Lời mở đầu

Đây là ấn bản bìa mềm cuốn Chiếc Lexus và cây Ô liu. Độc giả của ấn bản gốc bìa cứng sẽ thấy một số thay đổi so với ấn bản mới này. Nhưng luận thuyết chủ yếu của cuốn sách không thay đổi: Toàn cầu hóa không chỉ đơn giản là một trào lưu thời thượng à đúng ra là một hệ thống quốc tế. Hệ thống này bây giờ đã thay thế hệ thống Chiến tranh Lạnh và cũng như hệ thống Chiến tranh Lạnh, toàn cầu hóa có quy tắc và logic riêng hiện đang trực tiếp hay gián tiếp ảnh hưởng đến chính trị, môi trường, địa chính trị và kinh tế của hầu như mọi nước trên thế giới.
Thế nhưng thay đổi gồm những gì? Tôi đã sắp xếp lại các chương đầu để độc giả nhận định và tiêu hóa luận thuyết chủ yếu của tôi dễ dàng hơn. Tôi cũng sử dụng thời gian từ lúc cuốn sách được xuất bản lần đầu tiên vào tháng tư năm 1999 để thu thập thêm chứng cứ và để cập nhật, mở rộng cuốn sách với mọi tiến bộ khoa học và thị trường đã nâng cao toàn cầu hóa thêm một bước nữa. Tôi cũng đã xem xét lại một số tiểu luận đề gây tranh cãi trong cuốn sách này. Một trong số đó là Lý thuyết vòng cung vàng- cho rằng chưa có hai nước nào có tiệm ăn McDonald từng giao chiến với nhau từ khi có mặt McDonald. Tôi thấy lô gic đằng sau lý thuyết này được cũng cố hơn bao giờ hết vào tôi đã trả lời cho những ai nghi ngời lý thuyết này sau khi xảy ra chiến tranh Kosovo. Một thay đổi khác là chương trước đây đặt tên "Mua Đài Loan, giữ lại Ý, bán Pháp" nay được tách thành hai chương. Chương mới mang tên "Tạo lập, thích nghi và những cách tư duy mới khác về quyền lực", dựa trên một câu hỏi tôi nêu lên trong ấn bản đầu tiên: Nếu quyền lực kinh tế trong hệ thống toàn cầu hóa đầu tiên dựa vào số máy tinh cá nhân trong hộ gia đình ở một nước, sau đó là băng thông Internet trên đầu người trong một nước, còn sau đó là gì? Chương này cố gắng trả lời câu hỏi đó bằng cách xem xét các cách mới khai sinh để đo lường quyền lực kinh tế trong kỷ nguyên toàn cầu hóa. Cuối cùng, tôi đã cố gắng trả lời một số câu hỏi thường được độc giả ấn bản đầu tiên nêu lên: "Ông miêu tả hệ thống mới này như thế đó, tôi phải làm gì để chuẩn bị cho con cái thích ứng với nó?"; "Có Thượng đế trong không gian điều khiển học chăng?" - đấy là câu hỏi hàm ý "Giá trị đạo đức nằm ở đâu?".
Trật tự thế giới mới phát triển quá nhanh đôi lúc tôi ước gì đây là một cuốn sách điện tử mà tôi có thể cập nhật hàng ngày. Hy vọng mang tính thực tế hơn rằng sẽ có ngày trong nhiều năm tới cuốn sách này sẽ không còn nằm trên kệ "Vấn đề thời sự" trong hiệu sách nữa. Nó sẽ chuyển sang kệ sách "Lịch sử" - được nhớ đến như một trong những cuốn sách phát hiện và lần đầu tiên giúp định nghĩa hệ thống toàn cầu hóa mới mẻ đang chi phối chúng ta.
Thomas L. Friedman
Bethesda, Md.
Tháng giêng 2000


Màn dạo đầu

Thế giới này tròn mười tuổi

Thật tệ hại - chúng tôi đâu có liên quan gì đến Nga hay châu Á. Chúng tôi chỉ là một doanh nghiệp nhỏ trong nước đang cố phát triển nhưng chúng tôi đang bị ngáng đường vì cách thức chính phủ các nước ấy điều hành đất nước họ.
- Douglas Hanson, Tổng giám đốc công ty Rocky Moutain Internet trả lời phỏng vấn tờ Wall Street Journal sau sú sụp đổ của thị trường năm 1998 đã buộc ông ta đình hoãn việc phát hành 175 triệu đô-la trái phiếu giá rẻ.
Vào sáng ngày 8-12-1997, chính phủ Thái Lan tuyên bố đóng cửa 56 trong số 58 tổ chức tín dụng của nước này. Trong một thời gian ngắn, các tổ chức tư nhân này đã bị phá sản do đồng tiền của Thái , đồng baht bị suy sụp. Các tổ chức tín dụng đã vay thật nhiều bằng tiền đô-la Mỹ rồi cho doanh nghiệp Thái vay tiền xây khách sạn, cao ốc văn phòng, căn hộ cao cấp và nhà xưởng. Mọi tổ chức tín dụng đều nghĩ họ an toàn vì chính phủ Thái có cam kết giữ giá trị đồng baht theo một tỷ lệ cố định với đồng đô-la. Nhưng khi chính phủ không làm được điều hứa hẹn đó sau một đợt dân đầu cơ toàn cầu tấn công đồng baht - cũng do nhận thấy rằng nền kinh tế Thái Lan không mạnh như người ta từng tưởng- đồng tiền Thái Lan sụt giá 30%. Điều này có nghĩa doanh nghiệp nào từng vay đô-la giờ phải kiếm thêm một phần ba nữa tiền baht mới mong trả được nợ. Nhiều doanh nghiệp không trả nổi khoản vay cho các tổ chức tín dụng, nhiều tổ chức tín dụng không thể trả nợ cho chủ nợ nước ngoài và cả hệ thống dồn cục lại, chết đứng, làm 20.000 nhân viên mất việc làm. Ngày hôm sau, tình cờ tôi đi xe đến một cuộc hẹn tại Bangkok dưới đường Asoke-khu vực tương đương phố Wall bên Mỹ-nơi đặt trụ sở của nhiều tổ chức tín dụng bị phá sản. Khi từ từ lái qua các ngân hàng đã sụp đổ, người tài xế taxi chỉ mặt, điểm tên từng cái, miệng tuyên án: Chết!... chết!...chết!...chết!...chết!"
Lúc đó tôi không biết-mà nào ai biết được-các tổ chức tín dụng Thái Lan này chỉ là những quân cờ đô mi nô đầu tiên trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đầu tiên trong kỷ nguyên toàn cầu hóa-kỷ nguyên tiếp nối thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Cuộc khủng hoảng Thái Lan đã châm ngòi cho hàng loạt vụ rút vốn ào ạt ra khỏi hầu hết mọi thị trường mới nổi ở Đông Nam Á, làm giá trị đồng nội tệ của Hàn Quốc, Nakaysia và Indonesia suy sụp. Cả nhà đầu tư toàn cầu và địa phương bắt đầu xem xét các nền kinh tế này cẩn thận hơn, thấy chúng chưa hoàn hảo nên chuyển vốn đến nơi an toàn hay đòi lãi suất cao hơn để bù đắp độ rủi ro cao hơn. Chẳng bao lâu sau, một trong những chiếc áo được ưa chuộng ở Bangkok mang dòng chữ "Từng Rất Giàu".
Trong một vài tháng, suy thoái Đông Nam Á bắt đầu có tác dụng lên hàng hóa toàn thế giới. Châu Á từng là một đầu máy quan trọng trong phát triển kinh tế toàn cầu-một đầu máy tiêu thụ nhiều nguyên liệu thô. Khi đầu máy này khục khặc, giá vàng, đồng, nhôm và quan trọng hơn, giá dầu thô bắt đầu giảm. Việc giảm giá hàng hoá toàn cầu này hóa ra là cơ chế lan truyền khủng hoảng Đông Nam Á sang Nga. Lúc ngày Nga đang lo chuyện của mình, với sự giúp sức của IMF đang cố gắng thoát ra bãi lầy kinh tế tự tạo để đạt tăng trưởng ổn định. Tuy nhiên, vấn đề của Nga là nhiều nhà máy không thể sản xuất ra thứ gì có giá trị cả. Hầu hết những thứ chúng tạo ra được xem là "có giá trị âm". Có nghĩa, một máy cày do nhà máy của Nga làm ra tệ hại đến nỗi giá trị của lượng sắt thép hay ngay cả quặng thép thô để làm ra nó còn cao hơn giá chiếc mày cày hoàn chỉnh. Hơn thế nữa, nhà máy Nga nào làm ra sản phẩm có thể xuất khẩu được lại nộp rất ít thuế hay không nộp đồng nào cho chính phủ nên điện Kremlin luôn luôn thiếu tiền mặt.
Không có một nền kinh tế có thể dựa vào trông chờ nguồn thu, chính phủ Nga đã trở nên lệ thuộc vào thuế xuất khẩu dầu thô và các loại sản phẩm khác nhằm có kinh phí hoạt động. Họ cũng lệ thuộc vào các nguồn cho vay nước ngoài mà Nga thu hút nhờ đưa ra mức lãi suất cực kỳ cao cho nhiều loại trái phiếu chính phủ.
Khi nền kinh tế Nga tiếp tục suy thoái vào đầu năm 1998, Nga phải nâng lãi suất đồng rúp từ 20 lên 50 lên 70 phần trăm để tiếp tục giữ chân nhà đầu tư nước ngoài. Các quỹ đầu cơ và ngân hàng nước ngoài tiếp tục mua trái phiếu, với tính toán ngay cả nếu chính phủ Nga không trả nợ được thì IMF sẽ nhảy vào cứu Nga và họ sẽ thu hồi được tiền. Có quỹ đầu cơ và ngân hàng nước ngoài không chỉ đổ tiền vào Nga, họ còn vay thêm tiền, lãi suất 5% rồi lấy tiền đó mua trái phiếu Nga lãi suất 20-30%. Ngon ăn quá chứ gì. Nhưng ông bà ta thường nói:"Điều gì tốt đẹp quá không thể tin được thì thực tế là không tồn tại!"
Đúng thế. Giá dầu sụt giảm do khủng hoảng châu Á gây ra làm chính phủ Nga ngày càng khó trả vốn và lãi trái phiếu kho bạc. IMF thì chịu áp lực phải cho vay giải cứu Thái Lan, Hàn Quốc và Indonesia nên chống lại mọi đề nghị đổ thêm tiền vào Nga - trừ phi Nga thực hiện lời hứa cải tổ nền kinh tế, bắt đầu bằng việc buộc các doanh nghiệp lớn và các ngân hàng nộp thuế. Vào ngày 17-8-1998, nền kinh tế Nga sụp đổ làm thị trường thế giới chao đảo từ hai phía: Nga vừa phá giá đồng tiền vừa đơn phương tuyên bố không trả nợ trái phiếu chính phủ mà không báo trước cho chủ nợ hay dàn xếp bất kỳ thỏa thuận nào.Các quỹ đầu cơ, ngân hàng và ngân hàng đầu tư đã rót tiền vào Nga bắt đầu thua lỗ nặng nề và những ai vay tiền để cá cược vào sòng bài Kremlin bị đe dọa phá sản.
