Chương 1

Mặt trời chiếu ánh nắng chói chang xuống boong chiếc du thuyền có tên Blue Moon. Chiếc du thuyền này có chiều dài 80m, được thiết kế rất đẹp và có đầy đủ tiện nghi. Trên du thuyền có hồ bơi, bãi đáp trực thăng, sáu phòng dành cho khách tuyệt đẹp và sang trọng; phòng chủ nhân có nơi dùng để chiếu phim. Thủy thủ đoàn gồm 16 người được huấn luyện rất giỏi. Chiếc Blue Moon - và chủ nhân - đã được các tạp chí về du thuyền trên thế giới đăng tải. Charlie Summer Harrington đã mua chiếc du thuyền này từ tay một ông hoàng Saudi cách đây sáu năm. Chiếc du thuyền chàng mua đầu tiên là một thuyền buồm dài 22m, khi mới 22 tuổi. Chiếc du thuyền ấy có tên là Dream. Hai mươi bốn năm sau, chàng vui hưởng cuộc sống trên chiếc du thuyền Blue Moon cho đến giờ.

Charlie Harrington năm nay 46 tuổi, chàng nghĩ mình là người may mắn. Cuộc đời chàng dường như thoải mái về nhiều mặt. Năm 21 tuổi, chàng thừa hưởng một gia tài kếch sù, và từ ấy đến nay đã hai mươi lăm năm, chàng quản lý gia tài này với tinh thần trách nhiệm cao. Chàng đã đầu tư tài sản vào các nơi và điều hành cơ sở từ thiện của gia đình một cách hiệu quả. Chàng nghĩ rằng trên đời này hiếm có người sung sướng như mình, nên cố gắng hết sức để nâng cao cuộc sống của những người thiếu may mắn hơn, qua tổ chức từ thiện cũng như qua các lĩnh vực riêng tư. Chàng tin chắc mình có tinh thần trách nhiệm cao, ngay khi còn trẻ, chàng đã biết nghĩ đến người khác. Chàng luôn chăm lo cho đời sống của những thanh thiếu niên bất hạnh mà chàng biết. Cơ sở từ thiện mà chàng đang điều hành đã làm những việc rất ấn tượng về giáo dục, cung cấp thuốc men cho người nghèo, nhất là cho các nước đang phát triển, đồng thời chăm lo bảo vệ các thiếu nhi ở các thành phố cổ khỏi bị hành hạ. Charlie Harrington luôn lặng lẽ trong những công việc từ thiện. Nhưng chàng cũng xác nhận rằng mình đã quá được nuông chiều, và có cuộc sống nhiều khi quá phóng túng. Chàng đã chi hàng triệu đồng mỗi năm để lo cho sức khỏe của mọi người, và cũng chi một số tiền rất lớn để lo cho chính mình. Chàng không lấy vợ, không có con, biết cách hưởng thụ cuộc sống, và khi có dịp thuận tiện, chàng vui chơi với bạn bè.

Hàng năm chàng luôn có kế hoạch cho việc vui chơi. Charlie cùng với hai người bạn thân, Adam Weiss và Gray Hawk, đi chơi suốt cả tháng Tám trên chiếc du thuyền của Charlie quanh vùng biển Địa Trung Hải, dừng lại ở bất cứ nơi nào họ muốn. Hp đã đi chơi như thế suốt mười năm qua. Họ luôn mong đợi cuộc hành trình này, nên tìm mọi cách để khỏi lỡ mất chuyến đi. Hàng năm cứ đến mùa nước cao, vào ngày một tháng Tám là Adam và Gray đáp máy bay đến Nice, lên chiếc Blue Moon đi chơi một tháng. Charlie thường ở trên thuyền từ tháng Bảy, thỉnh thoảng đến giữa tháng Chín hay cuối tháng Chín chàng mới trở về New York. Công việc ở cơ sở từ thiện hay các hoạt động tài chính đều được chàng điều hành từ trên du thuyền rất dễ. Nhưng tháng Tám là tháng dành để vui chơi. Và năm nay cũng không khác những năm trước. Chàng ngồi lặng lẽ ăn sáng phía sau boong khi chiếc du thuyền êm ả thả neo ở ngoài hải cảng St. Tropez. Đêm nay họ đã đi chơi khuya và về đến thuyền lúc bốn giờ sáng.

Mặc dù đêm qua thức khuya, sáng nay Charlie vẫn dậy sớm, chuyện vui chơi chàng chỉ nhớ lờ mờ. Khi nào cuộc vui cũng có Gray và Adam tham dự. Trông ba người ai cũng thấy sợ, nhưng họ vui chơi vô hại. Họ khỏi bị ai dòm ngó vì ba người không ai có vợ và hiện cũng không có bạn gái. Họ đã thỏa thuận với nhau từ lâu rằng, dù hoàn cảnh của họ thế nào, họ cũng chỉ được lên tàu một mình, sống một tháng như dân độc thân, chỉ có đàn ông với nhau, sống xả láng với nhau. Họ không phải xin lỗi ai. Trong thời gian ngoài cái tháng vui chơi này? người nào cũng phải làm việc cật lực. Charlie là một nhà từ thiện, Adam là luật sư, còn Gray là họa sĩ. Charlie luôn mồm nói họ có quyền nghỉ vui chơi một tháng, đáng được hưởng cuộc du lịch hàng năm này.

Hai trong ba người tự chọn cuộc sống độc thân. Charlie nhất quyết nói chàng không phải thuộc loại ấy. Chàng tuyên bố rằng tình trạng độc thân của chàng là có lý do, hoàn toàn vì vận đen đã xảy ra cho chàng. Chàng nói chàng muốn lấy vợ, nhưng chưa tìm ra được người vừa ý, mặc dù chàng luôn tìm kiếm. Nhưng chàng vẫn tiếp tục tìm với quyết tâm cao. Trong thời trai trẻ chàng đã đính hôn bốn lần, nhưng gần đây thì không và mỗi lần đều có chuyện không hay xảy ra khiến chàng không làm đám cưới được. Chuyện này khiến cho Charlie rất buồn và hết sức ân hận.

