HUYỀN TRANG

Huyền Trang (tiếng Pháp là Hiuan-stang) không phải là một triết nhân, chẳng phát huy thêm được cái gì cho đạo; ông cũng không phải là một văn hào hay một nhà khoa học, lại càng không phải là một nhà thám hiểm như Christophe Colomb, Magellan, ông chỉ là một pháp sư đi hành hương ở đất Phật. Vậy mà sự nghiệp của ông đối với đạo Phật quan trọng hơn sự nghiệp của Chu Hi đối với đạo Khổng; ông lại tặng dân tộc Trung Hoa bảy mươi lăm bộ sách, gồm trên ngàn quyển, làm giàu cho Hoa ngữ được trên vạn tiếng; và lưu lại cho nhân loại vô số tài liệu rất quý về phong tục, khí hậu, sông núi, cây cỏ, di tích của những miền hoang vu, huyền bí những bộ Á Châu, nhất là Ấn  Độ. Những tài liệu mà các nhà thám hiểm phương Tây tới sau ông đều phải khen là rất đích xác, rất quý báu. Thử hỏi, trong lịch sử nhân loại có vị danh nhân thứ hai nào như ông không? Nội một việc dân tộc Trung Hoa thần kỳ hóa việc đi thỉnh kinh của ông, truyền miệng cho nhau, sao chép lại thành mộtbộ tiểu thuyết tức bộ Tây Du Kí cũng là một cái vinh dự mà từ xưa đến nay chưa ai được nhận nữa! Nhất là đọc xong tiểu sử của ông, ta mới thấy tấm gương của ông để lại cho ta soi không có một chút tì vết. Các vĩ nhân khác, trừ vài vị thánh, còn có thể cóchỗ cho ta không phục, còn ông thì suốt đời thanh đạm, can đảm, cần cù, hiếu học, lễ độ, khiêm tốn, trong sạch và hy sinh.  

Tôi muốn có một bức chân dung của ông quá.

 

Ông sinh năm 602 sau Công nguyên, năm thứ 14 đời Tùy Văn Đế(1) tại huyện Câu Thị (Lộ Châu; hiện là huyện Yêm Sư, tỉnh Hà Nam), trong một gia đình vọng tộc. Tằng tổ là Trần Khâm được phong tước Khai quốcquận công đời Bắc Ngụy; tổ phụ là Trần Khương làm quốc tử bác sĩ đời Bắc Tề; thân phụ là Trần Tuệ làm chức quan huyện ở Giang Lăng đời Tùy, sau thấy Tùy Dạng Đế là một hôn quân, chán nản, từ quan về nhà dạy học. Ông tên thật là Trần Vĩ, đứng hàng con út. Người anh thứ hai, Trần Tố, làm hòa thượng chùa Tịnh Độ (Lạc Dương).Như vậy gia đình ông là một gia đình nhà nho, phát ở thời Nam Bắc Triều, mà thời đó là một thời rất thịnh của đạo Phật ở Trung Quốc.

Đạo Phật bắt đầu vào Trung Quốc có lẽ từ đời Tần, đến đời Hán ảnh hưởng còn ít; qua đời Đông Tấn và Nam Bắc Triều, nhân xã hội Trung Hoa hủ bại, loạn lạc liên miên, dân chúng khổ sở, không tìm được nỗi an ủi ở đạo Nho, nên quay về đạo Lão, nhất là đạo Phật, mà đạo Phật mới có cơ phát triển mạnh mẽ. Sử chép đời Bắc Triều đã có non 900 chùa Phật và tại Lạc Dương, thầy sãi các nước họp nhau lại có trên ba ngàn người. Từ vua quan đến dân chúng, ai cũng sùng bái đạo Phật. Tăng ni được hưởng nhiều quyền lợi: khỏi bị đi lính, được miễn thuế, sưu, dịch; cho nên càng loạn lạc, càng nghèo khổ, dân chúng lại càng chạy vào ẩn náu dưới cửa Phật. Người có của cũng xin đầu Phật, để đất đai khỏi phải đóng thuế, thành thử đạo Phật bành trướng rất mau; đến đời Bắc Ngụy, nhà chùa chiếm được một phần ba tổng số diện tích đất đai trong nước.  

Cuối thời Nam Bắc Triều, nhà Châu thấy nguy cơcho triều đình, chủ trương diệt đạo Phật, bắt ba triệu tăng ni hồi tục và ra lệnh phá rất nhiều chùa chiền. Nhưng đến cuối thế kỷ thứ 6, đạo Phật lại phục hưng, rồi nhân chính sách bạo tàn của Tùy Dạng đế làm cho dân chúng lầm than, điêu đứng (ba lần chiến tranh với Cao Ly, động viên đến hơn một triệu tráng đinh mà thua; một lần xuống Giang Nam ngắm quỳnh hoa nở, mà bắt sưu hơn một triệu dân để đào kinh từ Lạc Dương đến Giang Đô), chùa chiền lại mọc lên rất nhiều, mở rộng cửa đón những kẻ chán ngán thời cuộc hoặc trốn sưu lậu thuế.

Thân phụ Huyền Trang là một trong hạng người chán ngán đó. Ông không quy y, vẫn giữ đạo Nho, nhưng ham đọc kinh của đạo Lão và đạo Phật.  

Huyền Trang, hồi tám tuổi đã thích lễ nghi, tính tình nghiêm cẩn. Ít năm sau, một người anh là Tố quy y, Huyền Trang được anh thỉnh thoảng giảng đạo Phật cho nghe, đam mê, cũng muốn theo anh. Năm 13 tuổi, ông lại chùa Tịnh Độ ở Lạc Dương, xin quy y. Mới đầu, nhà chùa còn do dự, chê ông nhỏ tuổi quá, sau thấy ông thành tâm và thông minh lạ thường, nên chấp thuận(2). Ông học hết các kinh của tiểu thừa, đại thừa rồi đến kinh Niết Bàn, giáo lý rất cao siêu; học đến quên ăn quên ngủ.

Hồi đó là cuối đời Tùy, đầu đời Đường, trong nước loạn lạc. «Kinh đô thành một ổ đạo tặc, mà miền Hồ Nam thành cái hang mãnh thú, đường phố Lạc Dương đầy thây người.»

Phải lánh đi nơi khác, Huyền Trang bàn với anh qua Thành Đô (Tứ Xuyên), ngụ chùa Không Túc trong hai ba năm, tiếp tục học hết kinh của các giáo phái.  

Năm hai mươi tuổi, nội loạn đã chấm dứt, ông về Trường An, kinh đô nhà Đường. Trường An là một đất Phật đâu tiền Trung Hoa. Từ năm thế kỷ trước, những vị tu hành ở Ấn Độ qua cất chùa tại đó và dịch những kinh tiểu thừa, đại thừa từ Phạn ngữ qua Hoa ngữ. Công việc dịch thuật đó có thể chia làm hai thời kỳ:  

- Từ Đông Hán đến Tây Tấn (khoảng 250 năm) dịch chưa có hệ thống gì cả.  

- Từ Đông Tấn đến đầu đời Đường (khoảng 270 năm) đã thấy những dịch phẩm có giá trị, như bộ Pháp Hoa, bộ Đại Phẩm… Tuy có thú vị về văn chương, nhưng chưa thật sát nghĩa. Dịch giả đại biểu chờ thời ấy là một người Tây Vực tên là Cưu Ma La Thập.

Ở Trường An, Huyền Trang rán đọc hết những kinh đã dịch, tìm những hòa thượng có danh tiếng để học đạo, nhưng ông nhận thấy rằng họ cùng thờ Thích Ca Mâu Ni mà giáo thuyết của họ khác nhau xa quá, có khi phản nhau nữa. Có bao nhiêu tôn phái là có bấy nhiêu chủ trương, làm cho ông hoang mang, không nhận được đâu là đạo chính truyền.  

Bất mãn, ông xin phép anh đi học đạo ở khắp miền Bắc tại các vùng Xuyên Đông, (đông bộ tỉnh Tứ Xuyên) qua Hồ Bắc, Hà Nam, Sơn Đông, Hà Bắc. Càng tìm hiểu, ông càng nảy ra nhiều nghi vấn, đã không tin được các vị hòa thượng và nay trong những bản dịch kinh Phật, ông cũng thấy nhiều chỗ lờ mờ, mâu thuẫn, hoặc dịch sai. Vậy muốn hiểu rõ đạo thì chỉ còn một cách là đếnnơi phát tích của đạo Phật, tức Ấn Độ, để học tiếng Phạn rồi nghiên cứu tại chỗ những kinh điển cổ nhất.Ý «Tây du» của ông phát sinh từ đó.

Năm Trinh Quán nguyên niên, năm đầu triều vua Đường Thái Tôn (627 sau công nguyên), Huyền Trang cùng với vài vị hòa thượng nữa dâng biểu lên nhà vua xin phép qua Ấn du học. Truyện Tây du ký chép rằng Đường Thái Tôn sai Tam Tạng(3) đi thỉnh kinh, lại cho làm ngự đệ, cho lấy họ nhà Đường, có lẽ để nịnh triều đình mà quy công cho nhà vua, chứ sự thật thì khác hẳn; vua Thái Tôn không chophép, vì nước mới được bình trị, vương quyền chưa được vững, mà sự ngoại giao với các dân tộc ở phía Tây, tại Trung bộ Á Châu lại chưa được tốt đẹp.

Đợi mãi không được phép, các vị hòa thượng cùng dâng biểu với ông, ngã lòng bỏ đi. Ông kiên nhẫn ở lại Tràng An, học thêm tiếng Ấn Độ. Đêm ngày ông cầu nguyện các vị bồ tát cho ông đủ sáng suốt và nghị lực thực hiện nổi chương trình tây du của ông, mà ông biết là rất khó khăn, phải qua nhiều nơi hiểm trở, hoang vu, trộm cướp.  