Nhìn từ bên ngoài, sự sụp đổ nền kinh tế Nga lẽ ra không có tác động gì vào hệ thống toàn cầu. Nền kinh tế Nga nhỏ hơn nền kinh tế Hà Lan. Nhưng hệ thống mang tính toàn cầu hơn bao giờ hết và trong khi giá dầu thô là cơ chế lan truyền từ Đông Nam Á sang Nga, quỹ đầu cơ - nơi tập hợp nguồn vốn tư khổng lồ không chịu sự kiểm soát - là cơ chế lan truyền từ Nga sang mọi thị trường mới nổi khác trên thế giớ, đặc biệt là Brazil. Quỹ đầu cơ và các hãng giao dịch khác, sau khi thua lỗ nặng nề ở Nga, có quỹ mức lỗ tăng đến 50 chục lần vì dùng tiền đi vay, bỗng phải kiếm tiền trả ngân hàng.Họ phải bán bất kỳ tài sản gì có tính thanh khoản. Vì thế họ bắt đầu bán tài sản trên những thị trường tài chính đang lành mạnh để bù đẵp vào các khoản lỗ tại thị trường suy sụp. Ví dụ Brazil đang thực hiện những điều đúng đắn trong con mắt của thị trường toàn cầu và IMF, bỗng thấy các nhà đầu tư hoảng loạn bán tống các loại cổ phiếu trái phiếu của nước mình. Brazil phải nâng lãi suất lên đến 40% để cố gắng duy trì đồng vốn ở lại. Các kịch bản tương tự xảy ra ở khắp các thị trường mới nổi khi nhà đầu tư bỏ đi tìm nơi an toàn. Họ bán hết mọi cổ phiếu, trái phiếu Brazil, Hàn Quốc, Ai Cập, Israel và Mexico, đem tiền về cất hay quay sang mua trái phiếu Mỹ an toàn nhất. Vì thế việc suy giảm ở các thị trường mới nổi và Brazil lại trở thành cơ chế lan truyền gây nên một đợt tranh nhau mua trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ. Đến lượt mình, điều này nâng giá trái phiếu chính phủ Mỹ lên cao, làm giảm lãi suất trái phiếu và gia tăng mức cách biệt giữa trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ và các loại trái phiếu thị trường mới nổi hay trái phiếu doanh nghiệp khác.
Việc sụt giảm mạnh lợi suất từ trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ như thế đã trở thành cơ chế lan truyền gây sụp đổ cho nhiều quỹ đầu cơ và ngân hàng đầu tư khác. Lấy ví dụ Quỹ Long-Term Capital Managenment (LTCM) có trụ sở tại Greenwich, bang Connecticut. LTCM là quỹ đầu cơ hàng đầu. Vì có quá nhiều quỹ đầu cơ trên thị trường vào cuối thập niên 1980, lãnh vực này trở nên cạnh tranh gay gắt. Ai cũng tranh nhau giành cùng cơ hội. Để kiếm tiền trong một thế giới cạnh tranh dữ dội như thế, các quỹ đầu cơ phải tìm những canh bạc đen đỏ hơn với tiền cược ngày càng lớn. Để dẫn đường cho các vụ đặt cược đúng chỗ, LTCM dựa vào công trình của hai nhà kinh tế đoạt giải Nobel. Nghiên cứu của họ cho rằng tính không ổn định của trái phiếu và cổ phiếu có thể tính toán được nhờ quan sát biến động giá trong quá khứ. Sử dụng các mô hình máy tính và mạnh tay vay từ nhiều ngân hàng khác, LTCM đưa ra 120 tỷ đô-la cược rằng một số trái phiếu sẽ thay đổi giá theo chiều họ phỏng đoán vào mùa hè năm 1998. Họ đoán giá trị trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ sẽ giảm và giá trái phiếu loại rẻ tiền và trái phiếu của các thị trường mới nổi sẽ tăng. Tuy nhiên, mô hình máy tính của LTCM có bao giờ dự đoán được vụ khủng hoảng lan truyền khắp thế giới, khởi nguồn từ cú sụp đổ nền kinh tế Nga vào tháng 8. Thế là dự báo của họ sai hoàn toàn. Khi toàn giới đầu tư hoảng loạn cùng lúc và quyết định đổ tiền mua trái phiếu chính phủ Mỹ, giá trị của chúng tăng vọt thay vì giảm sút và giá trị trái phiếu giá rẻ và trái phiếu các thị trường mới nổi sụp đổ thay vì tăng vọt. LTCM giống như chiếc xương đòn bị kéo ở cả hai đầu. Các ngân hàng sau cùng phải cứu nó để tránh việc bán đổ mọi trái phiếu cổ phiếu của LTCM mà có thể gây ra sụp đổ thị trường toàn cầu.
Bây giờ chúng ta quay về thế giớ đường phố. Vào đầu tháng 8-1998, tình cờ tôi đầu tư vào ngân hàng Internet mà bạn tôi vừa mới thành lập. Giá cổ phiếu ban đầu là 14,5 đô-la rồi tăng vọt lên 27 đô-la. Tôi thấy mình như một thiên tài. Nhưng rồi Nga xù nợ và làm hàng loạt quân cờ đô mi nô sụp đổ. Giá cổ phiếu của bạn tôi chỉ còn 8 đô-la. Vì sao? Bởi vì ngân hàng của bạn tôi nhận thế chấp nhiều loại nhà và do lãi suất ở Mỹ xuống thấp, gây nên cơn tranh giành mua trái phiếu chính phủ, thị trường sợ rằng nhiều người sẽ trả tiền nhà sớm hơn dự định. Nếu nhiều người cùng trả nợ để lấy lại thế chấp, ngân hàng bạn tôi sẽ không còn nguồn thu đều đặn mà ngân hàng đã lập dự toán để trả lãi cho người gởi tiền. Thị trường thật ra đoán sai về ngân hàng bạn tôi và giá cổ phiếu của nó phục hồi một cách tuyệt vời. Thật thế, đến đầu năm 1999, tôi lại thấy mình chẳng khác thiên tài là mấy khi cơn say các loại công ty Internet như Amazon.com đã đẩy giá cổ phiếu ngân hàng Internet của bạn tôi và cổ phiếu các công ty công nghệ khác lên tận mây xanh. Nhưng một lần nữa, chẳng lâu sau, thị trường thế giới lại sớm chấm dứt cơn say này. Chỉ có điều lần này thay vì Nga sụp đổ, đến lượt Brazil gây xáo trộn thị trường Mỹ và dập tắt (tạm thời) cú bùng nổ cổ phiếu Internet.
Khi quan sát mọi diễn biến này, tất cả những gì tôi có thể nghĩ đến là việc cần đến chính tháng để các sự kiện trên đường Asoke tác động lên phố của tôi, sau đấy chỉ cần một tuần để các sự kiện từ Brazil tác động lên Amazon.com. Tờ USA Today đã tóm tắt thị trường toàn cầu một cách chính xác vào cuối năm 1998:"Khó khăn tràn từ lục địa này sang lục địa khác như một con vi rút" - tờ báo ghi nhận - "Thị trường Mỹ phản ứng ngay tức thì... Mọi người trong tiệm hớt tóc bàn đến cả chuyện đồng baht Thái Lan."
Tuy nhiên, chẳng mất bao lâu sau Amazon.com lại phục hồi, kéo theo các loại cổ phiếu khác, đến lượt mình kéo theo thị trường chứng khoán Hoa Kỳ, rồi bản thân nó giúp tạo ra hiệu ứng giàu có tại Mỹ, nhờ đó khuyến khích dân Mỹ tiêu tiền nhiều hơn mức dành dụm. Dân Mỹ chịu chi tiền nên Brazil, Thái Lan và các thị trường mới nổi khác có thể xuất khẩu hàng, lại có tiền giải quyết khó khăn nhờ bán hàng cho dân Mỹ. Amazon.com, Amazon.toàn cầu - tất cả chúng ta đang tắm cùng dòng sông.
Dù sao, chu kỳ từ đường Asoke đến phố của tôi, từ Amazon.toàn cầu đến Amazon.com rồi quay về Amzon.toàn cầu là bài học giúp chúng ta hiểu hơn về tình cảnh thế giới ngày nay. Hệ thống chậm chạp, cố định và chia cắt trong Chiến tranh Lạnh chiếm ngự quan hệ quốc tế từ năm 1954 đã được hoàn toàn thay thế bởi một hệ thống mới rất trơn tru và gắn kết chặt chẽ gọi là toàn cầu hóa. Nếu chúng ta không hiểu được điều đó vào năm 1989 khi bức tường Berlin sụp đổ thì chúng ta đã hiểu rõ vào một thập kỷ sau đó. Thật thế, vào ngày 11-10-1989, vào đỉnh cao của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, Merrill Lynch cho chạy quảng cáo nguyên trang trên nhiều tờ báo lớn khắp nước Mỹ để nhấn mạnh điểm này. Quảng cáo viết:
Thế giới tròn 10 tuổi
Thế giới sinh ra khi Bức tường sụp đổ vào năm 1989. Không ngạc nhiên gì khi nền kinh tế non trẻ nhất của thế giới - nền kinh tế toàn cầu - vẫn đang tìm cách định hướng. Cơ chế kiểm tra, điều chỉnh tinh vi để ổn định các nền kinh tế chỉ có thể hoàn chỉnh theo thời gian. Nhiều thị trường thế giới chỉ mới được tự do hóa gần đây, lần đầu tiên bị chi phối bởi tâm lý con người thay vì nắm đấm của nhà nước. Từ chỗ chúng ta đang đứng, không có điều gì có thể làm suy giảm hứa hẹn được đưa ra một thập kỷ trước khi thế giới bị chia cắt đã bị tiêu diệt... Sự phát triển của thị trường tự do và dân chủ khắp thế giới đang cho phép nhiều người khắp nơi chuyển hoài bão thành thành tựu. Công nghệ được làm chủ đúng cách và phân phối tự do sẽ có sức mạnh xoá bỏ không chỉ biên giới địa lý mà còn biên giới dân tộc. Chúng tôi cảm thấy một thế giới chỉ vừa tròn 10 tuổi vẫn tiếp tục có những hứa hẹn to lớn. Xin nhớ cho trưởng thành bao giờ cũng là một quá trình đầy khó khăn.