Người vợ chưa cưới đầu tiên của Charlie đã ngủ với người bạn thân của chàng ba tuần trước ngày cưới, việc này đã gây ra cú sốc lớn cho đời chàng. Và dĩ nhiên chàng không có cách gì khác hơn là phải từ hôn. Khi ấy chàng đã 30 tuổi. Người vợ chưa cưới thứ hai thì sau khi hứa hôn với chàng đã sang làm việc ở bên Anh. Chàng cần mẫn sang thăm nàng, trong khi nàng vẫn ở lại bên ấy để làm cho tờ Vogue của Anh, không dành thì giờ về thăm chàng. Chàng kiên nhẫn chờ đợi nàng trong căn hộ chàng thuê để có thể cùng nàng chung vui. Hai tháng trước ngày cưới, nàng cho biết nàng muốn có nghề nghiệp, không muốn bỏ việc khi lấy chàng. Đây là việc rất quan trọng với chàng. Chàng muốn nàng phải ở nhà, nuôi con. Chàng không muốn lấy người làm việc, nên hai người chia tay nhau - dĩ nhiên vui vẻ chia tay, nhưng chàng hết sức thất vọng. Khi ấy chàng 32 tuổi, và vẫn muốn tìm cho ra người vợ như mình mơ ước. Một năm sau, chàng tin chắc mình, đã tìm ra người ấy - nàng rất tuyệt vời, bằng lòng bỏ trường y để lấy chàng. Họ cùng sang Nam Phi, trong những chuyến công tác cho cơ sở từ thiện, thăm viếng các trẻ em ở những nước đang phát triển. Họ có những điểm giống nhau, và sau sáu tháng gặp nhau, họ cử hành lễ đính hôn. Mọi việc đều suôn sẻ cho đến khi Charlie nhận ra rằng vị hôn thê của mình không rời khỏi người em gái song sinh, muốn đem theo cô ta mỗi khi họ đi đâu. Nhưng chàng và cô em song sinh của nàng không ưa nhau, mỗi lần gặp nhau, hai người thường cãi nhau rất kịch liệt. Chàng nghĩ rằng họ sẽ tiếp tục không ưa nhau, sẽ cãi cọ nhau mãi, cho nên đành rút lui, và người vợ chưa cưới bằng lòng. Nàng rất thương yêu cô em song sinh, nên không thể lấy người khinh bỉ em mình được. Một năm sau đó, nàng lấy người khác và cô em song sinh dọn đến ở chung với họ. Việc này làm cho Charlie thấy rằng việc chia tay cô ta là đúng đắn. Lần đính hôn sau cùng của chàng mới cách đây năm năm cũng đã kết thúc không sáng sủa gì. Nàng yêu Charlie, nhưng sau những lần tâm sự với chàng, nàng cho biết nàng không muốn có con. Dù nàng rất yêu chàng, nhưng vẫn không nhượng bộ chàng về việc này. Chàng tưởng sẽ thuyết phục được nàng, nhưng nàng cương quyết, nên hai người đành biến tình vợ chồng thành tình bạn. Chàng thường như thế. Chàng thường giữ tình bạn với những ai không bằng lòng kết hôn với chàng. Cứ đến mùa Giáng sinh là chàng nhận được rất nhiều thiệp chúc mừng do các phụ nữ đã từng thương yêu chàng và sau đó lấy người khác gửi đến. Chàng nhìn vào những tấm hình của họ và gia đình họ, chàng thấy tất cả đều giống nhau. Đấy là những phụ nữ đẹp, tóc vàng, có giáo dục, xuất thân từ những gia đình quý phái, theo học các trường tốt, và lấy những người chồng thích hợp. Trong các tấm thiệp mừng Giáng sinh, họ nhìn chàng cười tươi với những ông chồng có vẻ giàu sang và những đứa con tóc hoe đứng quanh bố mẹ. Chàng vẫn tiếp xúc với những người này, họ yêu mến Charlie và nhớ chàng mãi.

Hai ông bạn Adam và Gray khuyên chàng từ bỏ việc chọn vợ trong đám người quý tộc, mà nên làm quen với người phụ nữ “chân thật”. Họ cho những phụ nữ bình dị là những con người chân thật. Nhưng Charlie lại nghĩ rằng chàng đã hành động đúng đắn. Chàng muốn chọn người phụ nữ thông minh, có học, giàu có, xuất thân trong một gia đình quý tộc để cùng chia sẻ giá trị cuộc sống với chàng và có dòng máu quý tộc như chàng. Chàng cho đây là vấn đề quan trọng. Gia đình chàng có nguồn gốc từ thế kỷ XV bên Anh, gia sản mà chàng đang kế thừa đã truyền qua nhiều thế hệ. Chàng cũng như bố và ông nội, đều học ở Đại học Princeton. Mẹ chàng học ở trường Miss Porter, rồi sang học ở châu Âu, chị gái chàng cũng thế. Chàng muốn lấy người phụ nữ nào giống như mẹ và chị. Đây là quan điểm cổ lỗ, có vẻ rởm đời ở một vài mặt nào đó, nhưng Charlie thấy mình cần thế, muốn thế, và làm như thế rất phù hợp với mình. Chàng muốn gìn giữ những giá trị cổ truyền. Chàng bảo thủ về mặt chính tri, được kính trọng, và nếu thỉnh thoảng đứng về phe đối địch thì cũng chỉ vì lịch sự mà thôi, nhưng hoàn toàn kín đáo. Charlie là một nhà quý tộc lịch thiệp, trắng đen phân biệt rõ ràng. Chàng cần mẫn, tốt bụng, rộng lượng. Phong cách của chàng không chê vào đâu được, nên các phụ nữ đều yêu mến chàng. Từ lâu, chàng đã trở thành người lý tưởng cho phụ nữ ở New York và những nơi có bạn bè chàng lui tới. Mọi người đều yêu quý Charlie.

Đối với bất kỳ ai, việc lấy Charles Harrington là một hành động phi thường. Như chàng hoàng tử đẹp trai trong chuyện thần tiên, chàng tìm kiếm khắp nơi một người phụ nữ chân chính để làm một người vợ hoàn hảo. Thay vì tìm được người chân chính, chàng chỉ gặp những phụ nữ mà mới đầu chàng thấy rất dễ thương, hấp dẫn, nhưng sau đó chàng phát hiện ra những sai trái tai hại, khiến chàng phải ngưng kế hoạch tiến đến hôn nhân với họ. Chàng cũng đau khổ không kém người mà chàng đã định lấy làm vợ. Cứ mỗi lần như thế, kế hoạch kết hôn với họ bị cản trở. Cho nên đến 46 tuổi mà chàng vẫn còn độc thân, nhưng chàng luôn nói đấy không phải lỗi của mình. Charlie nghĩ rằng, một ngày nào đó chàng sẽ tìm ra người phụ nữ chân chính. Nhưng chàng không biết khi nào mới tìm được vì mỗi lần gặp người phụ nữ mạo danh mình là người chân chính, chàng lại phát hiện ra những sai trái tai hại của họ. Điều khiến chàng thấy an ủi là mình đã không cưới người nào sai trái. Chàng quyết không để cho việc đó xảy ra. Chàng luôn đề cao cảnh giác, hết sức thận trọng để khỏi vấp phải việc đó.

Charlie ngồi nhắm mắt, ngửa mặt lên trời, trong khi người phục vụ bữa sáng rót cho chàng tách cà phê thứ hai. Đêm qua, sau khi uống sâm banh, chàng đã uống khá nhiều Martini, nhưng sau khi bơi rồi, ngồi vào bàn ăn sáng, chàng cảm thấy tỉnh táo như thường. Chàng là tay bơi lội cự phách, và lướt ván trên sóng rất tài. Khi còn học ở Princeton, chàng là đội trưởng bơi lội của trường. Mặc dù bây giờ đã nhiều tuổi, chàng vẫn có vẻ là một nhà thể thao chuyên nghiệp; Chàng rất thích trượt băng và chơi quần vợt. Không những chơi thể thao để có sức khỏe, mà nhờ thể thao chàng trẻ hơn tuổi rất nhiều. Charlie rất đẹp trai, cao ráo, mạnh khỏe. Mắt chàng xanh và sau một tháng đi chơi trên thuyền, da chàng có màu nâu đậm. Chàng đẹp trai, hấp dẫn và mẫu phụ nữ chàng thích là những cô tóc vàng, cao, quý phái. Chàng không cho yếu tố này là đặc biệt, mà chỉ vì mẹ và chị chàng đều cao và có tóc vàng.

