi bài thơ như thế nào và hai chữ “cây phong” được nói đến ở phần nào của bài thơ đó.

Đang chìm vào dòng suy tưởng thì nhỏ Lan lay vai tôi:

– Phụng làm gì đờ người ra vậy hả? Mệt quá hả?

Tôi đáp:

– À không, Phụng chỉ suy nghĩ chút thôi.

Nhỏ Thảo hăng hái:

– Bây giờ tụi mình đi dạo ngắm suối đi!

Nói rồi nhỏ đứng lên tiên phong đi trước.

Lan còn ôm cái chân đau nên hơi chần chừ:

– Mình nghỉ thêm một chút được không mấy bạn? Cũng trưa rồi, chân mình đang đau, bụng cũng đói nữa.

– Vậy thì Thảo đi dạo một vòng rồi quay lại tụi mình ăn trưa. Phụng có đi với Thảo không?

Nhỏ quay sang hỏi tôi. Phần vì muốn ngồi lại thêm chút nữa để hỏi chuyện cô chủ quán, phần vừa bận suy nghĩ mông lung nên tôi từ chối. Nhỏ Thảo đành đi một mình ra suối.

Bà chủ quán ngồi trên cái chõng tre đối điện với bọn tôi, phe phẩy chiếc quạt nan to đùng. Thỉnh thoảng lại chuyện trò mấy câu:

– Mấy đứa nghỉ hè lên đây chơi hả? Có bà con trên này phải không?

Tôi đáp bâng quơ:

– Dạ, dạ cũng có.

– Suối Cau là suối đẹp nhất xứ này đó, ai lên đây mà không đi chơi suối này thì có mà tiếc đến sang năm.

Bà chủ quán vừa nói vừa cười cho cách ví von của bà.

Nhân lúc chuyện trò thân thiện hơn tôi hỏi ngay:

– Cô ơi, ở suối này có người bán hàng rong nào không ạ?

Bà chủ quán cười:

– Có cháu à, mấy tháng giữa mùa hè lúc khách lên chơi suối đông thì mấy người bán cóc ổi và quà vặt lên đây nhiều lắm.

Tôi lắc đầu:

– Dạ, cháu muốn hỏi mấy người hay đi bán dạo các thứ hàng đồ trang sức, vòng đeo tay, các loại hàng lưu niệm đó ạ!

Bà chủ quán chợt hiểu ra, cười nói:

– À, mấy thứ đó thì cũng có, thỉnh thoảng họ cũng có lên đây. Nhưng mấy hôm nay không có nhiều người lên chơi suối nên sáng giờ cô chưa thấy hàng rong nào cả.

Cái ấm nước trong nhà sôi lách cách khiến bà chủ quán bỏ mặc bọn tôi chạy vội về phía ấy, lom khom chế nước vào một chiếc bình thủy cũ kỹ.

Tôi quay sang giục nhỏ Lan:

– Nè, chân hết đau chưa? Mình ra ngoài suối xem đi.

Tuy hơi nhăn nhó vì đói bụng và cái đầu gối sưng vù nhỏ Lan cũng không muốn ngồi lại một mình nên đành lẽo đẽo bước theo tôi.

Bên ngoài quán nắng chang chang nhưng cái nắng không oi bức nhờ những tán cây rừng xanh ngắt xung quanh, không gian tươi mát và sáng sủa. Dòng suối đổ ra từ chính giữa cái khe của một tảng đá lớn, róc rách vui tươi và lấp lánh những tia nước nhỏ. Nước suối trong vắt có thể nhìn thấy cả những hòn sỏi tận dưới đáy, chỗ nước chảy êm đềm nhất chỉ cao đến ngang đầu gối.

Lúc này nhỏ Thảo đã lội xuống suối, trông thấy chúng tôi từ quán đi ra, nhỏ hí hửng gọi:

– Coi nè mấy bạn ơi, suối trong và đẹp lắm!

Tôi và nhỏ Lan cũng thích thú đến bên bờ khua tay xuống đáy nước. Bấy giờ đã đúng giữa trưa, mặt trời ở ngay trên đầu ngọn cây. Con suối vắng tanh chỉ có ba đứa tôi thơ thẩn vọc nước.

Tôi muốn nhắc hai nhỏ kia phải chú ý hỏi thăm để có thể tìm được người phụ nữ bán hàng rong đó, nhưng nghĩ lại thấy quanh đây chỉ có một người để chúng tôi có thể hỏi thăm là bà chủ quán thì tụi tôi cũng đã làm rồi.

Chẳng biết thêm được gì nhiều ngoài những điều chị Thu kể lúc còn ở nhà.

Nghĩ thế tôi đành thôi, trong lòng hơi thất vọng vì đã lên suối vào một ngày vắng khách như hôm nay.

Nhỏ Lan và Thảo có vẻ vô tư lự hơn tôi, hai đứa đùa giỡn cười vang cả quãng suối không người.

– Em ơi có muốn mua gì không? Xem thử đi!

Một giọng nói dịu ngọt vang lên sau lưng khi tôi đang thơ thẩn nhìn theo hai đứa bạn đang chơi đùa ngoài suối.

Một chị mặc bộ bà ba đầu đội nón lá, tay bưng một cái nong tre nhỏ đang đứng tươi cười mời mọc.

Tôi tò mò đứng dậy.

Người phụ nữ ấy vẫn nhìn tôi vẻ dịu dàng, trên chiếc nong bày đủ thứ vòng nhẫn, lắc xâu bằng hạt cườm đủ màu sắc, có cả những chiếc lược ngà voi bóng loáng rất đẹp.

Người phụ nữ ấy thoáng trông tầm ba mươi, nước da ngăm ngăm đen và một búi tóc cao để lộ cái gáy thon thả.

Tôi mừng rơn như bắt được vàng, từ dáng mạo ấy tôi đoan chắc mình đã gặp được đúng người bán chiếc vòng cẩm thạch cho nhỏ Diệp. Theo như chị Thu mô tả thì chắc không sai, chính là người phụ nữ này.

Không kịp gọi hai bạn, tôi liền tiến nhanh về phía chị bán hàng rong. Những thứ trang sức và các đồ lưu niệm trên chiếc nong tre của người phụ nữ ấy trông thật lạ mắt với tôi, kể cả những chiếc lược ngà.

Tôi mới định hỏi ngay chị về chiếc vòng cẩm thạch thì chị đã lên tiếng trước:

– Em cứ lựa thoải mái đi, chị còn có món này đẹp hơn!

Vừa nói chị vừa cho tay vào túi áo lấy ra một gói bằng vải đã ố vàng. Vừa giở cái gói ấy ra tôi đã hoảng hồn nhìn trân trân vào một vật nhỏ nhắn và vô cùng xinh xắn:

một chiếc vòng cẩm thạch quen thuộc. Đá làm chiếc vòng đã lên nước, lấp lánh một cách thu hút đến lạ kỳ.

Tôi không nói nên lời cũng không rời mắt khỏi cái vòng. Hình ảnh cái cổ tay trắng muốt của nhỏ Diệp và ánh mắt hớn hở của nó lúc khoe bọn tôi chiếc vòng mới lại hiện về trong tâm trí tôi.

Không biết phải ứng phó thế nào, những lời trên miệng muốn hỏi chị bán hàng tôi đã nghĩ đến mấy phút trước bây giờ biến đâu mất hết. Tôi đực người ra một lúc.

Ánh nắng chiếu lên chiếc vòng phát ra những tia sáng nhỏ xanh long lanh sắc sảo như thách thức.

Chị bán hàng giục:

– Để chị đeo vào thử cho, nếu em thích thì em mua!

Tơi giật mình trước câu nói ấy bèn thụt lùi nhanh về phía sau một bước.

– Không ... à không ...

Tôi hốt hoảng.

Bấy giờ tôi mới ngước lên nhìn gương mặt của chị ta. Gương mặt ấy ram rám nắng, không có nét gì đặc biệt chỉ có ánh nhìn trông rất thu hút. Ánh nhìn ấy tôi đã từng trông thấy qua trước đây. Trong cái nhìn cuối cùng của nhỏ Diệp và nhỏ Ngọc khi cố đeo chiếc vòng vào tay một đứa khác trong nhóm tụi tôi.

Cái nhìn đó ẩn chứa một sức sống mạnh mẽ tiềm tàng, rất cuốn hút nhưng nếu nhìn kỹ hơn tôi lại bỗng thấy một nỗi sợ hãi lạ kỳ dâng lên khắp trong tâm trí.

Người phụ nữ thấy tôi lùi lại thì tỏ vẻ phật ý nhưng chị vẫn giữ một cách mời chào rất đon đả.

Hai nhỏ bạn tôi lúc ấy cũng đã nhận ra sự có mặt của người bán hàng rong.

Tụi nó chạy lại bên cạnh tôi, thêm cặp mắt ngỡ ngàng ngó trân trân cái vòng cẩm thạch.

Tôi đã lấy lại bình tĩnh liền lên tiếng:

– Chiếc vòng này rất nguy hiểm, chị không nên bán nó nữa. Bạn của em đã chết vì nó đó.

– Làm gì có chuyện đó, nếu em không muốn mua thì thôi!

Chị ta có vẻ giận dữ định quay đi.

Tôi nhìn sang hai đứa bạn, trong một tích tắc tôi liền quyết định ngay:

– Em sẽ mua, nếu chị cho em biết chị mua chiếc vòng này ở đâu?

Chị bán hàng liền tươi ngay nét mặt:

– Nó là hàng hiếm của mấy người dân tộc làm đa thủ công đem xuống bán nên chị mua bán lại kiếm lời vậy đó.

– Thôi được, vậy thì em mua.

Tôi trả lời mà trên môi cố giấu đi giọng nói run run. Trong đầu chỉ nghĩ rằng mình phải giữ chiếc vòng vì nếu không rất có thể nó sẽ rơi vào tay một người nào khác và người đó có thể gặp tai họa vì nó.

Tuy không biết chắc được rằng chiếc vòng này có cùng một mối nguy hiểm như chiếc vòng nhỏ Diệp đã mua về hay không, nhưng rõ ràng là từ cùng một người bán hàng rong và trông cũng giống y hệt như chiếc vòng trước kia, vậy thì chỉ có cách giữ lấy cái vòng này nhưng không đeo nó là có thể ngăn chặn được những tai họa nó có thể gây ra. Chỉ nghĩ như vậy nên tôi quyết định mua ngay. Tôi còn hỏi thêm:

– Vậy chị chỉ có một chiếc thôi phải không?

Chị bán hàng rong gật đầu:

– Ừ, chỉ còn một chiếc thôi. Mỏ đá đã đóng cửa lâu rồi nên mấy người dân tộc cũng không làm ra được thứ đẹp đẽ này nữa. Để chị đeo vào cho em luôn.

Tôi thở phào vì ít ra cũng biết được rằng trên đời này không còn sản xuất ra thứ trang sức chết người này nữa.

Sau khi nằng nặc từ chối lấy lý do mua chiếc vòng làm quà tặng cho người chị gái nên tôi không muốn đeo vào tay mình. Chị bán hàng cầm tiền rồi mời mọc bọn tôi thêm mấy thứ.

Nhỏ Lan và nhỏ Thảo chỉ im thin thít nhìn tôi, tôi biết tụi nó đang có vô vàn câu hỏi.

Tôi cố hỏi chị bán hàng thêm về người dân tộc mà chị đã mua chiếc vòng thì chỉ được trả lời một cách vô cùng mơ hồ, vả lại chị cũng nói đã mấy năm nay người ta không làm ra nó nữa nên tụi tôi cũng chẳng có cách gì để tìm ra đến ngọn ngành.

Cuối cùng thấy bọn tôi có vẻ chẳng muốn mua gì thêm, chị ta bưng thúng quay đi vừa bảo:

– Chị đi xuống đồi mua bắp ăn, trưa rồi mà không có khách lên chơi suối.

Không bán buôn được gì hết.

Ba đứa đứng nhìn theo đến lúc cái bóng chị ta khuất hẳn sau đám cây rừng.

Hai nhỏ kia liền chụm đầu vào cái gói nhỏ trong tay tôi.

Thảo kêu lên:

– Trời ơi, bà khùng hả, sao bà lại mua cái vòng đó?

Lan nói theo:

– Nó giống y chang cái vòng của nhỏ Diệp!

Tôi nhẹ nhàng nói:

– Phụng nghĩ rằng nếu mua nó thì sẽ tránh cho những người khác khỏi tai họa nếu như họ vô tình mua rồi đeo vào.

Lan lo lắng:

– Nhưng nếu vậy chẳng phải tụi mình đang giữ lại cái nguy hiểm sao?

Tôi quả quyết:

– Cũng chưa chắc gì cái vòng này có những tác dụng như chiếc vòng của nhỏ Diệp lúc trước. Thêm nữa, Phụng nghĩ nếu mình không đeo nó vào tay thì cũng chẳng sao.

Hai đứa bạn nhìn tôi nghi ngại rồi cả ba chúng tôi cùng giở mảnh vải ra xem lại cái vòng.

Tôi đưa một ngón tay chạm nhẹ vào cái vòng chợt cảm thấy một luồng hơi lành lạnh xuyên qua đầu ngón tay và một cảm xúc là lạ thoảng qua. Tôi liền rụt tay lại ngay.

Nhỏ Thảo xuýt xoa:

– Cái vòng đẹp thật! Ước gì Thảo được đeo nó vào!

Tôi giằng lại:

– Nhất định tụi mình không ai được đeo nó, Phụng đã cảm thấy nó rất khác lạ.

Thảo hỏi lại tôi vẻ khao khát:

– Bằng cách nào mà Phụng cảm thấy được? Có thể nó vô hại thì sao?

Tôi trả lời:

– Có lẽ là bằng linh tính Thảo à. Cùng một thứ linh tính như khi mình ngăn cản nhỏ Ngọc đeo nó cho Lan trước khi chết.

Thảo thôi không hỏi tôi nữa, nhỏ chỉ nhìn chiếc vòng bằng một vẻ luyến tiếc.

Lan thở dài:

– Vậy tụi mình sẽ làm gì với cái vòng này? Tới đây không còn một manh mối nào nữa rồi. Có lẽ mình không thể nào tìm được làm sao cái vòng này có thể hại chết người rồi.

Tôi gói chiếc chiếc vòng lại, buồn buồn:

– Phụng cũng không biết nên phá hủy nó hay chôn nó, hay nên tiếp tục làm gì. Hay là mình cứ giữ đó vài ngày xem có thêm được thông tin gì không hoặc có thể hỏi thăm ai đó được gì không đã. Rồi sẽ xem có thể làm gì tiếp.

Thảo tán thành theo tôi:

– Cứ theo lời Phụng đi! Chắc cũng không nguy hiểm gì.

– Tất cả những chuyện này thật là khó hiểu.

Nhỏ Lan lầm bầm.

Ba đứa tôi trở vô trong quán định mua chút đồ ăn vì đã hơn một giờ chiều và đứa nào cũng thấy bụng dạ cồn cào.

Tôi cẩn thận gói cái vòng tay vào lớp vải trắng rối nhẹ nhàng cho vào một ngăn nhỏ trong chiếc túi xách mang bên mình.

Thấy bọn tôi tỏ vẻ bí mật, vừa ăn vừa xầm xì trò chuyện bà chủ quán chỉ im lặng quan sát từ xa một lúc rồi mới lên tiếng:

– Mấy đứa ăn có vừa miệng không?

– Dạ, hủ tiếu nấu ngon lắm cô ạ!

Tôi lớn tiếng lấp liếm.

– Mình có nên hỏi người chủ quán về chị bán hàng rong đó không?

Lan nhỏ nhẻ.

– Hay là cho cô ấy xem chiếc vòng, biết đâu mình lại tìm ra thêm manh mối gì.

Nhỏ Thảo cũng hưởng ứng.

Tôi thận trọng:

– Phụng chưa muốn cho người ngoài nào nhìn cái vòng ấy cả. Nhưng mình có thể hỏi thăm chút đỉnh.

Vừa ăn xong nhỏ Lan đã mở lời trước:

– Cô ơi hồi nãy tụi con có mua mấy món đồ của một chị bán hàng rong. Cô có biết chị ấy không?

Bà chủ quán tươi cười:

– Hàng rong thì nhiều lắm, lúc người này khi người khác cô không chắc nhớ hết được?

Lan nói tiếp:

– Là một chị, người thon thả, da ngăm đen, có mái tóc bới rất cao cô à!

Người chủ quán yên lặng một giây rồi hỏi lại:

– Mà sao cháu lại hỏi về chị bán hàng rong đó?

Trên khuôn mặt bà thoáng một nét ngạc nhiên.

Tôi nhanh trí:

– Dạ không có gì, chỉ là cháu muốn đổi lại một món đã mua.

Bà chủ quán hỏi lại:

– Chị ta mặc bộ bà ba màu đen phải không?

Tôi gật:

– Dạ, đúng rồi đó cô!

Bà chủ quán tất tả đi nhanh vào trong nhà bỏ lại nhỏ Lan ngơ ngác với cái mồm há hốc. Nhỏ không hiểu tại sao bà chủ quán lại đứng lên mà đi nhanh như vậy trong khi sắp trả lời câu hỏi của tụi nó, và xem ra bà ta cũng có quen biết chị bán hàng rong ấy.

Nhỏ Lan chưa kịp bày tỏ nỗi thắc mắc bằng lời với chúng tôi thì bà chủ quán đã quay trở lại. Nét mặt bà không còn vẻ đôn hậu và mến khách mà chỉ lộ rõ một nỗi căng thẳng khác lạ. Bà đi đến cạnh bàn của tụi tôi và nhẹ nhàng đặt lên bàn một cuốn báo trông cũ kỹ ố vàng, trang đầu tiên có dính lọ và một góc đã rách nham nhở.

– Có phải mấy đứa hỏi chị này phải không?

Ba cặp mắt chúng tôi nhìn sững sờ vào tờ báo, tuy đã nhòa đi vì thấm nước nhưng những chữ và hình ảnh trên mặt báo vẫn còn nhìn thấy khá rõ. Đó là tấm ảnh một cô gái treo mình trên một cành cây, tay chân và thân thể treo giữa không trung. Một mái tóc búi cao và bộ bà ba đen quen thuộc. Tấm ảnh có lẽ chụp từ người đứng cách nạn nhân khoảng hai mét nên khuôn mặt cô không trông thấy rõ. Tôi nhìn thấy cái tựa trên đầu cột báo:

“Vụ tự sát thương tâm trong rừng”.

Ba đứa tôi chăm chú đọc lướt qua bài báo, trong bài báo có nói rõ ngày tháng xảy ra vụ việc và những nguyên nhân mà cảnh sát đã điều tra được là do thất tình mà cô gái đã quyên sinh.

Trong lúc chúng tôi còn bàng hoàng chưa biết nên xác nhận ra sao về người con gái trong bức ảnh thì nhỏ Thảo đã lên tiếng một cách ngây ngô:

– Chị bán hàng hồi trưa nhìn giống người này y chang. Họ là chị em hả cô?