Thật ta, quảng cáo của Merrill Lynch sẽ chính xác hơn nếu nói kỷ nguyên toàn cầu hóa này đã tròn 10 tuổi. Bởi vì từ giữa những năm 1800 đến cuối thập niên 1920, thế giới cũng đã trải qua một kỷ nguyên toàn cầu hóa tương tự. Nếu so sánh khối lượng thương mại và dòng chảy đồng vốn qua biên giới, tương quan với GNP và dòng chảy lực lượng lao động qua biên giới, tương quan với dân số thì giai đoạn toàn cầu hóa trước Thế chiến thứ nhất rất giống giai đoạn chúng ta đang sống ngày nay. Anh quốc lúc ấy là một cường quốc toàn cầu, là nhà đầu tư lớn vào các thị trường mới nổi và những tay tài phiệt giàu sụ ở Anh, châu Âu và Mỹ thường bị khánh kiệt vì các vụ khủng hoảng tài chính bởi một sự cố nào đó tác động lên trái phiếu đường sắt Argentina, trái phiếu chính phủ Latvia hay trái phiếu chính phủ Đức. Không có kiểm soát tiền tệ cho nên ngay sau khi dây cáp xuyên đại dương được kết nối vào năm 1866 thì khủng hoảng ngân hàng và tài chính ở New York nhanh chóng lan truyền sang London hay Paris. Có lần tôi được xếp cùng nhóm thảo luận với John Monks, người đứng đầu Đại hội Liên đoàn Lao động Anh. Ông ta nhận xét chương trình nghị sự của Đại hội đầu tiên tại Manchester, Anh vào năm 1968 có liệt kê trong số những vấn đề cần thảo luận: "Nhu cầu cần giải quyết sự cạnh tranh từ các thuộc địa châu Á" và "Nhu cầu cần đạt chuẩn mực giáo dục và đào tạo của Hoa Kỳ và Đức". Vào thời đó, người ta di dân nhiều hơn cả và trừ lúc có chiến tranh, các nước không đòi hỏi hộ chiếu khi đi du lịch trước năm 1914. Mọi di dân đến Mỹ đều không có thị thực. Khi kết hợp các yếu tố này với nhau, cùng với phát minh tàu chạy bằng hơi nước, điện tín, đường sắt và sau cùng là điện thoại, có thể nói kỷ nguyên toàn cầu hóa lần đầu trước Thế chiến thứ nhất đã thu nhỏ thế giới từ cỡ "lớn" thành cỡ "trung".
Kỷ nguyên toàn cầu hóa đầu tiên này và chủ nghĩa tư bản tài chính toàn cầu bị tan vỡ do các cú đấm của Thế chiến thứ nhất, Các mạng Nga và Đại suy thoái, kết hợp lại đã làm thế giới thương tổn nặng nề về thể chất và tinh thần. Thế giới bị chia cắt sau Thế chiến thứ hai lại bị đông cứng vì Chiến tranh Lạnh. Chiến tranh Lạnh cũng là một hệ thống quốc tế. Nó kéo dài từ khoảng năm 1945 đến 1989 khi cùng với sự sụp đổ của bức tường Berlin, nó được thay thế bằng một hệ thống khác: kỷ nguyên toàn cầu hóa mới mà chúng ta đang sống. Gọi nó là "Toàn cầu hóa hiệp II", hóa ra giai đoạn chừng 75 năm từ lúc bắt đầu Thế chiến thứ nhất đến lúc chấm dứt Chiến tranh Lạnh chỉ là một cách nghỉ giữa hiệp kéo dài từ kỷ nguyên toàn cầu hóa này sang kỷ nguyên khác.
Trong khi có rất nhiều điểm tương đồng giữa kỷ nguyên toàn cầu hóa trước đây và kỷ nguyên chúng ta đang sống, điểm mới ngày nay là mức độ thế giới đang gắn kết với nhau thành một thị trường toàn cầu hóa và một ngôi làng chung. Một điểm mới khác là số lượng người dân và quốc gia có thể tham gia vào nền kinh tế toàn cầu hóa và mạng thông tin cũng như bị chúng chi phối. Kỷ nguyên trước năm 1914 có thể rất mãnh liệt nhưng nhiều nước đang phát triển trong kỷ nguyên này bị rơi ngoài rìa. Kỷ nguyên trước năm 1914 có thể lớn về quy mô xét trong mối tương quan với thời đại ấy tính theo con số tuyệt đối thì thật nhỏ bé khi so với ngày nay. Giao dịch ngoại hối hàng ngày vào năm 1900 chỉ tính bằng triệu đô-la. Năm 1992, con số này là 20 tỷ mỗi ngày theo Cục Dự trữ Liên bang tại New York và đến tháng Tư năm 1998, con số này lên đến 1.500 tỷ đô-la mỗi ngày và vẫn đang còn tăng lên. Vào khoảng năm 1900, dòng chảy đồng vốn tư nhân từ nước phát triển sang nước đang phát triển đo bằng số trăm triệu đô-la và rất có ít nước liên quan. Đến năm 2000, dòng chảy này đo bằng số trăm tỉ đô-la với hàng chục nước tham gia. Kỷ nguyên toàn cầu hóa mới, so với kỷ nguyên trước Thế chiến thứ nhất có tốc độ siêu tốc.
Nhưng kỷ nguyên toàn cầu hóa ngày nay không chỉ khác về mặt mức độ; trên một số phương diện quan trọng nó còn khác về tính chất, cả kỹ thuật lẫn chính trị. Xét về mặt kỹ thuật, khác biệt là ở chỗ kỷ nguyên toàn cầu hóa trước đây xây dựng trên giá vận chuyển ngày càng giảm. Nhờ phát minh đường sắt, tàu chạy bằng hơi nước và ô tô, con ngườ có thể đến được nhiều nơi nhanh hơn và rẻ hơn; họ cũng có thể giao thương với nhiều nơi một cách nhanh hơn và chi phí rẻ hơn. Nhưng, như tờ The Economist nhận xét, kỷ nguyên toàn cầu hóa ngày nay được xây dựng nhờ vào giá viễn thông ngày càng giảm - nhờ bộ vi xử lý, vệ tinh, cáp quang và Internet. Công nghệ thông tin mới này đã kết nối thế giới càng chặt chẽ hơn. Các kỹ thuật này có nghĩa các nước đang phát triển không chỉ bán nguyên liệu thô cho phương Tây và nhận về sản phẩm hoàn chỉnh; chúng có nghĩa các nước đang phát triển cũng có thể trở thành nhà sản xuất lớn. Các kỹ thuật này cũng cho phép nhiều công ty đặt địa điểm sản xuất, nghiên cứu va marketing khác nhau ở các nước khác nhau nhưng vẫn kết nối chúng qua máy tính và hội nghị từ xa như thể chúng đang ở cùng một nơi. Tương tự, nhờ sự kết hợp máy tính và viễn thông giá rẻ, con người ngày nay có thể cung ứng và trao đổi dịch vụ trên toàn cầu - từ tư vấn sức khỏe đến viết phần mềm hay xử lý thông tin - những dịch vụ trước đây chưa bao giờ được trao đổi. Và tại sao không nhỉ? Một cuộc gọi ba phút (tính bằng đô-la giá năm 1996) giữa New York và London mất 300 đô-la vào năm 1930. Ngày nay hầu như không tốn phí nếu gọi qua Internet.
Các kỹ thuật này không những tạo điều kiện cho các quốc gia và doanh nghiệp vươn ra khắp thế giới xa hơn, nhanh hơn, rẻ hơn và sâu hơn trước đây nhiều mà các cá nhân cũng làm được điều đó. Vào mùa hè năm 1998, tôi càng thấy điều này rõ hơn khi mẹ tôi Margaret Friedman, lúc đó đã 79 tuổi sống ở Minneapolis gọi điện cho tôi giọng rất bối rối. "Chuyện gì vậy mẹ?" Tôi hỏi. Bà đáp: "Ừ, mẹ chơi bài trên Internet với ba người Pháp mà họ cứ nói chuyện bằng tiếng Pháp với nhau, mẹ không hiểu gì cả". Khi tôi bật cười khi tưởng tượng cảnh bà chơi bài với ba người Pháp trên mạng, bà tự ái: "Đừng có mà cười. Hôm kia mẹ còn chơi bài với một người tận Siberia."
Với những ai nói kỷ nguyên toàn cầu hóa này không khác gì so với trước, tôi chỉ cần hỏi: Thế cụ cố của bạn có chơi bài với người Pháp qua mạng Internet vào năm 1900 không? Tôi nghĩ là không.
Nhưng, như tôi đã nói, kỷ nguyên toàn cầu hóa này cũng khác về mặt chính trị so với những năm 1900. Kỷ nguyên đó do siêu cường Anh, đồng bảng Anh và Hải quân Anh thống trị. Kỷ nguyên ngày nay do siêu cường Mỹ, văn hóa Mỹ, đô-la Mỹ và Hải quân Mỹ thống trị. Quyền lực của Mỹ sau Thế chiến thứ hai đã cố ý mở ra một hệ thống thương mại quốc tế mở để tạo công ăn việc làm và đối trọng với chủ nghĩa cộng sản Xô Viết. Chính Mỹ đã thúc đẩy sự hình thành Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Hiệp ước chung về thuế quan và thương mại (GATT) và hàng loại định chế khác nhằm mở cửa thị trường và thúc đẩy thương mại khắp thế giới. Chính các hạm đội của Mỹ đã giữ đường biển thông thương nhằm giúp kết nối các thị trường mới mở này. Cho nên khi Cách mạng Thông tin nổ ra vào cuối những năm 1980 - cho phép nhiều người hoạt động toàn cầu, liên lạc toàn cầu, du lịch toàn cầu và bán buôn toàn cầu - nó đã thăng hoa thành một cấu trúc quyền lực đã khuyến khích và nâng cao những xu hướng này, làm cho nước nào muốn lảng tránh phải trả giá đắt.
Nói tóm lại, có một số điều về kỷ nguyên toàn cầu hóa mới này mà chúng ta đã từng chứng kiến (nhưng mức độ bây giờ cao hơn nhiều), có một số điều trước đây chúng ta chưa bao giờ thấy và cũng có điều quá mới đến nỗi chúng ta chưa hiểu hết chúng. Vì những lý do đó, tôi muốn tóm tắt sự khác biệt giữa hai kỷ nguyên toàn cầu hóa theo cách này: Nếu kỷ nguyên đầu tiên thu nhỏ thế giới từ cỡ "lớn" thành cỡ "trung" thì kỷ nguyên toàn cầu hóa lần này đang thu nhỏ thế giới từ cỡ "trung" thành cỡ "nhỏ".
