Chương 1

1

Mãi tới sau nữa đêm, khi buổi tiệc ban chiều kết thúc thì cuộc đấu giá từ thiện mới được bắt đầu. Bây giờ đã gần bốn giờ sáng và buổi đấu giá chỉ mới đi đến hồi kết. Một màn hình kỹ thuật số đặt phía sau người điều khiển nổi tiếng—một diễn viên đã từng đóng vai James Bond trên màn ảnh suốt nhiều năm—cho thấy tổng số hiện có đang ở mức hơn một triệu euro.

“Lô số hai trăm mười: một đôi mặt nạ Kabuki của Nhật Bản đầu thế kỷ mười chín.”

Tiếng rì rầm sôi nổi lan khắp căn phòng chật ních người. Nhưng chiếc mặt nạ Kabuki này được khảm bằng các mảnh ngọc bích hình khối, là điểm nổi bật của cuộc bán đấu giá, và người ta mong đợi nó đem về hơn nửa triệu euro.

Ở cuối căn phòng một người đàn ông cao, gầy với mái tóc xoăn trắng như tuyết được cắt rất sát sẵn sàng trả giá gấp đôi con số đó.

Niccolo Machiavelli đứng tách ra khỏi số còn lại của đám đông, cánh tay khoanh hờ trước ngực, cẩn thận không làm nhăn bộ Savile Row—bộ lễ phục được cắt may băng lụa đen. Đôi mắt xám như màu đảo khắp những người trả giá khác, phân tích và đánh giá họ. Thực sự ông chỉ ta chỉ cần dè chừng năm người: hai nhà sưu tập cá nhân giống như ông ta, một hoàng thân người châu u tuổi vị thành niên, một diễn viên điện ảnh người Mỹ nổi danh một thời và một tay buôn đồ cổ người Canada. Những khán giả còn lại một số đã mệt mỏi, một số đã xài sạch túi, hoặc chỉ miễn cưỡng trả giá cho mấy chiếc mặt nạ trông có phần hơi buồn khổ.

Machiavelli yêu thích mọi kiểu mặt nạ. Ông đã sưu tầm chúng từ rất lâu, và ông muốn có đôi mặt nạ đặc biệt này để hoàn tất bộ sưu tập y phục nhà hát Nhật Bản của mình. Những chiếc mặt nạ này được đem bán gần đây nhất vào năm 1898 tại Vienna, rồi được một hoàng tử Romanov trả giá cao nhất. Machiavelli kiên nhẫn chờ đợi thời cơ; những chiếc mặt nạ có thể sẽ quay lại thị trường một lần nữa khi Hoàng tử và các hậu duệ của ông qua đời. Machiavelli biết mình vẫn còn quanh quẩn nơi đây để mua được chúng; đó là một trong nhiều lợi thế khi làm người bất tử.

“Chúng ta sẽ bắt đầu đấu giá ở mức một trăm ngàn euro nhé?”

Machiavelli nhìn lên, thu hút sự chú ý của người chủ tọa về mình và gật đầu.

Người chủ tọa đợi ông ta chấp nhận giá và gật đầu đáp lại. “Tôi được ông Machiavelli trả một trăm ngàn euro. Ông luôn luôn là một trong những nhà ủng hộ và tài trợ hào phóng nhất của hội từ thiện này.”

Những tiếng vỗ tay rời rạc chạy căn phòng, vài người quay lại nhìn ông ta và nâng cao chiếc cốc trong tay họ. Niccolo đón nhận chúng bằng một nụ cười lịch thiệp.

“Có phải tôi có một trăm mười không?” người chủ tọa hỏi.

Một nhà sưu tập cá nhân e dè đưa tay lên.

“Một hai mươi?” người chủ tọa nhìn ngược lại Machiavelli, ông vừa mới gật đầu.

Trong ba phút tiếp theo, sự ra giá khá nhộn nhịp đã đẩy giá lên đến hai trăm năm mươi ngàn euro. Chỉ còn lại ba người trả giá đáng gờm: Machiavelli, chàng diễn viên người Mỹ và tay buôn đồ cổ người Canada.

