Chương 1

LỜI GIỚI THIỆU CỦA NHÀ XUẤT BẢN

Đã ngót hai mươi năm qua kể từ quyển hồi ký Đường Đi Không Đến ra mắt độc giả ở Sài gòn. Lớp thanh niên đọc quyển sách ấy nay tóc đã hoa râm, còn lứa tuổi trung niên thì nay đã ra lão. Thời gian đi nhanh, nhưng con đường mà tác giả đã trải qua mãi mãi còn đậm nét trên những trang sách và trong lòng người

Nếu chúng tôi nhớ khônglầm thì quyển hồi ký Đường Đi Không Đến ra mắt độc giả trước tiên năm 1969 trên nhật báo Tiền Tuyến do nhà văn Phan Lạc Phúc làm Chủ Nhiệm và nhà báo Huy Vân làm Chủ bút. Nhà văn Phan Lạc Phúc bi bắt đi cải tạo, đến nay vẫn còn trong tù. Còn nhà báo Huy Vân thì đã hy sinh cũng trong trại cải tạo của bạo quyền.

Quyển Đường Đi Không Đến xuất bản năm 1973. Không đầy một năm, nhà xuất bản Nam Cường đã tái bản (tháng 5 năm 1974) .Ra hải ngoại cũng được in lại nhiều lần.

Quyển Xương Trắng Trường Sơn mà chúng tôi hân hạnh cho ra mắt độc giả hôm nay là tập hai của bộ Đường Đi Không Đến gồm năm tập được biết như sau: Đường Đi Không Đến (I), Xương Trắng Trường Sơn (II), Mạng Người Lá Rụng (III), Đến Mà Không Đến (IV) và Đồng Bằng Gai Góc (V).

Ba quyển sau cùng, theo tác giả cho biết, thì đã mất bản thảo chạy giặc trước năm 1975. Chúng tôi đã yêu cầu – và được nhà văn Xuân Vũ nhận lời- ông viết lại để chúng tôi có dịp giúp độc giả theo dõi tiếp những chương sau cùng của con đường oan nghiệt mà mỗi tấc đất đã phủ xương trắng nhuộm máu tươi của nửa triệu thanh niên Bắc Việt và cán bộ Miền Nam hồi kết. Chính tác giả là “người khách lữ hành” trên con đường ấy.

Trân trọng.

Nhà xuất bản Xuân Thu

MẤY DÒNG TÂM TƯ

Hồi năm 1945 tại chợ làng tôi thường xảy ra những cuộc diễn thuyết, diễn giả là cán bộ tuyên truyền của quận bộ hay tỉnh bộ Việt Minh. Tôi rất thích nghe vì họ nói toàn là những chuyện mà một đứa bé như tôi lúc bấy giờ không thể hiểu nổi.

Tôi còn nhớ một hôm có một diễn giả đăng đàn. Ông ta chỉ là thôn bộ Việt Minh của làng tôi thôi. Ông ta là người không phải đạo cũng không phải đời, ông ta mặc nâu sòng tay lần chuỗi hạt. Người ông nhỏ thó nét mặt gân guốc có phần choắt lại và tay luôn luôn lần chuỗi hạt. Người nhà giàu thì sợ ông ta ra lệnh bắt giam hoặc giết chết, còn người thường thì lát mắt khiếp oai. Ông ta lên đăng đàn lần đó, nói những câu mà tôi nhớ mãi. Nếu tôi là sử gia tôi phải ghi trên vách đá.

Ông ta tuyên bố :”Một tay tôi lần chuỗi hạt, một tay tôi chống trời.”

Rõ thật một con người ghê gớm

Ông ta giải thích về cách mạng cho mọi người nghe như sau:

- Ngày mai cái nơi bùn lầy nước đọng này, (tức là cái chợ làng của tôi có lão già đánh xe ngựa đã lừa chú ngựa còm bằng một mớ cỏ non suốt hàng chục năm trời), sẽ có nước phông-tên và đèn điện. Ngày mai nơi đây sẽ thành thiên đường của thế gian.

Tôi mê quá ! Hồi đó tôi coi ông Chủ nhiệm thôn bộ Việt Minh là đệ nhất anh hùng – và không phải chỉ của riêng làng tôi.

Rồi về sau tôi được đọc một câu tiếng Pháp cũng na ná như thế. “Chủ nghĩa Cộng sản là mùa xuân của nhân loại ! “

Vì mê cái ” thiên đường” và cái “mùa xuân” trên chót lưỡi của hai bậc “vĩ nhân” kia cho nên tôi đã tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp từ những ngày đầu.