Cuốn sách này là một nỗ lực nhằm giải thích bằng cách nào kỷ nguyên toàn cầu hóa mới mẻ này trở thành hệ thống quốc tế vượt trội vào cuối thế kỷ 20 - thay thế hệ thống Chiến tranh Lạnh - và xem xét cách nó đang định hình hầu như toàn bộ quan hệ chính trị, thương mại, môi trường trong nước và quan hệ quốc tế. Theo nghĩa đó, sách nhằm đóng góp vào loạt sách cố gắng định nghĩa thế giới hậu Chiến tranh Lạnh. Trong số những cuốn được đọc nhiều nhất trong thể loại này có bốn cuốn: Sự hưng suy của các cường quốc:Thay đổi kinh tế và xung đột quân sự từ năm 1500 đến 2000 (Paul M. Kennedy), Kết cục của lịch sử và con người cuối cùng (Francis Fukuyama), các bài tiểu luận và những cuốn sách của Robert D. Kaplan và cuốn Xung đột các nền văn minh và sự tái tạo trật tự thế giới (Samuel P. Huntington).
Trong khi các tác phẩm này chứa đựng nhiều chân lý, tôi nghĩ không có cuốn nào ghi nhận thế giới thời hậu Chiến tranh Lạnh một cách tổng thể. Cách viết của Kaplan rất sinh động và trung thực nhưng ông lại dùng các ngóc ngách đen tối nhất của thế giới này rồi khái quát một cách quá tay để liên hệ số phận của chúng cho phần còn lại của thế giới. Huntington chứng kiến các cuộc xung đột văn hóa khắp thế giới và mở rộng không cân nhắc rằng đấy là cuộc xung đột của các nền văn minh dai dẳng, gay gắt, thậm chí còn tuyên bố cuộc thế chiến kế tiếp, nếu có, "sẽ là chiến tranh giữa các nền văn minh". Tôi tin cả Kaplan và Huntington đánh giá quá thấp khả năng mà quyền lực nhà nước, sức hút thị trường toàn cầu, sự lan truyền công nghệ, sự trỗi dậy của mạng lưới truyền thông và sự lan toả các chuẩn mực toàn cầu có thể lật ngược các dự phóng trắng đen phân minh (hầu hết là đen tối) của họ.
Cả Kennedy và Huntington cố gắng dự phóng tương lai mà dựa quá nhiều vào quá khứ, chỉ một mình quá khứ. Kennedy ghi nhận (rất tài tình) sự sụp đổ của các đế chế Tây Ban Nha, Pháp và Anh nhưng ông kết luận bằng cách suy đoán rằng đế chế Mỹ cũng sẽ sụp đổ vì sự bá quyền quá đáng của nó. Thông điệp ẩn ý của ông cho rằng kết thúc Chiến tranh Lạnh không chỉ có nghĩa kết thúc Liên Xô mà còn đem lại sự suy vong của Hoa Kỳ. Tôi tin Kennedy chưa hiểu hết rằng sự suy yếu tương đối của Mỹ trong thập niên 1980 khi ông viết sách là một phần của sự chuẩn bị khi Mỹ tự điều chỉnh theo hệ thống toàn cầu hóa mới - một quá trình mà hầu hết phần còn lại của thế giới hiện đang trải qua. Kennedy không nghĩ đến chuyện dưới áp lực toàn cầuhóa, Mỹ cắt giảm ngân sách quốc phòng, tinh giản bộ máy chính phủ va chuyển ngày càng nhiều quyền lực cho thị trường tự do và nhờ thế càng kéo dài vị thế một siêu cường chứ không giảm.
Quan điểm của Huntington rằng khi Chiến tranh Lạnh chấm dứt, không còn phải đối phó với Liên Xô thì Mỹ đương nhiên quay sang đối phó với người theo đạo Hindu hay đạo Hồi và họ sẽ đối phó với người Mỹ. Ông ấy hoàn toàn loại bỏ sự trỗi dậy của một hệ thống quốc tế mới có thể định hình biến cố theo một cách hoàn toàn khác. Với Huntington, chỉ có chủ nghĩa bộ tộc tiếp nối Chiến tranh Lạnh chứ không phải xu hướng gì khác.
Cuốn sách rất ấn tượng của Fukuyama chứa đựng những hiểu biết sâu sắc chính xác về những điểm mới - sự vượt thắng của chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa tư bản kinh tế thị trường là cách hiệu quả nhất để tổ chức xã hội - nhưng nhan đề sách (Kết cục của lịch sử...) hàm ý sự vượt thắng này rồi sẽ kết thúc, hàm ý này còn mạnh hơn nội dung sách và khác với những gì tôi được chứng kiến trên thế giới ngày nay.
Theo một cách nào đó, các cuốn sách này trở nên nổi bật vì chúng đều cố gắng nắm bắt luồng tư duy về "Điều vĩ đại duy nhất" - phần chủ chốt, động cơ thiết yếu sẽ thúc đẩy các vấn đề quốc tế trong thế giớ hậu Chiến tranh Lạnh - dù đó là sự xung đột các nền văn minh, hỗn loạn, sự suy vong của các đế chế hay sự vượt thắng của chủ nghĩa tự do.
Lập luận của tôi khác hẳn. Tôi tin rằng nếu muốn hiểu thế giới hậu Chiến tranh Lạnh, chúng ta bắt đầu bằng cách hiểu rằng một hệ thống quốc tế mới đã kế tục nó - toàn cầu hóa. Đấy là "Điều vĩ đại duy nhất" mà mọi người phải tập trung. Toàn cầu hóa không chỉ là tác động đến các biến cố trên thế giới ngày nay, bản thân nó là một hệ thống như trên trời có sao Bắc Đẩu vậy. Điểm mới chính là hệ thống này; điểm cũ là chính trị quyền lực, là hỗn loạn, xung đột văn minh và tự do chủ nghĩa. Và kịch tính của thế giới hậu Chiến tranh Lạnh là sự tương tác giữa hệ thống mới này và tất cả những cảm xúc và khát vọng cũ. Đó là một màn kịch phức tạp mà hồi chót vẫn chưa được viết xong.
Đó là lý do tại sao trong hệ thống toàn cầu hóa, chúng ta sẽ thấy cả xung đột văn minh và đồng nhất văn minh, cả thảm họa môi trường và các vụ cứu môi trường thật đáng kinh ngạc, cả sự vượt thắng của chủ nghĩa tư bản kinh tế thị trường và làn sóng chống đối nó, cả sự bền vững của khái niệm quốc gia và sự trỗi dậy của những con người có quyền lực to lớn không thuộc quốc gia nào. Điều tôi muốn viết là một cuốn sách hướng dẫn cách theo dõi màn kịch đó và suy nghĩ cách quản lý nó.
Thêm một điều sau chót trước khi chúng ta bắt đầu. Người xuất bản và biên tập cuốn sách này, Jonathan Galassi, một hôm gọi cho tôi và nói: "Tôi đang kể cho mấy người bạn nghe là anh đang viết một cuốn sách về toàn cầu hóa, họ bảo: A, Friedman hả, anh này khoái toàn cầu hóa lắm. Anh nghĩ sao?" Tôi trả lời cho Jonathan rằng tôi cảm nhận về toàn cầu hóa cũng như cảm nhận bình minh. Nói chung, tôi nghĩ sáng nào mặt trời đều mọc là điều tốt. Tốt nhiều hơn xấu, đặc biệt nếu bạn có mang kính râm. Nhưng ngay cả nếu tôi không thèm quan tâm gì đến bình minh, tôi cũng chẳng làm gì được nó. Tôi không gây ra toàn cầu hóa. Tôi không ngăn nó được - trừ phi phải trả một giá rất đắt cho sự phát triển của nhân loại - và tôi không phí sức thử ngăn nó làm gì. Tôi là một nhà báo, không phải là người rao giảng về toàn cầu hóa. Như quý vị sẽ thấy từ cuốn sách này, tôi hoàn toàn hiểu rõ những mặt trái của toàn cầu hóa. Câu hỏi trong tôi là phải làm gì với các mặt trái này. Tôi tin rằng cách tốt nhất để chúng ta giải quyết tính tàn bạo của toàn cầu hóa là đầu tiên phải hiểu lô-gic của hệ thống, các bộ phận hoạt động của nó, rồi suy tính xem làm sao để hệ thống này có lợi cho nhiều người nhất trong khi gây ra ít đau đớn nhất. Đấy là tinh thần thúc giục tôi viết cuốn sách này.
Phần đầu sách giải thích cách nhìn vào hệ thống toàn cầu hóa ngày nay và cách hệ thống hoạt động. Phần hai giả thích các các quốc gia, cộng đồng, cá nhân và môi trường tương tác với hệ thống. Phần ba giải thích sự chống đối toàn cầu hóa. Và phần bốn giải thích vai trò độc đáo của Mỹ, cũng như nhu cầu cần phải đóng vai trò này để ổn định hệ thống mới.


Phần I - Chương 1

HIỂU HỆ THỐNG
Hệ thống mới

Mẹ của nhân vật Forrest Gump thường thích nói gì nhỉ? Cuộc đời như hộp kẹo sôcôla: trong hộp kẹo có loại kẹo gì ai mà biết trước được. Với tôi, một kẻ lữ hành lâu năm, một phóng viên quốc tế, đời như dịch vụ phòng khách sạn - không bao giờ biết khi mở cửa phòng ra ta sẽ thấy gì.
Chẳng hạn vào tối ngày 31 tháng 12 năm 1994, khi bắt đầu phụ trách mục bình luận quốc tế cho tờ New York Times, tôi khởi đầu chuyên mục bằng những bài viết từ Tokyo. Đến khách sạn Okura sau một chuyến bay dài xuyên Thái Bình Dương, tôi gọi điện xuống dịch vụ buồng với một yêu cầu đơn giản: "Vui lòng cho mang lên phòng tôi bốn quả cam". Tôi nghiện ăn cam và lúc đó đang lên cơn thèm. Khi gọi điện tôi nghĩ đây là một yêu cầu đơn giản và hình như người ở đầu dây đằng kia cũng hiểu tôi. Khoảng 20 phút sau, có tiếng gõ cửa phòng. Một người phục vụ xuất hiện, đồng phục thẳng tắp, đẩy một xe có khăn bàn trắng toát. Trên xe là bốn ly cam vắt tươi ngon, mỗi ly nằm trong một khay đá sang trọng.
"Không, không phải", tôi nói với người phục vụ. "Tôi muốn cam quả - không muốn cam vắt." Tôi há miệng giả vờ cắn, ra dấu quả cam.
"A a", người phục vụ gật gật đầu. "Cam... cam."
Tôi trở lại phòng, tiếp tục làm việc. Hai mươi phút sau, có tiếng gõ cửa. Cũng vẫn người phục vụ đó, vẫn chiếc xe phủ khăn trắng toát. Nhưng lần này, trên xe có bốn đĩa, trên mỗi đĩa là một quả cam đã được bóc và cắt thành những miếng nhỏ, xếp theo lối người Nhật bày món sushi.