Một đêm năm 629, ông nằm mộng thấy một ngọn Linh Sơn ở giữa biển, bèn nhảy xuống để lội ra thì vừa lúc đó, một bông sen xuất hiện, đỡ ông, đưa ông tới chân núi. Núi dựng đứng, leo không được, ông chưa biết tính sao thì một ngọn cuồng phong bí mật nâng bổng ông lên tới ngọn núi. Đứng trên núi nhìn chung quanh thấy cảnh bao la, rực rỡ. Ông thích quá, tỉnh dậy.

Từ đó, ông càng quyết tin rằng thế nào cũng thành công và chính lòng quyết tin, mộ đạo đó đã giúp ông thắng mọi gian nan sau này. Ít bữa sau, nhân miền chung quanh Tràng An bị nạn mưa đá mất mùa, triều đình xuống chiếu cho phép dân ở kinh đô được đi nơi khác làm ăn, ông theo nhóm người di cư, tiến về phương Tây, mở đầu cuộc du hành vạn lý.

 

Năm (629), ông 28 tuổi (tính theo phương Đông), đến năm 44 tuổi mới trở về, tính ra xa quê hương luôn trong 16 năm.  

Tuổi đó là tuổi hăng hái, tin tưởng, mà bẩm tính ông lại nghiêm cẩn, ôn hòa, nên ông rất được nhiều người mến trọng. «Nước da hơi sạm, mắt sáng. Vẻ mặt uy nghiêm, nét mặt tươi đẹp, rực rỡ. Giọng nói trong trẻo, rõ ràng, ngôn ngữ cao nhã, hoa mỹ, du dương, ai nghe cũng mê…» Nhìn ông, người ta nhận ngay thấy sự dung hòa của đạo Phật và đạo Khổng – lòng từ bi, đại độ củaPhật, đức lễ độ, sáng suốt của đạo Khổng. Ông vừa thương người, vừa cương quyết, «trang nghiêm như đại giang, mà lại bình tĩnh, rực rỡ như một bông sen nổi trên mặt nước ». 

Ta sẽ chia cuộc hành trình của ông làm bốn giai đoạn:

- Từ Trang An tới Ngọc Môn quan, hết địa phận Trung Quốc.  

- Từ Ngọc Môn quan tới Kapica biên giới địa phận Ấn Độ, qua những nước nhỏ ở Trung bộ Châu Á.  

- Giai đoạn ở Ấn Độ.  

- Giai đoạn trên đường về; như độc giả sẽ thấy, do một tình cờ mà ong theo một con đường khác với lúc đi,thành thử ghi chép thêm được nhiều nhận xét về một miền lúc đó còn bí mật.

 

Từ Tràng An ông tới Tần Châu (coi trên bản đồ), Lan Châu rồi Lương Châu (hiện nay là huyện Vỹ Uy, tỉnh Cam Túc).  

Chắc độc giả đã quen với tên đó. Vương Chi Hoán, một thi sĩ đời Thịnh Đường, được người đương thời tặng cho tên Thi Thiên tử nhờ bài Lương Châu từ tả cảnh rừng núi hoang vu ở miền biên tái đó:

Hoàng hà viễn thượng bạch vân gian

Nhất phiến cô thành vạn nhẫn san(4).

 

Ngay từ đời Đường, mà có lẽ từ trước nữa, Lương Châu đã là ngã ba của các con đường mòn đưa những đoàn thương nhân từ phương Tây hoặc từ Mông Cổ tiến vào Trung Hoa. Các thương giá đó gồm rất nhiều giống người, ngôn ngữ, phong tục khác nhau, họp chợ ở Lương Châu để trao đổi hàng hóa, tin tức và chắc chắn cũng để do thám cho nên sự canh phòng rất nghiêm mật. Đô đốc Lý Đại Lượng được lệnh phong tỏa, không cho người ngoài vô Trung Quốc và người Trung Quốc lọt ra ngoài.Huyền Trang phải nấn ná chờ cơ hội, nhân dịp đó ông thuyết pháp cho các thương nhân, người ta tạ ơn ông vật gì thì ông đem cúng vào chùa hết.Hơn một tháng sau, nhân lúc lính canh trễ nãi, ông trốn thoát. Lý Đại Lượng sai vệ binh đuổi bắt; nhờ Pháp sư Tuệ Uy phái hai môn đệ là Tuệ Lâm và Đạo Chỉnh đi theo bảo hộ, Huyền Trang mới thoát được. Họ đêm đi, ngày trốn, lần mò đến Qua Châu (hiện là huyện Tây An, tỉnh Cam Túc).

Thứ sử Qua Châu là Độc Cô Khai theo đạo Phật, tuy biết lệnh của triều đình, nhưng làm lơ cho ông, lại chỉ dẫn đường đi cho ông nữa. Từ Qua Châu tiến lên phía Bắc ít chục dặm tới Ngọc Môn quan, một cửa ải nằm trên biên giới và ở bờ sông Hồ Lô, nước chảy xiết, gió lộng suốt ngày đêm vì lòng sông rất lạ lùng: trên hẹp dưới rộng.

 

I Ngô là một ốc đảo, xưa có quân đội Trung Hoa đóng, nhưng lúc đó thành một thuộc địa của Thổ. Huyền Trang ngừng bước trong một ngôi chùa và gặp ba vị hòa thượng Trung Hoa. Họ mừng mừng tủi tủi chạy ra tiếp đón ông, ôm ông mà khóc, không ngờ tha phương còn gặp được người cố quận.

Vua nước Cao Xương ở phía Tây I Ngô, nghe tin ông tới, sai sứ lại đón. Ông nhận lời, đương đêm tới nơi thì vua Cao Xương là Khúc Văn Thái sai đốt đuốc rồi thân hành ra khỏi hoàng cung để nghinh tiếp, còn Vuong phi và đại thần thì quỳ lại. Khúc Văn Thái rất mộ đạo, nhưng tính tình vẫn là tính tình hung hãn của một dân tộc kém văn minh. Ông ta tiếp Huyền Trang rất long trọng, tôn kính như trò tôn kính thầy, nhưng nhất định năn nỉ Huyền Trang ở lại làm chức giáo chủ trong nước, năn nỉ không được thì dọa nạt, Huyền Trang dùng lời tha thiết để từ chối mà không được, phải cương quyết:

- Bần tăng đến đây không vì danh vọng mà chỉ vì muốn qua Tây Trúc nghiên cứu kinh điển tại chỗ để hiểu rõ đạo Phật rồi về nước giảng lại cho mọi người. Bệ hạ không nên ngăn cản bần tăng. Mà ngăn cản cũng không được. Bệ hạ chỉ có thể giữ một nắm xương tàn ở lại đây thôi, còn ý chí cùng tinh thần của bần tăng thì không thể giữ được.

Khúc Văn Thái cũng không nghe, lại càng chiều chuộng hơn trước, đích thân dọn cơm, đứng hầu. Huyền Trang phải dùng đến chính sách tuyệt thực, ngồi ngay ngắn, không nhúc nhích luôn ba ngày, không uống một giọt nước. Qua ngày thứ tư, Khúc Văn Thái thấy hơi thở của ông suy rồi, vừa tủi vừa sợ, quỳ xuống xin lỗi ông, thề trước tượng Phật là không dám ngăn cản ông nữa, nhưng xin ông ở lại Cao Xương thêm một tháng nữa thôi để giảng đạo cho thần dân. Ông nhận lời, ăn uống trở lại.

Khúc Văn Thái sai dựng một cái lều mênh mông che được 300 người. Mỗi ngày, hoàng gia, các vị hòa thượng và các quan trong triều tới lều nghe Huyền Trang giảng kinh.  

Khi Huyền Trang lên đường, Khúc tặng ông đủ các đồ ngự hàn cùng vật dụng, vàng bạc, gấm vóc, cùng với 30 con ngựa và 25 người tùy tùng, đưa ông hai mươi bốn bức thư giới thiệu với các quốc vương ở trung bộ Á Châu, lại sai một viên tướng đưa đường ông nữa.  

Để đáp ơn vua Cao Xương, ông dâng lên một bức khải:

(…) Nép thấy đại vương bẩm thụ cái khí thuận hòa của nhị nghi trời đất; rủ áo làm vua, vỗ nuôi dân chúng, phía đông ví bằng phong đại quốc, phía tây yên vỗ tục bách nhung (…). Lại hay kính hiền yêu sĩ, hiếu thiện lưu từ; thương xót kẻ xa xuôi đi lại, ân cần cho tiếp đãi đến nơi, đã được vào hầu, nhuần ơn càng hậu, tiếp đãi chuyện trò, phát dương pháp nghĩa. Lại được nhờ ngài giáng kết làm nghĩa anh em, dốc một tấm lòng yêu thuận. Và lại được đưa thư cho hơn hai mươi phiên cõi Tây Vực, giới sức ân cần, sai bảo tiễn tống. Lại thương tôi tây du vò võ, đường tuyết lạnh lùng; bèn xuống lời minh sắc, độ cho bốn chú tiểu sa đi để làm người hầu hạ. Nào là pháp phục mũ bông, đệm cừu giầy miệt, hơn năm mươi thứ, vàlĩnh lụa vàng bạc tiền nong, để khiến cho sung cái khí vãng hoàn trong hai mươi năm. Nép trông thẹn thùng sợ hãi, không biết xử trí cách nào. Dẫu khơi dòng nước Giao Hà ví ơn kia chẳng ít kém; cân hòn non Thông Lĩnh, đọ nghĩa nọ còn nặng hơn. (…)

«Sau này xin bái yết chúng sư, bẩm vâng chính pháp, đem về phiên dịch truyền bá những điều chưa từng nghe. Phá tan cái rừng rậm rạp của những kẻ tà kiến, tuyệt hẳn cái ý xuyên tạc của những mối dị đoan (…). May ra cái công nhỏ ấy, ngõ đáp được cái ơn sâu kia. Nay tiền đồ còn xa, không thể lưu ở lâu được, ngày mai từ biệt, thêm thiết bùi ngùi, không xiết đội ơn, cẩn dâng khải lên kính tạ.»  