Năm 1946 thực dân Pháp đến đóng bốt ở đầu cầu chợ, ngay trong một cái chành lúa đã chứa sẵn mười ngàn giạ (chiếc cầu có hai cái dốc thật cao đã chứng kiến con ngựa còm của lão già đứt ruột trong một rân kéo xe lên dốc) .

Dân làng tôi đã cùng với bộ đội đánh cái bốt đó. Súng của bộ đội chỉ có đến trung liên là cùng, không thể phá nổi phòng tuyến bốt xây bằng lúa bao. Nhưng dân làng tôi quyết không lùi bước.

Người ở chợ thì giở nhà mang tới, kẻ ở ngoài vườn thì đội rơm vác lá đem vào chất chung quanh bốt và châm lửa. Lửa dậy ngất trời. Đồn bốt ra tro. Hai mươi tám tên pạc-ti-dăng bị quay sống trong bốt.

Vì bốt xay bằng lúa bao cho nên lửa cứ ngùn cháy hoài, như một quả núi lửa, năm năm sau chưa tắt. Những lớp tro quánh lại thành cái vỏ cứng bao bọc ruột lửa bên trong. Sau những trận mưa, người ta thấy những mẩu xương phơi lẫn trong tro than như những mẩu vôi thực sự. Và ngọn khói vẫn cứ ri rỉ bay lên như oan hồn của những tên xâm lược xấu số.

Tôi đi theo kháng chiến rồi tập kết ra Bắc. Đúng hai mươi năm thì tôi trở về làng cũ (1945 – 1965 ) . Lão già đánh xe ngựa đã chết từ lâu. Con cháu của lão không thể nối nghiệp lão vì con đường đầy ồ gà ngày trước nay đã trở thành đường tráng nhựa. Xe hơi xe lam xe gắn máy chạy vun vút xuôi ngược suốt ngày, cho nên bóng dáng chiếc xe ngựa đã biến hút đi từ lâu. Cái chợ làng tôi đã trở thành quận ly với đèn điện với ăng-ten tivi tua tủa trên các dãy phố, không còn ai ngờ rằng đây là nơi bùn lầy nước đọng ngày xưa, nơi ông Chủ nhiệm Việt Minh đăng đàn diễn thuyết, tay lần chuỗi tay chống trời.

Nhiều người gánh nước mướn, những chú chệt bán kẹo đục nay trở thành chủ tiệm. Trong đám học trò đã từng nhóc mỏ cá kèo nghe diễn thuyết với tôi, nay không ít đứa làm nền sự nghiệp, có đứa là triệu phú !

Ở đây không còn ai diễn thuyết nữa.

Tôi được nghe ông chủ nhiệm thôn bộ Việt Minh cũng đi kháng chiến như tôi, nhưng ông đã bỏ nghề diễn thuyết, cũng không lần chuỗi hạt và cố nhiên tay kia cũng không dùng để chống trời nữa. Ông quay ra làm phim ảnh. Thuở đó ông lận đận nhiều. Không rõ bây giờ đời ông vui buồn ra sao ?

Đứng trên mảnh đất ngày xưa, tôi nhìn quang cảnh ngày nay chợ búa, xe cộ hàng hóa và sắc diện con người. Tôi có biết bao dòng suy nghĩ. Tôi tự bảo: Phải chăng đây là một cái thiên đường con con ở một góc trời xa xôi của xứ sở tôi.

Dân làng tôi hai mươi năm xưa giở nhà đốt bốt Tây, nay đã an cư lạc nghiệp. Chuyện ngày qua nay hầu như đã lãng quên.. Từ mảnh đất thực tế, nảy lên một chân lý:

- Người ta vẫn xây được thiên đường theo ước vọng của người ta, nhưng hà tất phải đi theo con đường của ông chủ nhiệm Việt Minh. Và dù có đi theo con đường của ông chủ nhiệm,đã chắc người ta tìm được thiên đường.

Nếu ông chủ nhiệm kiêm nhà làm phim còn sống và nếu ông trở về đây chắc ông sẽ tìm thấy hứng thú trước quang cảnh chợ làng đã đổi thành chợ quận này, để làm một cuốn phim hay hay.

Khi đi trên đường Trường Sơn, có những đêm mưa tôi nằm ôn lại chuyện xưa. Tôi có nhớ đến quả núi tro ở quê tôi rắc đầy xương của những người lính pạc-ti-dăng.