"Không, không phải", tôi lại lắc đầu. "Tôi muốn cam để nguyên." Tôi khum tay ra hiệu. "Tôi muốn giữ chúng trong phòng để ăn dần. Tôi không thể ăn hết một lúc bốn quả cắt ra như vật được. Tôi không thể bỏ chúng vào trong tủ lạnh được. Tôi muốn cam để nguyên."
Một lần nữa, tôi lại cố ra hiệu, bắt chước một người đang ăn cả quả cam.
"A a", người phục vụ gật gật đầu. "Cam... cam. Ông muốn cả quả cam."
Lại thêm hai mươi phút nữa trôi qua. Rồi có tiếng gõ cửa. Vẫn người phục vụ đó. Vẫn chiến xe đó. Nhưng lần này trên xe là bốn quả cam thật đẹp bày trên bốn chiếc đĩa lớn, cùng dao, dĩa và khăn ăn. Lần này có tiến bộ.
"Được rồi", tôi vừa nói vừa ký phiếu thanh toán. "Chính là thứ tôi muốn." Khi anh ta quay gót đi, tôi nhìn xuống phiếu thanh toán. Bốn quả cam hết 22 đô-la. Làm sao tôi giải trình được điều này cho tòa soạn đây?
Nhưng cuộc phiêu lưu cam quýt của tôi chưa kết thúc ở đó. Hai tuần sau, tôi sang Hà Nội, ăn tối một mình trong khách sạn Metropole. Việt Nam lúc này đang vào mùa quýt, ở mọi góc đường người ta bán từng thúng quýt cao ngất vàng bóng, ngon mắt. Sáng nào tôi cũng thường ăn vài quả quýt. Bữa tối hôm đó, khi người hầu bàn hỏi tôi có dùng tráng miệng, tôi bảo chỉ cần một quả quýt. Anh ta đi một lúc rồi quay lại.
"Xin lỗi ông, hết quýt rồi", anh nói.
"Sao thế", tôi hơi bực. "Sáng nào cũng thấy cả bàn đầy quýt dọn ăn sáng! Chắc chắn thế nào trong bếp cũng còn quýt mà".
"Xin lỗi", anh ta lắc đầu. "Hay ông dùng tạm dưa hấu?"
"Cũng được, cho tôi ít dưa hấu", tôi nói.
Năm phút sau, người phục vụ quay lại, mang theo một đĩa có ba quả quýt.
"Tôi tìm ra quýt. Nhưng không có dưa hấu", anh ta nói.
Nếu lúc ấy tôi hiểu được như bây giờ, thì tôi đã coi đó điềm báo trước. Vì từ ngày đó, khi đi công tác khắp nơi trên thế giới cho tờ Times, tôi thấy những gì đón đợi tôi ngoài cửa và trên bàn ăn thường không phải là những gì tôi định trước.
Làm cây bút bình luận quốc tế cho The New York Times thực ra là công việc lý thú nhất thế giới. Ý tôi muốn nói thế nào cũng phải có một loại công việc tốt nhất thế giới, đúng không? Nếu thế, công việc ấy đang ở trong tay tôi. Đây là loại công việc tuyệt vời vì tôi được làm du khách có chủ kiến. Tôi có thể đi bất cứ đâu, bất cứ lúc nào và có ý kiến về bất cứ điều gì tôi thấy hoặc nghe được. Nhưng câu hỏi dành cho tôi khi bắt đầu cuộc chu du trong cương vị mới này là: chủ kiến gì? Lăng kính nào, cách nhìn như thế nào và thông qua hệ thống tổ chức nào để tôi có thể quan sát thế giới, hiểu được sự kiện, ưu tiên cho điều gì, bày tỏ chính kiến và nói về chúng như thế nào để độc giả hiểu được?
Về nhiều phương diện thì những người đi trước trong tờ báo Times có lợi thế hơn tôi. Người nào cũng có một câu chuyện xuyên suốt và một hệ thống quốc tế được định hình sẵn, họ cứ việc ngồi viết. Tôi là ký giả bình luận quốc tế thứ năm trong lịch sử tờ The New York Times. Mục "Quốc tế" là chuyên mục lâu năm nhất của tờ báo. Mục này ra đời năm 1937, do bà Anne O Hare McCormick, một phụ nữ đầy tài năng chấp bút, và lúc đó có tên là "Tình hình châu Âu"; vì lúc đó đối với hầu hết người Mỹ "châu Âu" là chuyện quốc tế, và đương nhiên, bình luận viên quốc tế duy nhất của tờ báo phải đóng tại châu Âu. Theo cáo phó năm 1954 đăng trên tờ The New York Times, bà McCormick khởi đầu là phóng viên quốc tế "trong tư cách là vợ của ông McCormick, một kỹ sư vùng Dayton. Bà thường đi cùng chồng sang châu Âu mua hàng." (Cáo phó trên Tờ The New York Times từ ngày đó đã trở nên đúng khuôn sáo hơn). Hệ thống quốc tế mà bà McCormick từng viết là sự rạn vỡ cán cân quyền lực ở châu Âu theo hệ thống Versailles và phần dạo đầu của cuộc Chiến tranh Thế giới thứ hai.
Khi Mỹ trổi lên từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, cưỡi trên lưng thế giới như một siêu cường vô địch, có trọng trách toàn cầu và tham gia tranh giành quyền lực với Liên Xô, thì mục "Tình hình châu Âu" năm 1954 đổi tên thành "Quốc tế". Bỗng nhiên, cả thế giới trở thành sân chơi của Hoa Kỳ, và cả thế giới chỗ nào cũng quan trọng, vì mọi ngõ ngách trên thế giới đều có sự tranh giành với Liên Xô. Hệ thống Chiến tranh Lạnh, với sự tanh giành ảnh hưởng và tính vượt trội giữa tư bản phương Tây và cộng sản phương Đông, giữa Washington, Moskva và Bắc Kinh, trở thành câu chuyện xuyên suốt cho ba bình luận viên sau đó của mục "Quốc tế", tờ The New York Times, suy nghĩ và viết lách.
Vào lúc tôi bắt đầu đảm nhận mục này, hồi đầu năm 1995, Chiến tranh Lạnh đã kết thúc, bức tường Berlin đã sụp đổ và Liên Xô là chuyện lịch sử. Tôi may mắn được chứng kiến tại điện Kremlin những hơi thở cuối trong cơn hấp hối của Liên Xô. Đó là ngày 16-12-1991. Ngoại trưởng Hoa Kỳ James A.Baker lúc đó đang ở thăm Moskva, cùng lúc Boris Yeltsin đang nhẹ nhàng tháo gỡ quyền lực khỏi tay Mikhail Gorbachev. Trước đó, mỗi khi Baker thăm Gorbachev thì họ thường gặp trong cung điện dát vàng mang tên St. Catherine; và lúc nào cũng có ảnh dạo đầu thật ngoạn mục cho giới báo chí. Ông Baker cùng tùy tùng bao giờ cũng chờ trong một phòng đầu hành lang, cửa đóng, trong khi ông Gorbachev cùng các phụ tá thì chờ sau cửa một phòng ở đầu đối diện của điện Kremlin. Rồi sau một tín hiệu nào đó, cửa hai căn phòng cùng mở, hai vị cùng bước ra và tiến đến giữa ảnh, bắt tay nhau trước ống kính của báo giới.
Thế nhưng lần này, khi ông Baker sang, đến giờ hẹn, cửa mở và người bước ra là Boris Yeltsin, thay vì Mikhail Gorbachev. Ai là chủ bữa tiệc tối nay? "Hoan nghênh quí vị trên đất Nga và trong toà nhà này của nước Nga," Yeltsin nói với Baker. Sau đó, Baker quả có gặp Gorbachev trong cùng ngày, nhưng rõ ràng quyền lực đã được chuyển giao. Chúng tôi, những phóng viên của Bộ ngoại giao đi tường thuật sự kiên, hôm đó phải ở cả ngày trong điện Kremlin. Lúc chúng tôi ở trong điện thì bên ngoài tuyết rơi nhiều lắm. Đến lúc sụp tối, rời khỏi Kremlin, bước ra ngoài thì tuyết đã đóng thành một tấm chăn thật dày. Chúng tôi lội tuyết sang cổng Spassky của điện Kremlin, để lại những vết giầy lún sâu trong tuyết. Tôi để ý thấy cờ đỏ búa liềm của Liên Xô vẫn còn treo trên tháp, được đèn chiếu sáng, như nó vẫn ở đó khoảng 70 năm rồi. Tôi tự nhủ, "có lẽ đây là lần cuối cùng mình được thấy lá cờ tung bay trên đó." Quả thực chỉ vài tuần sau, lá cờ đó biến mất, ra đi cùng với nó là cả hệ thống Chiến tranh Lạnh và một câu chuyện xuyên suốt.
Sau đó vài năm, khi tôi vào phụ trách mục bình luận tin quốc tế của The New York Times, có điều tôi còn chưa rõ: cái gì đã thay thế hệ thống Chiến tranh Lạnh để đóng vai trò như một cấu trúc chủ đạo cho quan hệ quốc tế. Vì thế tôi bắt đầu viết cột báo trong tư cách một du khách không mang định kiến - một du khách có đầu óc mở. Trong nhiều năm, cũng như nhiều tay viết khác, tôi chỉ nhắc đến thời kỳ Hậu Chiến tranh Lạnh. Chúng tôi biết đã có một hệ thống khác đang hình thành và trở thành khuôn mẫu chung cho các mối quan hệ quốc tế, nhưng không biết gọi đó là hệ thống gì. Vậy chúng tôi đành mô tả nó theo hướng khác - tức là chứng minh: nó không phải là Chiến tranh Lạnh. Nên chúng tôi gọi là Hậu Chiến tranh Lạnh.
Càng đi nhiều tôi càng nhận thấy chúng ta ngày nay không phải đang tồn tại trong một thế giới hỗn mang, thiếu nhất quán và khó định nghĩa của thời Hậu Chiến tranh Lạnh. Ngược lại, chúng ta đang ở tong một hệ thống quốc tế mới. Hệ thống này có lôgic, có quy luật, có áp lực và có động lực riêng của nó - nó đáng được gọi bằng cái tên riêng - "toàn cầu hóa". Toàn cầu hóa không chỉ là một thứ mốt kinh tế, không phải là một khuynh hướng nhất thời. Nó là một hệ thống quốc tế - một hệ thống chủ đạo, thay thế Chiến tranh Lạnh sau khi bức tường Berlin sụp đổ. Chúng ta cần hiểu toàn cầu hóa theo nghĩa như vậy. Nếu trong hình sự có khái niệm thời hiệu, thì chắc cũng phải có một thời hiệu nhất định đối với những khái niệm hoa mỹ trong chính sách đối ngoại. Với suy nghĩ đó, khái niệm "thế giới thời kỳ Hậu Chiến tranh Lạnh" phải được chấm dứt. Bây giờ chúng ta đang ở trong hệ thống toàn cầu hóa.