Đôi môi mỏng của Machiavelli vặn vẹo thành một nụ cười hiếm hoi; sự kiên nhẫn của ông ta sắp được tưởng thưởng, và cuối cùng những chiếc mặt nạ sẽ thuộc về ông. Nhưng rồi nụ cười chợt nhạt đi khi ông cảm thấy chiếc điện thoại trong túi rung thầm. Trong một thoáng ông ta định phớt lờ nó; ông đã dặn nhân viên của ông rất nghiêm ngặt đừng quấy rầy ông trừ phi đó hoàn toàn là trường hợp nguy kịch. Ông ta cũng biết rằng chúng sợ ông đến nỗi sẽ không điện thoại cho ông nếu không có việc khẩn cấp. Thò tay vào túi mình, ông kéo ra chiếc điện thoại di động siêu mỏng và liếc xuống.

Hình một thanh kiếm dao động nhè nhẹ trên màn hình LCD rộng.

Nụ cười của Machiavelli tan biến hẳn. Trong giây phút đó ông ta biết rằng mình sẽ không thể mua được những chiếc mặt nạ Kabuki trong thế kỷ này. Xoay gót, ông ta sải ra khỏi căn phòng và áp điện thoại vào tai. Đằng sau mình, ông ta nghe được tiếng búa của người chủ tọa gõ vào bục “Bán. Hai trăm sáu mươi ngàn euro…”

“Tôi đây,” Machiavelli nói, ông trở lại giọng Ý thời trai trẻ của ông ta.

Đường dây kêu lốp bốp và một tiếng nói mang giọng Anh trả lời bằng cùng ngôn ngữ đó, một tiếng địa phương không còn được nghe ở châu u trong hơn bốn trăm năm nay. “Tôi cần ông giúp.”

Người đàn ông ở đầu dây bên kia không giới thiệu mình, mà hắn ta củng chẳng cần làm vậy; Machiavelli biết chính là Tiến sĩ John Dee bất tử, pháp sư và thầy đồng gọi hồn, một trong những người đàn ông quyền lực và nguy nhiểm nhất thế giới.

Niccolo Machiavelli sải bước ra ngoài khách sạn nhỏ để đi vào quảng trường lát đá cuội Place du Terre và ngừng lại hít thở trong bầu không khí đêm lạnh lẽo. “Tôi có thể làm được gì cho ông?” Ông ta thận trọng hỏi. Ông ta ghét cay ghét đắng Dee và biết rằng đây cũng là cảm giác chung giữa hai người, nhưng cả hai đang phục vụ cho các Elder đen tối, và điều đó có nghĩa là họ buộc phải làm việc cùng nhau qua các thế kỷ. Machiavelli cũng có một chút ghen tị vì Dee trẻ tuổi hơn—mà trông bề ngoài hắn cũng trẻ hơn. Machiavelli sinh năm 1469 tại Florence, nên ông ta lớn hơn tay Pháp sư người Anh này năm mươi tám tuổi. Lịch sử ghi nhận ông ta đã chết cùng năm Dee sinh ra, 1527.

“Flamel trở lại Paris rồi.”

Machiavelli dựng thẳng người. “Hồi nào?”

“Mới đây. Hắn đã đến đó bằng cổng tuyến. Tôi không biết tiếp theo là hắn ở đâu. Hắn mang Scathach theo cùng…”

Môi Machiavelli cong lên tạo thành một vẻ dúm dó xấu xí. Lần cuối cùng ông chạm trán với Nữ thần Chiến binh, bà ta đã xô ông qua cửa. Cánh cửa đóng lại đúng lúc đó, và ông phải mất mấy tuần để gắp những mảnh vở ra khỏi ngực và vai.

“Có hai đứa trẻ thuộc giống người cùng đi với hắn. Chúng người Mỹ,” Dee nói, giọng hắn vang và nhòe vào đường dây xuyên Đại Tây Dương. “Cặp sinh đôi,” hắn thêm.

“Nói lại thử?” Machiavelli yêu cầu.

“Cặp sinh đôi,” Dee nói thêm, “với luồng điện vàng và bạc. Ông biết điều đó có nghĩa là gì mà,” hắn bốn chát.

“Ừ,” Machiavelli lẩm bẩm. Điều đó có nghĩa là rắc rối. Rồi một chút vẻ sung sướng uốn cong đôi môi mỏng của ông ta. Nó cũng có nghĩa là vận may.