Mẹ chàng cực kỳ xinh đẹp, còn chị chàng khi bỏ học đại học để về nhà chăm sóc chàng, là ngôi sao quần vợt ở trường đại học. Bố mẹ chàng đều chết vì bị tông xe khi đi nghỉ hè ở Ý; khi ấy chàng 16 tuổi. Chị chàng 21 tuổi, đang học năm thứ ba ở đại học Vassar thì bỏ học để về nhà gánh trọng trách điều hành công việc của gia đình, vì bố mẹ đã mất. Mỗi khi nghĩ đến chị, Charlie lại khóc. Hai năm sau khi chàng vào đại học, Ellen nói sẽ đi học lại. Chị đã hy sinh cho Charlie rất nhiều. Chị là người rất đặc biệt, Charlie hết sức thương mến chị. Khi Charlie ra trường thì Ellen lâm bệnh, cô giấu không cho Charlie biết mình bệnh đã gần ba năm. Ellen nói mình quá bận rộn ở cơ sở từ thiện nên không đi học lại được, và Charlie tin chị. Thực ra, Ellen bị u não và đã can đảm chống chọi với bệnh tật. Bác sĩ khám và cho biết vì vị trí của khối u ở não nên không thể phẫu thuật được. Ellen chết khi mới 26 tuổi, mấy tháng trước khi Charlie tốt nghiệp Đại học Princeton. Charlie không có ai đến dự lễ tốt nghiệp của mình. Chị và bố mẹ đều đã mất, chàng sống cô đơn trên cõi đời với gia tài kếch sù mà họ để lại.

Khi Charlie đi dụ lịch bằng du thuyền trở về chàng đã 24 tuổi. Chàng học thêm ngành Kinh tế của Đại học Columbia và lấy bằng thạc sĩ quản trị kinh doanh (MBA), rồi học về đầu tư, học cách điều hành cơ sở từ thiện. Chàng trưởng thành rất nhanh, nhận trách nhiệm về việc kinh doanh và điều hành cơ sở từ thiện. Trong đời chàng, không bao giờ làm ai thất vọng. Charlie nghĩ bố mẹ và chị không ai muốn bỏ chàng, nhưng chàng phải sống cô độc trên đời, không gia đình, ở tuổi còn quá trẻ. Chàng có đời sống vật chất rất đầy đủ, và có một số bạn bè thân thiết. Nhưng chàng nghĩ rằng cho đến khi mình tìm được người phụ nữ chân chính, thì mình phải sống đơn độc cho đúng cách. Nếu sống bê bối, chàng sẽ không có được người vợ hiền như mẹ, như chị. Có được người vợ chân chính, chàng mới cùng vợ xây dựng tổ ấm cho đến cuối đời. Vì thế việc tìm cho được người vợ lý tưởng đối với chàng rất quan trọng vì người như vậy mới có thể là người mẹ tốt cho con chàng và là người hoàn hảo về mọi phương diện. Đây là điều rất cần thiết cho cuộc sống của chàng. Đối với Charlie, muốn có người vợ tốt thì cần phải đợi.

 

- Ôi Chúa ơi! - Charlie nghe có tiếng thốt lên ở phía sau trên boong thuyền. Chàng cười khi nghe tiếng thốt lên ấy. Chàng mở mắt, quay qua nhìn Adam đang ngồi ở bên kia bàn. Anh ta mặc quần soóc trắng, áo thun màu xanh nhạt. Người phục vụ rót cho anh tách cà phê đậm, và anh uống liền mấy hớp mới nói tiếp - Tối qua uống quái gì nhỉ? Tôi nghĩ người ta đã cho tôi uống thuốc độc. - Tóc Adam đen, mắt gần như đen nhánh, và anh không quan tâm đến việc cạo râu. Anh có vóc người trung bình, dáng khỏe mạnh, hai vai vạm vỡ. Anh không đẹp trai như Charlie, nhưng thông minh, vui vẻ, hấp dẫn và được các phụ nữ yêu thích. Trong những năm gần đây, Adam làm ra rất nhiều tiền.

- Tôi nghĩ anh uống Rum và Tequila, sau khi đã uống một chai rượu vang. - Họ đã uống Château Haut Brion ở trên tàu trước khi đi St. Tropez để vào các phòng ca nhạc và các quán bar. Charlie không thể nào tìm được người phụ nữ chân chính ở đấy, nhưng lại có nhiều người để vui chơi thoải mái.

- Khi tôi gặp anh nơi phòng ca nhạc lần sau cùng trước khi tôi ra về; anh đang uống rượu Whisky.

- Chắc thế. Tôi nghĩ chính vì rượu Rum đã làm cho tôi say. Tôi đâm nghiện rượu mỗi khi ở trên tàu. Nếu ở nhà mà uống như thế, chắc tôi không làm việc gì được. - Adam Weiss nheo mắt dưới ánh nắng, anh lấy kính râm ra đeo, rồi cười vui vẻ - Anh đã ảnh hưởng đến tôi rất nhiều, Charlie à, nhưng anh là ông chủ nhà tuyệt vời. Tôi về lúc mấy giờ?

- Tôi nghĩ quãng năm giờ - Charlie tỏ vẻ không phục mà cũng không trách. Chàng không phán xét bạn bè. Chàng muốn họ vui vẻ và ba người họ luôn luôn như vậy. Adam và Gray là bạn thân nhất của chàng, tình bạn của họ càng lúc càng thắm thiết. Ba người cảm thấy như anh em ruột, trong mười năm qua họ gặp nhau luôn.

Adam gặp Charlie sau khi Rachel ly dị anh. Anh và Rachel gặp nhau ở Harvard khi học năm thứ hai. Chị tốt nghiệp ngành luật và làm luật sư ngay, mặc dù không thực tập nghề luật. Adam phải mất một thời gian thực tập mới làm luật sư, nhưng anh là luật sư rất xuất sắc, hành nghề giỏi. Anh gia nhập công ty chuyên đại diện cho các tài tử nhạc rốc và các vận động viên nổi tiếng. Anh yêu nghề. Anh và Rachel cưới nhau ngay sau khi họ tốt nghiệp đại học. Đám cưới của họ được gia đình chấp nhận, cả hai gia đình đều ở tại Long Island. Mặc dù bố mẹ họ là ban bè, nhưng đến khi vào đại hoc họ mới biết nhau. Anh không muốn gặp con gái của bạn bè bố mẹ, nhưng khi gặp nhau anh mới vỡ lẽ. Chị có vẻ là một cô gái hoàn bảo đối với anh.