Bà chủ quán im lặng không nói một lời, chỉ nhẹ nhàng ngồi xuống cái chõng trước mặt tụi tôi. Trông bà có vẻ bần thần lắm. Tôi chợt nhớ đến chuyện cô gái đã tự vẫn dưới gốc cây linh trong rừng mà bà có nhắc đến lúc tụi tôi hỏi về cây phong lúc sáng.

Tôi lại nhìn vào tờ báo. Đúng là cái cây đó, to cao, đồ sộ. Chỉ khác là quanh thân cây có nhiều thứ nhang đèn linh tinh. Một nỗi nghi hoặc mơ hồ dấy lên trong lòng tôi và dường như càng lúc càng thêm rõ ràng, rành mạch, chỉ có điều tôi không dám mở miệng nói ra thành lời.

Tôi đọc lại một lượt nữa bài báo và nhìn thật kỹ tấm ảnh người con gái treo mình dưới cái gốc cây phong. Lại nhìn sang chỗ bà chủ quán ngồi. Bà ta trông cứng đờ như bị một sự sợ hãi đè nén bấy giờ cũng đã định thần lại được đang uống một cốc nước.

Nhỏ Lan và nhỏ Thảo vẫn lặng yên thin thít chăm chú đọc bài báo ấy. Tôi kín đáo quan sát bà chủ quán trong giây lát, lúc bà đã đặt ly nước xuống bàn tôi mới hỏi một cách rào đón:

– Cô ơi trong này nói người phụ nữ này đã tự tử một năm trước đây, vậy chị ấy có quan hệ gì với người bán hàng rong mà tụi cháu đã gặp hả cô?

Bà chủ quán trả lời nhưng ánh mắt lại nhìn đâu đâu không hướng về phía tôi:

– Đúng là cô ta đã chết cách đây một năm cháu à!

Tôi yên lặng chờ đợi. Một giây phút trôi qua dài bất tận.

Bà chủ quán nhìn lướt qua ba đứa chúng tôi rồi nói:

– Nếu cô nói ra chuyện này các cháu đừng cho là cô có ý hù dọa các cháu đấy! Cô cũng không lẩn thẩn đâu ... Nếu cô không lầm thì người bán hàng rong các thứ đồ trang sức mà các cháu đã gặp chính là cô gái trong ảnh này.

Tôi không ngạc nhiên lắm trước câu trả lời của bà chủ quán, dường như những linh tính trong lòng lúc nhìn thấy tờ báo và cây phong cổ thụ trong ảnh đã dẫn tôi đến việc phỏng đoán hệt như những điều bà chủ quán vừa khẳng định lại. Tôi nghe lành lạnh trước ngực, một cảm giác khó chịu đè nén trong lòng mà tôi không rõ có thể gọi là cảm giác gì.

Hai nhỏ bạn tôi dường như cũng đã ngộ ra cái ý nghĩa trong lời nói của bà chủ quán. Tụi nó ngẩn người ra chờ đợi.

– Hay nói đúng hơn, cháu đã thấy hồn ma của cô ấy!

Lan và Thảo nhìn sang tôi, tụi nó có lẽ đang nghi hoặc những gì bà chủ quán đang nói.

Bà tiếp lời, như để lý giải thêm:

– Cô nói như vậy là vì bản thân cô cũng đã nhìn thấy “nó” rồi! Nhưng nơi này chỉ có một mình cô sinh sống, cô kể chuyện này ra chỉ để người khác cười nhạo cho rằng cô là đàn bà yếu bóng vía.

– Cháu tin cô!

Tôi nhìn thẳng vào ánh mắt đang lảng tránh sang một nơi khác của bà. Sau một hồi thuyết phục và cũng để người phụ nữ cảm thấy thoải mái hơn khi kể những chuyện khó tin mà chính mắt bà nhìn thấy và những điều bà biết được, tôi yên lặng chờ đợi.

Cuối cùng bà chủ quán cũng lên tiếng:

– “Mấy đứa muốn biết thì ta sẽ kể cho, nhưng chuyện này các cháu không nên kể lung tung.

Cách đây mấy năm, người con gái đó bắt đầu một thúng hàng rong ở xứ này.

Cô ấy là người dưới thị xã lên đây buôn bán lặt vặt kiếm sống, cô ta cũng khá lương thiện nếu như theo cô nghĩ thì là vậy. Cô ấy rất thường xuyên ghé qua quán này để nghỉ trưa hay trò chuyện với cô những khi vắng khách.

Thế rồi một ngày kia cô ấy đến đây, khoe rằng mình vừa có được một phương thức kỳ diệu để trẻ đẹp ra. Đó chính là một chiếc vòng đeo tay bằng cẩm thạch rất tao nhã.”.

Nghe đến chiếc vòng, ba đứa tôi nhìn nhau.

Bà chủ quán lại tiếp:

– “Cô lấy làm lạ mới hỏi cô ấy làm thế nào chiếc vòng đó có thể làm người ta trẻ đẹp được. Thì cô ấy chỉ nói rằng chiếc vòng là do một ông thầy bói rất cao tay đã tặng cho cô khi cô tìm đến cầu xin chuyện tình duyên.

Thế rồi mấy ngày sau đó, cô bị đánh thức lúc hừng sáng bởi một toán người đi lấy củi trong rừng. Họ gọi cửa và bảo cô rằng có người treo cổ tự vẫn trên nhánh cây phong:

Đến lúc họ hạ cái xác xuống cô mới thấy đúng là cô ấy. Cô ấy chết mà trên tay còn đeo y nguyên chiếc vòng hôm nọ. Chuyện ấy xảy ra đúng một năm trước.

Sau đó độ mười ngày, cô đi xuống thị xã về muộn, độ năm sáu giờ chiều gì đấy, lúc ngang qua cây phong có nghe tiếng người khóc ri rỉ. Tuy lấy làm lạ nhưng vì sợ hãi cô chỉ cầm đèn đi thẳng một mạch về nhà.

Sáng hôm sau lúc giặt đồ bên bờ suối cô đã phát hoảng khi thấy một người bán hàng rong cũng với bộ dạng hệt như cô ấy đang đi bộ dọc theo con suối. Cô đuổi theo nhưng người ấy đi nhanh rồi mất hút luôn trong rừng.

Từ đó nhiều lần cô nghe tiếng khóc bên cửa sổ nhà mình lúc nửa đêm nhưng cô không bao giờ ra xem vì sợ những chuyện chẳng lành. Rồi cô quyết định lên chùa xin các thứ bùa phép về dán quanh nhà và cả trên mấy tảng đá với những gốc cây bên bờ suối. Từ đó về sau thì không thấy cô gái đó xuất hiện thêm một lần nào nữa. Chính vì vậy khi nghe các cháu kể hôm nay, cô đã có chút hoảng sợ.”.

Bà chủ quán đã kết thúc lời kể từ lâu nhưng ba đứa tôi vẫn chưa hết ngạc nhiên. Nhỏ Lan và Thảo bạn tôi lúc này mặt mày đã lộ vẻ sợ hãi và lo ngại.

Trong đầu tôi chờn vờn hình ảnh cây phong và sực nhớ đến bài thơ nọ.

Tôi run run hỏi:

– Vậy cô có biết người thầy bói đã tặng chị ấy chiếc vòng là ai không ạ?

Bà chủ quán trả lời, tỏ vẻ hơi ngạc nhiên:

– Một ông thầy nào đó trên núi Sảnh, hình như tên là thầy Khả ... Mà tại sao mấy đứa lại hỏi về những chuyện này? Nó thật làm cô bối rối ...

Tôi thấy hai đứa bạn đưa mắt nhìn tôi như muốn bảo tôi cho bà chủ quán xem và hỏi chuyện về chiếc vòng. Nhưng không hiểu sao tôi chẳng muốn nói rõ ngọn ngành. Trong lòng chỉ nghĩ đến việc làm sáng tỏ nguyên nhân cái chết của hai nhỏ bạn và nguyên cớ từ chiếc vòng. Trước khi mọi thứ được giải tỏa thì tôi sẽ không để một ai chạm vào cái vòng ấy.

Tôi cố lảng đi:

– Cháu chỉ tò mò thôi cô ạ!

Buổi chiều, bóng mát trải khắp con suối. Rải rác vài ba người lên chơi suối.

Lúc đã trên đường về nhỏ Lan thầm trách tôi tại sao không hỏi chuyện bà chủ quán về chiếc vòng nhưng tôi chỉ yên lặng không trả lời. Trong đầu đang trù tính những kế hoạch khác thiết thực hơn.

Lúc ngang qua chỗ rẽ vào rừng, tôi ngước nhìn cây phong một lần nữa.

Trong lòng cảm thấy một nỗi rờn rợn. Tán lá cây tỏa rộng trên tầng cao, ánh nắng chiều héo hắt xuyên qua những kẽ lá hình bàn tay.

Thảo chợt lên tiếng:

– Chắc chắn là người con gái đó đã chết vì chiếc vòng.

Tôi đáp lửng:

– Có thể!

– Nhưng tụi mình phải tìm hiểu lý do và phương thức giết người của nó!

Tôi khẳng định.

Suốt dọc đường về, mặc cho hai đứa kia bàn tán sôi nổi về đủ thứ chuyện, trong đầu tôi chỉ có hình ảnh chiếc vòng và những câu thơ. Cả bọn về đến nhà lúc nào tôi cũng không hay. Lúc vào đến sân vấp phải cái góc bao bố trải nền gạch phơi cà phê tôi mới nhận ra.

– Nhỏ Phụng cứ làm như người mất hồn!

Lan nhìn sang tôi.

Tôi nhếch môi gượng cười:

– Phụng chỉ suy nghĩ thôi. Phụng sẽ cho hai bạn xem cái này, một thứ mà Phụng tình cờ có được.

Sau bữa cơm chiều đơn sơ, chờ cho bà ngoại ra ngồi ngoài chiếc ghế đẩu trước hiên thong thả nhai trầu tôi mới túm tụm với hai nhỏ bạn.

Cái ví tiền cất kỹ dưới đáy balô của tôi được lấy ra. Lúc tôi mở ví định lấy tấm giấy có bài thơ cho hai nhỏ xem thì Lan tỏ vẻ tò mò, nhỏ chọc:

– Bà định lấy tiền ra cho tui hả?

– Không phải chớ?

Thảo cũng hùa theo.

Cuối cùng mảnh giấy cũng nằm ngay ngắn trên mặt bàn. Lan và Thảo cúi đầu nhìn chăm chú đoạn thơ chép bằng mực tím ngắt.

Nhỏ Lan thắc mắc:

– Chữ trong này giống nét chữ nhỏ Diệp y chang.

Tôi gật đầu xác nhận:

– Ừ, Phụng từng thấy đoạn thơ này ở trang cuối trong cuốn tập Địa lý cũ của nhỏ Diệp mà. Chắc chắn là chữ của nhỏ rồi.

Thảo nói thêm:

– Bài thơ lạ hoắc à, làm gì có trong chương trình học của tụi mình.

Nhỏ Lan cau mày ra chiều suy nghĩ:

– Mà nó lại nói đến “cây phong” nữa. Liệu có liên quan gì chăng?

– Phụng nghĩ nó hẳn là có liên quan đó.

Rồi tôi kể lại cái đêm cuốn tập rơi xuống sàn hai lần và cái tình cảnh tôi đã tìm thấy bài thơ.

Sự lo sợ lại hiện lên trong đôi mắt hai nhỏ bạn tôi.

Lan nghi hoặc:

– Lẽ nào nhỏ Diệp muốn cho tụi mình một manh mối.

Thảo than:

– Manh mối gì mà mơ hồ hết sức à!

Tôi nói:

– Ít ra cũng cho thấy một mối liên hệ nào đó trong những chuyện này.

Người con gái bán hàng rong, chiếc vòng, cây phong, cái chết của hai nhỏ bạn tôi, người thầy bói tên Khả ... Tất cả như những mảnh ghép hình gần như đủ bộ.

Tôi quả quyết:

– Ngày mai tụi mình sẽ đi lên núi Sảnh.

Thảo hỏi tôi:

– Phụng tính đi gặp ông thầy bói đó hả?

Lan nói:

– Rõ ràng quá còn gì, ông thầy đó chắc chắn biết rõ về cái vòng.

Thảo phân tích thêm:

– Nhưng chắc gì ổng chịu tiết lộ mọi chuyện cho tụi mình. Mà nếu ổng đã cho người khác đeo chiếc vòng chết người thì cũng có thể ổng đã chủ ý làm điều ác.

Tôi trấn an nhỏ bạn:

– Tụi mình chỉ cần phải thật cẩn thận thôi. Ngoài ra không thử thì sẽ không biết được đâu.

Thế là như đã bàn trước. Tụi tôi lại hỏi thăm bà ngoại (mẹ chị Thu) đường lên núi và cả tung tích ông thầy Khả.

Bà ngoại lấy làm lạ nhưng cũng chỉ bảo hết cho ba đứa. Bà có ý dò hỏi xem tụi tôi đang tìm hiểu những chuyện gì nhưng tôi chỉ lấy cớ rằng cả bọn muốn lên núi xem bói vì nghe nói ông thầy xem bói rất đúng.

Hôm sau chúng tôi lại lên đường. Đường lên núi Sảnh gần hơn suối Cau nhưng ngọn đồi dựng đứng khiến ba đứa thở hổn hển.

Chúng tôi hỏi thăm lòng vòng thêm hai ba lượt cuối cùng cũng đến được tận nơi. Nhà ông thầy bói ở ngay dưới chân đồi, trông cũng bình thường như những ngôi nhà nhỏ của những cư dân sống rải rác quanh vùng.

Hai nhỏ bạn tôi còn chần chừ ngoài ngõ chưa muốn vào, tôi phần thì không biết nên đi một mình hay nên đợi hai nhỏ kia cùng vào nên cũng đứng luôn ngoài ngõ.

Chợt nhận ra có một người đang đi bộ qua sân về phía mấy đứa tôi. Đó là một người đàn ông tầm bốn mươi tuổi, ăn mặc giản dị, đầu tóc gọn gàng.

Người ấy hỏi, giọng như quát:

– Mấy đứa tìm ai?

Tôi cố bình tĩnh:

– Dạ cháu tìm nhà thầy bói Khả!

Người đàn ông rít qua kẽ răng:

– Con nít chưa tới tuổi xem bói, đi về đi.

Cách nói chuyện thô lỗ của ông ta khiến cả ba đứa đứng lặng thinh.

Tôi nói với theo sau lưng ông:

– Tụi cháu không xem bói mà muốn hỏi thăm chuyện hệ trọng.

Ông khựng lại một lúc rồi quắc mắc:

– Chuyện gì hệ trọng chớ?

– Về chiếc vòng cẩm thạch!

Tôi nói lớn, giọng rành rọt.

Ba cái tiếng “vòng cẩm thạch” dường như có một tác động lớn đến người đàn ông.

Ông ta quay lại nhìn ba đứa khắp một lượt rồi mới ra hiệu cho bọn tôi đi theo vào trong nhà.

Tôi bước theo trước, hai nhỏ kia líu ríu theo sau, dè dặt hết sức.

Tôi đánh bạo:

– Vậy tụi cháu có thể xin gặp thầy Khả được không?

– Chính là tôi!

Ông ta điềm đạm trả lời.

Ngoài sức tưởng tượng của ba đứa, người đàn ông trông trẻ trung hơn và không giống hình ảnh của một ông thầy bói nhà nghề chút nào.

Ông ta nói thêm:

– Nhưng tôi đã giải nghệ một năm trước rồi. Bây giờ không làm nữa.

Tôi bắt đầu kể chuyện chiếc vòng cẩm thạch, bắt đầu từ cái chết của hai nhỏ bạn rồi đến những việc mới xảy ra gần đây. Ông ta lắng nghe một cách chăm chú, đôi mắt đầy vẻ ưu hoài.

Sau khi tôi kết thúc câu chuyện thì khuôn mặt ông cũng thay đổi hẳn. Ông đưa hai bàn tay lên, ôm trán, những nếp nhăn xuất hiện một cách rõ rệt hằn sâu trên trán. Ông ta nhìn đăm chiêu vào một khoảng không bất định rồi như bị một thứ gì đó chặn lại nơi cổ họng. Ông ta lắp bắp mấy tiếng không thành lời sau đó vớ lấy tách trà, uống một hơi.

Tôi bình tĩnh hỏi:

– Cháu muốn hỏi là hỏi bác biết những gì về chiếc vòng đó?

– Ta thật không ngờ tai hại của nó lại kinh khủng đến thế!

Ông ta ôm lấy mặt. Hai tròng mắt như muốn nở ra.

Tôi khẩn thiết:

– Vậy bác hãy cho cháu biết đầu đuôi những chuyện mà bác biết, cháu nghĩ chỉ có như vậy mới có thể tránh khỏi những tai họa này.

Người đàn ông có vẻ đau khổ lắm, ông ta vò đầu bứt tai mấy bận, cuối cùng mới nói được nên lời:

– Chuyện này không còn có thể cứu vãn được nữa. Cha ta là một thầy bói nổi tiếng xứ này, sau khi em gái ta qua đời vì một cơn bạo bệnh ông đã tạo ra chiếc vòng từ những phần thân thể nó ...

Nói tới đây ông như nghẹn lời.

– “Sau khi cha ta chết, ông muốn ta nối dõi cái nghiệp thầy bói nhưng ta hoàn toàn không có một chút năng lực nào, chỉ kiếm ăn được nhờ danh tiếng còn lại của ông. Đến một ngày nọ, ta tình cờ tìm thấy chiếc vòng tay và phát hiện ra sức mạnh của nó. Nó giúp ta thấy được những linh hồn và cũng từ đó kiếm chác được nhiều từ việc bói toán.

Thế nhưng càng gần nó ta càng kinh sợ sức mạnh ẩn chứa bên trong. Cuối cùng khi người phụ nữ ấy tìm đến ta để cầu xin cho tình duyên suôn sẽ hơn, bỗng dưng ta nhìn thấy linh hồn trong chiếc vòng hiện hữu và bảo ta nếu đeo chiếc vòng cho cô gái đó thì khả năng tâm linh của ta sẽ tăng lên bội phần. Tuy khiếp sợ và lo ngại những điều không hay có thể xảy ra với người con gái ấy nhưng vì cái tham vọng có được quyền phép của một thầy bói danh tiếng ta đã đeo chiếc vòng cho cô gái.

Thế là chỉ một thời gian ngắn ta nhận được tin cô gái mang bạo bệnh, lúc tìm đến nơi ta đã thấy rõ chính chiếc vòng đã hút kiệt hết tất cả sinh khí trong người ấy. Tuy rất sợ mất những quyền năng kỳ lạ đang có nhưng vì lòng trắc ẩn nên ta đã dùng phép cố chế ngự cái vòng và phá hủy nó.

Nhưng thật không ngờ sức mạnh của nó vượt lên trên tất cả những gì ta có thể lường trước được. Vài ngày sau khi bình phục, người ta thấy cô gái treo cổ chết trên nhánh cây phong trong rừng.