Tiếng tĩnh điện kêu lắc rắc rồi giọng Dee nói tiếp. “Năng lượng của đứa con gái đã được Hekate Đánh thức trước khi Nữ thần và Vương quốc Bóng tối của bà ta bị phá hủy.”

“Không có kinh nghiệm gì, con bé đó không phải mối đe dọa,” Machiavelli thầm thì, ước lượng tình thế. Ông ta nghỉ lấy hơi và nói thêm, “có lẽ phải loại trừ trường hợp con bé là mối đe dọa cho chính bản thân nó và mấy tên đồng bọn đi cùng.”

“Flamel đã mang con bé tới Ojai. Ở đó, Mụ phù thủy Endor đã dạy cho nó Phép thuật Không khí.”

“Chắc ông đã cố ngăn chúng lại?” giọng Machiavelli pha lẫn chút thích thú.

“Đã cố. Và đã thất bại,” Dee cay đắng thừa nhận. “Đứa con gái có chút kiến thức nhưng không có kỹ năng.”

“Ông muốn tôi làm gì?” Machiavelli thận trọng hỏi, dù trong đầu

ông ta đã lóe ra một ý tưởng khá hay.

“Tìm Flamel và cặp sinh đôi,” Dee yêu cầu. “Bắt chúng. Giết Scathach đi nếu ông có thể. Tôi vừa rời Ojai. Nhưng sẽ phải mất mười bốn hay mười lăm tiếng nữa mới tới được Paris>“Chuyện gì xảy ra với cái cổng tuyến?” Machiavelli ngạc nhiên thốt lên. Nếu có một cổng tuyến đã kết nối Ojai với Paris, thì tại sao Dee không…?

“Bị mụ phù thủy Endor phá hủy rồi,” Dee nổi xung, “và suýt chút nữa mụ ta cũng giết được tôi. Tôi may mắn thoát được nhưng người đầy những vết chém và cào xước,” hắn nói thêm, và rồi kết thúc cuộc gọi mà không một lời chào tạm biệt.

Niccolo Machiavelli cẩn thận tắt điện thoại và nhịp nó nhè nhẹ vào môi dưới. Không hiểu sao ông ta tự nhủ rằng Dee đã gặp may—nếu mụ phù thủy Endor muốn hắn chết thì ngay cả tiến sĩ Dee huyền thoại cũng đừng hòng trốn thoát. Machiavelli quay người lại và đi bộ ngang qua quảng trường đến nơi anh tài xế của ông đang kiên nhẫn chờ trong xe. Nếu Flamel, Scathach và cặp sinh đôi người Mỹ đã đến Paris bằng cổng tuyến, thì chỉ có một vài điểm trong thành phố này mà bọn chúng hẳn phải lộ mặt ra. Xem ra tương đối dễ dàng tìm và bắt chúng.

Và nếu có thể bắt chúng đêm nay, thì ông ta sẽ có nhiều thời gian làm việc với chúng trước khi Dee đến.

Machiavelli mỉm cười; ông ta chỉ cần vài tiếng đồng hồ, và trong thời gian đó chúng sẽ nói cho ông ta mọi thứ chúng biết. Một nữa thiên niên kỷ sống trên trái đất này đã dạy ông cách làm thế nào để thật sự khiến mình đầy sức thuyết phục.

Josh Newman vươn người và bám lòng bàn tay phải lên bức tường đá lạnh lẽo đễ giữ thăng bằng.

Chuyện gì vừa xảy ra?

Có một lúc cậu đang đứng trong cửa tiệm của Bà Phù thủy Endor tại Ojai, California. Chị gái cậu, Sophie, Scathach và người đàn ông mà bây giờ cậu mới biết là Nicholas Flamel đã ở trong tấm gương, tất cả đang đứng nhìn ra phía sau cậu. Và điều kế tiếp cậu biết là, Sophie đã bước ra khỏi tấm gương, nắm tay và kéo cậu đi xuyên qua nó. Cậu nhắm nghiền mắt, cảm thấy một thứ gì đó lạnh buốt chạm vào da, làm những sợi tóc li ti phía sau gáy cậu dựng đứng. Khi mở mắt ra lại, cật thấy mình đang đứng trong cái gì giống như một nhà kho bé xíu. Những chiếc bình đựng sơn, những cái thang xếp chồng lên nhau, những mảnh gốm vỡ và những tấm vải bị sơn bắn tung tóe cuộn lại thành bó chất đống quanh một tấm gương lớn trông khá tầm thường đầy cáu bẩn được gắn cố định vào bức tường đá. Lẻ loi một chiếc bóng đèn tròn công suất thấp ném thứ ánh sáng vàng vọt yếu ớt xuống căn phòng. “Đã xảy ra chuyện gì?” cậu bé hỏi, tiếng nói vỡ vụn. Cậu nuốt nước bọt một cách khó khăn và thử lại. “Chuyện gì vậy? Chúng ta đang ở đâu đây?”