Khi lấy nhau, họ có chung quan điểm, có cuộc sống hạnh phúc. Rachel có thai ngay trong kỳ nghỉ trăng mật, họ có hai đứa con trong hai năm liên tiếp, Amada và Jacob, bây giờ cô bé đã 14 còn cậu bé 13. Cuộc hôn nhân của họ kéo dài được năm năm. Adam thường bận công việc, lo xây dựng sự nghiệp nên thường về nhà lúc ba giờ sáng, sau khi đã đi dự các buổi hòa nhạc bay các trận đấu thể thao với khách hàng và bạn bè. Mặc dù có nhiều cám dỗ quanh mình, nhưng anh vẫn trung thành với vợ. Thế nhưng Rachel cô đơn hàng đêm, nên chị đã yêu bác sĩ của gia đình. Chị quen người này khi còn học trung học, và trong khi Adam đang làm ăn phát đạt, thì chị tằng tịu với anh ta. Adam trở thành người có chân trong công ty được ba tháng thì Rachel bỏ anh, chị nói để cho anh được tự do khi không có chị. Chi đòi nuôi hai đứa con, đem theo đồ đạc, một nửa tiền tiết kiệm, và thành hôn với tay bác sĩ ngay khi tờ ly dị vừa khô mực. Mười năm sau anh vẫn còn ghét chị, và không chịu nhân nhượng làm lành với chị. Anh không muốn lấy vợ lại và gặp cảnh như đã xảy ra. Khi xa con, lòng anh đau như cắt.

Trong vòng mười năm từ khi ly dị vợ, anh tránh nguy cơ gắn bó với những phụ nữ bằng nửa tuổi mình mà anh đã hẹn hò. Trong môi trường làm việc, anh rất dễ gặp những phụ nữ ít học này. Anh đã 41 tuổi, thường hẹn hò với các cô có tuổi từ 22 đến 25, các cô người mẫu, các minh tinh tập sự, hay những cô gái thường bu quanh các vận động viên và ngôi sao nhạc rốc. Phần lớn anh không nhớ tên họ. Anh thường rất rộng rãi với họ, ứng tiền trước cho họ. Khi gặp họ, anh thường nói anh sẽ không lấy vợ lại, mà chỉ vui chơi với họ thôi. Họ sống với nhau lâu không quá một tháng, nếu họ muốn kéo dài như thế. Anh chỉ quan tâm đến việc đi ăn tối và ngủ với họ, rồi đường ai nấy đi. Rachel đã mang theo trái tim anh và đã vứt vào thùng rác ở đâu đó rồi. Bây giờ, chỉ khi nào cần nói với chị anh mới nói, và khi các con họ càng lớn họ càng ít nói chuyện với nhau. Anh thường gửi email có lời lẽ gay gắt nói về việc của họ, hay nhờ người thư ký gọi điện nói chuyện với chị. Anh cũng không muốn dan díu mật thiết với ai. Adam thích tự do, không có gì trên đời có thể đẩy anh vào cảnh vợ chồng trói buộc như trước.

Mẹ anh cuối cùng đã thôi không phàn nàn về cuộc sống độc thân của anh cũng như thôi không đòi giới thiệu “cô gái dễ thương” nào cho anh nữa. Adam đã có những gì anh muốn, có bạn bè để vui chơi. Nếu muốn nói chuyện, thì anh gọi cho bạn bè. Còn phụ nữ với anh chỉ để làm tình, vui chơi một thời gian ngắn rồi chia tay. Anh không muốn gắn bó mật thiết với ai để rồi chuốc lấy sự đau đớn trong lòng. Anh không tìm người phụ nữ hoàn hảo như Charlie. Anh chỉ muốn người nào đó có thể ngủ với anh và việc đó kéo dài không quá hai tuần. Anh chỉ muốn giữ cuộc sống như thế thôi. Những gì anh gắn bó bền vững là con cái, công việc và bạn bè, Rachel là kẻ thù không đội trời chung, mẹ anh vì đã sinh ra anh nên anh chịu đựng, chị anh là người đáng ghét, và những phụ nữ đi chơi với anh chẳng khác gì người xa lạ. Chỉ sống với đàn ông anh mới cảm thấy dễ chịu, hạnh phúc, yên lành, nhất là với Charlie và Gray.

- Đêm qua tôi rất vui. - Adam nói, miệng cười e ngại.

- Tôi nhớ mang máng mình đã nhảy với rất nhiều phụ nữ Brazil, họ không biết nói tiếng Anh, nhưng cần gì, nhảy là được rồi. Tôi nhảy điệu xămba như điên, chắc tôi đã uống đến trăm ly rượu. Mọi người đều ngạc nhiên.

- Đúng là như vậy đấy. - Charlie cười to. Hai người đều quay về phía mặt trời để đón ánh nắng dễ chịu, ngay cả khi Adam đang nhức đầu. Adam chơi cũng nhiều như làm việc. Hiện anh là luật sư hàng đầu trong lĩnh vực của mình, luôn luôn lo lắng và căng thẳng. Anh mang theo ba cái điện thoại di động và một cái máy nhắn tin để liên lạc hoặc bay đi đâu đó để gặp khách hàng bằng máy bay riêng của mình. Anh đại diện cho nhóm người có tiếng tăm nhất, những người sẵn sàng dấn thân vào chuyện rắc rối với sự cần mẫn đáng sợ. Adam thích công việc của mình và anh rất kiên nhẫn với khách hàng hơn với ai khác, ngoại trừ con mình. Đối với anh, con cái rất quan trọng. Amanda và Jacob là hai cục cưng của anh.

- Tôi nghĩ đã hẹn với hai người vào tối nay. - Adam nói, miệng mỉm cười khi nhớ lại những người đẹp Brazil - Họ không hiểu tôi nói gì hết. Đêm nay chúng ta phải trở lại để xem họ còn ở đấy không. - Adam bắt đầu tỉnh táo khi uống hết tách cà phê thứ hai. Đúng lúc ấy Gray xuất hiện. Ông ta đeo kính râm, mái tóc bạc bồng bềnh không chải chĩa thẳng lên trời. Ông thường để tóc như thế, nhưng khi ông ngồi vào bàn, miệng rên rỉ thì mái tóc rất thích hợp với ông, ông mặc quần áo bơi và chiếc áo thun, cái áo thun sạch sẽ nhưng bị vấy phải sơn.

- Tôi già quá, không uống kịp các anh. - Gray nói rồi vui mừng nhận tách cà phê, mở chai thuốc giải rượu hiệu Unterberg. Mùi vị đắng nghét của thuốc làm cho bao tử ông dịu lại sau khi đã uống nhiều rượu đêm qua. Không như Charlie và Adam, ông không có thân hình vạm vỡ của lực sĩ. Ông cao, gầy và trông có vẻ như thiếu dinh dưỡng. Ông là họa sĩ, sống tại West Village, bỏ ra hàng tháng để vẽ những bức tranh tỉ mỉ, xinh đẹp. Ông xoay xở để sống, nhưng nếu một năm mà chỉ bán được hai bức tranh thì rất khó sống. Cũng như Charlie, ông không lấy vợ, không có con. Ông được kính trọng trong giới hội họa, nhưng về tài chính thì không thành công. Ông chẳng cần. Tiền bạc đối với ông vô nghĩa. Ông thường nói với bạn bè rằng điều ông quan tâm hơn hết là vẽ được một tác phẩm hoàn hảo. Ông đề nghị Charlie và Adam uống Unterberg, nhưng cả hai nhăn mặt, lắc đầu.