Từ đó trở đi, quyền phép của ta cũng mất hết. Ta tự trách bản thân mình đã để cho linh hồn ác của chiếc vòng hoành hành hại chết một mạng người nên cũng đã bó hẳn nghề xem bói.”.

Ông nói rồi gục mặt vào hai lòng bàn tay.

Tôi hỏi, giọng còn run run:

– Theo như bác nói thì chính bác đã chế ngự chiếc vòng rồi mà?

Ông đau đớn lắc đầu:

– Nó là một chiếc vòng bất tử. Dù có phá hủy một trăm lần cũng không sao xóa sổ nó trên đời này được.

Tôi và hai nhỏ bạn ngồi sát vào nhau, nín thở.

Lan có phần dạn dĩ hơn:

– Bác nói vậy nghĩa là không có cách chi ngăn cản những tai họa do nó gây ra?

– Ta e là như vậy!

Người đàn ông thở dài nói tiếp:

– Ta nghĩ cha ta đã chế ra nó từ đôi mắt và linh hồn đứa em gái tám tuổi của ta sau khi nó mất. Và dựa vào những gì các cháu kể thì ta nghĩ rằng linh hồn của chiếc vòng sống được là nhờ vào một vật chủ, hay một người đầy tớ của nó. Có lẽ chỉ cần giữ cho chiếc vòng không phải đeo vào tay bất cứ người con gái nào là xem như có thể tránh được tai họa rồi.

– Nhưng chiếc vòng là thứ bất tử ...

Tôi nói vừa nhắc lại việc mình đã gặp hồn ma của cô gái đi bán dạo chiếc vòng.

Người đàn ông giật mình:

– Suýt nữa ta quên mất, vậy ra chính linh hồn cô gái đã chết một năm trước đã trở thành nô lệ của linh hồn trong chiếc vòng. Ta đã không ngờ được những chuyện này. Năm xưa sau cái chết của cô gái và chiếc vòng bị chế ngự ta đã cho rằng mọi chuyện đã chấm dứt hẳn rồi ... Chỉ có cách ...

Thảo run rẩy tiếp lời:

– Chỉ có cách làm sao giải trừ được linh hồn của cô gái nọ khỏi làm tay sai cho chiếc vòng nữa?

Nhưng bằng cách nào đây, cả bốn cái đầu cùng im lặng suy nghĩ.

Thầy Khả lên tiếng:

– Ta sẽ thử gọi hồn cô gái bán hàng rong đã mất cách đây một năm. Nhưng ...

ta đã không còn một chút năng lực nào để thực hiện những chuyện này.

Trong đầu tôi lóe lên một suy nghĩ:

– Linh hồn của cô ấy vẫn còn vương vấn ở gần con suối và cây phong, có thể nếu chúng ta đến đó khấn vái thì có cơ may gọi được hồn cô ấy lên.

Ông thầy bói trẻ tuổi rầu rĩ:

– Cũng có thể được, nhưng sau khi gọi hồn người chết lên rồi ta không có đủ pháp lực để giải trừ nó khỏi làm nô lệ cho linh hồn trong chiếc vòng nữa!

Tôi nhìn hai nhỏ bạn cầu cứu.

Bất ngờ Lan có ý kiến:

– Bài thơ của nhỏ Diệp, có thể nó giúp ích được gì chăng?

Tôi lật đật lấy trong ví ra tờ giấy xé lam nham đoạn thơ nọ, ông thầy Khả lầm bầm đọc:

“Dưới gốc phong già nắng đã phai, Dáng ai thờ thẫn suốt đêm dài ...”.

Ông ta bỗng im lặng chỉ nhìn bằng mắt rất chăm chú lên tờ giấy rồi thốt lên:

– Đây là một bài thơ chiêu hồn thiện! Mấy đứa tìm ở đâu ra vậy?

Tôi lại phải tường thuật một lần nữa đầu đuôi chuyện tìm thấy bài thơ trong cuốn tập.

– Nhưng bác nói “chiêu hồn thiện” là sao? Tụi con không hiểu?

Thầy Khả trả lời:

– Có nghĩa là nó được dùng để gọi lên phần thiện, phần căn bản của một linh hồn. Nếu như người chết đó đã bị sai khiến bởi những thế lực xấu xa khác thì ta vẫn có thể gọi lên phần thiện của họ được!

– Mà làm sao bác lại biết nó là bài thơ gọi hồn?

Hai chữ “gọi hồn” trong giọng nói của nhỏ Thảo nghe như hai tiếng lí nhí pha lẫn sợ hãi.

Người đàn ông ngước đôi mắt đỏ ngầu nhìn chúng tôi:

– Dĩ nhiên là ta biết, vì bài chiêu hồn này do chính cha ta viết để gọi lên những linh hồn quanh gốc cây linh. Vừa rồi ta lại không thể nhớ ra được đoạn thơ cụ thể thế nào, trước lúc mất ông đã không kịp truyền lại cho ta. Thật là may khi cháu có nó.

– Ý bác là cây phong trong rừng?

Tôi hỏi lại.

Ông thầy bói lặng lẽ gật đầu.

Đoạn ông đứng dậy, cầm lấy mảnh giấy có đoạn thơ:

– Việc này không thể chần chừ được. Nhưng mấy đứa phải trở về nhà vì chuyện chiêu hồn này rất nguy hiểm, các cháu không được đi theo.

Tuy có phần lo sợ nhưng cả ba đứa tôi không ai muốn về nhà. Lòng hiếu kỳ là một chuyện, phần còn lại vì đã cất công lên tận nơi, lại tốn bao nhiêu thời gian mới tìm ra được những manh mối xung quanh sự việc, nếu không được trực tiếp tận mắt theo dõi những gì tiếp theo thì thật là bứt rứt.

Tôi và hai nhỏ bạn phải thành tâm năn nỉ cả buổi, ông thầy bói mới xiêu xiêu. Nhưng ông cũng dặn đi dặn lại cả ba đứa phải tuyệt đối nghe theo những điều ông bảo. Tụi tôi vâng dạ ngay. Thế là cả bốn người cùng quay ngược trở lại con đường lên suối Cau.

Cây phong vĩ đại vẫn đứng đó, vững chãi và bề thế, những chiếc rễ to tướng trồi lên trên mặt đất như những con rắn to đầy thách thức.

Thầy Khả vẽ một vòng tròn lớn quanh gốc cây rồi bảo tôi đưa cho ông chiếc vòng cẩm thạch. Ông đặt miếng vải trên là chiếc vòng một cách nhẹ nhàng dưới gốc cây, rồi dặn kỹ chúng tôi không được bước vào bên trong cái vòng mà ông vừa vẽ trên mặt đất. Ông còn bắt cả ba đứa phải tuyệt đối im lặng trong lúc ông tiến hành mọi chuyện.

Cuối cùng thầy Khả lấy trong túi áo ra một sợi dây tòng teng vật gì đen và nhọn trông như một thứ móng vuốt của con thú to lớn nào đó, ông bảo:

– Cái nanh lợn lòi này là vật có thể chống được tà ma. Ba đứa phải cùng nắm tay vào sợi dây chuyền này, đề phòng trường hợp linh hồn ta gọi lên không thể khống chế được thì cũng không làm hại được mấy đứa.

Nhỏ Thảo thắc mắc:

– Nhưng bác đã nói bài thơ này chỉ gọi lên hồn thiện thôi mà?

Người đàn ông nghiêm mặt:

– Chỉ là phòng hờ thôi, nhưng không được cãi lời ta dặn đấy.

Cả bọn im lặng đặt tay lên sợi dây chuyền và đứng lùi xa khỏi gốc cây phong.

Thầy Khả từ tốn cúi xuống, nhẹ nhàng vơ một nắm lá phong khô dưới chân rồi ông đứng thẳng người lên, một tay cầm nắm lá, một tay đánh diêm lấy một mồi lửa. Đám lá khô cháy rào rạo trên tay ông. Một làn khói mỏng tỏa ra quanh gốc cây, phủ mờ khắp không gian.

Ông lẩm bẩm:

“Vong hồn thiện nữ Nguyễn Thị Lâm Mất ngày ...”.

Không gian xung quanh tĩnh mịch lạ thường, chỉ nghe thấy tiếng gió luồn qua những thân cây. Khoảnh rừng như lặng thinh khiến những tiếng lầm bầm khấn vái của thầy Khả nghe rõ mồn một bên tai.

Đoạn ông cất lớn lên một giọng nửa như ngâm, nửa như hát, cái giọng nghe ai oán, não nùng giữa cái vắng vẻ của rừng.

Ông hát những lời trong bài thơ chiêu hồn:

“Dưới gốc phong già nắng đã phai, Dáng ai thờ thẫn suốt đêm dài.

Gió sương hờn tủi cùng nhan sắc, Năm tháng chôn vùi dưới lá khô.

Hỡi ai có lòng thương phận bạc, Đốt lá tưởng tình dưới gốc cây.

Người xưa lại thấy lòng phơi phới, Thả hồn bay với tiếng hát cao.”.

Lúc ông đứt giọng ngâm, nắm lá phong vẫn cháy rừng rực nhưng xung quanh cây rừng bỗng dưng xao động. Cành lá lung lay, những bụi cây ngay chỗ bọn tôi đứng cũng xao động như có một cơn gió mạnh đi qua.

Từ phía sau gốc cây phong, không rõ là từ trong bụi rậm hay phía rừng già, một phụ nữ có cái búi tóc đen óng cao cao quen thuộc bước ra. Chị bán hàng rong bưng cái nong tre một bên hông. Nhưng khuôn mặt chị không giống ngày hôm qua ở vẻ sầu thảm trông buồn đến tội nghiệp. Chị ngơ ngác nhìn quanh.

Tôi nghe thầy Khả hỏi bằng một giọng điềm tĩnh:

– Cô Lâm phải không?

Chị lặng lẽ gật đầu rồi cúi nhìn chăm chăm vào chiếc vòng cẩm thạch dưới gốc cây, gương mặt đầy vẻ sợ hãi.

Thầy Khả lại hỏi:

– Cô bị chiếc vòng sai khiến phải không?

Chị trả lời rành rọt:

– Không, bây giờ thì không. Nhưng một phần linh hồn tôi bị nó sai khiến.

Giọng thầy Khả dịu nhẹ nhưng nghiêm nghị:

– Vậy nó bắt cô làm những gì?

Chị phụ nữ sợ hãi:

– Tôi không nói được. Tôi chỉ biết chiếc vòng này sẽ lấy hết sinh lực từ những người con gái nào đeo nó vào tay ...

Thầy Khả nói giọng đầy nhẫn nại:

– Có cách gì hóa giải được nó không?

– Thưa, tôi không biết. Nhưng có sinh lực mà chiếc vòng lấy được, linh hồn của nó sẽ hồi sinh từ dưới mồ ...

Chị nói chậm rãi rồi đi vòng ra phía sau gốc cây. Nắm lá trên tay thầy Khả đã lụi dần. Cái bóng cô gái cũng mất hút luôn. Khung cảnh xung quanh tôi lại chìm vào một sự tịch mịch của một buổi chiều giữa rừng già.

Vậy là linh hồn cô gái đã ra đi, tôi buông tay khỏi chiếc vòng nanh heo. Tuy đã nghe hết đoạn đối thoại giữa hai người nhưng có lẽ tôi vẫn không hiểu được hết những ý nghĩa trong đó. Đồng thời câu hỏi quan trọng nhất là làm sao để hóa giải những tai họa do chiếc vòng gây ra cũng không được trả lời thỏa đáng.

Thầy Khải quay lại, ra hiệu cho bọn tôi không được tiến vào trong vòng tròn phân cách chỗ ông đứng với chỗ tôi.

Sau đó ông từ tốn vái lạy, thu dọn chiếc vòng tay, xóa cái vòng trên mặt đất đi. Bấy giờ tôi mới nhận thấy rõ ràng một sự nhọc nhằn trên gương mặt của ông cùng với một nỗi lo lắng mơ hồ.

Ông trả lại chiếc vòng vào tay tôi.

Tôi không ngăn được sự hồi hộp:

– Thưa bác, vậy thì có cách gì không ạ?

Ông trầm ngâm:

– Ta cũng không chắc có thể làm cách này được không. Nhưng theo ta thấy thì không thể nào giải trừ cho phần ác của linh hồn cô Lâm khỏi sự sai khiến của chiếc vòng. Chỉ còn một cách duy nhất là diệt trừ tận gốc linh hồn của chiếc vòng.

Thấy tôi vẫn chưa hiểu, ông lại nói thêm:

– Có nghĩa là linh hồn của người em gái ta ở dưới mồ.

Bây giờ tôi mới lần hồi nhớ lại những ý nghĩa trong lời nói của linh hồn chị bán hàng rong trong khoảnh khắc ngắn ngủi hiện về của chị.

Thì ra linh hồn đứa em gái tám tuổi của thầy Khả vẫn còn hoành hành và nó có khả năng sẽ hồi sinh.

Nghĩ đến đây tôi hoảng sợ, buột miệng:

– Nó sẽ hồi sinh!

Ông thầy Khả nói như khóc:

– Phải, nó sẽ như vậy, trời ơi, nó sẽ thành một giống quỉ dữ sống lại bằng sinh khí của những con người vô tội. Thật là một cái tội mà cha ta đã gây ra cho dòng họ này!

– Vậy thì bây giờ mình phải tìm cách tiêu diệt nó càng sớm càng tốt.

Nhỏ Lan dường như cũng đã hiểu ra đầu đuôi sự việc. Rõ ràng là chiếc vòng được cha thầy Khả chế ra từ đôi mắt đứa em đã qua đời của ông đã trở thành một thứ vật thành tinh, hút hết sức sống để tái sinh cho cái linh hồn được chôn sâu trong lòng đất. Và dù có đập tan chiếc vòng đi nữa nó cũng sẽ tiếp tục hiện ra. Nó là một chiếc vòng bất tử. Vậy thì chỉ có một phương pháp duy nhất là diệt trừ linh hồn của chiếc vòng mà thôi.

Tôi nhìn thấy một vẻ đau đớn trong đôi mắt ông thầy Khả. Bốn người bọn tôi ra về trong buổi chiều hiu hắt. Cái bóng cây phong bao trùm cả một khoảnh rừng già.

Lúc chia tay bọn tôi ở dưới núi, thầy Khả nói:

– Mấy đứa cứ yên tâm, ta sẽ tiến hành việc này ngay lập tức!

Tôi hoài nghi:

– Dạ, nhưng bác định làm thế nào vậy?

Ông thầy nói với tôi bằng một giọng rầu rầu:

– Theo những sách vở của nghề bói toán mà ta được biết thì chỉ có cách quật xác chết lên rồi đem thiêu nó đi thì linh hồn của nó sẽ chẳng hồi sinh được nữa ...

Tôi đã vỡ lẽ ra:

– Cái xác và linh hồn đó chính là của người em gái bác phải không?

Ông thầy Khả yên lặng gật đầu.

Tôi cũng không biết phải làm hay nói gì hơn đành nhìn sang hai nhỏ bạn.

Lan và Thảo cũng trao cho tôi một cái nhìn đồng ý. Chúng tôi quyết định để thầy Khả một mình tìm cách hóa giải linh hồn ghê gớm kia.

Ba đứa tôi lặng lẽ chào ông đi thẳng về nhà.

Đêm ấy trời mưa to, sấm chớp ầm ì bên ngoài cửa sổ, hai nhỏ bạn nằm cạnh ôm tôi chặt thít. Còn tôi cứ thao thức mà không sao ngủ được.

Căn nhà nhỏ ở cuối làng trên núi Sảnh vẫn còn sáng đèn mãi đến tận khuya. Thầy Khả lục tìm trong sổ ghi chép của cha ông những điều về việc diệt trừ một con quỉ sắp hồi sinh từ thân xác của nó.

Ông vùi đầu vào đọc mải miết. Lúc đồng hồ đã điểm nửa đêm ông mới đứng dậy rời bàn viết đi về phía bệ thờ tổ tiên, ông chắp tay lại trước tấm ảnh hai cụ thân sinh, khấn vái điều gì đó rất thành tâm. Rồi ông đưa tay quệt ngang cái dòng nước mắt đang trào ra một bên gò má. Ông cũng đến thắp hương trên bàn thờ nhỏ bên cạnh, bàn thờ đứa em gái xấu số của ông.

Đoạn ông thầy Khả đi nhanh ra sau nhà, lấy một cái cuốc lớn, vác lên vai rồi cứ thế cắm đầu trong mưa, đi miết vào rừng lối về suối Cau. Một tia chớp thỉnh thoảng giáng xuống bên cạnh cùng những tiếng sét long trời, cây lá loang loáng dưới màu nước mưa và ánh chớp. Khu rừng chỉ có màu đen.

Ông thầy Khả dừng lại dưới gốc cây phong. Ngước nhìn lên tàng cây âm u, ông lại đeo chiếc dây chuyền nanh heo vào cổ rồi tiến lại sát bên gốc cây bắt đầu nhát cuốc đầu tiên.

Ông hì hục gần cả giờ đồng hồ, cái hố đang đào đã cao quá thắt lưng của ông. Mưa vẫn rơi xối xả lên cái lưng khom khom của ông.

Tiếng mũi cuốc chạm phải một vật gì cứng như đá khiến ông khựng lại. Ông quẳng cuốc sang một bên, ngồi thụp xuống trong cái hố tối đen hai tay mò mẫm trong lớp cát, vừa quờ quạng lung tung, vừa đào bới bằng cả hai bàn tay. Ngón tay ông đã chạm đến một khối to vuông vức hay đúng hơn là một hình chữ nhật dài gần một thước tây, bằng đá lạnh và cứng. Ông tiếp tục cái công việc đào bới kỳ cục quanh vật ấy suốt một giờ đồng hồ.

Cuối cùng, khi cơn mưa chỉ còn là những hạt nước rơi lộp độp qua kẽ lá cây phong, ông mới lôi được nó lên khỏi miệng cái hố sâu. Một cỗ quan tài nhỏ bằng đá.

Thầy Khả lần dưới thắt lưng lấy ra một cái đèn pin cầm tay, cắn cây đèn vào giữa hai hàm răng, ông lấy tay phủi hết lớp đất đen sì trên nắp quan tài rồi đùng hết sức đẩy cái nắp ấy ra. Một tiếng ken két nghe ghê răng vang lên và một mùi ẩm mốc nồng nặc khó chịu tỏa ra xung quanh. Ông nhăn mặt quay sang một bên né đi cái mùi kỳ dị ấy rồi tiếp tục đẩy cái nắp quan tài bằng đá.

Trong rừng, ngoài khoảnh sáng nhỏ bé trên chiếc đèn pin của ông, không gian bốn bề tối đen như mực, bầu trời đầy mây dường như sà xuống thấp ngay trên những tán lá cây.

Ông Khả thấy người run lên như một cơn lạnh thấm sâu vào trong từng thớ thịt. Ông thở gấp gáp, lấy hết sức trên đôi tay đẩy mạnh một lần cuối cùng. Cái nắp bằng đá của cỗ quan tài trật sang một bên rồi rơi đánh phịch nặng nề xuống mặt đất tối thui bên cạnh ông.