Một ý nghĩ đã chợt đến với tôi: Cái quả núi tro ấy chính là hình ảnh của Trường Sơn thu nhỏ lại. Còn lũ chúng tôi và hàng chục vạn quân binh miền Bắc – trên đường Trường Sơn này chỉ là những bộ xương biết đi – thì chẳng khác nào…

Số phận của những kẻ mang quân đi đánh nước người rồi ra có khác gì nhau ?

Tiện đây tôi xin được phép thưa cùng một số độc giả của Đường Đi Không Đến ” – hoặc bằng thư từ hoặc đã trực tiếp hỏi tôi: “Đường Trường Sơn cực khổ đến thế à ? Bộ đội miền Bắc tang thương đến thế à ? “

Xin thưa: Đây là những chuyện xảy ra hồi 1965. Và xin lấy ý kiến của một tiểu đoàn trưởng của bộ đội chánh quy miền Bắc xâm nhập đã tìm Tự do, nay đang có mặt ở Sài Gòn, sau khi đọc quyển Đường Đi Không Đến : “Văn thì hấp dẫn nhưng chuyện khổ thì không ăn thua gì với sự chịu đựng của đơn vị tôi ! “

Ngoài ra, có một số độc giả lo lắng cho số phận của cô Thu. Tác giả xin được phép thưa: Cô Thu, sau năm năm tình duyên và công tác chìm nổi, đã mang một chứng bịnh kinh niên mà nguồn gốc phát sinh từ lúc cô vượt sông và ngâm mình dưới suối…

Do đó cô trở thành phế nhân, suốt năm năm không hề biểu diễn được một màn nào. Vì thề cô được “ân huệ ” cho về Bắc, cũng bằng đường Trường Sơn, với cặp chân cô ta, như lúc cô vào Nam. Tôi sẽ xin kể tỉ mỉ trong quyền cuối cùng của thiên hồi ký “Đường Đi Không Đến “.

Sài Gòn, hè 1974

Xuân Vũ

LẠI THÊM MẤY DÒNG TÂM SỰ

Trong một dịp bất ngờ tôi được quen với Anh Giám Đốc nhà xuất bản Xuân Thu. Trong dịp này tôi còn được biết thêm rằng thân phụ của anh là giáo sư trường Le Myre deVilers, thầy học cũ của tôi.

Vừa rồi, anh có nhả ý muốn xuất bản tác phẩm của tôi. Tôi liền đưa ngay cho anh quyển Xương Trắng Trường Sơn là một tập trong bộ Đường Đi Không Đến của tôi. Thực ra tôi không mấy khi nghĩ đến việc in lại các tác phẩm của tôi hoặc viết lại những bản thảo đã mất . Bởi vì, cũng như các văn hữu khác, tôi luôn luôn nghĩ tới những truyện còn nằm trong bụng.

Riềng quyển Xương Trắng Trường Sơn mà tôi có đề đưa cho nhà Xuân Thu là nhờ anh bạn nối khố của tôi, ông Nguyễn Tri Sử, trưởng ban Tuyên Nghiên Huấn thuộc Tổng Liên Đoàn Lao Công của ông Trần Quốc Bửu. Cũng là một dịp bất ngờ khác. Đời tô toàn gặp những bất ngờ… may mắn.

Trên chuyến bay lưu vong từ Guam sang Hoa Kỳ, gia đình tôi đi với gia đình anh Nguyễn Tri Sử. Hai đứa định xuống trại Sacremento ở California, nhưng khi máy bay hạ cánh ở Los Angeles thì được tin trại đã chật, bèn bay sang Fort Chaffee ở Arkansas. Lạ nước lạ cái, nên hai đứa tìm nhau luôn. Một hôm, anh đưa cho tôi một quyển sách và bảo: tôi tặng lại cho anh đấy, để làm của? “

Thì ra là quyển Xương Trắng Trường Sơn tôi đã tặng cho anh ở Sài gòn cách đây không đầy một tháng . Quyển sách này phát hành vào đầu tháng tư, nhưng tôi vẫn không đoán được những gì xảy ra vào cuối tháng tư nên gần nửa triệu bạc bản quyền tôi nhận được của ông Nam Cường (người Mỹ Tho đồng hương ? ) tôi đem trút cả vào cho ngôi nhà hai tằng sắp xây xong ở Hàng Xanh (với dự định sẽ xây lên thêm một tầng nữa để làm Thiên Thư Lầu) . Còn một tuần nữa ăn tân gia thì lại phải chạy ra Phú Quốc để đi Guam. Tác giả Xương Trắng Trường Sơn trở thành Tay Trắng Mình Không.