Đông Châu dịch

(Ông Đường tăng Huyền Trang

Nam Phong số 142, tháng 9, năm 1929)

Ngày khởi hành, cả triều đình, các tăng lữ và bá tánh đưa ông ra tới cửa thành Tây.Huyền Trang cảm tấm lòng của nhà vua, hứa trên đường về sẽ ghé Cao Xương ở lại ba năm, rồi bùi ngùi lên ngựa.Nhưng sau này ông không giữ được lời hứa vì lúc đó, bộ lạc Khúc Văn Thái đã bị diệt vong.  

Từ đây danh tiếng ông được mọi người biết, cuộc hành trình dễ dàng hơn trước nhiều, tới đâu cũng được đón đưa long trọng.Khúc Văn Thái đã có công lớn trong chuyến thỉnh kinh của ông.

 

Qua một miền rừng núi hiểm trở nổi tiếng là có nhiều mỏ bạc, Huyền Trang tới A-Kì-Ni, một nơi nghỉ ngơi của các đoàn thương nhân tá túc một đêm, rồi tới Khố Xa. Miền này rất trù phú. Vì lúc đó tuyết phủ đầy dãy Thiên Sơn, không thể tiếp tục hành trình ngay được, ông phải ở lại đó 2 tháng và có dịp nhận xét, ghi chép phong tục cùng văn minh của Khố Xa, lưu lại những tài liệu quý cho các nhà khảo cổ sau này: Vương quốc đó rộng khoảng ngàn dặm từ đông qua tây, và sáu trăm dặm từ nam tới bắc. Chu vi kinh đô được 17, 18 dặm. Đất trồng kê đỏ, lúa mạch, nho, lựu, lê, mận, đào.Có mỏ vàng, đồng, sắt, chì, thiếc.Khí hậu ấm áp, dân thuần lương.Văn tự phỏng theo của Ấn Độ. Âm nhạc tiến hơn các nước láng giềng nhiều. Chính nhờ Khố Xa mà đạo Phật truyền qua Trung Hoa. Vì nằm trên đường chở lụa từ La Mã qua Trung Hoa, nên Khố Xa buôn bán rất thịnh, hạng phú gia bận những đồ gấm vóc rực rỡ.  

Tại đó, ông gặp một nhà tu hành học thức uyên bác là Mộc Xa Cúc Đa, đã qua Ấn Độ nghiên cứu kinh điển trên hai chục năm. Nhờ sự gặp gỡ đó, ông biếtthêm được nhiều về đạo Phật và Ấn Độ, nhưng đôi khi cuộc thảo luận và Phật pháp có giọng hơi gay gắt vì Mộc Xa Cúc Đa theo tiểu thừa như hầu hết các hòa thượng Trung bộ Á Châu, còn ông thì thiên về đại thừa. Rốt cuộc, Mộc Xa Cúc Đa phải nhận rằng ngay tại Ấn Độ cũng có ít học giả uyên bác như ông.

Khi tuyết bắt đầu tan, ông lại tiếp tục hành trình, tới Ô Hắc Quốc rồi leo núi Thông Lãnh(5) cao 7.200 thước trong dãy Thiên Sơn. Ông tả núi đó rất kỹ: «Nó rất nguy hiểm, ngọn đụng trời. Từ hồi khai thiên lập địa, tuyết phủ, đóng lại thành những đóng băng quanh năm không tan. Băng trải thành từng lớp cứng và rực rỡ, liên tiếp tới chân trời, lẫn với mây. Nhìn vào chói mắt (…). Leo trèo thực khó khăn, nguy hiểm. Lại thêm lúc nào cũng có thể có những cơn dông tuyết, thành thử dù đi giày có hai lớp da, dù bận áo cừu, cũng vẫn run lên cầm cập. Muốn ăn hoặc ngủ thì không có một chỗ nào khô để nghỉ chân. Chỉ có cách là treo nồi lên chỗ nào đó mà nấu ăn và trải chiếu ra để nằm». Leo núi đó, đoàn của Huyền Trang chết mất hơn chục người, vì đói, lạnh (không kể một số lớn bò và ngựa), chỉ còn lơ thơ ít người.  

Xuống tới chân núi, ông theo một con sông rồi tới Nhiệt hồ (cũng gọi là hồ I Tây Khắc): «Hồ này chu vi khoảng 1000 dặm, nằm dài từ đông qua tây, phía nam rộng mà phía bắc hẹp. Bốn bề là núi, vô số sông chảy vào.Nước màu đen phơn phớt xanh, vị mặn và chat». Hồ không bao giờ đóng băng, khí hậu tương đối ấm áp, nên các vua chúa trong miền tới đó để tị hàn. Chính ở gần hồ tại Tô Điệp Thành mà Huyền Trang gặp Diệp Hộ Khắc Hàn(6) của xứ Đột Quyết.  

Khắc Hàn ở trong một cái lều lớn thêu hoa bằng vàng rực rỡ chói mắt, tuy là man rợ mà có vẻ uy nghi đáng kính. Khắc Hàn vốn là bà con của Khúc Văn Thái nên tiếp đãi Huyền Trang long trọng, nghe ông giảng kinh xong, ngưỡng mộ ông lắm, muốn giữ lại: «Bạch sư phụ, sư phụ đừng qua Tây Trúc. Xứ đó nóng lắm, đông cũng như hè.Tôi ngại rằng sư phụ mới qua đó thì mặt mũi sẽ chảy ra như sáp hết.Dân chúng thì đen thui, đa số lõa lồ, không biết lễ nghi gì cả, không đáng cho sư phụ tới thăm».

Ông không nghe, Khắc Hàn phải để ông đi. Ông tiến về phương tây, tới nước Xá Thời, qua một bãi sa mạc rộng khoảng hai trăm rưỡi cây số, cát đỏ, rồi đến nước Phong Mạc Kiện, một nơi có thành lũy rất cổ, vì chín thế kỷ trước Huyền Trang, A Lịch Sơn Đại Đế đã qua đó để vô Ấn Độ.  

Nơi đó, ở một ngã ba trên đường chở lụa nên có vô số hàng hóa quý giá.Đất cát lại phì nhiêu, trồng loại cây gì cũng được.Dân tộc khác hẳn những miền ông đã qua.Đây bắt đầu là khu vực ảnh hưởng của Ba Tư, không chịu ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa. Tuy còn vài ngôi chùa(7) nhưng đều hoang tàn vì vua và dân không theo đạo Phật mà thờ thần lửa.

Nhà vua tiếp Huyền Trang một cách khinh khỉnh, nhưng sau khi nghe ông thuyết pháp, tỏ ý cảm động, che chở ông. Có lần dân chúng cầm bó đuốc đuổi đánh ông, nhà vua hay tin bắt họ, xử tội chặt chân chặt tay, ông xin giảm tội cho, và sau đó, dân chúng vừa kính vừa sợ, xin theo đạo Phật rất đông. Năm sau, nhà vua lại sai sứ qua Trung Hoa, tỏ tình thán phục Đường Thái Tông. Lúc đó, Thái Tông mới biết công của ông đối với triều đình.

Từ Phong Mạc Kiện, Huyền Trang tiến về phía Nam, khoảng ba bốn trăm dặm, tới Thiết Môn Sơn, một nơi vô cùng hiểm trở, rất lợi cho sự dụng võ. «Nó là một con đường hẻm thuộc địa phận A Phú Hãn, ngòng ngoèo ở dưới chân hai rặng núi cao chót vót, dựng đứng lên như hai bức tường đen, màu sắt, vì núi có nhiều quặng sắt. Vô sốghềnh thác nằm ngang đường.Ở đầu đường là một cái cửa có hai cánh bằng sắt, trên cửa treo nhữngchuông sắt.Nhưng khi gió thốc vào, tiếng chuông vang động lên như sấm, hòa với tiếng thác đổ ào ào mà trời lại u ám, thì thật là cảnh địa ngục.Chỉ mươi tên quân giữ cửa ải đó là đủ ngăn cản thiên binh vạn mã.Người Thổ nắm đuoc yếu điểm đó mà kiểm soát hết giao thông và thương mại giữa Ấn Độ và Trung bộ Á Châu.  

Qua khỏi Thiết Môn Quan, đoàn hộ tống Điệp Hộ Khắc Hàn từ giã trở về. Ông một mình tiến về phía Đông nam, quá nhiều nước nhỏ rồi một hôm tình cờ gặp một vị hòa thượng trẻ tuổi xứ Thổ Hòa La tên là Tuệ Tánh tình nguyện làm đồ đệ, đưa ông sang Ấn Độ. Hai người vòng qua phía tây Đại Tuyết Sơn, đi trên hai ngàn dặm nữa thì vị hòa thượng được lệnh của vua Thổ Hòa La, phải từ biệt ông mà trở về.

Miền đó là miền Bactriane hồi xưa, thời thượng cổ thuộc về dân tộc Ba Tư, sau bị A Lịch Sơn Đại Đế chiếm, chịu ảnh hưởng Hi Lạp trong một thời gian, rồi chịu ảnh hưởng của đạo Phật, có những chùa Phật chứa ba nghìn tăng đồ.  

Đoạn đường vòng Đại Tuyết Sơn khó đi nhất. Mây như đặc lại, tuyết bay loạn suốt ngày, không bao giờ thấy mặt trời. Đường cheo leo không có chỗ nào phẳng mà rộng được đến ba thước. Có khi phải nằm rạp xuống bíu vào đá mà nhích đi từng chút, có khi phải qua nhữngcầu kết bằng mây đong đưa ở trên không, chỉ vô ý một chút là té xuống vực thẳm thác đổ ào ào.

 

Từ khi Tuệ Tánh trở gót, Huyền Trang lại thui thủi một mình trong rừng rậm hoang vu, leo đèo Shibar cao ba ngàn thước, tới Kapica (thung lũng Kâbul), một miền phì nhiêu phong phú, dài 60 cây số và rộng 20 cây số. Đó đã thuộc về Ấn, cho nên ông gặp ở Kapica nhiều nhà tu hành Ấn, theo thuyết khổ hạnh: Ở trần truồng, ngồi cầu nguyện trong rừng, chịu cảnh đói lạnh.