Adam nhăn mặt khi ngửi mùi thuốc và nói:

- Tôi không hiểu sao anh uống được thứ ấy. Thuốc có công dụng, nhưng tôi thà cứ say tà tà hơn là uống cái thứ ấy.

- Nó có công dụng rất tốt. Nếu chúng ta cứ uống rượu như cái đà này, có ngày các anh phải đưa tôi vào bệnh viện, truyền xê rum cho tôi đấy. Tôi thường quên tác hại của rượu. Chúng ta cần cai rượu chưa? - Gray nói, ông uống Unterberg sau đó uống cà phê, rồi chúi mũi vào đĩa trứng.

- Thường đến tuần thứ hai mới cai, tuần đầu thì chưa. - Charlie vui vẻ nói. Chàng thích ở với hai người bạn này. Mặc dù mới đầu họ vui chơi thỏa thích, nhưng vài ngày sau họ sẽ tỉnh táo lại, không ồn ào như trước. Bây giờ họ đã bình tĩnh, mặc dù đêm qua họ say mèm, nhảy nhót, vui chơi với những người chưa hề quen biết. Charlie luôn mong đợi đến ngày được đi chơi cùng họ. Đây là thời gian vui nhất trong năm của chàng và của họ. Năm nào họ cũng háo hức chờ đến thời gian này trước đó mấy tháng, và sau đó họ còn thưởng thức cái dư vị của chuyến vui chơi này.

Khi Gray ăn hết đĩa trứng và miếng bánh mì nướng cho chắc dạ, ông nói:

- Năm nay chúng ta uống quá say như tối qua là quá sớm. Lá gan của tôi đã bị yếu. Tôi cảm thấy khó chịu. - Đầu ông vẫn còn nhức, nhưng nhờ thuốc Unterberg nên đã bớt nhiều. Adam không thể nuốt nổi buổi sáng như Gray. Trong thời gian ở trên tàu, ngày nào anh cũng uống bia rượu và may thay là không ai say sóng - Tôi già hơn hai anh. Nếu tôi không bớt uống đi, tôi sẽ chết mất, hay có lẽ chỉ khiêu vũ thôi là được. Thật khỉ, tôi không có sức nữa. - Gray đã năm mươi, nhưng trông ông già hơn hai bạn rất nhiều. Charlie trông vẫn còn rất trẻ trung, mặc dù chàng đã 46 tuổi, nhưng bề ngoài nhìn trẻ hơn từ 5 đến 10 tuổi. Còn Adam mới 41 nên trông rất phong độ. Bất kỳ đi đâu và bận việc mấy anh cũng đến phòng tập thể dục hàng ngày. Anh nói đây là cách duy nhất để khỏi bị căng thẳng. Gray không quan tâm đến bản thân, ông ngủ ít, ăn ít, chỉ lo làm việc. Ông đứng hàng giờ trước giá vẽ, trầm ngâm suy nghĩ, mơ mộng, tìm hướng vẽ. Ông không lớn tuổi hơn hai người kia nhiều, nhưng trông ông có vẻ già, chủ yếu là vì mái tóc bạc bờm xờm ương bướng. Những phụ nữ mà ông đã gặp đều cho rằng ông đẹp và dịu dàng, ít ra cũng trong một thời gian cho đến khi họ ra đi.

Không như Charlie và Adam, Gray không hề nghĩ đến chuyện chạy theo phu nữ. Ông ít khi làm như họ, nếu không nói là không bao giờ. Ông lặng lẽ sống trong thế giới nghệ thuật; những phụ nữ đã dan díu với ông đều như chim bồ câu nhớ nhà, họ luôn luôn tìm về ông. Adam gọi họ là những kẻ mắc bệnh tâm thần và Gray như thỏi nam châm thu hút họ. Gray không phản đối ý kiến của Adam. Họ là những phụ nữ đã bị bạn trai hay chồng hành hạ. Những người đàn ông này sau khi vứt họ ra ngoài đường vẫn còn gọi họ. Gray thường ra tay cứu vớt họ, dù họ không hấp dẫn hay có của cải. Ông cung cấp cho họ nơi ăn chốn ở; sau đó thật lâu mới ngủ với họ. Ông nói: “Tạm thời vài tuần cho đến khi ho khỏe manh trở lại”. Và cuối cùng, họ nhờ ông mới khỏe mạnh lại được. Ông nấu cho họ ăn, cho họ ở trong nhà, chăm sóc họ, mời bác sĩ đến khám và các nhà trị liệu tâm thần đến chữa cho họ, đưa họ vào trung tâm phục hồi chức năng, hay tự mình giúp họ cai rượu. Ông cho họ tiền, khiến ông đã nghèo càng nghèo hơn. Ông giúp họ có chỗ ẩn thân, đối xử tốt với họ, khiến họ có cuộc sống dễ chịu. Ông làm bất cứ gì họ cần trong khả năng của mình, miễn là họ không có con. Con cái là điều duy nhất ông không thích. Chúng nhắc ông nhớ lại thời thơ ấu khốn khổ của mình cũng như cảnh gia đình điên loạn của ông, điều đó khiến ông đau đớn.

Những người đàn bà dan díu với Gray mới đầu không tỏ ra ti tiện, họ nói họ không muốn làm ông đau khổ. Họ bị rối loạn tâm thần, mất khả năng kiếm sống. Ông sống với họ khoảng một tháng cho đến một năm. Ông kiếm việc cho họ làm, giúp họ tỉnh táo, trở lại bình thường, giới thiệu họ với những người có thể giúp đỡ họ. Và mười người như một, nếu họ không vào bệnh viện điều trị hay vào viện tâm thần nào đó, thì họ cũng bỏ ông để theo người khác. Ông không muốn lấy họ, nhưng ông đã quen với họ, cho nên khi họ bỏ đi, ông rất buồn. Ông biết trước họ sẽ ra đi. Nói tóm lại, ông là người chăm lo, giống như chim mẹ tận tụy nuôi chim con, khi đủ lông đủ cánh, chúng sẽ bay khỏi tổ. Mỗi lần họ đi ông rất ngạc nhiên, vì họ đã gây nên nhiều chuyện ồn ào đau đớn cho ông. Họ không ra đi trong im lặng, mà ăn cắp đồ đạc của ông, gây gổ la hét om sòm khiến hàng xóm phải gọi cảnh sát đến. Nếu ông có xe hơi họ sẽ cắt lốp xe, hay vứt vật dụng của ông ra ngoài cửa sổ, làm náo động nhà cửa khiến ông đau khổ, buồn phiền. Hiếm khi họ cảm ơn ông về việc ông dành thời gian, công sức, tiền bạc và tình thương để chăm lo cho họ. Và cuối cùng, khi họ đi rồi, ông mới nhẹ nhõm, sung sướng. Không giống như Charlie và Adam, Gray không ham thích các cô gái trẻ. Những phụ nữ đã lôi cuốn ông thường có tuổi trong độ tuổi 40, và thường bị mất trí trầm trọng. Ông nói ông thích họ vì họ bệnh hoạn yếu đuối, ông thấy thương xót cho họ. Adam nói rằng ông làm cho Hội Chữ thập đỏ, hay chờ trung tâm thần kinh nào đó, các tổ chức này muốn để ông chăm sóc bệnh nhân cho thỏa lòng mong ước. Ông không muốn vào làm trong các bệnh viện tâm thần, vì ở đấy có nhiều bệnh nhân tuổi trung niên thường hay tự vẫn.