Nhận quyển sách từ tay bạn cố tri trên đất Hoa Kỳ tị nạn, tôi bùi ngùi cho số phận của nó vừn ra đời vừa được độc giả biết đến hai tuần thì đã phải bay đi theo vận nước . Tôi đút nó vào chiếc cặp da cũ lưu truyền từ đời ông nội tôi đến cha tôi rồi đến tôi, món báu vật độc nhất được tôi quảy đi từ Sài gòn.

Nếu không có nhà Xuân Thu hỏi tới chắc chắn tôi chưa có dịp giải phóng nó ra khỏi cái nhà tù tí hon kia, sau mười bốn năm giam cầm nó một cách độc đoán. Trước khi đưa nó sang nhà Xuân Thu, tôi đã liếc sơ qua, và thấy rằng nó chưa mất màu mặc dù giấy trắng đã thành vàng nẫu.

Sau hai mươi lăm năm vượt con đường chết trên thực địa, ghé mắt nhìn lại con đường trên những trang sách, tôi hãy còn kinh hoàng.

Vừa rồi tôi có nghe tin Tổng Cuộc Chính Trị quân lính Việt Cộng có phát động một phong trào viết Kỷ niệm Trường Sơn. Tôi biết họ bắt những người cầm bút viết theo đường lối “phải đạo” của họ tức là gọt xén tô phết làm sao cho con đường này trở thành con đường đầy hoa thơm cỏ lạ, con đường vinh quang chớ không phải con đường lót bằng xương nhuộm bằng máu của thế hệ thanh niên Hồ chí Minh. Dù sao đi nữa, những kẻ sống sót trên con đường này cũng còn khá đông, cho nên họ không thể nói láo.

Nhân dịp nhà xuất bản Xuân Thu tái bản quyển Xương Trắng Trường Sơn, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn của tôi đối với Bác Sĩ Hồ Văn Châm, người đã đề tựa cho quyển Đường Đi Không Đến của tôi (sau 1975 nó đã trở thành một trong những quyển đứng đầu bảng sách cấm) . Lời tựa này ắt hẳn đã thêm một bằng chứng để bọn cai ngục hành hạ bác sĩ thêm trong mười bốn năm trời trong trại cải tạo mà bác sĩ đã trải qua.

Tôi cũng xin cảm ơn độc giả đ ã đón nhận nó một cách rất khích lệ cho tôi. Đặc biệt là độc giả trong nước, trước mũi súng và màng lướ dày đặc của công an mà vẫn bí mật in và phát hành quyển Đường Đi Không Đến, tuy với giá bốn mươi lăm ngàn đồng vào răm 1985 mà vẫn có người tìm mua.

Cuối cùng xin cảm ơn Anh Nguyễn Tri Sử và Anh Xuân Thu. Nếu không có hai anh giúp tôi thì quyển Xương Trắng Trường Sơn không có cơ may đến tay độc giả.

Hoa Kỳ, tháng 9 năm 1989

Xuân Vũ

LẠI THÊM MẤY DÒNG TÂM SỰ

Trong một dịp bất ngờ tôi được quen với Anh Giám Đốc nhà xuất bản Xuân Thu. Trong dịp này tôi còn được biết thêm rằng thân phụ của anh là giáo sư trường Le Myre deVilers, thầy học cũ của tôi.

Vừa rồi, anh có nhả ý muốn xuất bản tác phẩm của tôi. Tôi liền đưa ngay cho anh quyển Xương Trắng Trường Sơn là một tập trong bộ Đường Đi Không Đến của tôi. Thực ra tôi không mấy khi nghĩ đến việc in lại các tác phẩm của tôi hoặc viết lại những bản thảo đã mất . Bởi vì, cũng như các văn hữu khác, tôi luôn luôn nghĩ tới những truyện còn nằm trong bụng.

Riềng quyển Xương Trắng Trường Sơn mà tôi có đề đưa cho nhà Xuân Thu là nhờ anh bạn nối khố của tôi, ông Nguyễn Tri Sử, trưởng ban Tuyên Nghiên Huấn thuộc Tổng Liên Đoàn Lao Công của ông Trần Quốc Bửu. Cũng là một dịp bất ngờ khác. Đời tô toàn gặp những bất ngờ… may mắn.