Ông nghỉ ở đó hết mùa hè, rồi đến Lampaka, mà từ khí hậu, cho đến người, vật và phong tục đều khác với các miền trước. Dân thì vui vẻ, thích ca hát, nhảy múa, tuy nhỏ mà nhanh nhẹn, bận áo vải màu rực rỡ. Đúng là dân tộc Ấn Độ. Khí hậu hơi nóng, cây cối um tùm, và có nhiều khỉ.

Ông qua sông Indus tới Taxila, viếng nơi mà theo truyền thuyết Đức Phật trong một kiếp trước đã thấy một con cọp cái đói, không kiếm được mồi để nuôi bảy cọp con, bèn động lòng từ bi, từ trên cao đâm đầu xuống gần cửa hang cọp, tự hủy thân để nuôi cọp, vì vậy mà đất ở chung quanh đỏ như máu, mà cây cối cũng có sắc đỏ.  

Taxila thuộc về Kâcmvi, một nước rất sùng đạo, có hàng trăm chùa và năm ngàn sư. Chính nơi đó là đấtphát nguyên của phái Đại thừa. Nhà vua nghe Huyền Trang cũng theo phái đó, nên rất kính trọng, thân hành ra biên giới để đón và thỉnh lên ngồi một thớt tượng để cùng song song vô kinh đô. Vì gặp được một pháp sư bảy chục tuổi, pháp sư Xưng Lão làu thông Tam Tạng, lại tìm được rất nhiều kinh điển (cộng đến non một triệu chữ), Huyền Trang ở lại Kâcmvi hai năm (từ 631 đến 633) để học đạo. Trò rất kính thầy, mà thầy rất mến trò, tương đắc nhau lắm. Khi đã hiểu rõ kinh điển rồi, Huyền Trang mới từ biệt nhà vua và thầy học để đi thăm đất Phật. Tính ra, ông đã xa quê đã bốn năm, trải biết bao gian lao, nhưng đã gần tới đích.

 

Rời Kâcmvi tới Cakala, rồi lại được ít ngày thì một hôm, qua một khu rừng rậm, ông cùng đoàn tùy tùng bị cướp lột hết hành trang, phải trốn trong một cái hang. Nhờ có một đám nông dân hay tin lại cứu, đưa tới một chùa Bà La Môn ở đó. Ông chủ chùa này tuy theo đạo Bà La Môn mà cũng thích nghiên cứu đạo Phật. Huyền Trang xin ở lại một tháng để tìm hiểu thêm đạo Bà La Môn, rồi mới đi tới Jâlandhara.  

Từ đây cuộc du học của ông thích thú vô cùng.Tới đâu ông cũng gặp những di tích của đạo Phật, tha hồ mà đọc kinh điển, mà thảo luận với các pháp sư, và thỉnh giáo các vị tu hành uyên bác.

Ấn Độ nổi tiếng là một xứ huyền bí, một phần vì địa thế, một phần vì tôn giáo. Về địa thế, xứ đó gần như cách biệt hẳn với các xứ chung quanh: ba phía Đông, Tây và Nam là biển, phía Bắc thì có dãy Hi Mã Lạp Sơn cao vòi vọi, rất bất tiện cho sự giao thông; về tôn giáo thì mới đầu có hai đạo chánh, đạo Bà La Môn và đạo Phật và một đạo nữa, đạo Hồi Hồi, từ Ba Tư truyền vào; riêng hai đạo Bà La Môn và Phật có rất nhiều giáo phái mà lý thuyết khác nhau xa. Đất đai rộng mênh mông như một lục địa nhỏ, chia ra hàng trăm nước, có nước nhỏ chỉ bằng một phần trăm nước khác. Vàng bạc châu báu rất nhiều, đền chùa chỗ nào cũng có. Dân rất mê tín mà chia làm nhiều giai cấp; bọn quí phái mơ mộng trong cung điện, hết đi săn thì hưởng thanh sắc, bọn tu hành Bà La Môn chẳng làm việc gì, chỉ tu hành và rất được trọng, hạng thương nhân nhờ giàu có mà cũng được nễ, hạng nông dân bị khinh bỉ gần như hạng nô lệ; cuối cùng là hạng tiện dân bị các giai cấp khác khinh tởm hơn là ta khinh tởm người cùi, đến nỗi là không ai dám lại gần họ và cái bóng của họ chiếu vào vật nào thì vật đó bị coi như dơ bẩn, phải ném đi, chứ không ai chịu mó vào nữa.  

Tóm lại từ văn minh đến phong tục, khác hẳn Trung Hoa. Huyền Trang sống non mười năm ở Ấn, có dịp đi khắp nơi, được trông thấy bao nhiêu điều lạ, rồi bẩm sinh có óc nhận xét tinh tế, ghi cả lại trong tập du ký, thành một mớ tài liệu rất quý giá chẳng những giúp người Trung Hoa thời đó mà còn giúp cả những học giả thời này hiểu Ấn Độ nữa. Chính René Grousset, tác giả cuốn Sur les traces de Bouddha cũng phải thán phục tài nhận xét của ông, coi ông vào hàng bác học danh tiếng nhất thời cổ.

Từ Jâlandhara, ông tiến xuống phía Đông nam, tới Mâthura, rồi qua phương Đông, tới thượng lưu sông Gange (Hằng Hà): Ông tả con sông đó y như một nhà khoa học: «Gần nguồn sông rộng ba dặm, mà gần cửa biển rộng mười dặm. Nước bình thường thì trong xanh nhưng thường thay màu, mà mặt nước mênh mông.Rất nhiều sinh vật kỳ dị sống trong sông, phần nhiều không làm hại người.Vị của nước ngọt và dễ chịu, cát mịn vô cùng. Người bản xứ coi sông đó là một vị thần, kẻ nào tắm nước sông thì gọt hết được tội, nếu uống nước hay chỉ rửa miệng thôi cũng tiêu tan được những khổ não, nếu chết đuối trong sông thì được lên trời. Lúc nào trên bờ cũng có vô số người tụ họp, đàn ông lẫn đàn bà».Ông cho như vậy là dị đoan.

Tới Kanauj, ông không được gặp vua Harsha, một người rất mộ đạo Phật, mỗi năm thường họp tất cả các vị pháp sư Ấn Độ tai kinh đô để tranh biện về đạo, lại mời vị nào đức độ nhất, học thức sâu nhất lên ngôi trên ngai vàng của mình mà thuyết pháp.

Khi ngồi thuyền xuôi sông Gange với hai chục người nữa, để tới Prayâga, ông gặp một tai nạn kinh khủng. Thuyền qua một khúc sông, hai bên là rừng rậm.Một bọn cướp bơi một chục chiếc thuyền ra chặn, lôi cả hành khách lên bờ.Bọn họ thờ nữ thần Durga và mỗi năm phải kiếm một người đàn ông đẹp trai, lực lưỡng, giết để tế thần.Thấy Huyền Trang chúng mừng quá vì nước da ông trắng trẻo mà nét mặt tươi nhã, thông minh, bàn với nhau sẽ giết ông.Họ dắt ông tới sân đền, rút gươm ra định hạ thủ, thấy ông vẫn bình tĩnh, họ hơi ngạc nhiên.Ông xin được tụng kinh trước khi chết.Chúng bằng lòng. Những người đồng hành khóc lóc thảm thiết; còn ông thì càng tụng kinh, mặt càng tươi tỉnh, sung sướng, không biết gì ở chung quanh cả. Đột nhiên một cơn dông nổi lên, thuyền nhồi lên nhồi xuống rồi chìm, cây cối gẫy răng rắc. Bọn cướp hoảng sợ, tưởng là ông có phép thần, quỳ xuống xin ông tha tội.Ông mở mắt ra, hỏi chúng đã đến giờ chết chưa.Khi hay chúng đã đổi ý ông cũng không lộ nét vui.Vừa lúc đó, gió ngớt.  

Sau Prayâga, ông lại thăm Kaucâmbi, rồi lên phương Bắc, xứ Népal để viếng các đất thánh của đạo Phật.

Trước sau ông đã làm lễ ở những nơi này:

1/ Nước Cravastis (Xá Vệ) nơi mà xưa Đức Thích Ca trú ngụ và truyền đạo lâu nhất.  

2/ Nước Kapilavastu (Ca Bỉ La Vệ) nơi Ngài chào đời (hiện là tỉnh Gorakhpur).

3/Nước Kusinagara (Câu Y Na Kiệt La) gần Népal, nơi Ngài tịch.

4/ Thành Bénarés (Ba Nại La) nơi Ngài thành đạo.  

5/ Nước Vaisali (Phệ Xa Lý) hiện là tỉnh Besarh, nơi mà Ngài thích nghỉ chân trong mùa mưa.  

6/ Chùa Để-La-Già và gốc Bồ Đề.  

Trong cuộc hành hương đó, lòng ông rung động, bồi hồi tưởng như lúc nào cũng được nghe những bản nhạc du dương.Đời hy sinh của đức Thích Ca hiện lên, hồi này tiếp hồi khác, rực rỡ, đủ từng chi tiết.

Đây là chỗ mà một bà cô của Ngài, cũng là mẹ nuôi của Ngài nữa, xin Ngài cho phụ nữ được quy y, sau dựng lên một chùa Phật đầu tiên cho các ni cô.  