- Tôi không thể không giúp họ - Gray e ngại nói - Tôi thường nghĩ rằng, nếu tôi không giúp họ thì chẳng có ai giúp.

- Phải, đúng thế. Anh thế là may đấy, vì bọn người mất trí ấy không giết anh khi anh đang ngủ. - Trong những năm sống với họ, có một hay hai người đã cố giết ông, nhưng không thành công. Gray luôn có mong muốn cứu vớt nhân loại bằng cách giúp những phụ nữ trong cơn hoạn nạn. Rốt cuộc, công lao đó thuộc về người khác chứ không thuộc về Gray. Hầu hết những phụ nữ đều bỏ ông để theo người khác. Và sau khi họ đi rồi, người phụ nữ khác bị rối loạn thần kinh lại xuất hiện, làm cho đời ông điên đảo. Ông như người đi ngựa gỗ chạy vòng liên tục nhưng không thể sống khác đi được.

Không giống như Charlie và Adam, sinh ra trong gia đình nề nếp, được kính trọng - gia đình Adam ở Long Island, gia đình Charlie ở Đại lộ 5 tại New York - Gray lớn lên ở nhiều nơi trên thế giới. Bố mẹ nhận ông làm con nuôi từ khi ông mới sinh, họ là thành viên của một nhóm nhạc rốc thành công nhất trong lịch sử. Ông đã lớn lên cùng một số minh tinh nhạc rốc nổi tiếng nhất thời đó. Khi ông lên tám, những người này đã cho ông hút cần sa và uống bia. Bố mẹ ông nhận thêm một cô bé làm con nuôi. Họ đặt tên cho ông là Gray, và cô là Sparrow. Khi Gray lên mười thì họ nghỉ hưu. Ban đầu họ sang Ấn Độ, rồi Nepal, định cư ở vùng Caribe, và sống bốn năm trên thuyền ở sông Amazon. Gray nhớ lại cảnh nghèo nàn và những người địa phương, ông nhớ họ hơn nhớ những năm đầu đời của mình. Em gái ông sau này trở thành sư cô Phật giáo và quay lại Ấn Độ sống. Ông rời bỏ cuộc sống trên thuyền, đến New York lúc 18 tuổi để vẽ. Khi ấy gia đình ông vẫn còn tiền, nhưng ông chọn con đường tự lập để sống. Ông sống ở Paris những năm đầu của tuổi 20, sau đó về lại New York.

Sau này bố mẹ ông chuyển về Santa Fe, khi ấy ông 25 tuổi. Họ nhận một chú bé người Navajo làm con nuôi, đặt tên cho chú là Boy. Thủ tục rất phiền phức, rắc rối, nhưng bộ lạc này bằng lòng để cho chú bé ra đi. Gray thấy chú bé dễ thương, nhưng vì tuổi tác cách biệt quá lớn, nên ông ít khi gặp Boy trong thời gian nó trưởng thành. Khi Boy được 18 tuổi thì bố mẹ nuôi của ông mất và cậu ta quay về sống với bộ lạc của mình. Chuyện này xảy ra đã bảy năm, mặc dù cậu ta biết Gray ở đâu, nhưng họ không hề gặp nhau. Cách đây mấy năm ông nhận được thư của Sparrow ở Ấn Độ. Họ không thích nhau lắm, những năm đầu đời của hai người, họ toàn chứng kiến cảnh lập dị, thất thường của bố mẹ nuôi. Ông biết Sparrow đã mất nhiều năm cố tìm cho ra bố mẹ đẻ, có lẽ với mong muốn được như những người bình thường khác. Cô đã tìm ra họ sống ở bang Kentucky nhưng thấy mình không thể hòa hợp được với họ, nên bỏ đi, không bao giờ gặp lại họ nữa. Gray không muốn tìm bố mẹ đẻ của mình? Vì ông nghĩ đó chỉ là sự hiếu kỳ thôi. Nhưng ông quá ngán bố mẹ nuôi rồi, nên không muốn có thêm những người vô dụng trong đời nữa. Những người mất trí mà ông đã liên hệ quá đủ cho ông rồi. Ông đã chia sẻ sự điên loạn của nhiều người, tìm cách cứu chữa cho họ, nhưng đôi khi bệnh của họ ngày càng nặng, cảnh này đã quá quen thuộc với ông. Điều duy nhất ông biết chính xác là mình không muốn có con, không muốn làm khổ con. Có con là việc ông giành cho người khác, như Adam chẳng hạn. Anh ta mới có khả năng nuôi con tốt. Gray nghĩ mình không thể nuôi con, hay là người cha mẫu mực để người đời noi theo, cũng không có gia đình đầm ấm để cho con vui sướng. Ông cảm thấy như thế. Ông chỉ còn công việc duy nhất để làm là vẽ, và ông vẽ rất đẹp.

Gray là một thiên tài được mọi người kính nể. Những nhà phê bình nghệ thuật đều khen ông vẽ đẹp. Ông nghèo là vì không duy trì được cuộc sống ổn định lâu dài. Bố mẹ nuôi của ông làm ra khá nhiều tiền trong những năm đầu vào nghề, nhưng do họ dùng ma túy và đi khắp thế giới nên không giàu lên được. Gray đã quen với cảnh không đồng xu dính túi nhưng không quan tâm đến việc này. Tiền ông làm ra, ông đều cho người khác, ông nghĩ họ cần hơn ông. Dù khi sống trong cảnh xa hoa trên du thuyền của Charlie hay nghèo khổ trong phòng vẽ ở Meatpacking ở New York, ông thấy cũng như nhau. Dù đời ông có phụ nữ hay không, ông cũng thấy không quan trọng. Vấn đề quan trọng đối với ông là công việc và bạn bè.

Mặc dù phụ nữ đối với ông cũng hấp dẫn, nhưng ông chỉ thích một người lành mạnh để ôm ấp cho ấm lòng vào những đêm giá rét. Không ai thích ngủ với người điên, nhưng những phụ nữ đã ngủ với Gray, có lẽ đã từng điên. Ông chấp nhận tình trạng này, vì thời thơ ấu ông đã trải qua cảnh điên loạn của bố mẹ nuôi. Ông nghĩ rằng việc duy nhất ông phải làm để phá vỡ tình trạng không hay này, hay phá vỡ tình trạng mà bố mẹ nuôi đã áp đặt vào đời ông là không bao giờ tạo ra cảm giác lo lắng cho con mình. Ông thường nói món quà ông tặng cho đời là hứa mình sẽ không có con. Ông nghĩ mình sẽ không bao giờ phá vỡ lời hứa này. Ông nói mình dị ứng với con nít, và chúng cũng như vậy với ông. Gray không tìm kiếm người phụ nữ hoàn hảo, mà chỉ muốn ngày nào đó tìm được người phụ nữ lý tưởng.

Sau khi ăn sáng xong, ba người nằm dài trên ghế bành, Charlie hỏi các bạn:

- Hôm nay chúng ta làm gì?