Khi nói toàn cầu hóa đã thay thế Chiến tranh Lạnh như một hệ thống định hình thế giới, chính xác là tôi đang nói điều gì?
Tôi muốn nói rằng trong vai trò là một hệ thống quốc tế, Chiến tranh Lạnh có cấu trúc quyền lực riêng: cán cân lực lượng giữa Hoa Kỳ và Liên Bang cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô Viết. Chiến tranh Lạnh có những luật lệ riêng: trong quan hệ đối ngoại, không một siêu cường nào muốn xâm nhập vào vùng ảnh hưởng của một siêu cường khác; trong kinh tế, những nước kém phát triển chú tâm vào việc phát triển những ngành công nghiệp quốc gia của riêng họ, các nước đang phát triển chú tâm tăng trưởng trên cơ sở xuất khẩu, các nước xã hội chủ nghĩa tập trung thắt lưng buộc bụng và phương Tây thì chăm chăm vào việc buôn bán có điều tiết. Chiến tranh Lạnh có hệ tư tưởng riêng của nó: cuộc chạm trán giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, giai đoạn hòa hoãn, không liên kết hay cải tổ (perestroika). Chiến tranh Lạnh có khuynh hướng về dân số riêng: di cư từ Đông sang Tây bị bức màn sắt ngăn trở, nhưng di cư từ miền Nam lên phía Bắc thì đều đặn hơn. Chiến tranh Lạnh có cái nhìn toàn cầu riêng: thế giới được chia thành phe xã hội chủ nghĩa, phe tư bản chủ nghĩa và phe trung lập; nước nào cũng thuộc về một trong những phe này. Chiến tranh Lạnh sinh ra những công nghệ định hình riêng: chủ đạo là vũ khí hạt nhân và cuộc cách mạng công nghệ lần thứ hai, nhưng đối với dân chúng ở các nước đang phát triển thì búa liềm vẫn là những công cụ gần gũi. Chiến tranh Lạnh có thước đo riêng: số lượng tên lửa hạt nhân của mỗi bên. Và sau cùng, Chiến tranh Lạnh tạo ra mối lo riêng: sự hủy diệt hạt nhân. Tổng hợp những yếu tố trên đây ta thấy Chiến tranh Lạnh ảnh hưởng tới chính sách đối nội, mậu dịch và quan hệ đối ngoại của hầu hết mọi nước trên thế giới. Chiến tranh Lạnh không tạo lập tất cả nhưng lại định hình rất nhiều thứ.
Kỷ nguyên toàn cầu hóa ngày nay là một hệ thống quốc tế tương tự, có những đặc tính độc đáo tương phản với những đặc tính thời Chiến tranh Lạnh. Trước hết, nói về Chiến tranh Lạnh là nói đến sự chia cắt. Thế giới bị chia cắt ngang dọc thành nhiều cánh đồng vụn vặt manh mún. Những mối đe dọa cùng những cơ hội khởi phát từ chuyện bạn bị chia cắt như thế nào. Quả thực hệ thống Chiến tranh Lạnh được tượng trưng bằng một từ: bức tường - bức tường Berlin. Một trong những miêu ta về Chiến tranh Lạnh mà tôi thích nhất là của diễn viên Jack Nicholson trong phim A Few Good Men [Vẫn còn người tốt]. Nicholson trong vai một đại tá thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đóng tại căn cứ Guantanamo, Cuba. Vào phút cao trào trong phim, Nicholson bị Tom Cruise chất vấn vì sao Santiago, một người lính yếu đuối dưới quyền của Nicholson bị đồng đội đánh chết. " Anh muốn có câu trả lời ư?" Nicholson hét lên. Cruise đốp lại, "Tôi muốn sự thật." "Anh không thể chịu nổi sự thật đâu", Nicholson nói. "Anh bạn ạ, chúng ta đang sống trong một thế giới có những bức tường, và những bức tường đó lại phải được những người có súng canh gác. Ai là người sẽ làm điều đó? Anh ư? Anh ư, trung úy Weinberg? Tôi phải chịu trách nhiệm nặng nề hơn là anh tưởng. Anh khóc cho Santiago và anh nguyền rủa lực lượng thủy quân lục chiến. Anh có quyền làm điều phù phiếm như vậy. Bởi anh may mắn không biết những điều tôi biết - đó là cái chết của Santiago, dẫu có là bị kịch, có thể đã cứu được nhiều mạng sống khác. Và sự hiện diện của tôi, dẫu có ghê tởm và khó hiểu với anh, cũng cứu được mạng sống người khác. Anh không muốn thấy sự thật, vì tận đáy lòng, tại những nơi ít được nói tới trong những bữa tiệc, anh vẫn muốn tôi đứng canh gác trên những bức tường đó. Anh cần có tôi đứng canh gác bên những bức tường đó."
Hệ thống toàn cầu hóa hơi khac chút ít. Nó cũng chứa đựng một đặc điểm lớn - sự hội nhập. Thế giới nay đã trở nên một nơi có những quan hệ ngày càng chồng chéo đan xen. Dù bạn là một công ty hay là một đất nước thì những mối đe dọa cũng như những cơ hội sẽ đến với bạn chính từ những đối tác mà bạn có quan hệ. Hệ thống này cũng được miêu tả tượng trưng bằng một từ: web [mạng Internet]. Vì thế, theo một nghĩa rộng thì chúng ta đang tiến từ một hệ thống xây dựng trên sự chia cắt, nhiều bức tường ngăn cách, đến một hệ thống được xây nên bằng sự hội nhập và mạng Internet. Trong thời Chiến tranh Lạnh, chúng ta bám vào "Đường dây Nóng" - biểu tượng cho thấy mặc dù chúng ta bị chia cắt, nhưng ít ra có hai người, Liên Xô và Hoa Kỳ, đứng chịu trách nhiệm. Và trong hệ thống toàn cầu hóa, chúng ta bám vào Internet, một biểu tượng cho thấy chúng ta ngày càng chặt chẽ hơn và không có ai đứng chỉ đạo cả.
Điều này dẫn đến nhiều khác biệt nữa giữa hai hệ thống Chiến tranh Lạnh và toàn cầu hóa. Khác với Chiến tranh Lạnh, toàn cầu hóa không phải là một cục diện đông cứng, mà là một quá trình phát triển năng động. Chính vì thế, tôi định nghĩa toàn cầu hóa như sau: nó là một sự hội nhập không thể đảo ngược giữa những thị trường quốc gia và công nghệ, tới mức chưa từng có - theo phương cách tạo điều kiện cho các cá nhân, tập đoàn công ty và nhà nước vươn quan hệ đến nhiều nơi trên thế giới xa hơn, sâu hơn với chi phí thấp hơn bao giờ hết và cũng theo phương cách giúp thế giới tiếp cận các cá nhân, tập đoàn công ty và nhà nước xa hơn, sâu hơn với chi phí thấp hơn bao giờ hết. Quá trình toàn cầu hóa cũng khiến nãy sinh chống đối dữ dội từ những ai bị thiệt hại hay bị hệ thống mới bỏ rơi.
Ý tưởng làm động lực cho toàn cầu hóa là chủ nghĩa tư bản dựa trên kinh tế thị trường - nếu bản để cho thị trường tự điều tiết, nếu bạn mở cửa nền kinh tế cho phép thông thương và cạnh tranh tự do, thì nền kinh tế của bạn sẽ càng hữu hiệu và tăng trưởng nhanh hơn. Toàn cầu hóa có nghĩa là chủ nghĩa tư bản kinh tế thị trường lan vào hầu hết mọi quốc gia trên thế giới. Do đó, toàn cầu hóa hình thành cho riêng nó một hệ thống luật lệ kinh tế - luật lệ xoay quanh việc mở cửa, thả nổi và tư nhân hóa nền kinh tế của bạn, để nó có tính cạnh tranh cao hơn và thu hút được nhiều hơn đầu tư nước ngoài. Theo thống kê của Ngân hàng Thế giới, trong năm 1975, vào đỉnh điểm của Chiến tranh Lạnh, chỉ có 8% quốc gia có chế độ kinh tế thị trường tự do, và lúc đó vốn tư nước ngoài trên khắp thế giới là 23 tỷ đô-la. Tới năm 1997, con số các nước có chế độ kinh tế thị trường chiếm 28% và tổng vốn đầu tư nước ngoài là 644 tỷ đô-la.
Không như Chiến tranh Lạnh, hệ thống toàn cầu hóa mang một sắc thái văn hóa riêng, bao trùm và có xu hướng đồng hóa các quốc gia và cá nhân tới một mức độ nhất định. Trước đây sự đồng hóa như vậy chỉ diễn ra ở quy mô khu vực - ví dụ sự đồng hóa văn hóa La Mã đối với miền Tây châu Âu và vùng Địa Trung Hải, sự đồng hóa của giá trị đạo Hồi ở vùng Trung Á, Bác Phi, một phần châu Âu và Trung Đông, do người Ả Rập và sau đó là đế quốc Ottoman tiến hành, hay sự Nga hóa vùng Đông và Trung Âu và nhiều phần vùng giáp giới châu Âu và châu Á dưới thời Xô Viết. Đứng về mặt văn hóa, toàn cầu hóa hiện nay bao gồm một quá trình Mỹ hóa (dù tốt hay xấu) - từ hiện tượng Mc Donald s đến Macs rồi đến chuột Mickey.