“Chúng ta đang ở Paris,” Nicholas Flamel vừa nói với vẻ hài lòng, vừa lau chùi hai bàn tay đầy bụi bẩn vào chiếc quần jeans đen. “Thành phố nơi tôi sinh ra.”

/font>Paris?” Josh kêu thầm. Cậu định nói “Không thể”, nhưng cậu bắt đầu hiểu rằng lời đó không còn ý nghĩa gì nữa cả. “Làm thế nào?” cậu hỏi lớn. “Sophie?” Cậu nhìn người chị gái sinh đôi của mình, nhưng cô bé đang áp sát tai vào cánh cửa duy nhất của căn phòng và chăm chú lắng nghe. Cô vẫy tay xua cậu đi. Cậu quay sang Scathach, nhưng người Nữ Chiến binh tóc đỏ chỉ lắc đầu, đưa cả hai tay lên che miệng. Trông như thể cô ta sắp nôn thốc nôn tháo ra. Cuối cùng Josh quay sang Nhà Giả Kim huyền thoại, Nicholas Flamel. “Làm thế nào chúng ta đến đây được ạ?” Cậu hỏi.

“Hành trình này chằng chịt những đường kẻ năng lượng vô hình đôi khi được gọi là đường tuyến (ley lines) hoặc hàng đá (cursus),” Flamel giải thích. Ông ta bắt chéo hai ngón trỏ với nhau. “Ở đâu có hai hay nhiều hơn hai đường kẻ giao nhau thì ở đó xuất hiện một cổng tuyến. Những cái cổng đó bây giờ cực kỳ hiếm, nhưng vào thời cổ xưa giống loài Elder thường dùng chúng để đi từ bên này sang bên kia trái đất chỉ trong chớp mắt—như chúng ta vừa mới đi. Bà Phù thủy đã mở cổng tuyến ở Ojai và chúng ta đã tới nút đầu bên kia, tại Paris.” Ông ta nói nghe cứ như chẳng có chuyện gì to tát.

“Cổng tuyến, tôi ghét chúng,” Scatty lầm bầm. Dưới ánh đèn ảm đạm, nước da nhợt nhạt lốm đốm tàn nhang của cô trong xanh lè. “Em có bị say sống không?” Cô hỏi.

Josh lắc đầu. “Không bao giờ.”

Sophie ngẩng đầu lên khỏi chỗ, tựa người vào cánh cửa. “Ba xạo! Nó còn say sóng trong hồ bơi nữa kìa.” Cô bé cười toe, rồi lại áp một bên mặt vào tấm gỗ mát lạnh.

“Say sóng,” Scatty lầm bầm. “Đó chính xác là những gì mình đang cảm thấy. Thật tồi tệ.”

Sophie quay đầy lại nhìn Nhà Giả kim. “Chú có biết là chúng ta đang ở đâu tại Paris không?”

“Một nơi rất cũ kỹ, chú đoán vậy,” Flamel nói, đi đến bên cô bé đang đưng ngay cánh cửa. Ông nghiêng một bên đầu áp vào tấm cửa và lắng nghe.

Sophie bước lui lại. “Chưa chắc đâu,” cô bé ngập ngừng.

“Sao lại chưa?” Josh hỏi. Cậu liếc quanh căn phòng nhỏ xíu bừa bộn. Rõ ràng trông nó đúng là nằm trong một tòa nhà cũ mèm.

Sophie lắc đầu. “Không biết nữa… chỉ là không cảm thất nó cũ.” Cô đưa lòng bàn tay chạm vào bức tường, rồi đột ngột rụt mạnh trở lại

“Chị bị gì vậy?” Josh thì thào.