Mặt trời đã lên cao, gần đứng bóng. Ngày hôm ấy trời rất tuyệt, chưa bao giờ thời tiết đẹp như vậy. Adam đáp rằng anh muốn đi mua hàng cho con ở St. Tropez. Amanda rất thích quà anh mua về còn Jacob thì dễ dãi. Hai chị em rất yêu nhưng chúng cũng yêu mẹ và ông bố kế, Rachel và ông bác sĩ khoa nhi có thêm hai con nữa. Adam không quan tâm đến chuyện ấy, mặc dù anh biết Amanda và Jacob rất yêu hai đứa em cùng mẹ khác cha này như em cùng cha cùng mẹ vậy. Adam không muốn tìm hiểu về chúng. Anh sẽ không bao giờ tha thứ cho Rachel về chuyện cô phản bội. Từ đó anh kết tội tất cả những phụ nữ khác. Mẹ anh luôn luôn chỉ trích và không tôn trọng chồng. Bố anh chỉ im lặng trước những lời lẽ không đẹp của vợ. Chị gái anh tế nhị hơn mẹ anh, nhưng lại khóc lóc rên rỉ cho đến khi nào đạt được điều mong muốn. Trong trường hợp không đạt được ý muốn, thường hiếm khi như thế, chị anh bèn nhe răng giơ móng để cấu xé người khác. Theo Adam nghĩ thì cách duy nhất để giải quyết vấn đề này là tìm người câm mà chơi, luôn luôn giữ khoảng cách với họ và nhanh chân chuồn khỏi họ. Như vậy, mọi việc sẽ tốt đẹp. Thời gian duy nhất anh thấy yên bình, là lúc ở trên tàu với Charlie và Gray, hay với các con anh.

- Các cửa hàng đóng cửa ăn trưa lúc một giờ - Charlie nhắc nhở anh - Chúng ta có thể đi mua sắm vào buổi chiều khi các cửa hàng mở cửa. - Adam nhớ họ chỉ mở cửa bán vào lúc ba giờ rưỡi hay bốn giờ. Bây giờ còn quá sớm chưa đến giờ ăn trưa.

Họ vừa ăn sáng xong, nhưng Adam chỉ ăn một khúc bánh mì tròn và uống cà phê thôi, vì tối qua họ đã uống quá nhiều. Bao tử anh có vấn đề, cách đây mấy năm anh đã bị loét bao tử, nên ăn ít hẳn. Đấy là cái giá anh phải trả vì đã uống quá nhiều trong các buổi giao dịch làm ăn. Trong thời gian qua, vì thương lượng các hợp đồng cho vận động viên và minh tinh nổi tiếng, nên anh thường chia vui với họ, và anh thích thế. Anh đóng tiền thế chân cho họ ra khỏi tù, can thiệp để họ vào những đội họ muốn, ký giao kèo cho họ đi lưu diễn, thương lượng trong các cuộc ly hôn, trả trợ cấp cho các tình nhân hay thảo giấy thỏa thuận trả tiền phụ cấp cho con ngoại hôn của họ. Họ luôn luôn làm cho anh bận rộn, căng thẳng và sung sướng. Và bây giờ anh đang nghỉ hè. Anh nghỉ một năm hai đợt, một đợt trên du thuyền của Charlie suốt tháng tám, và một tuần nghỉ ngơi trên thuyền vào mùa đông ở vùng biển Caribê. Gray không tham dự lần nghỉ ở Caribe, vì nơi đó gợi lại cho ông những kỷ niệm khi sống với bố mẹ nuôi. nhưng ông không nói lý do tại sao ông không đến đây với họ. Hàng năm vào cuối tháng Tám Adam sẽ đi chơi với các con ở chậu Âu một tuần. Như thường lệ, anh sẽ gặp chúng vào cuối chuyến du lịch này. Máy bay của anh sẽ đón chúng ở New York rồi dừng ở Nice để đón anh, sau đó ba bố con sẽ sang London chơi một tuần.

Charlie đề nghi:

- Chúng ta cho tàu ra xa một chut rồi thả neo nghỉ ngơi, các anh thấy sao? Chúng ta thả neo ngoài bãi biển, rồi đi tàu nhỏ vào ăn trưa tại Câu lạc bộ 55, được không?

Tất cả gật đầu đồng ỷ. Họ thường làm như thế ở Saint Tropez.

Charlie có những thứ thích hợp cho khách ở trên tàu như ván trượt nước, canô kéo ván trượt nước, thuyền buồm nhỏ, ván lướt sóng nhờ gió và bình hơi để lăn. Nhưng hầu như, ba người họ đều thích nhàn nhã. Thời gian họ cùng nhau vui vẻ là các bữa ăn trưa, các bữa ăn tối, phụ nữ, rượu và bơi một ít. Nhất là Adam, anh thường nói rằng nơi duy nhất có thể ngủ thoải mái là trên tàu của Charlie vào tháng Tám. Đây là thời gian thoải mái nhất của anh trong năm. Hằng ngày anh vẫn nhận fax từ văn phòng gửi đến, rồi các email mà anh kiểm tra thường xuyên. Nhưng các thư ký, các phụ tá và những đối tác của anh không làm phiền Adam trong tháng Tám này. Nếu có việc, họ phải tự giải quyết lấy. Đây là thời gian duy nhất Adam không đụng tới công việc, không nghĩ đến khách hàng. Người nào biết rõ anh, biết anh đã làm việc cật lực, đều biết rằng anh cần nghỉ xả hơi. Có thế anh mới làm việc tốt vào tháng Chín. Anh đi thuyền ven bờ biển hàng tuần, có khi hàng tháng, để vui chơi thoải mái với Gray và Charlie.

Ba người gặp nhau chỉ vì họ đã tham gia vào công việc từ thiện. Cơ sở của Charlie tổ chức một buổi lễ gây quỹ để xây một ngôi nhà ở vùng Upper West Side cho các phụ nữ và trẻ em bị lạm dụng, ngược đãi. Chủ tịch buổi lễ muốn tìm một minh tinh nhạc rốc để trình diễn trong buổi từ thiện, nên đã tiếp xúc với Adam vì anh đại diện cho người ca sĩ mà ban tổ chức muốn mời. Cuối cùng Adam và Charlie đã ăn trưa với nhau để bàn về chuyện này, từ đó hai người thấy phục nhau. Sau buổi lễ, hai người trở thành bạn bè thân thiết.