Đây là nơi chôn nhau cắt rốn của Ngài. Ôi cảnh vật tang thương. Cung điện xưa kia ở đâu mà nay chỉ còn một vùng cỏ úa dưới ánh tà dương! Kinh đô của vua cha đã bị tàn phá đến nỗi không còn nhận ra được chu vi nữa. Cũng may di tích còn lưu lại ít nhiều. Thổ dân còn chỉ được chỗ mà Hoàng tử đấu kiếm và thắng được đối thủ, chỗ mà lần đầu tiên Ngài thấy cảnh lão, bệnh, tử; con đường mà Ngài theo cái đêm bỏ cha mẹ vợ con, phú quý vinh hoa, rũ sạch bụi trần để đi tìm đạo. Nhớlại những truyện đó, Huyền Trang rưng rưng nước mắt mà thấy sự hy sinh của mình còn kém xa sự hy sinh của đức Phật. Người ta dắt ông lại thăm một cánh đồng nơi mà Ngài sụt sùi, thấy nông phu bừa đất, nhổ cỏ và giết sâu và trứng sâu, đau lòng tưởng như người thân của mình bị hại vậy. Ôi! Lòng nhân của Ngài mênh mông như vũ trụ! Và ngôi chùa ở mép khu rừng kia, phải là nơi Ngài cởi bỏ áo đẹp, lấy gươm cắt tóc, đưa cho Xá Vệ, bảo y trở về không? Kinh truyền còn chép Xá Vệ khóc ròng mà con ngựa của Ngài cũng cảm động, liếm chân Ngài trước khi từ biệt.  

Đây là chỗ Ngài tịch. Đã hơn 11 thế kỷ rồi.Ngôi nhà của người thợ rèn đã mời Ngài dùng bữa cơm cuối cùng còn đó. Mà chỗ kia là nơi Ngài nằm nghỉ, nơi người ta cất hỏa đàn để thiêu Ngài.Ở Bénarès ông đi thăm Lộc Viên, nơi Ngài thuyết pháp lầnđầu cho năm đệ tử đầu tiên, Huyền Trang còn nghe văng vẳng lời Ngài dạy:  

«Hỡi các tì kheo, có hai thái cực mà ta phải tránh: Một cái là đời hoan lạc, nó thắp hèn, phù phiếm; một cái là đời khổ hạnh, nó thê thảm, xấu xa và vô ích…

Hỡi các tì kheo, đây là chân lý về đau khổ: sinh, lão, bệnh, tử, phải xa cách cái gì mình yêu, đó là đau khổ. Và đây là nguồn gốc của khổ: lòng dục (…) Và đây là chân lý về phép diệt khổ: diệt được lòng dục đó đi thì diệt được khổ.»

Ông ngừng lại lâu ở gốc Bồ đề.Đây mới là đất thánh của đạo Phật, nơi đức Thích Ca nhập định và giác đạo. Hiện nay gốc Bố đề cũ không còn, nhưng lúc ông tới thì nó vẫn tươi tốt: «Thân cây trắng vàng, lá xanh và láng, mùa hè cũng như mùa đông đều tươi tốt. Nhưng tới ngày lễ Niết Bàn (?) thì rụng hết một lượt rồi hôm sau mọc ra mơn mởn. Ngày đó các vị vua chúa lại tưới sữa vào gốc cây, đốt đèn, trưng bông, lượm ít lá rồi về.»

Sau này người ta xây một bức tường gạch chung quanh và cất một ngôi chùa ở gần cửa bắc vòng thành.

Cạnh gốc cây có một tượng Phật. Người ta đồn có lời sấm rằng khi nào tượng đó bị đất lấp kín thì đạo Phật thất truyền ở Ẩn Độ. Huyền Trang thấy tượng đã bị vùi tới ngực, đoán chỉ độ hai trăm năm sau là bị vùi trọn. Lạ lùng thay, tới thế kỷ thứ 9, đạo Phật cực suy ở Ấn, trừ vài miền như Magadha và Bengale không còn mấy người theo nữa.  

Ông quỳ ở gốc cây, than thở, cầu nguyện rồi đi thăm cái hồ xưa đức Thích Ca hay lại tắm, giặt, trước khi lại chùa Nâlandâ (nước Mayadha) lưu học.

 

Ấn Độ có hàng vạn ngôi chùa, mà Nâlandâ lớn nhất, đẹp nhất cũng là trường đại học cổ nhất.Gần như một thành thị riêng biệt.Chung quanh là một bức tường gạch, ở trong đó có hàng chục ngôi chùa, vô số nhà ở và phòng hội họp, phòng tụng kinh. Đứng ở các hành lang nhìn ra: nóc chùa như «bay lên trên khói», «phong vân nổi ở chung quanh», mà «sen xanh»(8) rực rỡ trên dòng nước trong. Giọng văn ông khi tả cảnh đó bóng bảy như giọng thi sĩ Trường An.

Chùa có một thư viện rất cổ và rất đủ: kinh Đại thừa, Tiểu thừa, Phệ đà (trên 150 bộ), rồi sách thuốc, thiên văn, địa lý, toán, kỷ thuật… Luôn luôn lúc nào cũng có mười ngàn tăng lữ lại học thuyết Đại thừa. Kỷ luật rất nghiêm, từ khi chùa dựng lên tới lúc đó, trên bảy trăm năm, chẳng những thường dân mà các vua chúa cũng kính trọng tinh thần của tăng lữ trong chùa, chu cấp cho rất nhiều: mỗi ngày hai trăm gia đình đem gạo, sữa, bơ, trái cây lại cúng.

Vị sư chủ trì là Giới Hiền pháp sư (Cilabhadra), một nhà học giả uyên bác nhất thời đó, năm ấy đã 106 tuổi mà óc vẫn sáng suốt. Hay tin Huyền Trang tới, pháp sư sai hai trăm tăng lữ và hàng ngàn tín đồ cầm cờ phướng, dù, đem hương hoa đi đón rước.Tới chùa, Huyền Trang lại chào pháp sư.Theo tục trong miền, cùng quỳ gối, đập đầu vào sàn, lạy, xin nhận làm môn đệ. Giới Hiền pháp sư cảm động đến sa lệ, bảo: «ít tháng trước, ta đau nặng, chỉ mong được mau giải thoát. Một đêm ta nằm mộng thấy ba vị thần ra lệnh cho ta phải sống để đợi một hòa thượng Trung Hoa tới mà truyền đạo cho. Bây giờ con tới đây, hợp với mộng đó lắm».

Vì quá già, từ lâu Giới Hiền pháp sư không giảng kinh nữa, lần này mới rán giảng cho Huyền Trang bộ kinh trọng yếu nhất là bộ Du Già luận. Ngày khai giảng, tăng lữ và tín đồ các miền chung quanh hợp lại đông như ngày hội. Huyền Trang học rất tấn tới, trong số vạn sư đồ ở chùa, may lắm được mười người theo nổi ông.  

Ông ở chùa 15 tháng (634 sau c.n.) học hết bộ Du Già luận, và học thêm triết lý Bà La Môn và Phạn Ngữ, soạn được một cuốn ngữ pháp tiếng Phạn giản lược mà rất đúng.

 

Ông xin phép Giới Hiền pháp sư đi chu du Ấn Độ để tìm hiểu thêm các giáo phái khác, nhất là tình hình Phật giáo ở mỗi nơi.  

Ông thăm xứ Bengale, xuống hải cảng Tâmralipi, trên vịnh Bengale, định đón ghe ra đảo Tích Lan, trung tâm của phái Tiểu thừa. Nhưng có kẻ khuyên ông đừng đi đường biển vì sóng gió, ông bèn theo đường bộ, men biển mà tiến xuống Tây Nam tới ngang đảo Tích Lan rồi sẽ đón ghe, như vậy chỉ mất ba ngày liền.

Trên đường, ông thăm xứ Odradeca, Kalinga, Andhra, Pallava (ông tới đây năm 640).  

Theo René Grousset, Huyền Trang không qua đảo Tích Lan vì trong đảo đương có nội loạn và nạn đói, nhưng theo ông Trần Hà trong bài «Trần Huyền Trang và chuyến thỉnh kinh lịch sử» (bách khoa số 57, 58 và 60) thì Huyền Trang có vượt biển qua Tích Lan, chưa rõ thuyết nào đúng.

Tới cực nam Ấn, ông theo bờ biển phía Tây, mà lên tới gần ranh Ấn Độ – Ba Tư, qua những xứ Mahârâshtra, Nasik, Bharukacha. Nhận xét được điều gì, ông cũng ghi chép kỹ lưỡng. Mà những nhận xét đó thường rất đúng, chẳng hạn tình hình của dân Mahratte ở nước Mahârâshtra (Calukya), hồi ông đi qua ra sao, thì bây giờ cũng vậy: bình dị, ngay thẳng, nhưng tự ái và nóng tính, trọng nghĩa mà khinh chết, hy sinh để báo ân mà mạo hiểm để báo oán, và rất đàng hoàng, báo trước cho kẻ thù biết rồi mới ra tay. Tướng của họ mà bị cầm tù thì thà chịu chết chứ không chịu cái nhục để kẻ thắng bắt mình phải bận quần áo đàn bà.Giống người đó là giống thượng võ nhất ở Ấn.  

Những ghi chép của ông về công việc dẫn thủy nhập điện và những tơ lụa của Ba Tư cũng rất đúng, mặc dầu ông không qua xứ đó mà chỉ nghe người ta kể lại.

Đến cực tây Ấn Độ, sau khi khảo sát phong tục, tôn giáo, kinh điển trong các chùa khắp nơi (có chỗ ông ở lại học đạo một, hai năm), ông băng qua trung bộ Ấn mà qua phía Đông, tới xứ Magadha và trở lại chùa Nâlandâ. Lần này ông ôn lại tất cả những điều đã học được, rồi suy nghĩ để tìm chân lý.  

Giới Hiền pháp sư vẫn còn sống, sai ông chủ trì cuộc diễn giảng về Nhiếp đại thừa luận.Ông Trần Hà, trong bài đã dẫn, chép rằng:

«Bây giờ nhà sư Tử Quang, cũng một đệ tử hữu danh của Giới Hiền pháp sư, không phục sự chủ trì của Huyền Trang… nhưng khi Huyền Trang viết ra ngàn câu tụng «Hội tông luận» thì cả chùa tăng chúng đều phục, cả Giới Hiền pháp sư cũng khen nức nở. Tử Quang thấy sự học của mình còn non kém, xấu hổ bỏ chùa ra đi, hơn năm sau mới trở lại.  