Sophie áp đầu sát vào tường lần nữa. “Chị nghe được nhiều tiếng nói, những tiếng hát và có gì như tiếng nhạc từ đàn organ.”

Josh nhún vai. “Em chẳng nghe được gì.” Cậu ngừng lại, chợt nhận ra sự khác biệt lớn lao giữa cậu với người chị sinh đôi. Phép thuật tiềm ẩn của Sophie đã được Hekate Đánh thức, và bây giờ cô quá sức nhạy cảm cả về thị giác và thính giác, khứu giác, xúc giác và vị giác.

“Chị nghe được,” Sophie nhấc tay khỏi bức tường đá và âm thanh trong đầu cô nhạt dần.

“Cháu đang nghe tiếng vọng bóng thôi,” Flamel giải thích. “Đó chỉ là những tiếng ồn do tòa nhà hút ngấm vào, được lưu lại và trở thành chính bản thân công trình kiến trúc đó.”

“Đây là một ngôi nhà thờ,” Sophie nói dứt khoát, rồi cau mày. “Một ngôi nhà thờ mới … hiện đại, cuối thế kỷ mười chín đầu thế kỷ hai mươi. Nhưng lại được xây dựng trên một nền đất củ xưa hơn nó rất nhiều rất nhiều.”

Flamel dừng ngay nơi cánh cửa gỗ và ngoái nhìn ra đằng sau mình. Dưới nguồn sáng tù mù trên đầu, nét mặt ông trở nên sắc nét, đầy góc cạnh, trông giống như một cái đầu lâu dễ sợ, hai hốc mắt ông hoàn toàn chìm trong bóng tối. “Có nhiều nhà thờ ở Paris lắm,” ông nói, “tuy nhiên chỉ có một cái, chú tin vậy, là phù hợp với mô tả đó.” Ông cầm vào nắm cửa.

“Khoan đã,” Josh nói nhanh. “Chú không nghĩ là sẽ có một dạng báo động nào đó sao?”

“Ồ, không chắc đâu,” Nicholas tự tin nói. “Ai mà đặt báo động nơi nhà kho trong nhà thờ?” ông ta vừa hỏi, vừa giật mở tung cánh cửa.

Một hồi chuông báo động đột ngột ré lên trong không khí, âm thanh vang đi và dội lại tắt ngấm vào những phiến đá lát và bức tường. Đèn báo động bật đỏ lòm nhấp nháy lóe sáng từng hồi.

Scatty thở ra và càu nhàu gì đó bằng một ngôn ngữ Celt cổ. “Ông chẳng đã có lần bảo tôi phải chờ đợi trước khi cử động, nhìn ngó trước khi tiến bước và quan sát tất cả những gì xung quanh đó sao?” Cô hỏi gặng.

Nicholas lắc đầu và thở dài vì cái lỗi ngu ngốc của mình. “Chắc là tôi già lắm rồi,” ông cũng nói bằng ngôn ngữ đó. Nhưng không còn thời gian đễ hối lỗi. “Đi thôi!” ông ta hét lớn át cả tiếng báo động inh ỏi, và bổ nhào xuống hành lang. Sophie và Josh theo sát đằng sau, trong khi Scatty đi cuối cùng, bước chầm chậm và cứ mỗi bước cô lại cằn nhằn.

Cánh cửa mở vào một hành lang hẹp bằng đá dẫn ra một cánh cửa gỗ khác. Không chút ngập ngừng, Flamel xô vào cánh cửa thứ hai—và ngay tức khắc một hồi báo động mới lại rú lên. Ông rẽ trái lao và một khoảng không gian trống trải rộng lớn đầy mùi hương trầm cũ kỹ, xi đánh sàn và sáp ong. Những dãy nến sáng màu vàng ánh kim tỏa khắp trên tường, trên sàn nhà và kết hợp với ánh đèn báo động, cho thấy hai cánh cửa đồ sộ có hang chữ LỐI RA ở bên trên. Flamel phóng về phía đó, tiếng bước chân ông nện vang.

“Đừng chạm vào—” Josh thốt lên, nhưng Nicholas Flamel đã chộp lấy nắm cửa và kéo mạnh.