Adam đã mời được minh tinh nhạc rốc đến trình diễn và họ đã tặng cho tổ chức từ thiện một triệu đô-la. Gray cho bán đấu giá một bức tranh để tặng cho tổ chức này, đây là sự đóng góp rất ý nghĩa, vì số tiền bán được bằng lợi tức sáu tháng của ông. Sau buổi lễ, ông tình nguyện vẽ lên tường ngồi nhà mà cơ sở từ thiện của Charlie đã gây quỹ. Ông gặp Charlie và Adam tại buổi lễ, và sau đó, Charlie mời hai người đến nhà ăn tối để cảm ơn họ. Mặc dù ba người có nghề nghiệp khác nhau, nhưng họ có vài điểm chung, đó là họ thích những hoạt động xã hội, đều không có vợ, hay hiện thời không gắn bó mật thiết với người phụ nữ nào. Adam đã ly dị vợ. Charlie vừa mới từ hôn, nên chàng mời hai người lên tàu, đi chơi suốt tháng Tám. Chuyến du lịch này chàng dự định, để hai vợ chồng đi hưởng tuần trăng mật. Chàng nghĩ rằng chuyến đi này sẽ làm cho chàng giải khuây mối sầu tình ái, nhưng hóa ra nó đã làm cho chàng sung sướng. Họ đã hưởng được một thời gian tuyệt vời. Cô gái mà Gray cùng đi chơi đã cố tự tử vào tháng Sáu, sang tháng Bảy cô ta theo một sinh viên hội họa của ông. Qua tháng Tám, Gray cực kỳ sung sướng khi rời thành phố, và vui mừng trước cơ hội mà Charlie đã mở ra cho mình. Khi ấy Gray đã cháy túi. Còn Adam thì vừa trải qua một mùa xuân khó khăn, hai vận động viên danh tiếng bị chấn thương nặng, ban nhạc nổi tiếng thế giới hủy chuyến lưu diễn, việc này đã phát sinh nhiều vụ kiện. Chuyến du lịch sang châu Âu trên du thuyền của Charlie rất tuyệt. Từ đó sinh ra chuyện vui chơi hàng năm của họ. Năm nay hứa hẹn có nhiều điều khác biệt. Đến đánh bạc ở St. Tropez, Moute Carlo, hay ghé chơi ở Portofiuo, Sardiuia, Capri tùy thích. Họ mới chỉ ở trên thuyền hai ngày, và cả ba người đều rất vui sướng với chuyến đi. Chiếc Blue Moon là điểm hẹn lý tưởng để họ vui chơi thoải mái.

- Như vậy được chứ, các bạn? Ăn trưa tại Câu lạc bộ 55, nhưng chúng ta phải bơi một chút đã chứ? - Charlie hỏi, để chàng báo cho thuyền trưởng biết chương trình của họ.

- Tôi nghĩ như vậy là quá được. - Adam đáp, anh mở to mắt khi điện thoại của anh reo, và anh tảng lờ không để ý. Anh có thể nghe tin nhắn sau. Trong thời gian đi châu Âu, anh chỉ mang theo một cái điện thoại, đây là sự giản lược rất lớn, vì khi ở New York anh mang cả lô điện thoại - Công việc cấp bách đây, nhưng đã có người làm. - Anh cười vui vẻ.

- Có ai uống Bloody Mary không? - Charlie hơi, giả vờ thơ ngây. Chàng ra dấu cho người quản lý đang đứng gần đấy, anh ta liền gật đầu, rồi đi báo cho thuyền trưởng biết và giữ chỗ ăn trưa cho họ tại quán ăn. Người quản lý là một thanh niên đẹp trai, người New Zealand. Anh ta không hỏi thêm gì nữa. Anh biết Charlie muốn lên bờ ăn trưa lúc hai rưỡi. Chàng thích ăn trên thuyền, nhưng cảnh tượng ở St. Tropez rất hấp dẫn. Mọi người đều đến Câu lạc bộ 55 để ăn trưa, cũng như bây giờ họ đua nhau đến quán Spoon để ăn tối.

- Cho tôi ly Bloody Mary nguyên chất - Gray nói với người phục vụ rồi cười - Chắc tôi phải hoãn ngày đến trung tâm cai nghiện vài hôm.

- Làm cho tôi ly nóng và để có thêm hương vị, dĩ nhiên phải trộn với rượu Tequila. - Adam nói rồi cười vui vẻ.

- Còn tôi thì uống Bellini. - Charlie nói. Bellini là loại rượu gồm nước táo trộn với sâm banh, đây là cách bắt đầu một ngày thật nhẹ nhàng, Charlie thích xì gà Cuba và rượu sâm banh ngon. Trên tàu có nhiều hai thứ đó.

Ba người ngồi uống giải khát trên boong, trong khi chiếc du thuyền từ từ rời khỏi cảng, tránh nhiều thuyền nhỏ và những thuyền du lịch hàng ngày chở đầy khách hiếu kỳ chụp ảnh họ. Nhiều phóng viên nhiếp ảnh tụ tập ở bến “Ke”, đợĩ các du thuyền lớn cập cảng, để xem ai ở trên thuyền. Họ đi xe gắn máy để theo dõi các nhân vật danh tiếng, săn lùng những người này tận hang cùng ngõ hẻm, và họ đã chụp ảnh chiếc Blue Moon khi nó rời bến. Họ tin chắc thế nào đêm nay chiếc du thuyền tối ưu này cũng sẽ trở lại cảng. Khi Charlie đi chơi trong phố, họ chụp ảnh chàng, nhưng chàng hiếm khi tạo ra cớ để cho họ đăng lên báo. Ngoài chiếc du thuyền to lớn và đẹp lộng lẫy, Charlie sống tương đối lặng lẽ, tránh chuyện tai tiếng bằng mọi giá. Chàng chỉ là một người giàu có, đi du lịch với hai người bạn, không có báo chí nào đăng tin xấu về họ. Ngay cả khi đi với những ngôi sao mà Adam biết và làm đại diện, anh cũng thường ẩn mình. Còn Gray Hawk chỉ là một họa sĩ nghèo. Họ là ba người độc thân, làm bạn với nhau, đi chơi giải trí trong tháng Tám thôi.

Họ bơi nửa giờ trước khi đi ăn trưa. Sau đó, Adam lấy chiếc canô chạy một vòng quanh các thuyền khác, cho tiêu phí bớt năng lượng dư thừa trong người, trong khi đó Gray ngủ trên boong, còn Charlie hút xì gà. Cuộc sống thật tuyệt vời. Đúng hai giờ rưỡi, họ vào bờ và ăn trưa tại Câu lạc bộ 55. Alain Delon cũng đang có mặt ở đây, ông ta thường đến đây ăn trưa. Catherine Deneuve cũng có mặt, khiến ba người bạn cứ bàn luận về cô ta mãi. Ba người đều đồng ý rằng, tuy cô ta đã lớn tuổi nhưng vẫn còn đẹp. Cô ta bằng tuổi Charlie, nhưng thường già hơn những cô đi chơi với chàng. Những cô mà chàng gặp ở trong độ tuổi 30, hay trẻ hơn một chút. Chàng hiếm khi đi chơi với cô nào bằng tuổi mình. Còn Adam lại thích những cô gái trẻ hơn nữa.

Gray nói ông sẽ rất sung sướng khi được ở cùng với Catherine Deneuve, dù cô ta ở vào tuổi nào. Ông thích phụ nữ bằng tuổi ông, hay lớn hơn vài tuổi cũng được, nhưng ông nghĩ trường hợp của Deneuve không phù hợp với ông, vì cô ta có vẻ bình dị và vui cười thoải mái khi nói chuyện với các bạn của cô. Gray chỉ thích những người phụ nữ ngồi khóc lặng lẽ ở một góc nào đó, hay nói chuyện tức tưởi trên điện thoại với vẻ đờ đẫn. Adam thì mơ đến các cô gái lớn hơn con gái mình khoảng mười tuổi. Còn các cô trong mộng của Charlie thì phải cao sang, đẹp đẽ. Chàng hy vọng ngày nào đó sẽ tìm ra người như vậy.