Trên chuyến bay lưu vong từ Guam sang Hoa Kỳ, gia đình tôi đi với gia đình anh Nguyễn Tri Sử. Hai đứa định xuống trại Sacremento ở California, nhưng khi máy bay hạ cánh ở Los Angeles thì được tin trại đã chật, bèn bay sang Fort Chaffee ở Arkansas. Lạ nước lạ cái, nên hai đứa tìm nhau luôn. Một hôm, anh đưa cho tôi một quyển sách và bảo: tôi tặng lại cho anh đấy, để làm của? “

Thì ra là quyển Xương Trắng Trường Sơn tôi đã tặng cho anh ở Sài gòn cách đây không đầy một tháng . Quyển sách này phát hành vào đầu tháng tư, nhưng tôi vẫn không đoán được những gì xảy ra vào cuối tháng tư nên gần nửa triệu bạc bản quyền tôi nhận được của ông Nam Cường (người Mỹ Tho đồng hương ? ) tôi đem trút cả vào cho ngôi nhà hai tằng sắp xây xong ở Hàng Xanh (với dự định sẽ xây lên thêm một tầng nữa để làm Thiên Thư Lầu) . Còn một tuần nữa ăn tân gia thì lại phải chạy ra Phú Quốc để đi Guam. Tác giả Xương Trắng Trường Sơn trở thành Tay Trắng Mình Không.

Nhận quyển sách từ tay bạn cố tri trên đất Hoa Kỳ tị nạn, tôi bùi ngùi cho số phận của nó vừn ra đời vừa được độc giả biết đến hai tuần thì đã phải bay đi theo vận nước . Tôi đút nó vào chiếc cặp da cũ lưu truyền từ đời ông nội tôi đến cha tôi rồi đến tôi, món báu vật độc nhất được tôi quảy đi từ Sài gòn.

Nếu không có nhà Xuân Thu hỏi tới chắc chắn tôi chưa có dịp giải phóng nó ra khỏi cái nhà tù tí hon kia, sau mười bốn năm giam cầm nó một cách độc đoán. Trước khi đưa nó sang nhà Xuân Thu, tôi đã liếc sơ qua, và thấy rằng nó chưa mất màu mặc dù giấy trắng đã thành vàng nẫu.

Sau hai mươi lăm năm vượt con đường chết trên thực địa, ghé mắt nhìn lại con đường trên những trang sách, tôi hãy còn kinh hoàng.

Vừa rồi tôi có nghe tin Tổng Cuộc Chính Trị quân lính Việt Cộng có phát động một phong trào viết Kỷ niệm Trường Sơn. Tôi biết họ bắt những người cầm bút viết theo đường lối “phải đạo” của họ tức là gọt xén tô phết làm sao cho con đường này trở thành con đường đầy hoa thơm cỏ lạ, con đường vinh quang chớ không phải con đường lót bằng xương nhuộm bằng máu của thế hệ thanh niên Hồ chí Minh. Dù sao đi nữa, những kẻ sống sót trên con đường này cũng còn khá đông, cho nên họ không thể nói láo.

Nhân dịp nhà xuất bản Xuân Thu tái bản quyển Xương Trắng Trường Sơn, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn của tôi đối với Bác Sĩ Hồ Văn Châm, người đã đề tựa cho quyển Đường Đi Không Đến của tôi (sau 1975 nó đã trở thành một trong những quyển đứng đầu bảng sách cấm) . Lời tựa này ắt hẳn đã thêm một bằng chứng để bọn cai ngục hành hạ bác sĩ thêm trong mười bốn năm trời trong trại cải tạo mà bác sĩ đã trải qua.

Tôi cũng xin cảm ơn độc giả đ ã đón nhận nó một cách rất khích lệ cho tôi. Đặc biệt là độc giả trong nước, trước mũi súng và màng lướ dày đặc của công an mà vẫn bí mật in và phát hành quyển Đường Đi Không Đến, tuy với giá bốn mươi lăm ngàn đồng vào răm 1985 mà vẫn có người tìm mua.

Cuối cùng xin cảm ơn Anh Nguyễn Tri Sử và Anh Xuân Thu. Nếu không có hai anh giúp tôi thì quyển Xương Trắng Trường Sơn không có cơ may đến tay độc giả.