Hai tròng mắt ông Khả giương lên hết sức căng của nó, những tia máu của sự sợ hãi hằn lên trong đôi mắt ông khi ánh sáng từ chiếc đèn pin vừa chiếu rọi một góc quan tài:

Một thân xác trần truồng với cái lưng dài sọc trơ xương và những thớ thịt hồng hồng đang cuộn mình nằm ôm lấy hai đầu gối trong quan tài. Cỗ quan tài trẻ cơn dường như không đủ rộng cho cái xác đã lớn lên, nó nằm cong queo. Hoàn toàn không phải thân cốt của một đứa trẻ tám tuổi mà là một bộ xương người lớn hẳn hòi, một bộ xương mang những tảng thịt nổi gân máu đỏ lự và nhớp nháp không có lớp da bên ngoài như con người. Cái đầu của bộ xương là một cái sọ với những mạch máu chằng chịt bên ngoài đang phập phồng như còn sống, nó không có tóc và khuôn mặt quay áp vào vách quan tài.

Cả đời ông thầy Khả chưa bao giờ nhìn thấy thứ gì nhớp nháp như một đứa trẻ sơ sinh trong thân xác quái gở của một bộ xương người lớn với những bó thịt hon hỏn như thế này.

Ông không kêu lên được, miệng vẫn ngậm cứng cái đèn pin, chĩa ánh sáng vào trong hòm. Ông còn chưa định thần lại được thì cái đầu lâu trong quan tài chợt nhúc nhích, nó quay mặt lên phía ông, cái sọ trơ xương cạ vào lớp đá trong quan tài nghe cọt kẹt. Phần gương mặt của nó không giơ xương như cái sọ mà phủ lấy bởi một thứ da thịt quắt queo, trắng nhớt như bụng cá. Khuôn mặt lại không ra đường nét gì, giống như một thứ dị dạng, một thứ bào thai chưa hoàn chỉnh, chính giữa mặt là một cái dúm có hai lỗ nhỏ áng chừng là lỗ mũi. Nó không có miệng, hai hốc mắt thì trống trơn không tròng đang tươm ra những tia máu đỏ thẫm.

Ông thầy Khả muốn ngất đi trước cử động của nó nhưng rồi ông trấn tĩnh lại được. Trong rừng gió thổi ào ạt nhưng ông không thấy lạnh.

Ông đưa một tay lên trán quệt mồ hôi rồi lần tay kia vào trong túi áo lấy ra một cái bình sắt tây nhỏ thứ bình đựng rượu uýt-ki của lính Mỹ. Ông lập cập vặn nắp bình. Thứ sinh vật trong hòm dường như ý thức được sự nguy hiểm đang đến, nó cử động mỗi lúc một mạnh hơn. Ông đổ thứ nước trong bình lên người nó, mùi xăng tỏa ra nồng nặc trong không khí. Rồi ông nhanh tay bật lên một mồi lửa từ cái hộp quẹt bên tay kia.

Ngọn lửa phừng lên ngay tức khắc. Cái xác quẫy đạp mạnh mẽ hơn, ông Khả nghe tiếng kêu khóc của một đứa trẻ con rồi ông thấy cả khuôn mặt đau đớn của đứa em gái hiện lên trên cái thân xác trong hòm.

Nó bắt đầu van vỉ, khóc lóc khiến ông Khả xiêu lòng. Ông đành nhắm hai mắt lại để mặc nó kêu la.

Ngọn lửa cháy phừng phực, hơi nóng hắt lên khuôn mặt đang nhắm nghiền của ông và đốt cháy cả tâm can ông Khả.

Ông nghe em gái gọi ông, kêu gào thảm thiết. Rồi khi âm thanh ấy xa dần như mất hút vào trong lòng đất ông mới mở dần mắt ra. Những hình ảnh từ thời thơ ấu xa xưa như vây lấy ông Khả.

Ông thấy mình đang ngồi trên cành cây cười nắc nẻ còn bên cạnh ông là đứa em gái tám tuổi mặt mày kháu khỉnh đang chỉ trỏ một cái tổ chim trên cao. Ông cố dằn hai mí mắt để xua đi những ảo ảnh đang hiện về, hai bàn tay bấu chặt lấy mặt đất mặc cho tiếng kêu của đứa em gái cứ như dao cứa lấy tâm hồn ông ...

Trong hòm chỉ còn lại một dúm tro đen như hắc ín. Ông vét lấy nhúm tro cho vào một cái hũ chai nhỏ xíu rồi đứng thẳng dậy. Một tay cầm lấy cái cuốc dùng hết sức mạnh đập xuống cỗ quan tài bằng đá. Khi mọi công việc đã xong xuôi và cái hòm đá chỉ còn lại trên nền đất là những hòn đá vỡ tan không thành hình dạng thì trời cũng đã hừng đông.

Thầy Khả dọn dẹp cái đống đổ nát của chiếc hòm, vùi nó xuống hố và lấp đất lại. Ông cảm thấy mệt nhọc nhưng trong lòng đã nhẹ nhõm hẳn. Ông nhìn lại mặt đất ướt nhão dưới gốc cây một lần nữa.

Những ánh sáng đầu tiên của một ngày đã xuất hiện trên nền trời xanh thẫm.

Cây lá sau một đêm mưa trở nên xanh lạ kỳ. Lũ côn trùng rả rích xung quanh.

Ông khua tay đuổi một đám bù mắt đang lởn vởn trên đầu rồi lận cái hũ tro vào lưng quần và lẳng lặng vác cuốc lên vai, trở ra con đường nhỏ.

Tôi thức dậy sớm nhất trong bọn. Trong đầu còn mường tượng lại những hình ảnh mơ hồ trong một giấc mơ đêm qua. Tôi thấy chị bán hàng trong giấc mơ của mình, chị có vẻ vui vẻ lắm vừa đi vừa hát. Chị nói cảm ơn tôi đã giải thoát cho linh hồn chị khỏi làm nô lệ cho chiếc vòng nữa. Chẳng lẽ ...?

Tôi chợt nghĩ không lẽ ông thầy bói Khả đã tiến hành việc tiêu diệt linh hồn của chiếc vòng đêm qua? Nghĩ thế tôi liền lay hai nhỏ bạn dậy để đi lên nhà ông trên núi Sảnh hỏi thăm tình hình.

Lúc Lan và Thảo đã tỉnh hẳn và nghe tôi kể về giấc mơ thì hai nhỏ càng ngơ ngác nhìn nhau:

tụi nó cũng mơ thấy y hệt như tôi.

Lúc bọn tôi đến nhà thầy Khả và nghe ông tường thuật lại những chuyện đêm qua ba đứa tôi mới thở phào nhẹ nhõm. Tôi nhìn chiếc vòng trong lòng bàn tay, nó không còn long lanh tuyệt đẹp như cách đây mấy ngày mà chỉ là một chiếc vòng cẩm thạch bình thường, đơn giản.

– Vậy chắc bây giờ nó vô hại rồi phải không bác?

Tôi hỏi như để kiểm chứng lại.

Ông thầy bói gật đầu.

Tôi khẽ chạm tay vào nó, chỉ một cảm giác man mát trên đầu ngón tay. Cái cảm xúc là lạ những ngày trước đây khi tôi khẽ chạm lên chiếc vòng đã không còn nữa. Tôi thấy lòng nhẹ hẫng tươi vui. Hai đứa bạn tôi cũng cười tươi rói.

Chúng tôi ở lại trong làng thêm một đêm rồi trở về thành phố. Buổi chiều hôm ấy lúc ba đứa tha thẩn trong sân, nhỏ Thảo chợt hỏi tôi:

– Phụng và Lan có nghe thấy gì trên núi vọng lại không?

Tôi nhắm mắt lại, lắng tai nghe:

một giọng hát vi vu đưa lại từ trên núi chỗ cây phong già mà từ dưới này tụi tôi chỉ có thể trông thấy cái ngọn nhô lên của nó giữa đám cây rừng.

Giọng hát nghe thanh thoát và bay bổng biết bao.

Vậy là nhờ quyết tâm dũng cảm tìm kiếm sự thật mà tụi tôi đã hiểu ra những bí mật ẩn giấu sau chiếc vòng cẩm thạch, chặn đứng những tai họa mà nó có thể gây ra. Bây giờ hai bạn tôi, Diệp và Ngọc đã có thể ngủ yên.

Tôi nắm tay Lan và Thảo, chào tạm biệt bà ngoại rồi trở về thành phố.

Tôi vẫn giữ chiếc vòng cẩm thạch cho đến mãi tận lúc ra trường. Không đứa nào trong ba đứa tôi muốn đeo nó nên cuối cùng tụi tôi quyết định chôn nó dưới gốc cây phượng trong sân trường cấp ba của chúng tôi vào ngày cuối cùng trước khi chia tay nhau vào thành phố thi đại học.

Tin nhắn giết người Trúc Tâm giật mình thức giấc bởi tiếng rao lanh lảnh của người bán hàng rong từ dưới phố vẳng lên. Cô mệt mỏi chống tay ngồi dậy, không buồn chải lại mái tóc hay liếc nhìn mình trong gương như thói quen thường ngày. Rất nhiều những thói quen trong cuộc sống của Trúc Tâm đã bị đảo lộn kể từ hôm cô bị tai nạn.

Buồn bã nhìn cái chân băng bột trắng xóa, Trúc Tâm khe khẽ lắc đầu và nói thầm:

– Không biết tới khi nào mình mới có thể đi lại bình thường được đây nữa?

Chán quá! Nằm không thế này hơn hai tháng rồi, tiền cũng sắp hết, không biết mình phải tiếp tục sống bằng cách nào nữa?

Trúc Tâm buông một tiếng thở dài thườn thượt. Cô với tay lấy chiếc điện thoại trên bàn, mở ra xem lại nội dung hàng loạt tin nhắn mà cô đã gởi đi và nhận được trong thời gian qua.

Thật buồn cho tình đời, hồi còn mạnh khỏe, Trúc Tâm vốn là người rộng rãi, luôn sẵn sàng giúp đỡ bạn bè những lúc họ gặp khó khăn. Và đối với Trúc Tâm, không ít người tỏ ra thân tình khắn khít. Vậy mà ... Trúc Tâm vừa mới gặp hoạn nạn thì lần lượt từng người, từng người ngoảnh mặt quay đi. Giờ đây một mình Trúc Tâm đối diện với bao nỗi lo toan, buồn chán ...

Cái ngày đó, cái ngày xui xẻo nhất đời ấy vẫn luôn đeo bám ám ảnh Trúc Tâm mãi không thôi.

Sáng hôm đó, mới vừa mở mắt ra, Trúc Tâm đã nhận được một tin nhắn với nội dung ngắn ngủn nhưng cũng đủ làm Trúc Tâm bừng tỉnh như vừa bị tát một gáo nước lạnh thẳng vô mặt:

“Đừng liên lạc với anh nữa, anh đã yêu người khác. Xin lỗi em!”.

Một cuộc tình kéo dài hơn ba năm, hơn ba năm Trúc Tâm tuy chỉ là người yêu nhưng đã gánh lấy trách nhiệm của người vợ để lo lắng cho anh đủ mọi thứ, lo cả cho những người thân trong gia đình anh những lúc họ gặp sự cố gì đó không may. Một cuộc tình mà bất cứ ai nhìn vào đều nghĩ khó có thể chia lìa, tan rã được. Ấy vậy mà nó lại tan rã một cách nhẹ hều chỉ với mấy dòng tin vắn tắt thế này sao?

Trúc Tâm dụi mắt đến mấy lần, cứ đọc đi đọc lại những dòng chữ đó, rồi đầu óc lại nghĩ lung tung:

– Hay anh ấy thử lòng mình? Bởi vì mới hôm qua mình và anh còn rất vui vẻ, lúc đưa mình về tới nhà anh còn lén hôn lên má mình kia mà? Có hờn giận, phai lạt gì đâu, sao tự nhiên lại ra nông nỗi này được?

Trúc Tâm bấm số gọi lại cho anh thì nghe giọng nói vô cảm:

– “Số máy quí khách vừa gọi không liên lạc được mong quí khách vui lòng gọi lại sau”.

– Sao anh lại tắt máy?

Trúc Tâm lẩm bẩm.

Trúc Tâm rất nóng lòng muốn gặp anh để hỏi cho ra mọi chuyện, nhưng ngặt nỗi sáng hôm ấy ở công ty có cuộc họp quan trọng mà cô không thể vắng mặt được. Thế là Trúc Tâm đành phải cắn răng nén lại sự tức giận lẫn nỗi thắc mắc đang thiêu đốt trong lòng để tới công ty.

Nhưng, cũng giống như ông bà ta thường nói:

“Phước bất trùng lai, họa vô đơn chí”, Trúc Tâm lại một lần nữa choáng váng khi bạn bè trong công ty, những người mà mới đây cô còn tưởng họ là bạn thân thiết với mình, thì hôm nay lại hùa nhau đem Trúc Tâm ra làm bia để bắn vào cô thật nhiều, thật nhiều những lời lẽ ác độc, cay nghiệt. Họ vin vào những sơ hở của Trúc Tâm để qui tội cho cô. Nếu là thường ngày, có lẽ Trúc Tâm sẽ có đủ lý lẽ hùng hồn để biện minh cho mình. Nhưng xui xẻo cho cô, việc này lại diễn ra ngay giữa lúc đầu óc Trúc Tâm rối bời và mọi việc đối với cô đều ... không quan trọng!

Trúc Tâm đứng giữa cuộc họp, đưa mắt nhìn lần lượt từng người ngồi quanh, ánh mắt không phẫn uất, cũng chẳng oán hờn hay buồn bã, mà từ trong ánh mắt đó chỉ toát lên một sự ngạc nhiên cùng cực. Làm sao mà Trúc Tâm không ngạc nhiên cho được, những người bạn mới hôm qua còn nắm tay cô đầy thương mến, bây giờ lại xúm nhau đẩy Trúc Tâm xuống dòng nước đang chảy xiết.

Bất chợt Trúc Tâm không chú ý tới những lời cáo buộc của họ nữa, mà cô lại chăm chú nhìn vào những chiếc miệng, những đôi môi đang mấp máy, từ đó phát ra những lời nói với đủ mọi âm vực, đủ mọi kiểu cách ... Phải ráng lắm Trúc Tâm mới đè nén được cơn buồn cười đang dội ngược trong lòng cô.

Cuộc họp hôm nay đáng ra là để xét cho Trúc Tâm lên nhận chức Trưởng phòng như dự định, nhưng cô không ngờ mọi việc lại diễn ra theo hướng ngược lại. Cái chức Trưởng phòng đó có được hay không thật tình mà nói với Trúc Tâm không quan trọng mấy. Cô vốn là người không ham danh lợi, nên dù không được thì có lẽ chỉ cảm thấy tự ái, thấy quê quê một chút mà thôi, điều làm Trúc Tâm buồn chính là lòng người, chính là thái độ của những kẻ mà cô vẫn gọi là bạn bè.

Cuộc họp kết thúc, Trúc Tâm vội vã chạy ra hành lang vắng lấy điện thoại gọi cho anh, nhưng vẫn là câu:

– Số máy quí khách vừa gọi hiện không liên lạc được xin quí khách vui lòng gọi lại sau.

Trúc Tâm nhếch môi nở một nụ cười cay đắng:

– Anh đổi số điện thoại rồi à? Anh muốn cắt đứt với mình thật sao? Tính anh lâu nay có bao giờ chịu tắt di động đâu? Hừm ... Chia tay, cắt đứt ... một cách nhẹ tênh vậy sao anh?

Dù rất cố gắng, nhưng nước mắt vẫn trào ra, Trúc Tâm khẽ đưa tay lau mắt, cô ngước lên và bắt gặp vẻ mặt lúng túng của Phương, cô bé mới được nhận vào bộ phận của Trúc Tâm chưa lâu, cô bé mà Trúc Tâm đã tận tình hướng dẫn ...

Phương cúi gầm mặt, lắp bắp nói:

– Chị .... em xin lỗi chị! Em ... thật tình ... em không muốn vậy ... Mong chị hiểu cho em ...

Trúc Tâm nhếch môi gượng cười.

Cô thầm nghĩ:

– Ra vậy! Ra là họ đã có sự sắp xếp, lôi kéo ... Thì ra cuộc họp lúc nãy chỉ là một màn trên sân khấu, tất cả đều là diễn viên, chỉ một mình mình là người ngơ ngác ...

Phương nhìn Trúc Tâm, vẻ ái ngại:

– Chị .... em thấy thần sắc chị không được tốt. Hay là ... để em đưa chị về nhé?

Trúc Tâm đặt tay lên vai Phương, cười nhẹ:

– Cảm ơn em, chị không sao đâu!

Phương lại cụp mắt xuống, lí nhí:

– Chị đừng giận em, nhe chị?

Trúc Tâm cười:

– Không có gì đâu, em đừng như vậy!

Trúc Tâm quay người dắt xe ra cổng. Trên đường đi, một vài người chạm trán với cô vội vã lảng đi hoặc len lét ngó sang nơi khác. Trúc Tâm cảm thấy nơi trái tim mình một cảm giác đau đớn, nghẹn ứ ...

Ra tới cổng công ty, Trúc Tâm không đi theo con đường quen thuộc về nhà mình, cô rẽ về hướng đến nơi anh làm việc. Trúc Tâm không đến đó để khóc lóc van xin hay cố tình níu kéo gì hết, cô chỉ muốn nhìn thẳng vào anh để xem khi đứng trước cô, nói lời chia tay với cô thì ánh mắt và nét mặt anh sẽ ra sao? Để xem anh có phải là một diễn viên và giờ đây khi vở diễn kết thúc, khi cánh màn nhung khép lại khi những son phấn hóa trang đã phai nhạt thì bộ mặt thật của anh sẽ như thế nào?

Mắt Trúc Tâm ráo hoảnh nhưng trái tim cô lại đau không chịu nổi. Cô nhấn ga cho xe vọt lên phía trước.

Rầm!

Trúc Tâm chưa kịp nhận biết điều gì vừa xảy ra thì cô đã ngất đi, lúc tỉnh lại Trúc Tâm mới biết mình tông vào một người thanh niên đi ngược chiều. Ngơ ngác nhìn những người hiếu kỳ vây quanh, Trúc Tâm ấp úng hỏi:

– Tôi ... tôi ...

Một ông đứng gần lên tiếng:

– Cô có chán đời thì cứ nhảy lầu hay nhảy sông tự tử, chứ chạy xe bạt mạng kiểu này, mạng cô mất không nói gì, nhưng e cô làm liên lụy tới người khác thì khổ cho họ lắm!

Trúc Tâm cố gượng ngồi lên, nhưng cái chân cô đau buốt.

– Á ...

Trúc Tâm kêu lên rồi lại ngã vật xuống đường. Người đàn ông vẫn cứ buông lời cay nghiệt:

– Cô đứng lên đi! Đừng làm bộ ăn vạ. Cô nhìn xem người ta bị cô làm hại kìa, vậy mà người ta có như cô đâu!