Hồi chuông báo động thứ ba—lớn hơn nhiều so với mấy lần trước—chợt tắt ngấm, và một bóng đèn đỏ chói phía trên cánh cửa bắt đầu chớp tắt liên tục.

“Đã bảo chú đừng chạm vào,” Josh cằn nhằn.

“Chú không hiểu nổi—tại sao nó không mở sẵn?” Flamel hỏi, hét toáng lên để mọi người có thể nghe được trong tiếng ầm ĩ kinh hồn. “Nhà thờ phải luôn mở cửa chứ?” Ông quay người nhìn quanh. “Mọi người đâu cả? Mấy giờ rồi?” ông hỏi, tựa như có một ý vừa ập đến với ông.

“Phải mất bao lâu để đi từ nơi này đến nơi kia bằng cổng tuyến?” Cô bé hỏi.

“Ngay lập tức.”

“Và chú chắc chắn là chúng ta đang ở Paris, nước Pháp chứ?”

“Chắc chắn.”

Sophie nhìn đồng hồ và làm một bài toán rất nhanh. “Paris đi trước Ojai chín tiếng hả?” Cô hỏi.

Flamel gật đầu chợt hiểu ra.

“Bây giờ là bốn giờ sáng; hèn gì nhà thờ đóng cửa,” Sophie nói.

“Cảnh sát sẽ lên đường tới đây,”

đây,” Scatty rầu rĩ, giơ tay vớ lấy chiếc nhị khúc của mình. “Tôi ghét phải đánh nhau khi trong người không khỏe,” cô lẩm bẩm.

“Chúng ta làm gì bây giờ?” Josh hỏi gặng, nỗi sợ hãi dâng lên trong tiếng nói của cậu.

“Cháu có thể thử dùng gió phá vỡ mấy cánh cửa này thành từng mảnh,” Sophie đề nghị một cách e dè. Cô bé không chắc mình còn sức lực để gọi giiền như vậy một lần nữa không. Cô đã dùng năng lượng pháp thuật mới của mình để quật ngã người bất tử ở Ojai, nhưng nỗ lực đó đã khiến cô mệt lử hoàn toàn.

“Chú cấm đó,” Flamel hét lên, khuôn mặt ông chìm trong những vùng bóng tối đỏ thẩm và đen thui. Ông quay lại và chỉ, hướng ngón tay của ông băng ngang qua những hàng ghế dài có lưng tựa đi thẳng về phía một cái bàn thờ trang trí công phu nổi bật một họa tiết hình mảng bằng cẩm thạch trắng. Ánh nến phả vào một bức tranh rất phức tạp được khảm bằng các mảnh ghép màu xanh da trời và vàng ánh kim lấp lánh trong nóc vòm phía trên bàn thờ. “Đây là một di tích quốc gia, chú không thể để cháu phá hủy nó được.”

“Chúng ta đang ở đâu vậy?” hai chị em sinh đôi vừa đồng thanh thốt lên vừa nhìn quanh công trình. Bây giờ mắt chúng đã quen với bóng tối, chúng nhận ra rằng công trình này rất đồ sộ. Chúng có thể phân biệt từng cây cột cao vút làm thành vùng bóng tối trên đầu và nhìn thấy được bóng của những chiếc bàn thờ phụ nho nhỏ, bóng những bức tượng đặt trong các góc yên tĩnh và vô số những hàng nến.

“Đây là,” Flamel thông báo một cách tự hào, “nhà thờ Sacre- Coeur.”

Ngồi đằng sau chiếc limousine của mình, Niccolo Machiavelli gõ tọa độ vào chiếc máy tính xách tay và chăm chú nhìn vào màn hình nơi tấm bản đồ Paris độ phân giải cao nhấp nháy hiện ra.à một thành phố cổ lạ lùng. Vùng định cư đầu tiên dễ chừng đã có hồi hơn hai ngàn năm trước, dù vậy lúc ấy vẫn có người sống trên hòn đảo năm trong dòng sông Seine này hàng nhiều thế hệ trước nữa. Và cũng như nhiều thành phố cổ kính nhất trên trái đất, nó được xác định là nơi các nhóm đường tuyến gặp nhau.