«Cũng lúc ấy, có một người Bà La Môn viết bốn chục điều lý luận đem dán trước cửa chùa Na Lan Đà, thách rằng:  

- Nếu ai bác được một điều của ta, ta sẽ tự cắt đầu tạ lỗi.  

Mấy ngày sau, vẫn chưa ai dám biện bác. Huyền Trang bèn thỉnh Giới Hiền pháp sư đến chứng kiến để ông tranh luận với người Bà La Môn ấy. Rốt cuộc, ngườiBà La Môn đuối lý và yêu cầu được làm theo lời hứa. Huyền Trang đáp:

- Hòa thượng không được sát sanh.  

Những truyện đó không chắc đã đúng nhưng có thể tin được. Một người đã từng trải, học rộng, bẩm tính lại ôn hòa, nhã nhặn như ông tất không hiếu thắng, nhưng trong một xứ giáo phái lộn xộn như Ấn Độ, lại được mục kích những cuộc tranh biện rất thường giữa các giáo phái, thì thế nào ông cũng phải đưa ý kiến, có khi để hòa giải, cũng có khi vạch chỗ sai lầm. Ta đã biết, ông cũng như đa số các hòa thượng uyên bác của Trung Hoa, thiên về Đại thừa. Ông đứng ra hòa giải các tiểu phái trong giới theo Đại thừa ở Ấn, bảo rằng cái hại là do người trước chú thích kinh điển theo ý riêng của mình, nhưng cái hại đó không lớn, chẳng qua chỉ là đại đồng tiểu dị, vậy ta nên bỏ tiểu dị đi mà theo đại đồng cho khỏi xung độtnhau.

Đối với Tiểu thừa, ông nghiêm khắc hơn. Ông chỉ trích mạnh nhất là đạo Bà La Môn, và những giáo phái chủ trương khổ hạnh, theo những tục kỳ cục, dã man. Có bọn lấy tro cọ vào người tới khi da trắng bệch ra, cho như vậy mới đắc đạo. Có kẻ không bận quần áo, tóc lông đều nhổ hết, trần như con nhộng. Có tinh thần Khổng học, có óc lương tri, ông không chịu được những xuẩn động đó. Ông bực mình thấy những «tu sĩ» đeo vào cổ một chuỗi mảnh sọ người, hoặc bận những quầnáo dính đủ các chất dơ, ăn những thịt thối để cho «tâm hồn được giải thoát».

Vua một nước láng giềng, nước Kamarũpa, (hiện nay là tỉnh Assam) hâm mộ tài ông, mời ông tới kinh đô giảng kinh. Nhưng đồng thời, vua Harsha, một vị quân chủ hùng cường nhất Ấn Độ thời đó, cai trị gần hết bắc bộ Ấn, lại có tài văn thơ, rất sùng đạo Phật, cũng muốn rước ông lại kinh đô là Kanauj. Vua Kamarũpa phải phục tùng vua Harsha, bỏ chương trình của mình, rồi dùng hai vạn thớt voi, ba vạn thuyền, dẫn cả binh lính hộ tống Huyền Trang tới Kajughira, chỗ vua Harsha đương cấm trại. Huyền Trang tới vào lúc tối. Nóng lòng, vua Harsha không chịu đợi đến sáng hôm sau, sai đốt đuốc rồi cùng các tướng tá đi đón. Gặp Huyền Trang, nhà vua quỳ xuống đất, hôn chân ông, đeo hoa đầy người ông. Ít bữa sau nhà vua rước ông và vua Kamarũpa về kinh đô là Kanauj (năm 643). Quân đội của hai nước lần đó họp lại, thành một cuộc rước long trọng chưa từng thấy. Tiếng chuông, tiếng trống, tiếng đờn, tiếng sáo vang lừng trên sông. Tiểu vương các nước chư hầu cũng lại tiếp rước. Tiếp ra có 18 quốc vương trung bộ Ấn Độ, ba ngàn tăng lữ Đại thừa, và Tiểu thừa, hai ngàn Bà La Môn và một ngàn tăng lữ ở chùa Nâlandâ tụ họp tại Kanauj để nghe ông thuyết pháp.  

Đàn dựng lên rồi, tượng Phật bằng vàng đã rước lại.Tượng Phật tới đâu thì vua Harsha cho rắc vàng bạc, châu báu tới đó.Rồi tiệc dọn cho mọi người, bảo vật tặng cho tăng lữ.  

Huyền Trang ngồi ghế luận chủ, giảng về phá ác kiến luận và nhiều nguyên lý Đại thừa khác.Vua Harsha lại cho chép bài giảng của ông, đem dán ở cửa để mọi người coi, dưới bài thêm rằng hễ ai vạch được một chỗ sai thì để đền ơn, nhà vua sẽ cho người đó được chặt đầu mình. Huyền Trang đâu có muốn như vậy! Được mười tám ngày mà vẫn không có ai dám lại biện luận với ông cả. Vua Harsha cả mừng, tuyên bố là phái Đại thừa đã toàn thắng và tặng Huyền Trang một vạn đồng tiền vàng, ba vạn đồng tiền bạc, một trăm bộ quần áo bằng vải tốt, một thớt voi, đỡ ông lên ngồi trên bành, dạo khắp kinh đô. Tăng lữ phái Tiểu thừa và Bà La Môn oán lắm, nhưng không dám bạo động. Vua Harsha đem hết cả châu báu, của cải trong kho phân phát cho dân chúng, chỉ giữ một bộ đồ vải thô. Nhưng mười tám vua chư hầu của ông ta vội vàng thu nhặt của cải trong dân gian để mua lại những bảo vật mà vua Harsha đã phân phát rồi tặng lại nhà vua. Thế là Châu lại về hợp Phố mà vua Harsha được tiếng khen là theo đúng bài học từ bỏ phú quý của đức Thích Ca.  

Huyền Trang không phục nhưng cũng không dám chỉ trích, xin phép về Trung Quốc. Nhà vừa giữ lại, các tăng lữ chùa Nâlandâ cũng khuyên ở lại. Ông đáp:

- Trung Hoa ở xa Tây Trúc, đường đi lại hiểm trở cho nên đạo Phật truyền tới trễ mà ít người hiểu được kỹ lời dạy của đức Thích Ca. Chính vì vậy nên bần tăng mới lặn lội đến đây để cầu đạo, nay đã học xong, xin được về nước để chỉ lại cho những người không được may mắn lại đất Phật như bần tăng. Bần tăng đâu dám quên lời khuyên tự giác rồi giác tha của thầy.  

Vua Harsha nghe vậy không dám cản nữa, nhưng xin cho sứ giả đưa ông về đường biển để có dịp trình quốc thư lên vua Thái Tông. Ông cũng từ chối vì đã hứa với vua Cao Xương là khi về ghé nước đó ở lại ít năm: món nợ danh dự đó không thể không trả.

Vua Harsha tặng ông nhiều bảo vật, một thớt voi, sai một đoàn hộ tống ông tới biên giới Ấn, lại viết nhiều bức thư giới thiệu ông với vua các miền ông sẽ qua. Còn kinh điển và tượng Phật thì sai người chở theo. Vua Kamarũpa (Assam) cũng tặng ông một chiếc áo ngự hàn, và cùng với vua Harsha đưa ông mấy chục dặm ra khỏi thành. Lúc từ biệt ai nấy đều sa lệ.  

Lòng quyến luyến của hai quốc vương đó thực cảm động. Ba ngày sau, Huyền Trang ngạc nhiên thấy một đoàn kị binh đuổi theo, đi đầu là hai vua. Lại tiễn thêm một đoạn đường nữa, rồi lại bùi ngùi lúc chia tay. Lần này thì vĩnh biệt. Bốn năm sau vua Harsha bị giết và một đoạn sử rực rỡ của Ấn Độ kết thúc.

Huyền Trang nghỉ ở Bilsar (phía bắc Kanauj) hai tháng trong mùa mưa năm 643, rồi đi ngược con đường cũ, qua Jãlandhara (Taxila). Miền đó đầy kẻ cướp, nhưng ông được yên ổn vì họ hiểu công việc thỉnh kinh của ông.  

Đầu năm 644, ông qua sông Indus. Tới giữa sông, sóng nổi lên dữ dội, một chiếc thuyền nghiêng ngã, người giữ kinh té xuống nước, cứu được, nhưng mất nhiều cuốn kinh chép tay và nhiều hạt giống.  

Vua nước Kapica hay tin ông tới, lại đón ông ở bờ sông, thấy vậy sai người đi chép ngay những kinh đã mất. Nhiều vua khác cũng đi xa hàng chục dặm để tiễn biệt ông và tới đâu dân chúng cũng tiếp rước ông long trọng. Tính ra ông ở Ấn Độ 10 năm.

 

Coi trên bản đồ, độc giả thấy tới Badakhsan, ông không theo con đường cũ đưa tới Thiết Môn quan mà rẽ qua hướng đông.  

Vua Kapica đã dự bị cho ông đủ vật thực, y phục, lại sai trăm người đưa ông qua Đại Tuyết Sơn vì biết rằng quãng đường leo núi đó khó khăn nhất. Ông leo lên mất mười bốn ngày. Cảnh vô cùng lạnh lẽo, hoang vu: không có một ngọn cây, chỉ toàn đá chồng chất lên nhau tới hút mắt. Núi cao và gió mạnh đến nỗi chim không dám bayqua.

Hết Đại Tuyết Sơn rồi đến Thông Lãnh. Người trong miền vì lạnh quá, sống trong hang như thú vật, kể chuyện có lần hàng ngàn thương nhân và lạc đà qua đó gặp cơn bão tuyết bị vùi trọn trong tuyết. Họ lại kể có hai vị Phật sống, ngồi tham thiền, không ăn uống, không cử động, trong một cái hang từ bảy trăm năm rồi, mà da thịt chỉ khô chứ không rã. Và còn nhiều chuyện quái đản hơn nữa.  