Cắn răng nén đau, Trúc Tâm nhìn theo tay người đàn ông. Cách chỗ cô không xa là một chiếc xe gắn máy nằm chỏng chơ giữa đường, cạnh đó một thanh niên đang loay hoay nhặt lại số giấy tờ rơi vãi.

Một lần nữa Trúc Tâm chống tay ngồi dậy, cô rất muốn nói lời xin lỗi chàng trai kia, nhưng cô không thể ngồi lên được nữa. Mồ hôi vã ra trên trán, Trúc Tâm cố nén tiếng rên chỉ chực thoát ra.

Mấy người đứng cạnh đó lo ngại:

– Coi bộ cổ bị gãy xương hay sao đó!

Người đàn ông cười mũi:

– Thì gậy ông đập lưng ông thôi. Tôi thù mấy đứa chạy xe kiểu này. Con gái tôi bỏ mạng cũng bởi những kẻ như vậy ...

Một người khuyên:

– Thôi đi ông ơi, lúc này không nên nói những lời như vậy vì thương tích của cổ không nhẹ đâu, coi đưa giùm người ta vô nhà thương đi!

Người thanh niên đã nhặt hết giấy tờ, đi lại gần Trúc Tâm và hỏi:

– Cô bị sao vậy?

Trúc Tâm gắng gượng lắm mới trả lời nổi:

– Tôi ... tôi xin lỗi ... Anh ... anh có bị làm sao không?

Người thanh niên lắc đầu:

– Tôi không sao, chỉ bị xây xước bên ngoài thôi.

Rồi anh quay sang nói với những người bên cạnh:

– Cô bác làm ơn đưa giùm cô này tới bệnh viện, tôi có việc gấp không thể trễ được ...

Người đàn ông lên tiếng:

– May mà cậu không việc gì! Thôi, cậu đi đi, để việc này tôi lo cho.

Người thanh niên đi rồi Trúc Tâm cũng được đưa vô bệnh viện. Sau khi chụp X-quang, bác sĩ kết luận chân của cô bị gãy hai chỗ.

Hình như mọi xui xẻo trong đời đều ập tới với Trúc Tâm trong buổi sáng ngày hôm đó!

Hơn hai tháng trời Trúc Tâm một mình thui thủi trong căn phòng trọ nhỏ bé và vắng lặng. Mấy ngày đầu còn có người cùng công ty đến thăm cho có mặt, một vài bạn bè cũng đến lo cho cô được vài ngày. Sau đó lần lượt từng người một viện lý do này, nguyên cớ khác không đến với cô nữa, hoặc chỉ thỉnh thoảng tạt qua năm mười phút rồi lại vội vã quay về. Cuối cùng, chỉ còn mỗi một con bé Phương. Phương không đến thường xuyên, nhưng bất cứ khi nào Trúc Tâm gọi là nó lại sốt sắng có mặt ngay sau đó không lâu.

Lúc còn khỏe mạnh, công việc, hẹn hò chiếm hết quỹ thời gian, Trúc Tâm thường ao ước có được những ngày nghỉ thật thảnh thơi, để có thể nằm nướng trên giường đến chín, mười giờ sáng, có thể nhẩn nha với bữa ăn mà không lo chuyện trễ giờ. Ấy vậy mà hơn hai tháng nay, dù được nghỉ ngơi không phải làm việc, cũng chẳng có ai để hẹn hò, nhưng Trúc Tâm vẫn chẳng có được một ngày thảnh thơi thật sự.

Cái chân bó bột nặng nề, khó chịu, tình đời đổi trắng thay đen đau đớn khiến cô gần như suy sụp. Có lần Trúc Tâm chợt nghĩ, giá mà hôm đó mình chết đi thì có lẽ tất cả sẽ nhẹ nhàng hơn. Nhưng rồi cô lại tự mỉa mai mình:

– Hừm ... Tại sao mình phải chết đi? Vì anh ư? Anh không đáng để mình phải hủy hoại cuộc đời đâu! Vì những người bạn của mình ư? Ha ha ... không đâu, mình không thể chết một cách lãng xẹt như vậy được!

Và thật lạ lùng, cái điều làm cho Trúc Tâm ray rứt nhiều nhất không phải chuyện tình yêu tan vỡ, cũng không phải chuyện bè phái ở công ty, mà là sự nông nổi nhất thời của cô, chính điều đó đã mang lại hậu quả thương tật cho bản thân cô, nhưng vậy là còn may!

Rất nhiều lần Trúc Tâm cảm thấy lạnh người khi nghĩ tới cảnh, nếu như hôm đó người cô tông phải bị thiệt mạng thì suốt quãng đời còn lại của mình cô sẽ sống thế nào đây? Cũng may là người thanh niên kia không việc gì, nếu không chắc cô sẽ bị nỗi ân hận dày vò đến tận cuối đời.

Trúc Tâm còn nhớ rất rõ những lời nói cay độc của người đàn ông hôm đó.

Cô nhớ nhưng không hề trách giận gì ông ta. Ông ta nói rất đúng, cô bạt mạng thì lở mất mạng cũng không sao, chỉ tội cho người khác, họ quí trọng bản thân họ mà chỉ vì những kẻ như cô đã hủy hoại họ, như đứa con gái của người đàn ông đó vậy.

Trúc Tâm thề với lòng, từ bây giờ không bao giờ cô chạy xe vượt quá tốc độ thông thường, dù bất cứ hoàn cảnh nào cũng thế!

Với tay lấy cây nạng dựng sát tường, Trúc Tâm khó nhọc đi vào nhà tắm. Cô vừa rửa mặt vừa nhìn mình trong gương. Người con gái trong gương thật lạ lẫm.

Đâu rồi một cô gái năng động, yêu đời? Đâu rồi chiếc miệng lúc nào cũng như gắn sẵn nụ cười trên đó? Đâu rồi ánh mắt lấp lánh tươi vui kể cả những lúc căng thẳng vì công việc? Đâu rồi những ngày tháng hạnh phúc vây quanh, bè bạn, người yêu quấn quít? Người con gái trong gương lúc này trông thật héo hắt với đôi môi nhợt nhạt với ánh mắt vợi buồn, người con gái trong gương lúc này trông thật bơ vơ lạc lõng ...

Trúc Tâm nhìn mình thật lâu rồi nói một mình, thật chậm rãi:

– Không! Không được! Mình không được hủy hoại đời mình bằng cách này hay cách khác. Mình phải sống thật đàng hoàng, thật vui vẻ, mặc kệ cuộc đời lừa lọc đổi thay!

Cô vốc nước lên, vừa rửa mặt vừa hát nho nhỏ bản tình ca mà cô yêu thích.

Chỉ một loáng sau, hình ảnh Trúc Tâm trong gương đã đổi khác. Mái tóc cột cao nghịch ngợm, đôi môi chúm chím đỏ hồng và mắt cô lại long lanh niềm vui sống ...

Trúc Tâm đã quyết định, từ giờ phút này cô sẽ xóa bỏ tất cả những gì khiến lòng cô đau đớn để làm lại từ đầu. Cô vốn là người lạc quan, nên việc đó đối với cô chắc cũng không khó thực hiện.

Vừa ra tới nhà ngoài, Trúc Tâm giật mình khi nghe điệu nhạc vui quen thuộc vang lên từ chiếc di động. Đó là điệu nhạc báo có tin nhắn.

– Lâu rồi chẳng có ai nhắn tin cho mình. Hay là anh ấy? Có ai đó nói với anh là mình bị tai nạn nên anh nhắn tin hỏi thăm?

Ý nghĩ đó vừa thoáng qua trong đầu đã bị Trúc Tâm vội vã xua đi:

– Mình đã hứa với lòng, sao còn quan tâm đến anh làm gì nữa? Mặc kệ đó có phải là tin nhắn của anh không, không có gì quan trọng!

Nhưng đó lại là tin nhắn được gởi từ một số điện thoại lạ hoắc.

– “Nếu bạn là nữ, còn độc thân hãy đọc tiếp:

Bạn cho mình làm quen, được không vậy?”.

Trúc Tâm chợt mỉm cười khi đọc dòng tin ấy. Ai muốn làm quen với mình vậy ta? Người đó là trai hay gái? Sao lại làm quen bằng một câu ngộ nghĩnh đến vậy? Cô thầm nghĩ, và vui vẻ bấm phím trả lời:

– “Mình thấy tò mò, không biết bạn là ai, sao lại muốn làm quen với mình.

Bạn có thể giới thiệu bản thân một tí xíu, được không?”.

– Hì, lâu nay mình vẫn thường coi ba cái trò chát chít, nhắn tin tìm bạn là vớ vẩn, vậy mà bây giờ coi bộ mình lại bước vào rồi! Không sao ... chỉ là lúc này mình ở không quá, chơi tí cho vui vậy mà ... - Trúc Tâm tự cười rồi lại tự biện minh cho mình như vậy.

Tin nhắn vừa được gởi đi, chỉ một loáng sau đã có tin trả lời:

– “Mình rất vui khi nhận được tin hồi âm của bạn. Mình đang rất cô đơn nên chơi trò may rủi. Mình tự nghĩ ra một dãy số và gởi tin nhắn đi, rất may bạn đã trả lời. Chúng mình kết bạn với nhau, nhé?”.

Trúc Tâm ngả lưng xuống giường, vui vẻ bấm liên tục trên bàn phím điện thoại:

– Mình cũng đang cô đơn lắm. Tất cả mọi người hình như đều rời xa mình, bạn đến thật đúng lúc. Những ngày này mình giống như người đang bị cả thế giới ruồng bỏ, cho nên mình cũng rất vui khi được làm quen với bạn.

Suốt buổi sáng hôm đó, Trúc Tâm không còn thời gian nào để nghĩ vẩn vơ rồi buồn bã nữa. Cô luôn mỉm cười với những lời lẽ đơn giản nhưng mỗi lúc thêm hóm hỉnh của Đức - một người bạn xa lạ. Giờ đây Trúc Tâm mới biết tại sao có lắm cô cậu mới lớn lại say mê với trò chơi này, thật tình là nó cũng có nhiều cái hay.

Chỉ sau hai ngày liên lạc thường xuyên bằng tin nhắn, Trúc Tâm đã biết sơ về người bạn mới quen. Theo như giới thiệu, người đó tên Minh Đức, lớn hơn Trúc Tâm ba tuổi, đang là nhân viên ưu tú của một công ty chuyên xuất nhập khẩu các loại hàng mỹ nghệ, nhưng vì một việc ngoài ý muốn, hiện nay anh phải tạm nghỉ ở nhà, Trúc Tâm thấy mình và người đó có nhiều điểm giống nhau. Cô đã gởi một tin nhắn với lời lẽ vừa bông đùa, vừa ai oán:

– “Mình cũng không khác gì bạn, cứ ngỡ con đường trước mắt mình luôn bằng phẳng và thẳng tắp, nhưng không ngờ ở đó quá nhiều chông gai, mà một đứa lơ mơ như mình không thể nào lường trước được. Mọi người đá cho mình lăn lông lốc, và rồi mình tự đá mình đến ... gãy chân luôn. He he he ... Lúc này mình cũng nằm nhà ôm cái chân bó bột ...”.

Lần này có lẽ Minh Đức bận gì đó, vì từ hôm quen biết, bao giờ cũng vậy, Trúc Tâm luôn nhận được tin trả lời ngay sau lúc gởi đi không lâu. Cầm chiếc điện thoại nhỏ xíu trong lòng bàn tay, Trúc Tâm thầm thán phục những bộ óc vĩ đại đã phát minh ra đủ thứ đồ tiện dụng. Và cô bật cười khi chợt nghĩ, nếu như một ngày nào đó cả thế giới không còn sóng điện thoại, không còn những phương tiện liên lạc nữa, thì con người sẽ sống thế nào?

Những phương tiện này đã gắn kết con người lại với nhau, cả những người chưa từng quen biết như Trúc Tâm và Minh Đức. Chỉ là một trò chơi may rủi mà hai người biết nhau, và nhờ đó Trúc Tâm đã không còn cảm thấy cô đơn cùng cực nữa.

Từ ngày Trúc Tâm bị tai nạn đến nay, anh ấy chưa một lần gọi điện, nhắn tin hay đến đây thăm hỏi. Có lẽ với anh ấy, sự hiện diện của Trúc Tâm trên thế gian này không còn nghĩa lý gì hết, anh không mảy may nghĩ về cô, không cần biết cô ra sao kể từ cái tin nhắn lạnh lùng sau cuối.

Trước đây, những lúc nằm không buồn bã, Trúc Tâm vẫn thường gọi lại số máy của anh, dù trả lời cô chỉ là giọng nói cài đặt sẵn của tổng đài. Nhưng từ ngày quen Minh Đức, Trúc Tâm không gọi nữa. Cái ngày cô quen Minh Đức cũng là ngày cô quyết định sẽ làm lại từ đầu. Có lẽ ông trời thương xót cô, dun rủi cho cô có được một người bạn, để ít nhất là có người trò chuyện vui vẻ cho qua những ngày dài khốn khổ này.

Đang miên man suy nghĩ, bất chợt điệu nhạc quen thuộc báo có tin nhắn vang lên, Trúc Tâm mỉm cười mở tin ra đọc. Nhưng thật lạ, tin nhắn này Minh Đức lại viết một cách khó hiểu, hình như anh ấy đang có tâm sự gì đó rất nặng nề.

Trúc Tâm đọc xong mà chưa biết trả lời thế nào, cô cứ mãi nghĩ đến câu hỏi của anh:

– “Nếu như có một người nào đó làm cho bạn phải mất tất cả:

gia đình, người yêu, sự nghiệp ... thì bạn có hận người đó không? Bạn có muốn trả thù không?”.

Loay hoay một hồi, Trúc Tâm gởi đi dòng chữ:

– “Câu hỏi này thật khó trả lời, vì mình phải đặt được mình vào hoàn cảnh đó ... Nhưng chắc mình sẽ nghiêng về sự thù hận, mình sẽ trả thù ... Bạn ơi, có phải bạn đang ... bị như vậy không?”.

Minh Đức không trả lời câu hỏi của Trúc Tâm, mà hỏi lại cô:

– “Nếu như bạn biết, kẻ làm hại bạn không cố tình, nhưng chính vì hành động của kẻ đó mà bạn mất trắng, mất cả cuộc đời, bạn có tha thứ cho họ được không?”.

Trúc Tâm kêu lên nho nhỏ:

– Quái lạ! Anh chàng này nói chuyện gì vậy nhỉ? Hay ... đây chính là anh?

Anh vẫn thương yêu mình, anh đang hối hận nên giả vờ để thăm dò mình ra sao, mình có sẵn lòng tha thứ cho anh không ... Mà không! Không thể là anh được!

Lời lẽ, cách viết tắt ... tất cả đều không phải, nếu là anh, dù có cố giấu đi thân phận thì với hàng loạt tin nhắn mấy ngày nay, không thể không có sơ hở!

Trúc Tâm tự cười mình nông nổi. Đến giờ phút này rồi, dù luôn hứa với lòng sẽ gạt anh ra khỏi suy nghĩ, ra khỏi đời mình, vậy mà tận trong thâm tâm, cô vẫn còn mong muốn anh quay lại ...

Mang nỗi ấm ức trong lòng, Trúc Tâm gởi vào tin nhắn:

– “Ai làm điều xấu cho người khác sẽ không được tha thứ. Mình không tha thứ, mình sẽ hận, mình sẽ trả thù dù cho kẻ kia vô tình hay cố ý.”.

Ngay lập tức, Minh Đức trả lời:

– “Mình hiểu rồi, bây giờ mình biết mình sẽ làm gì. Cảm ơn bạn!”.

Những ngày sau đó Trúc Tâm và Minh Đức vẫn thường xuyên liên lạc với nhau. Nhưng đặc biệt một điều, Minh Đức chưa một lần gọi điện cho Trúc Tâm, mà chỉ trao đổi với cô qua tin nhắn. Trúc Tâm rất lấy làm lạ, đôi lần cô muốn chủ động gọi Minh Đức, nhưng rồi cô lại thấy ngại ngùng, người ta là nam không chủ động thì mình nôn nóng làm gì? Rồi bất chợt Trúc Tâm phì cười vì cái ý thoáng qua trong đầu:

– Có thể anh ta bị tật nói lắp, nên không dám nói chuyện với mình ...

Một tuần sau, đột nhiên Minh Đức đề nghị:

– “Bạn có thể gởi tặng mình một lấm ảnh được không?”.

Trúc Tâm đùa:

– “Mình xấu lắm, sợ bạn nhìn thấy hình rồi không thèm nhắn tin cho mình nữa! À, bạn cũng tặng ảnh để mình biết mặt đi nhe?”.

Minh Đức nghiêm túc:

– “Mình không quan tâm đến chuyện đẹp xấu. Chúng mình trao đổi hình ảnh để biết mặt nhau, nhé?”.

Đọc xong tin nhắn, Trúc Tâm tìm lại trong thẻ nhớ thì không còn lưu giữ tấm ảnh nào của mình. Cô khập khiễng tiến tới chiếc bàn kê trong góc nhà và bắt đầu trang điểm sơ qua một chút.

Từ ngày bị tai nạn, đây là lần đầu tiên Trúc Tâm động tay vào son phấn. Cô nhìn mình trong gương và mỉm cười hài lòng. Kể ra cô không phải thuộc loại người có nhan sắc, nhưng tất cả đường nét trên gương mặt cô đều hài hòa, nên cũng không kém phần hấp dẫn. Đặc biệt ở Trúc Tâm có một nét nổi trội, đó là sự tươi trẻ. Ít ai có thể đoán được chính xác tuổi của cô. Hơn hai tháng buồn đau, hơn hai tháng nhàu nhĩ trong căn phòng ảm đạm, nhưng chỉ một vài động tác, tất cả ở Trúc Tâm đều đã đổi mới hoàn toàn, gương mặt cô lại sáng bừng vui vẻ.

Trúc Tâm xoay người, đưa điện thoại lên chụp liền mấy kiểu. Sau cùng, cô chọn một tấm được nhất để gởi cho Minh Đức.

– “Cảm ơn vì bạn đã gởi ảnh cho mình!”.

– “Ồ, bạn hay nhỉ? Bạn đã nói mình trao đổi kia mà? Sao bạn không gởi hình bạn cho mình vậy?”.

Trúc Tâm gởi đi tin nhắn và ngồi nhìn chiếc điện thoại trong tay có ý chờ đợi. Thời gian chậm chạp trôi qua, đã hơn hai tiếng đồng hồ mà vẫn không thấy tin nào từ Minh Đức.

Bực dọc, Trúc Tâm quẳng điện thoại lên mặt gối, lầm bầm:

– Mình đúng là vớ vẩn!

Nhưng vừa lúc đó điện thoại báo có tin nhắn. Trúc Tâm vội vã mở ra xem, đúng là tin của Minh Đức, anh giữ đúng lời hứa đã gởi ảnh cho Trúc Tâm.