Hoa Kỳ, tháng 9 năm 1989

Xuân Vũ

1

Càng đi tôi thấy con đường càng khó khăn, hiểm trở và sức khoẻ như cái thùng không đáy, cứ rót và lại chảy tuột ra hết, đôi khi chỉ sau một cơn sốt một con người đang khoẻ bỗng trở thành bại liệt, nằm ngo ngoe như một con lươn giữa đống trấu.

Càng đi, tôi thấy con đường này là một sự vô lý, vô lý đối với từng con người một, đối với Dân tộc ta và ngay đối với cả cái mục đích mà vì đó nó được vạch ra.

Càng đi càng trông thấy đích ngắm càng xa, hy vọng càng mờ và lý tưởng càng ung thối ra như một vết thương nhiễm trùng bị những lớp băng bao bọc, cuối cùng máu mủ vẫn tuôn ra không bịt lại được nữa.

Đã hơn một tháng qua, trên con đường này tôi toàn thấy những sự kêu la, oán trách, tự gây thương tích, lủi trốn, cướp bóc, trộm cắp, thậm chí cả sự tự sát hoặc chống lệnh chỉ huy. Gương tốt người tốt ít quá, hoặc không tìm thấy ở đây.

Tôi chưa hề trông thấy một sự kiện nào chứng tỏ rằng những người có trách nhiệm xua quân vào đây, hiểu rõ hoàn cảnh của binh sĩ một khi binh sĩ đã vào con đường này. Họ không tiên đoán được, hay họ biết mà họ vẫn mặc kệ ?

Ai đời đại liên, trọng pháo, cối 82 mà được dự định tải bằng xe cút kít, một thứ xe dùng để chở phân bón đồng của hợp tác xã ?

Họ bắt con người phải hy sinh quá nhiều. Sự hy sinh trở thành vô bờ bến, không có thời hạn, không có điều kiện. Vì thế sự hy sinh đã trở thành những cực hình, chứ nó không mang tính chất tự nguyện của cách mạng.

Tôi nhìn đi nghĩ lại, thấy Năm Cà Dom nói đúng, không còn cách nào cấu cào ra củi bằng cách gọt gốc cây sống lấy ra từng lát. Nhưng đây không phải chỉ là một vấn đề lao lực đơn giản mà nó thuộc về ý thức tư tưởng nhiều hơn.

Tôi tự hỏi:

- Cái cảnh này sẽ tái diễn bao nhiêu lần ?

Tôi cầm con dao găm mà bổ vào cái gốc cây rừng.

Chao ôi ! Lưỡi dao găm của một hợp tác xã ở phố Hàng Thùng Hà Nội là một con dao trên hình thức, còn thực tế thì nó chỉ là một cái trành bằm. Mép nó dày như da trâu và không đủ thép để mài cho bén. Thành ra tôi bổ lia lịa mà chưa lấy ra được một cái dăm nào bằng lát cam thảo.

Năm Cà Dom làm cái việc gọt cây như tôi với một sự kiên nhẫn phi thường. Anh ta có kinh nghiệm nên chỉ trong giây lát anh ta lại nhìn sang tôi mà bảo:

- Nhìn sang tôi đây này

Còn Thu thì ôi thôi ! Tay này cầm con dao găm nom thật thảm khổ.

Những ngón tay búp măng móng dài và nhọn hoắc, cố nắm chắc cán dao và bổ lưới dao vào gốc cây, và cứ mỗi nhát Thu lại cau mặt.

Những ngón tay ấy xuất hiện trên sân khấu như những búp hoa ngọc lan búp trong các điệu múa Tân Cương, múa ba-lê của Nga La Tư. Mỗi cử động của ngón tay là cả một nghệ thuật… thế mà giờ đây những ngón tay ấy dùng để bồ củi.

Vâng, đảng đã dùng con người “như cái vốn qúi nhất ” như thế đó ! Như thế đó, những “con ngườ vốn qúi nhất ” của đảng được đem ra dùng.

Và chung quanh đây, dọc hai ven suối này, tất cả những người nằm la liệt trên phiến đá, trong hốc đá, trên võng vì bệnh tật, vì thương tật, vì đói v.v… cũng lại là những cái “vốn quí nhất” được đảng đem ra dùng…

Năm Cà Dom cứ hét lên từng chập một:

- Cố lên anh chị ơi ? Không có củi thì chết đói ! Chết đói.