Ông tới Kashgar, Yarkand, Vu Điền (Kotan). Vu Điền là một tiểu quốc phong phú, nhờ đất tốt, trồng dâu được. Hồi xưa Trung Hoa giữ kín cách trồng dâu và nuôi tằm vì đó là nguồn lợi rất lớn. Chắc độc giả đã biết thời Trung cổ, lụa Trung Hoa chở qua châu Âu đắt tới nỗi cứ bắc lên cân mà đổi lấy vàng. Tương truyền vua Vu Điền cưới được một công chúa Trung Hoa và công chúa đã đem lén theo được ít hột dâu và ít con tằm, làm giàu cho nước của chồng mà bí mật của Trung Hoa từ đó bị tiết lậu, truyền qua Byzance rồichâu Âu.

Vua Vu Điền lưu ông lại bảy tháng để giảng đạo cho dân chúng nghe. Ông nhờ một đoàn thương nhân bản xứ đem giúp một tờ biểu về Trường An để xin phép triều đình được nhập cảnh (vì trước ông lén đi).  

Cuối tờ biểu có đoạn:  

«… (Huyền Trang tôi) chu du lịch lãm đến mười bảy năm (tính theo Trung Hoa), nay đã từ nước Bát la gia gìa, qua cõi Già tất thí, vượt núi Thông Lãnh qua sông Ba mê, đi về đến nước Vu Điền. Vì có đem theo con voi lớn đi, nó chết đuối mất, kinh bản đem về rất nhiều, chưa mướn được xe chở, vậy phải tạm đình ở lại. Chưa kíp ruổi về để sớm yết kiến chốn hiên bệ.Khôn xiết ngóng trông. Cần sai người tục nước Cao Xương tên là Mã Huyền Trí theo bọn thương lữ đi về trước dâng biểutâu lên vua nghe»…

Đông Châu dịch

(Ông Đường Tăng Huyền Trang

Nam Phong số 143, tháng 10, năm 1929)

Trong thời gian đó, ông cũng sai người đi lấy những bản kinh mà vua Kapica sai chép lại cho ông.

Tới địa phận Trung Quốc, ông ngừng lại ở Sa Châu (huyện Đôn Hoàng) để đợi chiếu chỉ của vua Đường. Triều đình mới đầu cũng bất bình vì ông dám vi lệnh, nhưng trên mười năm đã qua, danh tiếng của ông đã lên, công của ông lại lớn, làm vẻ vang cho nước nhà ở những nơi xa lạ, nên vua Thái Tông được thư ông, rất vui, xá tội cho ông và bắt các quan địa phương phải tiếp đón, giúp đỡ ông trên đường về.  

Một ngày đầu xuân năm 645, đường phố Trường An tưng bừng. Gìa trẻ, trai gái dắt díu nhau đi đónông, hoan hô ông nhiệt liệt. Cờ phướn, võng lọng phất phới, tiếng chuông, tiếng khánh vang lừng, hương khói nghi ngút, cảnh náo nhiệt còn hơn ngày thượng nguyên. Các hòa thượng ở kinh đô hợp nhau lại khiêng kinh điển, tượng Phật về chùa Hoằng Phúc.  

Ông đã xa quê 16 năm, đi gần ba vạn cây số qua 128 nước và đem về được:  

- Một trăm rưỡi xá lợi tử.  

- Bảy tượng Phật gỗ quý cao từ 2 thước tới ba thước rưỡi.  

- Và 657 bộ kinh.  

Ít bữa sau, ông đến thành Lạc Dương yết kiến vua ở cung Phụng Lâu. Vua Thái Tông hỏi ông sao đi Tây Trúc mà không tâu trước. Ông đáp:  

- Kẻ hạ thần đã có tâu, nhưng việc nhỏ quá cho nên không được đệ lên. Rồi vì quá mộ đạo, nên phải lẻn đi, thực mang tội lớn.  

Vua chỉ mỉm cười, hỏi thăm về những nước Huyền Trang đã qua. Vua lại khuyên ông làm quan, ông từ chối.

 

Các nhà thám hiểm phương Tây, mười người như một, hễ về tới nước rồi thì xin triều đình hoặc chính phủ được đi nữa, mà người ta cũng khuyến khích họ đi, vì lần thứ nhất chỉ là để dọ đường, nhưng lần sau mới là để đặt cơ sở và mưu lợi. Huyền Trang rất có thể kể tình muốn giao hiếu với Trung Quốc của các vua Cao Xương, vua Harsha, vua Kapica…, và xin Đường Thái Tôn cho mình trở lại các nước đó với một bọn thương nhân, rồi sau với một số quân đội để khuếch trương đế quốc Trung Hoa như chính sách của Bồ, Ý, Hòa, Anh, Pháp sau này.  

Nhưng không. Lòng ông đâu có ti tiểu như vậy! Từ chối hết tất cả danh vọng, ông chỉ nghĩ đến việc dịch những kinh ông đã thỉnh ở Ấn Độ về để phổ biến trong quần chúng. Ta quý ông ở chỗ đó, ông được ngồi riêng một chiếu trong hạng vĩ nhân thế giới cũng ở chỗ đó. Mà công việc dịch kinh của ông cũng vĩ đại như chuyện thỉnh kinh, đã làm cho đạo Phật truyền bá rất mau, rất rộng trong cõi Đông Á, đã làm cho tiếng tăm đời Đường chói lọi trong lịch sử nhân loại.

Mới về nước được hơn một tháng, ông bắt đầu ngay công việc dịch kinh đại quy mô và mải miết làm luôn mười chín năm cho tới khi chết.  

Ta đã phục óc khoa học của ông khi đọc những trang du ký trong đó ông ghi chép rất đúng và rất tỉ mỉ từ địa thế, khí hậu, tới dân tình, phong tục… các miền ông đã đi qua. Ta lại càng thán phục ông hơn nữa khi thấy ông tổ chức công việc dịch thuật: rất có phươngpháp, rất chu đáo, tưởng như ngày nay, trong thời đại khoa học này, cũng chưa chắc đã có cơ quan văn hóa nào làm hơn được.  

Ông về chùa Hoằng Phúc ở Trường An, mời các vị cao tăng thông cả Hoa ngữ lẫn Phạn ngữ lại hợp tác.  

Bắt đầu là phiên âm những từ ngữ Phạn về triết lý ra tiếng Hán, ghi nghĩa từng từ ngữ, rồi tìm trong Hoa ngữ những từ ngữ để dịch cho đúng, nếu không có thì tạo ra.  

Sau đó là chia nhau ra dịch, nếu ai gặp một chỗ nghi vấn thì hỏi những vị «dịch chủ», tức những vị đóng vai chủ yếu, học thứcuyên thâm.

Dịch xong cuốn nào, thì một người đọc bản chữ Phạn một người dò trong bản Hoa văn xem có chỗ nào dịch chưa sát không; nếu có thì bàn bạc lại với dịch chủ để sửa chữa.

Rồi coi lại một lần nữa về cách chia tiết, chương, đoạn và cách chấm câu xem có đúng không. Công việc này có thể làm ngay sau công việc dịch, trước công việc dò nghĩa.  

Tiếp tới việc đẽo gọt lại câu văn.  

Sau cùng lại so sánh cả hai bản nguyên văn và dịch văn một lần nữa, xem đã thật đúng và điêu luyện chưa.

Huyền Trang lãnh việc dịch những kinh khó nhất và chỉ huy công việc dịch những kinh khác. Trong ba năm đầu, ông dịch được chín loại kinh (trong số đó có hai bộ Đại Bồ Tát Tạng KinhPhật Địa Kinh); năm 648 ông đem dâng vua Thái Tông ở Ngọc Hoa Cung.  

Nhà vua ngự chế bài tựa «Đại Đương Tam Tạng thánh giáo tự», rồi sai một vị hòa thượng dùng lối chữ Vương Hi Chi chép lại để khắc lên bia. Một nhà đại thư pháp là Chữ Toại Lương cũng sao lại hai bản, một bản khắc lên Nhạn Tháp của chùa Từ Ân, một bản tại Đồng Châu. Hiện hai bia đá đó vẫn còn (theo TrầnHà).

Đây là một đoạn trong bài tự:  

«Nay có thầy Huyền Trang pháp sư là kẻ lĩnh tụ chốn pháp môn. Nhỏ đã linh mẫn, tâm tam không sớm tỉnh ngộ từ xưa, lớn lại thần tình, hạnh tứ nhẫn trước bao hàm đủ cả (…) Lưu tâm cõi Nội, từng thương chính pháp suy vi, để ý cửa Huyền, lại khái thâm văn sai suyễn.

Nghĩ muốn chia điều tách lẽ, thêm rộng tiền văn; tiệt ngụy tục chân, khai cho hậu học. Vậy nên ngóng trông đất Tĩnh qua chơi cõi Tây; mạo hiểm xa đi, một mình vò võ (…) Chu du Tây Vực, mười lẻ bảy năm, duyệt lịch nước người, hỏi tìm chính giáo (…) Những nước kinh lịch đi qua, tóm thu được Tam Tạng kinh văn, phàm sáu trăm năm mươi bảy bộ, đem về dịch ra tuyên bá nơi Trung Quốc, để tuyên dương thắng nghiệp. Thánh giáo khuyết mà lại toàn, thương sinh tội mà lại phúc.Tưới tắt ngọn lửa nồng hỏa trạch, tót ra khỏi đường mê; lắng trong luồng sóng đục Ái hà, cùng bước lên bờ giác. Thế mới biết ác nhân nghiệp trụy, thiện bởi duyên thăng, cái cớ thăng hay trụy đều bởi tại người cả (…) Những mong kinh này thí khắp, trải bao nhật nguyệt vô cùng phúc nọ nhuần xa, cùng với kiền khôn rộng khắp.»