Bất chợt Trúc Tâm cảm thấy hình như cô đã gặp chàng trai trong ảnh ở đâu đó rồi, nhưng dù có vắt óc cô cũng không nhớ nổi. Đặc biệt là ánh mắt chàng trai có điều gì lạ lắm, không làm sao cắt nghĩa được. Nó vừa như ai oán, vừa như hằn học lại vừa như lôi cuốn tâm trí Trúc Tâm.

– “Bạn ơi, mình trông bạn quen lắm. Có thể chúng ta đã từng gặp nhau hay sao ấy?”.

– “Mình cũng không rõ nữa. Nhưng mà nè, tại sao bạn lại nằm nhà vậy?

Nằm nhà một mình sẽ buồn lắm, chán lắm. Nếu mình là bạn, chắc mình đã nhảy xuống ban-công để chết quách cho rồi!”.

Trúc Tâm giật mình khi đọc cái tin nhắn lạ lùng ấy. Cô định hỏi:

“Sao bạn lại có ý nghĩ kỳ vậy?” nhưng rồi cô nhận thấy từ trong lòng mình trỗi dậy một cảm giác chán chường, cảm giác mãnh liệt này trước nay Trúc Tâm chưa từng trải qua. Trước nay, dù có buồn, có chán đến mấy cũng không đến mức độ này!

– Minh Đức nói đúng. Nằm một mình thế này thà chết quách cho xong.

Trúc Tâm lẩm bẩm. Cô liếc nhìn ra ban-công và thấy như ở đó có một sức hút kỳ diệu đang mời gọi cô. Không cưỡng lại được, Trúc Tâm chống nạng bước khó nhọc ra ngoài.

Đặt tựa chiếc nạng vào tường, Trúc Tâm chống tay vào ban-công đứng nhìn xuống đường. Dưới đó từng dòng người xe vẫn lũ lượt ngược xuôi. Buổi chiều không nắng, bầu trời âm u ảm đạm càng khiến nỗi chán chường trong lòng Trúc Tâm nở lớn ra thêm.

Trúc Tâm khó nhọc đặt chân lên song sắt và cô chậm chạp trèo lên ...

Dưới đường, như có một ai đó đang giang tay đón đợi ...

– Trúc Tâm, hãy đến đây! Mau lên, hãy đến đây với anh!

Tiếng gọi tha thiết xoáy vào tai Trúc Tâm, như gọi mời, như thúc giục ...

– Em sẽ đến! Em sẽ đến ...

Trúc Tâm vừa lẩm bẩm vừa nhoài người ra khỏi ban-công.

– Chị Tâm! Chị Tâm! Trời ơi, chị làm gì vậy?

Phương hốt hoảng níu áo Trúc Tâm lại, cô la lớn.

Trúc Tâm giật bắn người:

– Em ... Chị .... chị làm gì thế này?

Chân Trúc Tâm vẫn còn đứng trên song sắt ban-công. Cô liếc nhìn xuống đường và thấy hoa mắt, lảo đảo như suýt té.

Phương vừa khóc vừa dìu Trúc Tâm vào nhà:

– Chị ơi, chị đừng nghĩ quẩn ... rồi mọi việc cũng sẽ qua thôi mà!

Trúc Tâm ngơ ngác:

– Em nói sao? Chị .... chị đã làm gì vậy?

Phương tròn mắt nhìn Trúc Tâm:

– Chị .... không lẽ chị quẩn trí đến nỗi ... Rõ ràng em nhìn thấy chị sắp nhảy xuống đường mà?

Trúc Tâm rùng mình ớn lạnh:

– Chị .... chị đã làm vậy thật sao?

Phương lo lắng đặt tay lên trán Trúc Tâm:

– Chị có nóng sốt gì không vậy?

Trúc Tâm chưa kịp trả lời thì điện thoại lại báo có tin nhắn. Vồ lấy điện thoại, Trúc Tâm mở vội ra và đọc thầm:

– “Nếu mình là bạn thì mình sẽ chết ... sẽ chết ... sẽ chết! ....”.

Đầu óc Trúc Tâm lại quay cuồng, cô lập lại:

– Ừ ... sẽ chết! Sống để làm gì? Sẽ chết ...

Rồi như kẻ mộng du, Trúc Tâm loạng choạng đi trở ra ban-công. Phương ngớ người trân trối nhìn theo một lúc, rồi chợt hoàng hồn, Phương chạy vội tới ôm chầm Trúc Tâm:

– Chị .... Chị ơi ... chị bị làm sao vậy?

Trúc Tâm vẫn không ngừng lảm nhảm:

– Ừ ... sẽ chết, sẽ chết ...

Vừa nói, Trúc Tâm vừa cố thoát khỏi vòng tay ôm chặt của Phương để nhoài người ra hành lang. Trong lúc hốt hoảng, Phương bỗng giang tay tát thật mạnh vào mặt Trúc Tâm.

Như bừng tỉnh, Trúc Tâm ngơ ngác:

– Chị .... chị .... lại làm điều gì điên khùng nữa sao Phương?

Phương vừa khóc vừa dìu Trúc Tâm vào nhà. Vừa vào trong Trúc Tâm mệt mỏi nằm soài xuống giường. Phương cẩn thận đóng chặt cánh cửa dẫn ra bancông bằng một ổ khóa to tướng.

– Chị .... có điều gì xảy ra với chị vậy?

Phương khẽ hỏi khi thấy Trúc Tâm đã dần bình tĩnh lại.

Trúc Tâm nhắm mắt định thần một chút rồi mở choàng mắt, ngồi bật dậy vớ lấy chiếc điện thoại run rẩy mở hộp thư. Cô gấp rút nói:

– Chị .... chị không hiểu sao ... Tin nhắn ... chính tin nhắn đó đã giục chị tìm tới cái chết ...

Phương ngạc nhiên hỏi lại:

– Chị nói sao? Tin nhắn giục chị tìm tới cái chết? Ai nhắn tin cho chị?

Trúc Tâm lập cập nói:

– Chị .... chị không biết ... người đó chị mới quen ... quen tình cờ qua tin nhắn ...

Chị không biết ...

Phương tò mờ:

– Chị có thể cho em xem tin nhắn đó không?

Vừa nghe Phương hỏi, Trúc Tâm vội đưa ngay điện thoại cho Phương, lúc này trên màn hình điện thoại đang mở ra tin nhắn hình ảnh, và đó là tấm hình Minh Đức vừa gởi lúc nãy.

Trông thấy tấm ảnh, Phương giật bắn người, cuống quít hỏi Trúc Tâm:

– Chị .... có phải chị nói ... chị mới quen người này?

Thấy thái độ khẩn trương của Phương, Trúc Tâm lo lắng gật đầu:

– Ừ, đó là người chị mới quen, người gởi tin nhắn cho chị ....

Giọng Phương như nghẹn lại:

– Chị .... Tên anh ta là gì?

Trúc Tâm nói nhanh:

– Minh Đức! Anh ta bảo tên là Minh Đức ...

Gương mặt Phương tái xanh, cô run rẩy hỏi:

– Chị .... chị có biết người này ... người có khuôn mặt và cái tên giống y thế này đã chết cách nay hơn hai tháng rồi không?

Trúc Tâm sững người:

– Em nói sao?

Phương nuốt khan rồi cố gắng lấy lại bình tĩnh, cô kể:

– Anh Minh Đức là người yêu của nhỏ bạn thân với em. Hơn hai tháng trước ảnh bị đụng xe, lúc đó thì không sao, nhưng khi về tới nhà bỗng nhiên đau đầu, nôn mửa. Lúc đưa tới bệnh viện thì đã hôn mê. Bác sĩ bảo ảnh bị chấn thương sọ não. Và ảnh đã chết sau đó mấy giờ.

Bất giác Trúc Tâm nhớ lại gương mặt của người thanh niên hôm trước bị cô đâm sầm vào, và lúc này thì cô hiểu vì sao khi nhìn tấm ảnh của Minh Đức lại thấy quen quen ...

Trúc Tâm lắp bắp:

– Có nghĩa là ... có nghĩa là ... hồn ma người đó về đây đòi mạng chị?

Phương không nói gì, cô cắm cúi mở những tin nhắn của Minh Đức ra đọc lại.

Lát sau Phương ngước lên nhìn Trúc Tâm đang ngồi co rúm trên giường, cô chậm chạp nói:

– Chị à, anh Minh Đức mà em biết vốn rất hiền lành em nghĩ anh ấy rồi sẽ hiểu và tha thứ cho chị. Ảnh cũng đã rất phân vân, bằng chứng là những tin nhắn này đây!

Nói xong, Phương đưa cho Trúc Tâm đọc lại những tin nhắn của Minh Đức:

– “Nếu như có một người nào đó làm cho bạn phải mất tất cả:

gia đình, người yêu, sự nghiệp ... thì bạn có hận người đó không? Bạn có muốn trả thù không?”.

– “Nếu như bạn biết, kẻ làm hại bạn không cố tình, nhưng chính vì hành động của kẻ đó mà bạn mất trắng, mất cả cuộc đời, bạn có tha thứ cho họ được không?”.

Đọc xong, Trúc Tâm kêu lên:

– Trời ơi, vậy mà chính chị .... chính chị đã nói với anh ấy là:

“Ai làm điều xấu cho người khác sẽ không được tha thứ. Mình không tha thứ, mình sẽ hận, mình sẽ trả thù dù cho kẻ kia vô tình hay cố ý.”.

Trúc Tâm bật khóc. Cô khó nhọc với cái chân bó bột của mình nhưng vẫn cố quì xuống chắp tay khấn vái:

– Anh Đức ơi, tôi ngàn lần xin lỗi anh. Chỉ vì một phút nông nổi của tôi mà anh đã phải ... Tôi ... tôi thật đáng chết! Anh Đức ơi, xin anh hãy trừng trị tôi đi ...

Phương hoảng hốt ôm chầm lấy Trúc Tâm:

– Chị .... chị ơi, em xin chị đừng như vậy mà ...

Trúc Tâm gục đầu vào vai Phương nức nở khóc.

Giữa lúc đó chuông báo tin nhắn vang lên từ chiếc điện thoại. Cả Trúc Tâm và Phương đều giật mình. Lát sau Trúc Tâm mới dám run run cầm lấy mở tin ra đọc:

– “Tha lỗi cho tôi, cũng vì một chút nóng giận, suýt nữa tôi đã giết hại cô rồi. Nhưng dù cô có chết đi tôi cũng không sống lại được kia mà? Thôi thì tôi mong từ nay cô sẽ biết quí trọng cuộc sống của bản thân và mọi người ... Vĩnh biệt ...”.

Trúc Tâm khóc nức lên. Phương khẽ với tay lấy chiếc điện thoại, nhưng thật lạ lùng, hộp thư đến hoàn toàn trống rỗng!

Tổ ong Bấy giờ đã vào cuối tháng sáu, những cơn dông thường kéo đến mỗi buổi chiều sau một vài giờ oi ả ban trưa. Cây lá đứng yên bất động và lũ chim cũng im tiếng hót. Bầu trời đang xanh trong chẳng mấy chốc đã kéo đầy những chùm mây mọng nước và nặng trịt như sà xuống ngay trên đầu người.

Một con sâu róm đang cuộn mình trên cái lá khô cong queo chìa ra từ một nhánh ổi gãy vắt ngang hàng rào, cái đầu bé tí của nó không thôi ngọ ngoậy, hít ngửi mùi hơi nước trong không khí và cáu kỉnh cắn những miếng to trên chiếc lá để lại một mảnh hình nham nhở.

Từ cửa sổ phòng mình tôi có thể quan sát được mọi ngóc ngách và những cử động nhỏ của khu vườn. Hơi nóng trên mái nhà phả xuống, đọng lại thành một khối vô hình ngay trên đầu tôi hàng giờ liền. Và khi cơn dông chỉ chực đổ bộ thì khối không khí ấy nhanh chóng bị đánh bật ra khỏi căn phòng, vở òa ra và tan biến nhanh vào cơn mưa bên ngoài cửa sổ.

Ban đầu chỉ là những giọt lác đác nhưng nặng trĩu rơi lộp độp lên mái ngói rồi những hạt mưa nhỏ dần nhưng đều đặn hơn, rồi thành đàn đàn lũ lũ giọt mẹ giọt con đua nhau đáp xuống theo những cơn rào rào xuyên qua cành lá, hắt vào qua cửa sổ.

Một tiếng gầm ran từ bên dưới miệng một đám mây xám khổng lồ ở phía Tây và những tia sáng kẻ ngoằn ngoèo trên bầu trời cuồn cuộn khiến tôi tưởng đến một bức tranh của Van Gogh, bức “Dông tố”.

Tôi có sở thích chờ đợi những cơn mưa. Trưa nào tôi cũng chuồn lên gác sau bữa cơm, nằm dài trên giường, thò đầu ra ngoài cửa sổ vừa nhấm nháp cái nóng của những ngày hè dài bất tận, sức oi ả đè nén của một cơn dông đang chực đến và quan sát khu vườn từ trên cao.

Tôi có thể nằm hàng mấy giờ liền chờ đợi, quan sát và tận hưởng những luồng không khí thay đổi của những cơn dông, với tôi điều này thú vị biết bao.

Và cũng bởi vì vào mùa này tôi không phải tới trường hay có bất cứ một công việc quan trọng nào để làm.

Cơn mưa cứ thế tạo thành những dòng nước xối xả đổ xuống cái mái tả tơi bằng lá dừa của chái nhà kho bên một góc vườn qua cái ống máng xối cũ kỹ đã mòn vẹt một bên.

Tôi cố đếm những giọt mưa đang rơi nhanh nhưng không tài nào theo kịp chúng, cuối cùng đành bỏ cuộc mà hướng sự chú ý sang phía bên kia hàng rào chỗ gốc cây mận già nhà hàng xóm đang đứng rũ rượi chịu trận dưới cơn dông.

Cây mận đó có một cái tổ ong to đùng treo vắt vẻo, càng lung lay dữ dội hơn mỗi khi gió tạt ngang những lớp nước mưa dày.

Một cái áo mưa trắng thập thò ngay dưới gốc cây mận, cái đầu chỉ cao đến mấp mé hàng rào.

– Quái, con nhỏ hàng xóm làm gì ngoài vườn giờ này vậy kìa?

Như để trả lời sự thắc mắc của tôi, tôi thấy nó cầm một cái cây dài, một đầu chạng ba như cái ná khổng lồ, hì hục chống cành cây mận lên, tránh cho nó không bi rung lắc mỗi khi gió tạt. Cái tổ ong nhờ vậy cũng được yên thân.

– Con nhóc tì này rảnh rỗi thật, trời mưa gió ...

Tôi cười thầm trong bụng, ai lại đi cứu tổ ong khi trời mưa bao giờ, đúng là đồ con nít!

Vừa lúc đó một tia sáng dữ dội giáng ngay xuống bậu cửa sổ, cách mặt tôi chưa đầy hai gang tay kèm theo một tiếng nổ long trời. Tấm màn cửa bốc khói khét lẹt.

Tôi mất cả mấy phút mới hoàn hồn lại, tóc sau gáy còn dựng đứng cả, hai mắt vẫn còn thấy xanh lè ánh chớp. Từ nhỏ đến lớn tôi có bao giờ bị sét đánh lần nào, giờ mới biết tại sao ai cũng sợ ông thiên lôi là thế.

Tôi ngó nghiêng cái gốc cây mận lần nữa, con nhóc đã lỉnh vào nhà tự lúc nào chỉ thấy cái chạng ba đỡ lấy cái tổ ong thì vẫn đường hoàng đứng đó vững vàng.

Ngày hôm sau tôi quyết định sử dụng cả buổi chiều để xem phim thay vì quan sát cơn dông như thường lệ. Trong lòng vẫn còn ái ngại chuyện sét đánh hôm qua.

Lúc trời bắt đầu chuyển dông tôi cẩn thận khép một bên cánh cửa sổ rồi mới thoải mái ngồi lên giường lựa chọn mấy cuốn phim.

– Thư giãn kiểu này coi bộ an toàn hơn nhiều!

Tôi thầm nhủ vừa cho đĩa VCD vào đầu máy, chẳng thèm quan tâm đến cơn mưa đang bắt đầu bên ngoài cửa. Thế mà xem phim chưa đầy năm phút tôi lại bỗng nhiên thấy nôn nóng không yên liền lại bên cửa sổ trông ra vườn, tôi thắc mắc không biết cái tổ ong ra sao.

Mọi thứ vẫn đâu vào đấy, nguyên hiện như mọi khi, cái cây chống cành mận con nhóc tì đã làm hôm qua vẫn không suy suyển, cái tổ ong vẫn an toàn trông từ xa như một thứ quả chín to lủng lẳng. Trời cũng bắt đầu mưa to hơn.

Bộ phim khá hay nên tôi không chú ý thời giờ là mấy, có điều trong phim có một nhân vật giống y chang chị Ba bán hàng tạp hóa ở đầu xóm khiến tôi thấy buồn cười và bắt đầu nghi hoặc cái trí tưởng tượng phong phú của tôi:

Đến chiều ba tôi đi làm về, cả nhà lại quây quần ăn cơm thì má tôi có vẻ nóng ruột ăn vội vàng rồi đứng dậy trước tiên.

Tôi thắc mắc:

– Sao bữa nay má ăn cơm ít vậy?

– Chị Ba đầu hẻm nhà mình bị tai nạn mới chết chiều nay, má con phải đi qua phụ nhà họ trong lúc chuẩn bị tang lễ.

Ba tôi trả lời thay má.

– Ba nói chị Ba bán tạp hóa hả?

Tôi hỏi lại liền.

– Ừ.

– Chỉ bị xe tông hả ba?

– Ừ.

Tôi im lặng không trả lời. Không phải vì tôi đoán mò mà trúng phóc lý do chị Ba qua đời mà tôi chỉ buột miệng thôi.

Để kiểm chứng lại một lần nữa những nghi hoặc trong lòng tôi liền hỏi tiếp:

– Chị Ba đó đang có thai phải không ba?

– Không, ai nói với con vậy chứ?

Mẹ tôi có vẻ không hài lòng.

– Không có thai nhưng con cổ cũng còn nhỏ quá tội nghiệp.

Ba tôi nói.

Lúc này tôi mới thở phào nhẹ nhõm. Có lẽ chỉ là một sự trùng hợp rất ngẫu nhiên vì chính nhân vật trong bộ phim mà tôi xem ban chiều cũng bị xe tông chết. Có điều nhân vật đó trông hao hao giống chị Ba và nhân vật trong phim cũng góa chồng và có một đứa con nhỏ như chị.

– Trùng hợp gì mà sát sao dữ, mà diễn viên cũng giống nữa.

Tôi lầm bầm vừa nghĩ đến cuốn phim. Trong bộ phim đó nhân vật giống chị Ba chết vì tai nạn xe lúc cô đang mang thai nhưng thật ra cái chết đó là do người tình của cô vì không muốn làm đám cưới nên đã chủ mưu gây án. Đúng là y như phim. Còn ngoài đời chị Ba làm gì có thai, tôi tự nhủ để gác cái suy nghĩ so sánh thực tế và những điều trên phim ảnh.