Tôi vừa đẻo vừa nhìn quanh quất, thấy nước đã tràn lên đến nền võng. Chỉ còn có một lõm nơi chúng tôi để ba lô. Thật ác quá, trời không ngó lại cho mình.

Một lũ kiến bò oanh quanh trên quai ba lô, rồi chuyền lên đầu võng bò lên cây. Ô chúng nó sắp bị lụt. Chúng có đường thoát, còn chúng tôi thì cam chịu, đành nhìn nước lên tấn công mình mà không có đường rút lui.

Chắc trên nguồn lại mưa cho nên nước đổ xuống hung hơn.

Tôi nói với Năm Cà Dom:

-Chỗ đâu mà bắt bếp anh ? Làm sao mà nhóm lửa ?

- Đừng lo ! Đẽo cho ra củi cho tôi đi, rồi sẽ có bếp.

- Không, anh phải nói đi rồi tôi mới đẽo .

- Ta treo cà mèn.

- Còn lửa ?

- Ờ, ờ cũng kẹt dữ he ? Nhưng mà không sao… Rồi Năm hì hục bổ vào gốc cây với con dao găm bất hủ.

Bỗng Thu òa lên khóc… Thu buông con dao xuống đất gục mặt vào hai đầu gối . . .

- Gì thế em ? Tôi cũng ngừng tay hỏi.

Thu không nói, vẫn cứ nức nở, làm cho lòng tôi càng thêm rối rắm. Tôi buông dao, đến gần bên Thu, rỉ tai nàng.

- Cái gì thế em?

Thu lắc đầu nguẩy nguậy Chao ôi ! Trông nàng khóc mà tôi não lòng. Nàng đẹp ra, thế mới chết !

Đôi vai nàng run run. Tóc nàng lòa xòa phủ xuống gương mặt tuy mang đầy dấu vết bàn tay quái ác của hung thần sốt rét, nhưng nó vẫn cứ đẹp và đáng nhìn quá !

Nàng ngước mắt nhìn tôi. Đôi mắt đẫm lệ, như đôi mắt của một con vật sắp sửa bi đem ra tế lễ, van xin tên đao phủ đừng sát hại. Đôi mắt châm chọc tim tôi.

Tôi nhìn tay nàng. Bàn tay, ôi!… Tôi cầm lấy nó, mềm mại mong manh như làm bằng bột, những ngón tay nho nhỏ như những cái búp non. Tuy đã gầy đi, và đầy vết sẹo nhưng nó vẫn còn vẻ đẹp thanh tú, quí phái.

Tôi nhìn cái vết phồng to, căng ứ nước trong lòng bàn tay. À, đây rồi nguyên nhân của những dòng nước mắt. Tôi khẽ bóp tay nàng và hỏi:

- Có đau không?

Thu lắc đầu.

-Vậy sao em khóc?

Thu lặng thinh và nhìn xuống.

Tôi sực nhớ ra rằng nàng đang trong lúc khó ở.

Chao ôi ! Có kinh mà phải lội suối ? Và nàng đã vượt con sông chiều hôm trước, chạy qua cả một vùng đất trắng không có một cái lá cây và còn hăng xè mùi chất độc, nàng đã lội suốt một ngày hôm qua và bây giờ lại sắp lội suối.

Tôi không biết làm sao thì bác sĩ Năm Cà Dom quay sang. Anh ta đã nói từ hôm qua. Cái anh này chuyện gì cũng biết, việc gì cũng có sự tính trước. Anh ta nói thằng vào vấn đề.

- Chốc nữa, trước khi đi phải băng lại thật kỹ. Nó mà nhiễm trùng một cái, thì ảnh hưởng tới buồng trứng là mất tương lai…

Thu nghe nói thế lại òa lên, nước mắt của nàng như đang đựng trong những bọc thật căng bỗng nhiên bị xé toạc ra tràn trề…

Tôi ngồi ngây ra. Tôi nghe như tương lai của chính tôi cũng bị đe doạ, vì đời sống của tôi hình như một phần đã là của nàng.

Năm Cà Dom nói:

- Nếu tôi biết thế, hôm vượt sông tôi đâu có cho đi. Nguy lắm. Dưới suối chưa biết chùng cũng có chất độc ?

Tôi nói:

- Nhưng nếu không đi thì ai chờ mình.

- Bây giờ thì phải cố mà đi ! Phải đi… !

Ngại quá! Mỗi người có một cái ngại khi nghĩ đến lúc mình đì trên một con đường như con đường đang trải ra trước mặt tôi đây. Con đường không phải như những con đường khác.