Machiavelli bấm vào một phím, màn hình chuyển qua một sơ đồ đường tuyến chằng chịt khắp bản đồ thành phố. Ông ta tìm kiếm một đường kẻ kết nối với nước Mỹ. Cuối cùng ông ta cũng có cách giảm bớt con số có khả năng xuống còn sáu. Dùng một móng tay được cắt giũa hoàn hảo, ông lần theo hai đường kẻ nối thẳng từ Bờ Tây của Mỹ đến Paris. Một đường kết thúc tại vương cung thánh đường Notre Dame, đường kia kết thúc tại một nơi có hai hàng cột kiểu La Mã hiện đại hơn nhưng cũng nổi tiếng không kém, thánh đường Sacre- Coeur thuộc vùng Montmartre.

Nhưng?

Đột nhiên, đêm Paris chợt vỡ ra bởi những chuỗi còi báo động hú vang. Machiavelli liền bấm vào bộ điều khiển cửa điện tử và lớp kính râm cuộn xuống ngay. Không khí ban đêm mát lạnh cuộn xoáy vào xe. Xa xa, vượt lên khỏi những mái nhà phía đối diện của Place du Terre, là Sacre- Coeur. Kiến trúc có mái vòm oai nghiêm này luôn được thắp sáng vào ban đêm bằng toàn một thứ ánh sáng trắng tinh khiết. Vậy mà, đêm nay, những ngọn đèn báo động đỏ lòm lại chớp tắt nhịp nhàng quanh kiến trúc này.

Cái đó. Nụ cười của Machiavelli thật đáng sợ. Ông ta kích hoạt một chương trình trên máy tính và chờ đợi trong khi chiếc ổ cứng

Nhập mật khẩu.

Những ngón tay ông ta gõ như lướt trên bàn phím: Discorsi sopra la prima deca di Tito Livio. Sẽ không ai phá được mật khẩu đó. Nó không nằm trong số các cuốn sách được xem là nổi tiếng hơn những cuốn khác của ông.

Một trang văn bản trông khá thông thường hiện ra, được viết bằng tiếng Latin, Hy Lạp và kết hợp với nhau. Từng có lần các nhà ma thuật đã cất giữ những câu thần chú và bùa phép của họ trong cuốn sổ ghi chép bằng tay được gọi là cuốn sổ đen, nhưng Machiavelli luôn luôn dùng công nghệ mới nhất. Ông thích cất những câu thần chú vào ổ cứng của mình hơn. Bây giờ ông chỉ cần một chút gì đó để khiến cho Flamel và đám bạn của y bận rộn trong lúc ông tập trung sức lực.

Josh tập trung nghe ngóng. “Cháu nghe có tiếng còi cảnh sát.”

“Có mười hai xe cảnh sát trực chỉ đường này,” Sophie nói, đầu cô nghiêng một bên, hai mắt nhắm lại như đang chăm chú lắng nghe.

“Mười hai? Làm sao chị nói vậy được?”

Sophie nhìn cậu em sinh đôi của mình. “Chị có thể phân biệt từng vị trí khác nhau của tiếng còi.”

“Chị có thể nói chúng tách bạch như vậy sao?” Cậu hỏi. Lại một lần nữa, cậu tự bắt gặp mình đang ngạc nhiên với mức độ hết sức nhạy cảm của chị cậu.

“Từng chiếc một,” cô nói.

“Chúng ta không được để cảnh sát bắt,” Flamel đanh thép xen vào. “Chúng ta không có hộ chiếu mà củng chẳng có chứng cớ ngoại phạm. Phải ra khỏi đây ngay thôi!”

“Bằng cách nào?” cặp sinh đôi cùng hỏi một lượt.

Flamel lắc đầu. “Phải có một lối ra vào khác nữa…” ông cất tiếng, và rồi chợt im bặt, cánh mũi nở ra.

Josh bứt rứt nhìn chằm chặp vào cả Sophie và Scatty vừa đột nhiên phản ứng với một thứ gì đó mà cậu không sao ngửi thấy được. “Cái gì… cái gì vậy chứ?” cậu hỏi dồn, và rồi thình lình cậu bắt được một luồng hơi rất thoảng nhẹ của cái gì như xạ hương pha lẫn với mùi khen khét. Đó là một loại mùi làm cậu liên tưởng đến sở thú.

“Rắc rối rồi,” Scathach điềm nhiên nói, cất nhị khúc đi và rút thanh kiếm ra. “Rắc rối lớn đây.”