Đông Châu dịch

(tài liệu dẫn trên)  

Tháng 10 năm đó, Hoàng thái tử cho xây chùa Từ Ân ở Trường An, và một viện dịch kinh trong sân chùa, mời Huyền Trang dời ban phiên dịch về đó.

Năm năm sau ông dịch được mười bộ nữa. Năm 660 ông bắt đầu dịch bộ kinh lớn nhất và khó nhất, bộ Đại Bát nhã kinh. Môn đệ thấy sức ông đã yếu mà kinh lại dài, đề nghị dịch tóm lại, ông không chịu, cho như vậy là cẩu thả, làm hại đến nguyên ý. Ông quyết tâm dịch sát không thêm bớt. Tốn công nhất là phải tham khảo trước khi dịch: vì có ba bản: Đại Bát nhã kinh khác nhau đều mang ở Ấn Độ về. Gặp mỗi chỗ đáng nghi, ông suy nghĩ, so sánh rồi mới dám hạ bút. Tới cuối năm 663, ông đã dịch được sáu trăm quyển.  

Ngoài ra ông còn để lại cho hậu thế được ba công trình này nữa:

- Bản dịch Đạo Đức kinh ra chữ Phạn để giới thiệu triết học Trung Hoa với Ấn Độ.

- Viết bộ Đại Đường Tây Vực Ký, gồm 12 quyển chép hết những điều mắt thấy tai nghe trong chuyện thỉnh kinh qua 128 nước. Bộ này chứa những tài liệu rất quý cho các nhà khảo cổ Ấn Độ và Trung Á sau này, được dịch ra nhiều thứ tiếng: Anh, Pháp, Nga, Nhật, Đức… và đã giúp các học giả Ấn sửa lại nhiều điều sai lầm trong lịch sử của họ về thế kỷ thứ bảy.  

- Đặc biệt nhất là bản dịch Đại thừa khởi tín luận từ Hoa ngữ ngược về Phạn ngữ. Nguyên bản chữ Phạn của Ấn Độ đã thất lạc từ lâu, nhưng ở Trung Hoa còn giữđược bản dịch ra chữ Hán; bây giờ ông dịch ngược lại để đền ơn những tôn sư và bạn thân Ấn đã niềm nở dạy bảo hoặc tiếp đón ông (theo Trần Hà).

- Để thực hành sự nghiệp vĩ đại đó, ông tổ chức đời sống một cách nghiêm khắc. Mỗi buổi sáng ông lập chương trình phải dịch bao nhiêu tờ, nếu ngày làm không xong thì đêm phải thức để làm nốt, không được chậm trễ. Thường canh ba ông mới đi nghỉ, canh năm ông đã dậy, thuyết pháp cho trên một trăm môn đệ, rồi lại dịch; ngày nào như ngày nấy, nam này qua năm khác, luôn mười chín năm. Nghị lực cùng sức làm việc của ông thực kinh thiên.  

- Như tôi đã nói, trước Huyền Trang, đã có vài người như Cưu Ma La Thập dịch kinh Phật. Sau ông, Nghĩa Tĩnh qua Ấn thỉnh thêm được bốn trăm bộ kinh nữa, nhưng dịch không được mấy. Ta có thể nói trước sau, hai phần ba công dịch kinh Phật là vềông.

Theo Lương Khải Siêu, công việc đó chẳng những làm cho đạo Phật phát triển mạnh ở khắp Đông Á, mà còn ảnh hưởng lớn đến ngôn ngữ và văn học Trung Hoa.  

- Từ ngữ Trung Hoa đã giàu thêm được ba vạn rưỡi tiếng, căn cứ vào bộ Phật giáo đại từ điển. Có những tiếng dịch âm tiếng Phạn như Nát Bàn, Sát Na (một thời gian rất ngắn), phù đồ (chùa Phật); có tiếng dịch nghĩa tiếng Phạn như: vô minh, chúng sinh, nhân duyên, chân như…Mà thêm được 35.000 tiếng là thêm được 35.000 ý niệm.

- Văn bạch thoại phát đạt vì lẽ khi dịch, người ta lựa những tiếng bình dị cho dễ hiểu, do đó, bỏ cố văn, dùng bạch thoại.

- Văn thể thay đổi. Phạn ngữ và Hoa ngữ khác nhau. Nhờ công việc dịch mà có sự tiếp xúc, dung hòa giữa hai ngôn ngữ. Chẳng hạn trong kinh Phật, không dùng hư từ, đối ngẫu mà rất hay đảo trang… đặc điểm đó ảnh hưởng một phần đến văn học đời Đường, nhất là phương diện âm vận.

- Văn nhân Trung Hoa vốn ít tưởng tượng mà hay thuyết lý, nhờ đọc những truyện tân kỳ trong kinh Phật mà bắt chước viết những tiểu thuyết thần quái. Như bộ Sưu thần ký, và những truyện Thủy hử, Hồng Lâu mộng sau này đều chịu ảnh hưởng của các kinh Đại trang nghiêm, Hoa nghiêm, Niết Bàn.

Có văn nhân, thi sĩ nào ở đời Đường và cả những đời sau này nữa mà ảnh hưởng lớn đến bực đó không?

 

Nhưng đã đến lúc Huyền Trang thấy sức suy lần, tự biết không còn sống được bao lâu nữa.Ông nhớ họ hàng, làng mạc.Các ông anh đã quy tiên cả, chỉ còn một bà em.Ông về quê, mừng mừng tủi tủi cùng với em đi tảo mộ tổ tiên.Vẫn còn cái tinh thần của một nhà Nho, mặc dầu đã trên bốn mươi năm hy sinh cho đạo Phật. Tâm hồn ấy đẹp quá.

Một hôm, ông dặn dò đệ tử: «Đời thầy sắp hết. Thầy nằm xuống thì đừng bày vẽ gì cả đấy nhé. Quấn thây trong một chiếc chiếu rồi chôn trong một thung lũng, chỗ nào vắng vẻ, tĩnh mịch nhé?» Trước khi tịch, ông như bừng tỉnh, nói: «Ta thấy một bông sen lớn ở trước mặt tươi đẹp lạ lùng». Ba mươi lăm năm trước ông thấy một bông sen đưa ông qua biển cả đến ngọn núi Phật, bông sen lần này sẽ đưa ông lên cõi Phật.

Ông tịch ngày mùng 5 tháng 2 năm Lân Đức nguyên niên (664). Ngày 14 tháng 4, một triệu người ở Tràng An và tứ xứ lại đưa linh cữu tới an táng ở Bạch Lộc Nguyên(9).Vua Thái Tông lúc đó đã băng; vua Cao Tông khóc ông và ra lệnh cho đám tang cử hành rất long trọng. Sau đó, ba vạn người đến cất nhà cư tang ở bên mộ. Trong lịch sử nhân loại, từ xưa tới nay, chưa ai được cái vinh dự ấy.

Chú thích:

(1)  Ông Trần Hà trong bài «Trần Huyền Trang và chuyến thỉnh kinh lịch sử» (báchkhoa số 57 ngày 15-05-59) nói Huyền Trang sinh năm 596 (năm thứ 16 đời Tùy Văn Đế). Tôi theo René Grousset trong cuốn Sur les traces de Bouddha (Plon 1948), trang 22. Từ Hải không cho biết năm sinh và năm tịch của Huyền Trang nhưng có nói năm Trinh Quán thứ nhất (Trinh Quán là niên hiệu của Đường Thái Tông), tức 627 Tây lịch, Huyền Trang 26 tuổi (tuổi tính theo phương Đông), vậy hợp với thuyết của Grousset: Huyền Trang sinh năm 602. Vả lại, Tùy Văn Đế làm vua từ 589 đến 605. Nếu Huyền Trang sinh năm 596 như ông Trần Hà nói thì năm đó là năm thứ 8 của đời Tùy Văn Đế, chứ không phải là năm thứ 16.

  (2)  Theo ông Nguyễn Huy Khánh, tác giả Khảo luận tiểu thuyết Trung Hoa thì lần đó, chùa Tịnh Độ được lệnh triều đình chọn hai mươi bảy vị hòa thượng. Muốn làm hòa thượng phải qua một kỳsát hạch về trình độ học vấn, và tư cách đạo đức (quy chế đó có từ đời Tùy, hết đời Minh mới bãi bỏ). «Số người ứng thi có đến mấy trăm. Huyền Trang cũng ghi tên, nhưng vì nhỏ tuổi không được phép dự. Tuy vậy cậu bé thông mình ấy vẫn không nản lòng, cứ núp gần công môn mà nghe lóm. Một bữa Trịnh Thiện Quả người Triều đình phái tới thấy cậu bé đứng rình nghe, biết là có chí, lại thấy hình dung tuấn tú, thêm đối đáp như lưu, hỏi: «Ngươi muốn xuất gia để làm gì?» Thưa: «Ý muốn, xa nối Phật Như Lai, gần sáng di pháp». Thiện Quả bèn đặt cách cho làm tăng.»  (Khảo luận tiểu thuyết Trung Hoa trang 140, Khai trí – 1959).

  (3)  Tam Tạng vốn có nghĩa là ba bộ kinh Phật: Kinh Tạng, Luật Tạng, Luận Tạng; đây chỉ pháp danh của Huyền Trang.

(4)  Hoàng hà treo ngọn giữa mây xanh,

Vạn bậc non cao, một mảnh thành.

(5) Có tên đó vì núi trồng toàn một loại hành.

(6) Khắc Hàn, nhiều người đọc lầm là Khả Hãn, là vua các nước Tây Vực.

(7) Cất từ hồi miền đó ở dưới sự đô hộ của Ấn Độ, sau Ấn suy, Ba Tư mạnh lên thì đạo Phật bị phế.

(8) Có lẽ là bông súng chăng?

(9) Theo René Grousset thì ở chùa Từ Ân.Có sách nói là ở chùa Tây Minh.Bạch Lộc Nguyên là một khu đất ở gần chùa Từ Ân chăng?