Tôi thì mới cắt cử, Thu thì đang khó ở, Năm Cà Dom thì không có bệnh gì rõ rệt nhưng sau này tôi mới biết ra là ông bác sĩ này đau bao tử mà ngâm mình dưới nước thì có lẽ cũng không thuốc gì. Còn những anh kia thì đủ một trăm thứ ngại, ngoài nòng pháo nặng như núi còn cái chân gãy báo cô kia.

Thương nhất là anh anh bị pháo đè gãy chân. Anh ta phải nằm võng để cho người ta khiêng. Người khiêng thì cực chẳng đã khiêng còn người nằm cũng cực chẳng đã phải nằm. Kìa họ đang sửa soạn để lên đường.

Thú thực rằng tôi không đến đỗi kém thông minh, nhưng tôi không nghĩ ra một cách nào có thể giúp họ đỡ lao lực đi một tí.

Dưới lòng suối có một người vừa bè bè đi, vừa quơ quơ tay.

- Đi nghe bà con ! Mau lên ! Mau lên !

Tôi nhìn kỹ ra thì nhận ra người đó là anh giao liên. Anh giao liên đang tập họp đám khách ly tán của anh bị trận mưa chiều qua làm tan tác.

Đã bảo “nhất trạm nhì trời” mà.

Khách có nhiệm vụ bám anh ta, đeo dính anh ta. Anh ta đi chậm thì đi chậm, đi nhanh thì phải đi nhanh, anh ta khiến gì hay nấy. Anh ta có đủ mọi thứ quyền hành, còn khách thì chỉ có nhiệm vụ là không có quyền hạn gì cả, ngoài cái quyền phải bám chặt anh ta. Khách không có quyền hỏi đây là đâu và sẽ đến đâu và đã qua những đâu Ơ đây không có địa danh, sông không có tên, suối vô danh và những kẻ đi trên con đường này cũng như con suối vô danh kia, đã thay đổi họ, lẩn trốn nhau, từ khi còn ở Hà Nội và vô đến đây thì đi đứng ăn ở đều lén lút như những tên ăn trộm.

Tại sao phải lẩn lút phải đổi thay tên họ ? Phải chăng vì việc làm của mình quá ư quang minh chính đại mà mình phải che đậy như thế?

Cho nên, xin lỗi độc giả, nếu trong thiên hồi ký này độc giả không hề thấy tác giả nêu lên một địa danh nào thì đó không phải là lỗi của tác giả mà tại nó thế đó.

Anh giao liên vừa đi giữa lòng suối vừa vẫy gọi khách treo võng hoặc nằm la hệt hai bên vách đá.

Nhiều người chửi ầm lên:

- Đi cái lỗ mô giờ mới thò cái mặt mẹc ra đó ?

- Quân bất lương !

Tôi thấy khổ tâm cho anh Khẩu đội trưởng : một bền là cái nòng pháo, một bên là anh lính gãy giò. Nếu tôi là Khẩu đội trưởng trong lúc này thì tôi xin đổi cái chức vụ của tôi với một thìa muối.

Tôi bảo Thu:

- Chuẩn bị đi em!

Thu đứng chết trân như một cái tượng đá hay chính Thu đã hóa đá ?

Tôi cực lòng quá. Nỗi cho tôi, nỗi vì Thu. Nếu không đi nằm lại đây thì gạo đâu ăn. Cái nhúm gạo chiều qua mắc mưa không có nắng sấy, bây giờ đã thành bột rồi, nhưng tôi cũng cứ giữ nó vì dù sao nó cũng là gạo. Nếu nằm lại đây thì nằm cho đến bao giờ ? Chờ cho suối cạn thì đó là điều không bao giờ có.

Cỏn đi thì làm sao ? Thu ngại nước hơn ai hết. Chậm một ngày suối càng dâng lên cao một ngày.

Sự phát hiện của bác sĩ Năm Cà Dom làm tôi sợ hãi cho Thu. Đàn bà con gái mà nói tới việc không có con là họ sợ nhất. Tôi là cán bộ, còn Thu là văn công trình độ biểu diễn quốc tế. Ấy vậy mà là một đám người đi lẫn trong đám gười lô nhô lúc nhúc kia, không ai biết ai. Nói thì nghe hay quá, nào kỹ sư linh hồn gì gì, nhưng thực tế trên con đường này, những điều xảy ra cho tôi đều là minh một định lý ngược lại.