Buổi tối chỉ còn hai ba con ở nhà. Tôi chơi cờ với ba rồi hai cha con xem tivi tới tận khuya. Mười một giờ rưỡi mới thấy mẹ tôi về đến nhà.

Tôi nghe ba mẹ rầm rì trò chuyện rất lâu trong phòng khách từ lúc tôi phóng lên phòng mình trên gác rồi thiếp đi lúc nào không biết.

Sáng thức dậy tôi đã thấy đồ ăn sáng để sẵn trên bàn trong bếp, trong nhà chỉ còn mình tôi với con Lucky. Nó ngủ lười hơn cả tôi, đã quá trưa mà vẫn chưa nhúc nhích gì cả vẫn còn nằm ểnh cái mõm chó của nó lên và ngáy đều đặn.

Tôi chậm rãi nhấm nháp ở bánh mì vừa thích thú nhìn bầu trời trong veo qua cửa sổ. Những cơn mưa đã gột rửa sạch trơn bụi đất trên lá cây làm khu vườn xanh mướt mát hơn. Một con bươm bướm nhảy nhót hết cành này sang nhánh nọ vẻ tinh nghịch vô cùng.

Ăn uống xong xuôi tôi cầm cuốn phim hôm qua ra tiệm đổi. Có lẽ hôm nay mình nên xem phim nước ngoài thay vì xem phim nhựa Việt Nam. Tôi vừa đi vừa đọc lại cái tựa phim và tên các diễn viên in trên cái vỏ ngoài màu nâu bằng giấy:

bộ phim có tên “Hung thủ”, người đóng vai cô gái bị giết là diễn viên Minh Chi trong vai Khánh” ... và nhiều cái tên khác nữa.

Lúc ngang qua đầu hẻm tôi tò mò nhìn vào bên trong căn nhà phía trước có che rạp và gắn mấy lá cờ trắng. Số hàng tạp hóa của chị Ba đã được dọn đi và thay bằng một chiếc quan tài lớn đặt cao lên ngay giữa nhà, hai bên là hai bình hoa huệ trắng, một cái lư hương khói nhang nghi ngút và tấm ảnh chị Ba ngay trên quan tài còn mới tinh. Ngoài cửa mấy người lớn tuổi đang uống trà, trong nhà hai ba người khác đang đứng viếng.

Tôi không dám nhìn lâu nên cuối cùng cắm cổ đi thẳng.

Chập trưa, lúc tôi hí hửng cầm cuốn phim mới đổi trở về nhà thì đụng phải hai bà hàng xóm đi chợ về đang rôm rả trò chuyện. Mấy câu trong đoạn hội thoại đó vô tình lọt vào tai tôi:

– Nghe đâu con Ba nó đang mang bầu đó.

Một bà nói, giọng xét nét.

– Ừ mà con ai mới được chứ? Vậy là chết cả hai mạng, thiêng lắm đó ...

Nếu tôi không lầm thì hai bà này đích thị là đang nói đến người quá cố:

chị Ba. Vậy ...

Tôi liền đuổi theo:

– Bác Hai, bác Hai ...

Tôi gọi với theo bà hàng xóm.

– Gì vậy, Hiền?

Bà bác Hai quay lại.

– Mày làm gì kêu dữ vậy con?

– Bác Hai nói là chị Ba tiệm tạp hóa đang mai thai hả?

Bà bác Hai ngó tôi trân trân rồi khoát tay:

– Con nít con nôi, hỏi làm gì ba chuyện đó!

Rồi bà toan bỏ đi nhưng tôi cứ khăng khăng.

– Có phải không bác Hai?

– Ờ thì ... mày nghe lởm còn hỏi gì nữa, nhưng chớ có nói lung tung, tội nghiệp người quá cố nghen con.

– Vậy có phải chỉ cũng bị xe du lịch tung rồi chủ xe đánh xe chạy luôn phải không bác? Một chân chỉ bị gãy lìa và cả người chỉ văng vô lề phải không? Lúc đó chỉ đang trên đường đi về nhà mẹ chỉ phải không? Còn ...

Thấy tôi nói không kịp thở, hai bà hàng xóm nhìn tôi lo ngại:

– Mày hỏi gì hỏi dữ vậy thằng này?

Rồi hai bà nhìn nhau, bà Hứa vừa lắc đầu vừa nói với bà Hai:

– Đúng là tin đồn lan đi nhanh thật, tới một đứa con nít ranh cũng biết rõ hết sự tình.

– Thôi đi về đi con, còn nhỏ mà thích hóng chuyện là không hay đâu.

– Nhưng có phải chuyện tai nạn đó xảy ra như vậy không bác Hai?

– Ừ thì đại khái đầu đuôi như vậy. Thằng nhỏ này tò mò quá, đi về nhà đi con.

Bà Hai vừa nói vừa nhìn tôi nghiêm nghị.

Thế là tôi đành quay lưng im lặng đi thẳng một mạch về nhà. Nhưng trong lòng không khỏi hoang mang. Vậy là những gì xảy ra hoàn toàn y hệt như trong bộ phim đó với nhân vật tên Khánh, người diễn viên có gương mặt giống chị Ba.

Tôi lần hồi suy nghĩ lại từng tình tiết trong phim. Ngay cả hoàn cảnh cuộc sống của cô gái tên Khánh cũng y chang như chị Ba, những gì xảy ra với cô cũng xảy tới với chị Ba nếu như những gì bà Hai vừa xác nhận với tôi không phải là những lời đồn thổi của thiên hạ.

Dù sao đi nữa tôi cũng đã mười bốn tuổi, đủ tuổi để hiểu và xác nhận những việc xảy ra xung quanh tôi. Nếu tôi có thể chứng minh được rằng những điều trong phim chính là những điều đã xảy ra với chị Ba ngoài đời thì biết đâu người ta có thể tìm ra được kẻ đã gây tai nạn và cái chết thương tâm cho chị.

Biết đâu kẻ đó lại là ...

Những suy nghĩ càng lúc càng làm tôi hồi hộp và có phần sợ hãi. Không sợ sao được khi những gì mình thấy trong phim lại liên can đến sự sống chết của một con người hẳn hòi. Tôi nhất định phải tìm cho ra sự thật này.

Sau bữa cơm chiều, đợi cho ba mẹ đã ngồi nghỉ ngơi thoải mái trong phòng khách vừa xem thời sự thì tôi mon men lại gần rồi ấp úng trình bày toàn bộ câu chuyện mà tôi đã cố sắp xếp cho ra đầu ra đũa từ chiều đến giờ để tăng thêm tính thuyết phục và giảm bớt mức độ nghi ngờ của người nghe đối với một chuyện khó tin như thế này.

Lúc tôi vừa dứt lời thì nhận ra ngay gương mặt lo lắng của mẹ và ánh mắt vừa nghi ngờ vừa nghiêm nghị của ba đang hướng về phía tôi:

– Con không nên nghe những chuyện ngồi lê đôi mách như vậy.

Ba nói.

– Nhất là chuyện đến người quá cố. Còn cuốn phim con xem là phim nào, con đưa cho ba xem thử?

Ba tôi hỏi.

– Dạ, con đã đem trả rời, hồi sáng, con tưởng ...

– Vậy thì ba sẽ ra tiệm hỏi thuê lại cuốn phim đó.

Ba tôi đứng dậy khỏi đi-văng.

– Nhưng trước khi ba mẹ làm rõ chuyện này con phải giữ mồm giữ miệng và con phải biết là con chịu trách nhiệm về những điều con đã nói ra nghe chưa ...

Hai chữ trách nhiệm nghe nặng như đá nhưng tôi vẫn gật đầu ngoan ngoãn vì toàn bộ những gì tôi nói ra đều là những điều tai nghe mắt thấy.

Mẹ tôi lo lắng:

– Con à, những chuyện con nói là thật hả con? Không phải là con nghe mấy bà hàng xóm kể lại chứ?

– Con đâu có tưởng tượng ra đâu mẹ!

Tôi nhăn nhó thuyết phục. Tôi đâu còn là đứa con nít lên năm mà đặt điều ra những chuyện như vậy chứ.

Nửa giờ sau, ba tôi từ ngoài tiệm phim trở về, hai tay không. Ông thả người xuống ghế rồi nhìn thẳng và tôi:

– Ba hỏi rồi, cuốn phim mà con nói có người đã mua mất hồi chiều. Ba có hỏi mấy tiệm nữa nhưng họ đều hết hàng cả.

Tôi thất vọng ra mặt. Bây giờ không lấy gì để chứng minh câu chuyện của tôi nữa.

– Mấy người chủ tiệm cũng có nói với ba về câu chuyện trong phim nhưng ba nghĩ có lẽ là trùng hợp thôi. Chắc con đã tưởng tượng ra phần còn lại về chuyện người trong phim giống chị Ba và đại loại như vậy.

– Con đã thấy thật ...

Tôi bị đụng chạm lòng tự ái liền chạy luôn về phòng. Tôi nằm ấm ức mãi tới tận khuya. Lúc ngó ra cửa sổ chỉ thấy một bầu trời xanh thẫm lấm tấm những ngôi sao màu bạc trông như những hạt kim tuyến trên một tấm thiệp khổng lồ.

Điều này khiến tôi cảm thấy dễ chịu hơn đôi chút. Tôi ngó xuống khu vườn nhà bên cạnh, con nhỏ nhà bên đang đứng ngay bậu cửa sau nhìn ra sân, thấy tôi nó nhoẻn miệng cười đáng ghét hết sức. Nếu mà nó trải qua những thứ tôi đang trải qua chắc nó hết cười nổi.

Tôi đóng sầm cánh cửa sổ ngay trước mặt nhỏ. Gieo mình lên giường cố đi ngủ.

Ngày Chủ nhật bình yên trôi qua, người ta đã hỏa táng người phụ nữ xấu số, con của chị thì theo về nhà bà ngoại.

Tôi không buồn thuyết phục ba mẹ câu chuyện của tôi nữa, trong nhà tôi cũng không ai nói đến chuyện đó.

Buổi chiều ba gọi tôi ra vườn phụ gom rác và tỉa cành cây. Lúc hai cha con cùng làm việc, ba tôi hỏi:

– Con còn nghỉ hè thêm hai tháng nữa phải không?

– Dạ.

– Vậy ba đưa con về dưới quê chơi cho khuây khỏa nha?

– Dạ được.

Tôi đáp mà trong lòng chắc mẩm ba tôi nghĩ rằng tôi đang bị một chứng bệnh thần kinh nào đó và tưởng tượng ra mọi thứ nên ông mới đề nghị như vậy.

Nhưng mặc kệ, về quê cũng hay nên tôi không hề tỏ ý phản đối gì.

– Tuần sau ba con mình sẽ về dưới đó.

Ba tôi nói giọng pha lẫn sự hài lòng.

Tôi nằm dài trên đi văng trong phòng khách chờ bữa cơm tối. Bật đi bật lại mấy kênh truyền hình quen thuộc. Một bộ phim đang chiếu trên tivi làm tôi dừng lại, tôi thấy một cô bé đang đứng dưới gốc cây ngước đầu nhìn lên một cái tổ ong to tướng trên cành cây, vừa lúc đó có một cơn gió mạnh đưa đến khiến cành cây đung đưa dữ dội, cái tổ ong rơi thẳng xuống đất và những con ong bắt đầu túa ra đen đặc cả không gian quanh cô bé gái.

Đoạn phim diễn ra nhanh chóng và kết thúc bằng cảnh đàn ong vây lấy cô bé gái khiến tôi không kịp nhìn thấy để khẳng định điều gì nhưng rõ ràng khung cảnh này có điều gì đó quen quen. Tôi nghĩ ngay đến cây mận và con nhóc tì nhà bên.

– Xuống ăn cơm, Hiền ơi!

Tiếng mẹ tôi vọng lên từ dưới bếp. Bộ phim cũng kết thúc ở đó, không còn gì thêm nữa nên tôi đành tắt đài luôn. Trong đầu vẫn còn băn khoăn.

Ba mẹ có vẻ vui vẻ chiều hôm đó, hai người chuyện trò suốt bữa ăn. Chỉ có tôi chỉ im lặng cắm cúi ăn và bận ... suy nghĩ.

Căn nhà hàng xóm với nhà tôi có hai đứa con gái, một đứa lên năm, đứa kia lên sáu. Tôi là con trai nên dĩ nhiên chẳng bao giờ thèm chơi với tụi nó. Chỉ thỉnh thoảng mới thấy chị em nó thập thò bên hàng rào hoặc chơi bán hàng dưới gốc cây mận sau vườn.

Tôi không quan tâm gì đến hai con nhóc đó cả mà không hiểu sao những gì trong đoạn phim vừa thấy khiến tôi lại nghĩ đến chúng.

Ăn cơm xong tôi lại chạy trở về phòng, đứng ngó ra cửa sổ quan sát cái tổ ong. Càng nhìn lại càng thấy giống cái cảnh trong phim hơn.

Tôi lấy làm thắc mắc về bộ phim mà tôi tình cờ xem thấy một đoạn hồi chiều. Tôi lại ngồi trước tivi, mở lại đúng kênh phim truyện ban chiều. Biết đâu họ chiếu lại bộ phim đó thì sao, biết đâu, tôi muốn xem kỹ lại ... Tôi cũng hoang mang, chẳng biết rằng vì lý do gì đầu óc mình lại quanh quẩn với những chuyện không đâu như thế này, phải chăng tôi bị trí tưởng tượng khống chế mất rồi.

Hàng giờ trôi qua dài như hàng thế kỷ. Tôi xem hết phim nọ đến phim kia mà cũng không thấy chiếu lại cảnh phim hồi chiều.

– Tắt đài đi ngủ đi, Hiền!

Tiếng mẹ tôi từ dưới nhà lại vọng lên.

– Dạ, chút nữa thôi mẹ!

Tôi đáp hờ.

Trong nhà đã tắt hết đèn đóm lên giường chỉ còn lại mình tôi ngồi ôm cái tivi rồi ngủ gục lúc nào không hay.

Lúc cái rờ-mót tuột khỏi tay mình rơi xuống sàn đánh cạch một phát tôi mới giật nảy mình nhổm dậy. Hai mắt tôi còn chưa tỉnh hẳn khỏi một cái màn mờ đục thì đã kịp nhận ra cảnh đang chiếu trên màn hình tivi. Đúng là bộ phim đó. Đứa bé gái đứng trước cái tổ ong đang chực rơi xuống có khuôn mặt y chang con Bé Em nhà bên cạnh khiến tim tôi muốn ngừng đập. Lúc tôi thức dậy và trông thấy đoạn phim cũng là lúc gần kết thúc hệt như ban chiều. Chưa đầy hai phút sau là cô bé trong phim bị bầy ong vây kín thân thể, và bộ phim cũng dừng tại đó luôn. Những dòng chữ trắng thi nhau chạy lên đầy trên màn hình khiến tôi thất vọng vừa tự trách mình sao không thức dậy sớm hơn để xem cho được đầu đuôi câu chuyện.

Tôi tức tối dán mắt vào màn hình tivi đến tận mấy phút. Đồng hồ đã điểm hai giờ sáng.

Trước lúc khép cửa nẻo đi ngủ tôi lại bên cửa sổ nhìn xuống khu vườn tối đen bên hàng xóm, cái tán lá cây mận xòe ra làm nơi ẩn náu cho bóng tối đen đặc, dày quánh lại, phải quan sát kỹ càng lắm mới nhận diện được cái tổ ong là một hình thù tròn trĩnh lẫn vào trong cái bóng tối ấy.

Trong vườn không có một cử động nào, gió cũng đứng yên. Trời oi nồng như sắp sửa có dông.

Tôi tưởng tượng đến cái bức tranh con Bé Em nhà này đứng trước cái tổ ong rồi bị bao vây lấy bởi một đám mây đen đầy tiếng vo ve cho tới lúc nằm yên bất động trên mặt đất thì cảm thấy một nỗi sợ hãi hiện lên rõ rệt trong tâm trí. Tôi không biết mình có thể bị thần kinh rồi chăng, luôn luôn tưởng tượng những chuyện từ trong phim ảnh. Rồi tôi lại nghĩ đến khả năng có lẽ nào những chuyện này là thật, và tôi đã có được khả năng kỳ diệu là nhìn thấy trước tất cả những tai nạn sắp xảy ra với những người xung quanh.

Điều này còn điên rồ và không tưởng hơn cả cái kết luận là tôi bị thần kinh.

Tôi chưa đi đến quyết định cuối cùng cho tất cả những giả thuyết ấy nhưng tôi biết chắc phải có một những điều trên là sự thật. Mà nếu sự thật đó lại không rơi vào cái giả thuyết thứ nhất, tức là tôi hoàn toàn không bị thần kinh thì thật là đáng sợ.

Xưa nay con người thường hay sợ những vật thể siêu nhiên như ma quỉ, đó là vì họ không thể lý giải được những chuyện kỳ lạ đã xảy ra. Bản thân tôi cũng thế. Tôi đi từ suy luận này sang suy luận khác vẫn không rút ra được một chi tiết vô lý nào trong chuyện này cả. Bản thân tôi nhìn thấy và nghe thấy những gì tôi vẫn nhớ như in, làm sao có thể là sản phẩm của trí tưởng tượng hoặc sự nhầm lẫn của trí nhớ cho được?

Cuối cùng, dựa trên những điều mà tôi phán đoán thì rất có thể những tai nạn xảy ra trên những thước phim mà tôi đã chứng kiến có khả năng sẽ xảy ra với chính cái người mà tôi thấy trong đó ở đời thật. Điều này làm tôi nghẹt thở.

Cảm giác như một cái bong bóng to chèn vào lồng ngực. Tôi cố thở một cách khó nhọc.

Cứ thế tôi nằm yên trên giường trong bóng tối dưới sức nặng của cái bong bóng khổng lồ vô hình và suy nghĩ suốt hàng giờ đồng hồ cho tới khi trời sáng.

Bình minh bắt đầu bằng một cái vệt màu cam nhạt ở đằng đông, bầu trời vẫn xanh một màu mực đen và mịn như nhung, rải rác những ngôi sao nhỏ. Rồi cái vệt màu cam ấy lan rộng và to lớn lên dần dần, nó tỏa ra như một cái nan quạt ở phía góc trời đó và càng lúc càng rộng dần cho đến khi mắt người ta không còn nhận ra được những ngôi sao nữa, và bầu trời cũng đã sáng tỏ.

Tôi vặn người trên giường mấy cái rồi dụi mắt đi xuống nhà. Căn nhà tràn ngập mùi cá kho của mẹ.

– Ông tướng tối qua xem tivi khuya dữ!

Mẹ tôi nói, nửa mắng nửa đùa.

Tôi hãy còn ngái ngủ, hay đúng hơn là buồn ngủ vì cả đêm qua tôi chỉ chợp mắt được một tí.

– Nghỉ hè mà mẹ.

Tôi nhừa nhựa đáp rồi chui tọt vào nhà tắm, ngồi lì luôn trong đó.

Đợi cho ba mẹ rồ máy xe đi làm tôi mới lỉnh lên phòng mình trên gác, mang theo ổ bánh mì, phóng lên ngồi vắt vẻo trên cửa sổ và lại quan sát cái cây xoài.