Toàn cầu hóa có công nghệ định hình riêng: vi tính hóa, thu nhỏ kich cỡ các loại thiết bị, số hóa, viễn thông vệ tinh, cáp quang và Internet, giúp cho việc vun đắp viễn cảnh hội nhập. Khi một nước nhảy vào dòng chảy toàn cầu hóa, giới tinh hoa của đất nước đó bắt đầu chuyển tải viễn cảnh hội nhập và bên trong và cố tìm cho họ một chỗ đứng trong bối cảnh toàn cầu. Mùa hè năm 1998, tôi sang Amman, Jordan, ngồi uống cà phê với người bạn tên là Rami Khouri, một nhà bình luận chính trị hàng đầu của nước này trong khách sạn Inter-Continental. Tôi hỏi anh có tin gì mới không. Điều đầu tiên anh nói với tôi là "Jordan vừa được đài CNN đưa vào màn hình dự báo thời tiết toàn cầu của họ." Rami muốn nói rằng đất nước này phải hiểu ra một điều quan trọng: đó là những định chế toàn cầu giờ đây muốn cho mọi người thấy cần phải biết thời tiết ở Jordan. Điều này khiến người Jordan tự cảm thấy sang trọng hơn, và hy vọng sẽ có thêm du khách và nhiều nhà đầu tư đến đất nước của họ. Một ngày sau khi gặp Rami, tôi sang Israel và gặp Jacob Frenkel, Thống đốc Ngân hàng Trung ương của nước này, đồng thời là một kinh tế gia tốt nghiệp Đại học Chicago. Frenkel cũng thừa nhận chính bản thân ông đang trải qua một thời kỳ thay đổi nhận thức: "Trước đây, khi nói về kinh tế vĩ mô, chúng tôi bắt đầu từ những thị trường địa phương, hệ thống tài chính khu vực và những quan hệ tương hỗ giữa chúng với nhau, rồi sau đó, như chợt nhớ ra, chúng tôi bàn đến nền kinh tế quốc tế. Hồi đó có một cảm giác chung là những gì chúng tôi làm là việc riêng của chúng tôi, rồi sau đó thông qua một số kênh, chúng tôi bán hàng ra nước ngoài. Giờ đây, chúng tôi đảo ngược quá trình đó. Không có chuyện quyết định sản xuất trước rồi mới tìm thị trường xuất khẩu; mà trước hết hãy nghiên cứu khung cảnh toàn cầu, rồi quyết định sản xuất hàng gì. Quan điểm này thay đổi toàn cách nghĩ của mỗi chúng ta."
Trong khi thước đo của thời Chiến tranh Lạnh là trọng lượng, đặc biệt là trọng lượng các loại tên lửa. Nay để đo đếm toàn cầu hóa, người ta dùng đơn vị tốc độ - tốc độ trong buôn bán, đi lại, liên lạc và sáng tạo. Chiến tranh Lạnh là nói đến phương trình năng lượng và khối lượng của Einstein: e=mc2. Toàn cầu hóa xoay quanh định luật Moore rằng công suất tính toán của các con chíp silicon sẽ tăng gấp đôi trong vòng 18 đến 24 tháng, trong khi giá giảm còn một nửa. Trong thời Chiến tranh Lạnh, câu hỏi thường là "quý vị đứng về phe nào?" Trong toàn cầu hóa người ta hay hỏi, "bạn kết nối với người khác ở mức độ nào?" Trong Chiến tranh Lạnh, người ta hay hỏi, "tên lửa của bạn lớn đến đâu?" Trong toàn cầu hóa người ta muốn biết, "modem của bạn nhanh đến mức nào?" Văn kiện chủ đạo của Chiến tranh Lạnh là "Hiệp Ước." Trong toàn cầu hóa, văn kiện tối hậu là "Giao Kèo." Hệ thống Chiến tranh Lạnh thậm chí có thời trang riêng của mình. Năm 1961, theo tạp chí Foreign Policy (Chính sách Đối ngoại), Chủ tịch Cu ba là Fidel Castro, trong bộ quân phục kaki màu xanh ôliu đưa ra tuyên bố nổi tiếng - "Tôi nguyện là người Marxist-Leninist đến cuối đời." Vào tháng Giêng năm 1999, ông Castro mặc một bộ complet thương gia đến dự một hội nghị toàn cầu hóa tại Thủ đô La Habana, nơi có nhà tài phiệt George Soros và nhà kinh tế chủ trương thị trường tự do, Milton Friedman, cùng được mời tham dự.
Nếu như kinh tế gia chủ đạo của Chiến tranh Lạnh là John Maynard Keynes, muốn thuần hóa chủ nghĩa tư bản, thì trong toàn cầu hóa có kinh tế gia Joseph Schumpeter và Andy Grove, Chủ tịch tập đoàn Intel, cả hai đều muốn thả lỏng con thú tư bản chủ nghĩa. Schumpeter, cựu Bộ trưởng Tài chính của nước Áo và cựu Giáo sư Trường Kinh doanh, Đại học Harvard, đã bày tỏ quan điểm trong tác phẩm nổi tiếng Chủ Nghĩa Tư Bản, Chủ Nghĩa Xã Hội và Dân Chủ, cho rằng điều cốt lõi của chủ nghĩa tư bản là quá trình "hủy diệt sáng tạo" - một chu kỳ không ngừng đào thải những sản phẩm và dịch vụ lỗi thời và thay thế chúng bằng những sản phẩm và dịch vụ mới, hữu hiệu hơn. Andy Grove đã lấy lối suy nghĩ của Schumpeter rằng "chỉ có những kẻ hoang tưởng mới tồn tại", làm đầu đề cuốn sách của ông, kể về cuộc sống trong Thung lũng Silicon, và biến nó thành khuôn mẫu cho nhiều doanh nghiệp trong thời tư bản toàn cầu hóa. Grove là người giúp quảng bá cho quan điểm rằng sáng kiến cải tiến táo bạo, thay đổi công nghệ hiện đang diễn ra nhanh chóng hàng ngày, hàng giờ. Do những đột phá kỹ thuật, những phát minh của bạn có thể nhanh chóng bị lỗi thời hoặc nhanh chóng trở thành hàng hóa - cả hai khả năng có thể diễn ra chỉ trong thoáng chốc. Do đó, chỉ những kẻ hoang tưởng, cả lo, chăm chăm nhìn đằng sau xem có ai đó sáng chế được điều gì mới hơn sản phẩm của họ, và cố gắng đi trước một bước, thì mới sống sót. Những quốc gia sẵn sàng để cho chủ nghĩa tư bản nhanh chóng thải đi những công ty làm ăn thua lỗ của mình, rồi tập trung tiền đầu tư cho những doanh nghiệp làm ăn tốt hơn, sẽ thực sự tiến bước trong thời đại toàn cầu hóa. Những quốc gia nào ỷ lại vào chính phủ bảo trợ cho những doanh nghiệp làm ăn yếu kém, tránh né sự đào thải sáng tạo nói trên rồi sẽ tụt hậu trong thời toàn cầu hóa.
James Surowiecki, bình luận viên kinh doanh của tạp chí Slate đã điểm cuốn sách của Grove và tóm tắt rất khúc chiết những điểm tương đồng giữa Grove và Schumpeter, là cốt lõi của kinh tế toàn cầu. Đó là lý thuyết: "Sáng tạo sẽ thay thế truyền thống. Hiện tại và có lẽ tương lai sẽ thay thế quá khứ. Không có gì quan trọng bằng những điều sắp xảy ra, và liệu những điều đó có xảy ra hay không lại tùy thuộc vào khả năng có thể đảo ngược được những gì hiện có. Bối cảnh đó thuận lợi cho sáng tạo nhưng gây nhiều khó khăn cho cuộc sống bình thường, vì con người ta vốn dĩ chỉ mong hướng đến một tương lai ổn định, hơn là một cuộc đời trong đó hầu như chẳng có gì chắc chắn... Chúng ta không bị buộc phải tái tạo thường xuyên các mối quan hệ với những người thân. Nhưng, đó lại chính điều mà Schumpeter, và sau đó là Grove đề xuất, cần thường xuyên tái tạo để được thịnh vượng [trong ngày nay]."
Quả thật, nếu ví Chiến tranh Lạnh là một môn thể thao thì nó sẽ là một vật Sumo, qua đánh giá của Giáo sư Michael Mandelbaum, môn quan hệ đối ngoại, Đại học Hopkins. "Sẽ có hai anh béo đứng trên đài, múa máy lễ bái đủ đường, giậm chân huỳnh huỵch, nhưng rất ít khi chạm vào nhau... cho tới cuối trận thì có chút ít xô đẩy và có một tay bị thua do bị đẩy khỏi đài, nhưng rốt cuộc chẳng có anh nào chết cả."
Ngược lại, nếu toàn cầu hóa là một môn thể thao thì đó sẽ là môn chạy nước rút 100 mét, liên tiếp, không ngừng nghỉ. Dù bạn thắng trong ngày hôm nay thì bạn sẽ phải đua tiếp vào ngày mai. Và nếu bạn chỉ thua trong một phần trăm giây thì cũng tồi tệ như bạn bị chậm mất cả một giờ vậy. (Cứ hỏi các công ty xuyên quốc gia của Pháp thì biết. Năm 1999, luật lao động của Pháp được sửa đổi, yêu cầu giới chủ phải giảm số giờ làm việc của nhân viên từ 39 tiếng xuống còn 35 tiếng một tuần, không giảm lương. Nhiều doanh nghiệp Pháp đã chống đối vì hậu quả việc sửa đổi luật sẽ ảnh hưởng tới năng suất của họ trên thị trường toàn cầu. Henri Thierry, Giám đốc nhân sự hãng Thomson-CSF Communications, một công hãng công nghệ cao đóng ở ngoại thành Paris, nói với tờ The Washington Post: " Chúng tôi đang ở trong một cuộc cạnh tranh toàn cầu. Nếu chúng tôi mất một đơn vị năng suất, chúng tôi sẽ mất đi nhiều đơn đặt hàng. Nếu chúng tôi chấp hành luật làm việc trong 35 giờ mỗi tuần thì không khác gì chuyện bắt vận động viên người Pháp phải đi dép lê để chạy thi 100 mét. Họ sẽ không có nhiều cơ may đoạt huy chương đâu.")
Nói theo cách của lý thuyết gia chí trị người Đức Carl Schmitt, Chiến tranh Lạnh là một thế giới của "bạn" và "thù". Trong toàn cầu hóa, thì ngược lại, bạn cũng như thù đều biến thành "những đối thủ cạnh tranh."
Nếu nỗi lo âu trong thời Chiến tranh Lạnh là khả năng bị kẻ thù hủy diệt, kẻ thù với danh tính rõ ràng, và trong một thế giới bị phân chia rành mạch, thì nỗi ám ảnh của thời toàn cầu hóa chính là sợ sự thay đổi của một thứ kẻ thù mà bạn không nhìn thấy, cảm nhận hay sờ thấy được - một tâm lý lo lắng rằng công việc, cộng đồng hay môi trường làm việc của quý vị có thể bị những thế lực kinh tế và công nghệ không ổn định khiến cho thay đổi. Hệ thống phòng ngự chủ yếu trong Chiến tranh Lạnh là radar - dùng để phát hiện những đe dọa từ bên kia bức tường. Hệ thống phòng thủ đặc trưng của toàn cầu hóa là chiếc máy X quang - dùng để tìm những hiểm họa ngay từ bên trong.
Toàn cầu hóa cũng sản sinh một khuynh hướng dân số riêng - sự dịch chuyển nhanh chóng của dân chúng từ những vùng nông thôn với đời sống nông nghiệp ra thành thị. Và lối sống ở thành thị đang ngày càng gắn liền với xu hướng toàn cầu hóa trên phương diện thực phẩm, lương thực, thời trang, thị trường và giải trí.
Sau cùng và quan trọng nhất, toàn cầu hóa mang đặc trưng cấu trúc quyền lực riêng, phức tạp hơn so với cấu trúc quyền lực thời Chiến tranh Lạnh. Hệ thống Chiến tranh Lạnh được xây dựng chủ yếu trên nền tảng các quốc gia. Bạn hoạt động đối ngoại thông qua nhà nước của bạn. Trong kịch bản Chiến tranh Lạnh ta thấy các quốc gia đối đầu, đối trọng và liên kết với nhau. Và trong hệ thống này, Chiến tranh Lạnh được cân bằng bởi hai siêu cường: Hoa Kỳ và Liên Xô.
Ngược lại, toàn cầu hóa được xây dựng quanh ba cán cân quyền lực chồng chéo và quan hệ tương hỗ. Trước hết là sự đối trọng truyền thống giữa các quốc gia. Trong toàn cầu hóa, Hoa Kỳ là siêu cường duy nhất, và tất cả các nước khác đều ít nhiều phụ thuộc vào Hoa Kỳ. Tuy nhiên, đối trọng quyền lực giữa Hoa Kỳ và các nước khác vẫn đóng vai trò duy trì ổn định cho toàn hệ thống. Điều này giải thích cho nhiều mẫu tin bạn đọc được trên trang nhất các tờ báo, chẳng hạn việc cô lập Iraq ở Trung Đông hay sự mở rộng khối NATO để kiềm chế ảnh hưởng của Nga ở Trung Âu.
Cán cân quyền lực thứ hai là giữa các quốc gia và các thị trường toàn cầu. Các thị trường toàn cầu được xây dựng bởi hàng triệu nhà đầu tư, di chuyển vốn qua nhiều nơi trên thế giới bằng cách nhấp chuột máy tính. Tôi gọi chúng là "Bầy thú điện tử". Những con thú này tập trung ở những trung tâm tài chính toàn cầu như phố Wall, Hongkong, London và Frankfurt, những nơi tôi gọi là "những Siêu Thị." Hành vi của Bầy thú điện tử và hoạt động của các Siêu Thị ngày nay có thể có tác động rất lớn đối với các quốc gia, thậm chí có thể gây sụp đổ cho các chính phủ. Ai là người đã hạ bệ Tổng thống Suharto tại Indonesia năm 1998? Không phải là một quốc gia khác, mà chính là các Siêu Thị, thông qua việc rút lại sự ủng hộ và niềm tin và kinh tế Indonesia. Bạn không thể hiểu nổi nội dung những mẩu tin trên báo ngày nay nếu không xét đến yếu tố các Siêu Thị trong phân tích của bạn. Vì Hoa Kỳ có thể xóa sổ bạn bằng cách ném bom, nhưng các Siêu Thị có thể khiến bạn biến mất bằng cách đánh sụt hạng trái phiếu bạn phát hành.
Nói cách khác, Hoa Kỳ đóng vai trò nổi trội trên bàn cờ toàn cầu hóa, nhưng bản thân Hoa Kỳ không tác động được gì vào những nước đi trên bàn cờ đó. Bàn cờ toàn cầu ngày nay rất giống bàn Quija - thỉnh thoảng có bàn tay của các siêu cường hiện hữu dịch chuyển những quân cờ, nhưng thỉnh thoảng các quân cờ lại được những bàn tay vô hình của các Siêu Thị điều khiển.
Đối trọng về quyền lực thứ ba trong hệ thống toàn cầu hóa là giữa các cá nhân và các nhà nước - điều này mới mẻ hơn cả. Do toàn cầu hóa đã phá đi nhiều bức tường ngăn cách dân chúng, và nối cả thế giới vào một mối, nó mang lại cho các cá nhân khả năng chi phối cả các thị trường lẫn các quốc gia trong bất cứ thời điểm nào. Các cá nhân có thể công diễn trực tiếp trên sân khấu thế giới mà không cần đến sự giúp đỡ môi giới của nhà nước. Vậy ngày nay, không những bạn có một siêu cường, nhiều siêu thị, và, như sẽ được chứng minh thêm trong phần sau của cuốn sách, bạn có các cá nhân được trang bị quyền lực tối thượng. Một số những cá nhân đó đang giận dữ, một số khác thật tuyệt vời, nhưng ai cũng như ai, họ đều có thể công diễn trên sân khấu thế giới.
Quỹ Long-Term Capital Managenment, - gồm một số cá nhân với một quỹ đầu cơ tín dụng đóng tại Greenwich, Connecticut, đã phân bố những khoản tiền đầu tư trên khắp thế giới còn nhiều hơn lượng ngoạt tệ dự trữ của Trung Quôc - điều mà ngay cả chính phủ Hoa Kỳ cũng không ngờ đến. Osama Bin Laden, một triệu phú người Ả Rập Xêut có mạng lưới toàn cầu riêng tuyên chiến với Hoa Kỳ vào cuối những năm 1990, và không quân Hoa Kỳ đã trả đũa băng cuộc không kích vào Afghanistan, nơi ông ta cư ngụ, như tuồng Bin Laden là cả một quốc gia. Cứ nghĩ về điều đó mà xem. Hoa Kỳ bắn 75 tên lửa hành trình, mỗi cái gíá một triệu đô-la, nhằm vào một cá nhân! Đó chính là một siêu cường chống một cá nhân có quyền lực lớn. Jody Williams đoạt giải Nobel Hoà bình năm 1997 do đóng góp của bà vào công ước quốc tế cấm các loại mìn trên đất liền. Bà đạt được điều này không những không có sự giúp đỡ của đất nước của bà, mà còn do bất chấp sự chống đối của nhiều nước lớn. Và vũ khí bí mật của bà là gì, khi vận động được 1.000 nhóm nhân quyền và kiểm soát vũ khí ở khắp sáu châu lục? - Email.
Các quốc gia và đặc biệt siêu cường Mỹ ngày nay vẫn có vai trò quan trọng. Nhưng quan trọng không kém, là vai trò của các Siêu Thị và các cá nhân có quyền lực lớn. Bạn không thể hiểu được toàn cầu hóa cũng như những mẫu tin trên trang nhất báo chí, trừ phi nhìn nhận chúng qua lăng kính tổng hòa quan hệ phức tạp giữa ba yếu tố kể trên: nhà nước va chạm với nhà nước, nhà nước và chạm các Siêu Thị và Siêu Thị cùng nhà nước va chạm với những cá nhân có quyền lực lớn.
Khổ một nỗi là, do những lý do tôi sẽ nêu sau này, hệ thống toàn cầu hóa đến với chúng ta trước khi chúng ta có khả năng nhận biết và hiểu được nó. Hãy nghĩ về điều này: trong năm 1990, hầu hết không mấy ai biết về Internet, và rất hiếm người thời đó có địa chỉ Email riêng. Đó là mới hơn 10 năm trước! Giờ đây, Internet, điện thoại di động và Email đã trở thành công cụ thiết yếu của nhiều người, không chỉ ở các nước phát triển đến nỗi họ không thể tưởng tượng cách sống thiếu chúng. Tôi chắc rằng nó cũng tương tự như tình hình hồi đầu Chiến tranh Lạnh, khi xuất hiện các kho vũ khí hạt nhân cùng các học thuyết răn đe. Phải mất một thời gian dài thì các nhà lãnh đạo và các nhà phân tích thời đó mới hiểu được bản chất thực sự và các khuynh hướng của hệ thống Chiến tranh Lạnh. Họ sống sót từ Chiến tranh Thế giới thứ hai; họ nghĩ rằng cuộc chiến đó đã tạo ra một thứ thế giới mới, nhưng thực tế diện ra hoàn toàn khác, họ sớm nhận ra rằng thế giới mới hoàn toàn không giống những gì người ta mong đợi. Phần nhiều những yếu tố định hình thế giới và chiến lược trong thời Chiến tranh Lạnh chẳng qua là những phản ứng tại chỗ đối với những diễn biến cùng các hiểm họa mới xuất hiện. Rồi dần dần các nhà hoạch định chiến lược bắt đầu xây dựng những định chế mới, các quan niệm và lối ứng xử mới mà sau này được biết đến dưới cái tên gọi hệ thống Chiến tranh Lạnh.
Đối với toàn cầu hóa thì sự thể cũng diễn ra không khác mấy, ngoại trừ chuyện chúng ta có thể mất nhiều thời gian hơn để hiểu về nó, vì để hiểu hệ thống không thôi cũng cần phải đài tạo lại; vả lại khác với Chiến tranh Lạnh, nơi mọi thứ được định hình xung quanh các siêu cường, toàn cầu hóa được xây dựng với sự tham gia của các Siêu Thị và các cá nhân có quyền lực lớn. Tôi xin nói cách chúng ta hiểu về toàn cầu hóa vào năm 2000 cũng giống như cách chúng ta hiểu về Chiến tranh Lạnh vào năm 1946 - năm đó Winston Churchill cảnh báo "Bức Màn Sắt" ngăn cách khu vực ảnh hưởng của Liên Xô khỏi Tây Âu sắp được dựng lên. Ba mươi năm sau ngày Churchill đọc bài diễn văn này chúng ta cũng chưa hiểu được hệ thống Chiến tranh Lạnh rồi sẽ ra sao! Cũng vào lúc đó nhà sách Routledge xuất bản một tập tiểu luận của các nhà nghiên cứu về Liên Xô với chủ đề Nền kinh tế Xô Viết đến năm 2000. Tập sách ấy bán rất chạy. Nhưng không một tác giả nào lúc đó có thể dự đoán rằng vào năm 2000, sẽ không còn nền kinh tế Xô Viết.
Để chứng minh cho luận điểm rằng rất ít người hiểu đích xác về hoạt động của hệ thống toàn cầu hóa, xin dẫn ra đây một bằng chứng lý thú. Hai nhà kinh tế làm tư vấn cho Quỹ Long-Term Capital Management, là Robert C. Merton và Myron S. Scholes, cả hai cùng nhận một giải Nobel Kinh tế năm 1997, khoảng một năm trước khi Quỹ này hiểu sai về bản chất của rủi ro trong thị trường toàn cầu đan xen ngày nay, rốt cuộc dẫn đến sự thua lỗ lớn nhất trong lịch sử các loại quỹ đầu tư. Nhưng hai kinh tế gia của Quỹ này được giải Nobel do công lao gì? Chính là do các nghiên cứu của họ về cách sử dụng các loại công cụ tài chính phức tạp, gọi là phái sinh, phục vụ các nhà đầu tư toàn cầu loại bỏ các rủi ro về tài chính! Năm 1997, họ được trao giải thưởng Nobel do có công giúp quản lý rủi ro. Năm 1998, họ trở thành kẻ đầu têu do đã tạo ra các loại rủi ro mới. Vẫn những con người đó, vẫn những thị trường đó, nhưng là một thế giới mới.