Tôi tự nhủ từ bây giờ mình có hai việc để làm:

một là phá cái tổ ong kia để ngăn ngừa tai nạn sẽ xảy ra cho con Bé Em bên nhà đó, hai là phải điều tra cái chết của chị Ba.

Tôi chỉ có đúng một tuần lễ để làm những chuyện này sáng tỏ trước khi ba mẹ tống khứ tôi về dưới quê. Mà nhất định chuyện điều tra này phải giấu kín, nếu không thì ba sẽ đưa tôi về quê nhanh chóng hơn nữa.

Tôi nhìn ngắm cành cây có chạng ba mà con Bé Chị đã dùng để nâng nhánh cây mận. Nhờ có nó mà cái tổ ong không bị mưa gió làm rơi xuống đất.

Tôi thấy con Bé Chị đang thập thò chỗ hàng rào, thấy tôi nhìn nó cười tươi như muốn qua chơi.

– Ai muốn làm bạn với mày đâu chứ, đồ con nít? - Tôi nghĩ thầm. Nhưng trong đầu lại lóe lên một ý nghĩ nên liền cười lại với nó.

Con nhỏ loanh quanh sân một lúc rồi chạy biến vô trong nhà. Tôi quyết định là phải sang nhà con nhỏ đó để phàn nàn với ba nó rằng cái tổ ong đó có ong thường bay sang đốt tôi, như vậy ba nó sẽ tìm cách thiêu hủy cái tổ ong kia đi, thế là những điều sẽ xảy ra như trên tivi sẽ không xảy ra được nữa với con Bé Em, thật là thông minh hết sức. Tôi tự khen mình rồi chạy ngay sang nhà con Bé Chị.

– Cốc cốc!

Tôi gõ lên cánh cửa gỗ đang đóng im ỉm liền mấy cái mà không ai trả lời.

Nhòm qua cái khe thì chỉ thấy trong nhà tối om không người.

– Quái, con nhỏ này mới thấy ở nhà đã đi đâu mất tiêu!

Tôi đành quay về, từ giờ đến trưa hễ lúc nào thấy người nhà này về là tôi sẽ sang “phàn nàn” ngay, giải quyết xong việc càng sớm càng hay.

Trường hợp tất cả chỉ là tưởng tượng của tôi thì có chặt đi một cành cây và phá một tổ ong cũng không mất mát gì cả.

Tôi lại bắt đầu cuộc điều tra với cái chết của chị Ba. Lúc tôi đang mon men trước nhà chị thì bị con bé Thi con chị bắt quả tang:

– Anh Hiền làm gì đó?

Nó hỏi.

– Ờ ... tao có làm gì đâu.

Tôi lơ đãng.

– Mà mày không phải đã qua ở với bà ngoại hả?

Tôi bắt đầu cuộc điều tra.

– Dạ, ngoại dẫn em về nhà lấy đồ. Em muốn lấy cuốn tô màu này nè.

Nói rồi nó hí hửng khoe tôi một cuốn sách đủ màu xanh đỏ.

– Ừ, đẹp đó. Của mẹ mua hả?

Nghe tôi nhắc chữ “mẹ” con nhỏ buồn thiu, nhìn gương mặt ủ dột của nó tôi lấy làm ái ngại.

Nó lắc đầu và lí nhí:

– Không phải, sách này của chú mua cho Thi.

Tôi không dám hỏi tiếp sợ rủi con nhỏ nhớ mẹ rồi khóc toáng lên thì ai mà dỗ nổi, đành lấp liếm.

– Sách đẹp hén, mày tô hết chưa?

– Em tô sắp hết rồi, chú nói khi nào tô hết chú sẽ mua sách mới cho em.

Nhưng mà bây giờ chú không qua chơi với em nữa.

Nhỏ Thi kể lể.

– Sao lại không chớ? Chắc chú của mày bận đi làm thôi.

– Không phải đâu. Chú đó chỉ qua chơi với mẹ thôi.

Tôi thắc mắc một giây rồi vỡ lẽ. Nếu là chú ruột bên gia đình ba bé Thi thì không thể nào vì nhà bên đó đã đi vượt biên lâu rồi, từ lúc ba nó mất, làm gì có chú bác nào tới lui.

Tôi liền điều tra:

– Chú đó là họ hàng nhà mày hả?

– Không phải. Chú là chú bạn của mẹ Thi thôi. Chú biết lái xe to giỏi lắm.

Vậy là đã rõ. Chị Ba có một người bạn thường tới chơi với mẹ con chị, xem chừng cũng thân thiết lắm, ông này lại còn là tài xế lái xe. Vậy là trùng khớp hết với những gì tôi đã xem trong phim. Thật lạ kỳ hết sức.

– Vậy ngoại mày đâu rồi?

– Ngoại em ở sau nhà quét dọn. Anh Hiền muốn tô màu không?

– Ừ để đó.

Tôi nhìn vô nhà một cái, thấy một người phụ nữ đứng cạnh bàn thờ chị Ba, quay lưng ra phía tôi. Có lẽ là dì út của bé Thi, tôi vẫn gặp thường hay xuống phụ mẹ nó bán hàng.

– Thôi tao phải về coi nhà. Mày rủ dì út tô màu với mày đi.

Tôi tìm cớ rút lui.

– Dì út đi thành phố chưa về mà.

Nhỏ Thi cáu kỉnh.

– Chớ ai kia mày?

Tôi vừa hỏi vừa chỉ tay về phía bàn thờ chỗ dì nhỏ Thi đang đứng nhìn ảnh của mẹ nó.

Nhỏ nhìn theo tay tôi chỉ rồi quay sang giương hai cặp mắt to và đen lóng lánh của nhỏ nhìn vào mắt tôi:

– Chỗ đó là bàn thờ của mẹ, có ai đâu?

Tôi bán tín bán nghi nhìn đi ngó lại hai ba bận rồi quyết định:

– Thôi không nói với mày nữa, tao đi về à!

– Mai mốt anh Hiền qua chơi nữa nghen!

Nhỏ nói với theo.

Rõ ràng con nhỏ này lừa mình chứ dì nó đứng sờ sờ ra đó còn gì. Tôi tức tối đi một mạch về nhà. Nhà con Bé Chị bên cạnh vẫn đi đâu chưa thấy về, cửa cứ đóng im lìm mãi.

Vậy là ít ra tôi cũng tìm được chút manh mối trong đời tư của chị Ba qua con bé Thi. Nếu mọi chuyện thật sự diễn ra “y như phim” thì chắc chắn ông “chú bạn của mẹ” bé Thi chính là hung thủ rồi còn gì. Mà cũng có nhiều khả năng như vậy lắm chứ, từ đầu đến giờ mọi thứ diễn ra y hệt như trong phim kia mà.

Ngoài ra xét trên khía cạnh thực tế thì cũng có lý lắm chứ.

Tôi băn khoăn không biết bước tiếp theo mình nên làm là gì. Đi báo cảnh sát thì không có bằng cớ gì cụ thể, nói với ba mẹ thì không có gì để chứng minh nhất là khi cuốn phim đã bị ông chủ tiệm bán đi mất, tự mình hành động là cách duy nhất còn lại nhưng tôi lại đang bí nước chưa rõ phải làm gì.

Đi tới đi lui trong nhà mãi cũng chán, tôi lại không muốn xem tivi. Cứ tưởng tượng mỗi ngày hễ xem tivi là thấy có một người mình quen bị tai nạn hoặc chết thì có phải là rùng rợn không chứ. Tôi quyết tâm sẽ không ngó ngàng đến phim ảnh một thời gian, rồi có lẽ những chuyện này cũng sẽ qua đi như một giấc mộng giữa ban ngày.

Đang chơi với con Lucky trong sân tôi chợt nhận ra bên nhà con Bé Chị có người ra vào đông đúc liền chạy ngay sang. Một cảnh tượng khiến tôi ngỡ ngàng:

mẹ con Bé Chị khóc đứng khóc ngồi bên một cái băng ca trắng toát còn nó thì nằm ngay đơ trên đó, bất động, mặt mày xanh dờn. Ba nó thì đứng bên cạnh đỡ lấy vai mẹ nó, con Bé Em đứng một bên cũng nước mắt ngắn dài.

Tôi chưa kịp hiểu sự tình thì thấy mấy người đàn ông khiêng từ ngoài sân vô một cái áo quan mới tinh, nhỏ bằng phân nửa cái áo quan thông thường. Lẽ nào ...

Tôi nghe tiếng mẹ Bé Chị than khóc:

– Con ơi con, sao con nỡ bỏ mẹ ....

Vừa lúc ấy ba mẹ tôi cũng đi làm về, ba gọi tôi vào nhà rồi cùng mẹ tôi sang nhà con Bé Chị. Tôi vẫn đương tò mò không biết chuyện gì xảy ra với nó, sao nó lại nằm bất động trên băng-ca, phải chăng nó đã ... Tôi hoảng sợ nghĩ đến cái lô-gic cuối cùng của câu chuyện.

Tôi phóng lên gác, nhìn xuống sân sau nhà bé Chị, cây mận, cái tổ ong, mọi thứ vẫn như một bức tranh không đổi. Chỉ có điều cái cây có chạng ba để chống cành mận mà Bé Chị làm mấy ngày trước không thấy đâu nữa. Một cảm giác kỳ lạ trỗi dậy bên dưới cổ họng khiến tôi thấy khó chịu vô cùng. Trong đầu tôi nghĩ ngợi lung tung. Nếu thực sự tôi bỗng dưng có được cái khả năng nhìn thấy cái chết xảy ra với những người xung quanh và con Bé Chị đã gặp chuyện gì đó và chết tôi chắc chắn cũng phải nhìn thấy luôn.

Thế mà mọi việc xảy ra không còn theo cái logic ấy chút nào nữa khiến tôi muốn nổ tung cái đầu. Vừa lúc ấy tôi lại thấy con Bé Em đang lững thững bước ra sân sau nhà nó, lặng lẽ đứng nhìn lên cành cây mận lủng lẳng cái tổ ong to tướng đang đong đưa nhịp nhàng trong gió. Như một phản xạ tự nhiên tôi biết rằng tôi phải làm điều gì đó ngay tức khắc. Hình ảnh trong bộ phim như đang quay chậm lại trong đầu tôi từng chi tiết một. Hai chân tôi quýnh lên, chạy như bay xuống nhà và lao thẳng ra ngõ về phía nhà Bé Chị.

Mặc kệ mấy người lớn trong nhà hỏi han và mẹ tôi hốt hoảng chạy theo sau, tôi cắm đầu chạy thẳng ra cửa sau nhà Bé Chị, vừa chạy vừa la:

– Ong chích con Bé Em! Ong chích!

Lúc tôi chạy xuống đến nơi thì cái tổ ong đã nằm lăn lóc dưới đất và một đám mây màu đen vo ve ồn ào chỉ còn cách con Bé Em độ một thước. Tôi liền tóm lấy tay, nhấc bổng nó lên và bế nó thẳng vào trong nhà rồi đóng sầm cánh cửa gỗ lại sau lưng. Bấy giờ người lớn trong nhà mới chạy đến đông đủ, ba Bé Em nhìn qua tấm kính cao trên cánh cửa, nét mặt đầy sợ hãi trước sự đông đảo của bầy ong đang chực chờ bên ngoài. Mẹ con bé cảm ơn rối rít vì tôi đã cứu mạng Bé Em, bà khen tôi nhanh nhẹn, tháo vát và đủ thứ cả. Còn tôi phải mất cả mười phút mới hoàn hồn. Con Bé Em chỉ bị ong đốt hai phát, cánh tay sưng vù lên trông thấy.

Lúc trở về nhà, qua câu chuyện của ba mẹ tôi mới biết rằng con Bé Chị đã mất được ba ngày rồi vì bệnh thương hàn, ba mẹ nó đi công tác nước ngoài nên nghe tin con mất hai ngày sau mới về đến nơi. Điều này càng khiến tôi thêm hoang mang khi chính con Bé Chị đã đứng sau nhà cười với tôi sáng nay và cả hai ngày trước nữa. Và cũng chính là từ ba ngày trước đây, sau cái hôm tôi bị sét đánh cạnh bậu cửa và nhìn thấy con Bé Chị mặc áo mưa ra đặt cái cây chống cành mận là từ hôm đó tôi bắt đầu thấy trước những cái chết xung quanh. Mẹ tôi nói con Bé Chị đã được đưa vào viện cả tuần trước đó nên tôi cũng không cách gì lý giải được tại sao tôi lại thấy nó ở sau nhà. Vậy thì có lẽ điều tôi cần làm bây giờ là nhắc lại câu chuyện với ba mẹ và quan trọng hơn cả là để ba mẹ có thể nhờ công an tìm ra manh mối kẻ đã gây ra tai nạn cho chị Ba.

Nghĩ sao làm vậy, tôi từ tốn kể lại đầu đuôi nguyên do tại sao tôi biết mà tới cứu con Bé Em và tất tần tật những chuyện về người bạn trai tài xế của chị Ba mà tôi điều tra được từ bé Thi con chị. Ba mẹ lắng nghe tôi không thiếu một câu nào.

– Ba mẹ có thể không tin con nhưng mà chuyện này có liên quan đến kẻ gây tai nạn cho chị Ba, con chỉ mong là ba mẹ có thể giúp con để người ta điều tra ra được ...

Tôi nằn nì.

– Ba cũng không chắc ... vả lại người ta nói kẻ gây ra tai nạn đã bỏ trốn cùng xe nên khó mà biết được. Còn người bạn của chị Ba, biết đâu lại là người không có liên can gì, mình không có bằng chứng làm sao đề nghị cảnh sát điều tra được.

Ba tôi có vẻ không mấy khả quan.

Tôi theo mẹ xuống bếp gọt trái cây. Tôi lại nằn nì. Cuối cùng mẹ tôi nói:

– Ừ, mẹ tin con Hiền à. Mẹ sẽ cố thuyết phục ba con đi nói chuyện với cảnh sát xem sao.

Tôi phấn khởi hẳn, tuy vậy suốt buổi tối tôi cứ thấy ba mẹ rầm rì to nhỏ chuyện gì như thể sợ tôi nghe thấy. Tôi đành bỏ đi ngủ sớm.

Hôm sau, lúc cả nhà tề tựu đông đủ bên bàn ăn tối, ba tôi mới chậm rãi thông báo:

– Ba đã gặp bên công an hồi sáng. Họ nói có người nhìn thấy bảng số xe tông chị Ba nhưng cả chủ cả xe cùng bỏ chạy nên vẫn chưa tìm được. Tuy vấn đề chỉ là thời gian rồi sẽ bắt được hung thủ. Ba có đề cập những điều con kể thì họ nói sẽ tổ chức điều tra. Tối nay họ sẽ xuống tận nhà chị Ba để xem xét và nói chuyện với những người thân của chỉ ...

Tôi mừng rỡ ra mặt vì nếu họ bắt đầu điều tra những gì tôi đã nói với ba thì chắc hẳn sớm hay muộn cũng tìm ra được bằng chứng rõ ràng.

– Ăn cơm xong con có muốn qua bên đó với ba không?

Tôi gật đầu ngay không cần suy nghĩ.

Hai ba con tôi bước vô căn nhà ở đầu hẻm thì thấy hai người mặc cảnh phục xanh đã ngồi sẵn bên bàn nước, bà ngoại mẹ chị Ba và con bé Thi cũng ngồi kế bên, có cả dì út của nó đang đứng sau lưng.

Lần này, để xác định rõ ràng sự có mặt của dì út nó, tôi chào một lượt hết thảy mọi người:

– Chào ngoại, chào dì út, chào chú ...

Mọi người đều gật đầu chào lại khiến tôi yên tâm. Một chú công an bắt đầu hỏi lý lịch tất thảy mọi người và những chuyện liên quan khác như ngày giờ chi Ba đi ra ngoài rồi bị tai nạn vân vân ... Lúc hỏi đến người bạn trai của chị Ba thì không ai trả lời gì cả khiến tôi lấy làm lạ.

Chú công an lên tiếng:

– Vậy là cả nhà không ai biết gì đến người bạn của chị Ba hết?

Ông vừa nhìn khắp lượt mọi người.

– Không, con Ba làm gì có quen ai kia chứ, không có đâu.

Bà ngoại khẳng định. Bé Thi thì ngồi im trong lòng dì út nó. Dì cũng yên lặng một lúc, bỗng dưng ngắt lời bà ngoại.

– Có đó mẹ à.

Mọi ánh mắt trong phòng đều dồn sang phía dì út. Dì ngước mặt lên, nói rành rọt:

– Chị Ba không cho ai trong nhà hay biết vì chỉ sợ bị cấm cản vì anh ta cũng đang có gia đình vợ con nên dặn con giữ bí mật. Ảnh tên là Khải, lái xe du lịch mẹ à!

Chú công an gật gù, chờ dì út dứt lời mới hỏi tiếp:

– Có phải tên là Trương Thiếu Khải không?

– Dạ phải. Ảnh quen với chị Ba tôi mấy năm nay nên tôi cũng biết rõ.

Đó chính là tên của người chủ chiếc xe đã gây tai nạn cho chị Ba và đang bỏ trốn, cảnh sát đã có nhân chứng nhìn thấy bảng số xe, giờ lại có tên họ quê quán của nghi phạm nên mọi việc xem ra đã suôn sẻ.

Ba xoa xoa đầu tôi như khen ngợi. Đêm đó tôi ngủ thẳng một mạch ngon lành tới tận sáng.

Hai ngày sau, công an bắt được chủ xe đang bỏ trốn chính là người đàn ông đã quen với chị Ba. Ban đầu ông ta chối cãi nên họ đã dẫn độ xuống tận nhà chị để lấy lời khai của hàng xóm và người thân. Tôi cũng chạy ra xem, trong lòng hả hê lắm. Lúc về nhìn vô nhà chị Ba tôi lại thấy dì út của nhỏ Thi đứng ngay bàn thờ chị Ba nhìn ra ngoài, có điều khi tôi lại gần mới thấy không phải khuôn mặt dì út mà chính là chị Ba đang nhìn tôi cười rất tươi, thật không tài nào hiểu nổi.

Từ đó về sau, những chuyện lạ lùng thôi không còn xảy ra với tôi nữa, ba mẹ cũng tin tưởng tôi nhiều hơn trước. Duy chỉ có một điều tôi vẫn không thôi thắc mắc, đó là tấm thiệp con Bé Em làm tặng tôi sau khi mấy vết ong chích của nó đã khỏi hẳn. Tấm thiệp đó có nét chữ yếu ớt của trẻ con nhưng ngay ngắn như đứa đã viết thạo, trên đó ghi:

Cảm ơn anh Hiền đã giúp em. Chúc anh có sức khỏe tốt và học giỏi.

Bé Chị.

Tôi thắc mắc, một là vì con Bé Em mới bốn tuổi còn chưa biết viết, thêm nữa trên thiệp lại ghi tên là Bé Chị. Kỳ khôi hết sức. Hay là ...

HẾT