Hồi Mở Đầu

Nghi Án Chưa Rỏ Đền Nợ Nghiệt - Chung Tình Đành Gởi Lại Cô Nhi

Mây đen vần vũ, bầu trời u ám, báo hiệu trời sắp đổ mưa. Chim muông đã sớm quay về tổ ấm, núi rừng vắng lặng, chỉ có hai người đang lẳng lặng cất bước.

Họ không phải là người từ nơi khác đến, họ là đôi vợ chồng trẻ, chồng anh tuấn phong nhã, vợ xinh đẹp duyên dáng, hết sức xứng đôi vừa lứa.

Nhưng đáng tiếc là danh phận vợ chồng của họ chưa được mọi người thừa nhận, bởi vì họ đã bỏ nhà trốn đi, tự ý xây tổ uyên ương hồi một năm trước.

Lúc hai người rời khỏi quê nhà, những nghĩ sẽ không bao giờ quay trở lại quê nhà, nào ngờ chỉ một năm sau, họ lại giẫm chân trên con đường đã ra đi ngày nào.

Vì sao họ lại quay trở về? Nếu hỏi họ, họ cũng chỉ lắc đầu cười đau khổ mà thôi.

Người chồng lúc này lòng hết sức thắc thỏm lo âu, nếu không phải vì vợ tha thiết khẩn cầu, chàng không bao giờ dám trở về. Chàng không dám nghĩ đến khi về đến sư môn, cục diện sẽ diễn ra bẽ bàng đến mức độ nào. Thế nhưng, nỗi lo âu của chàng không để lộ ra mặt. Chàng lén nhìn vợ, thấy vẻ mặt nàng còn u ám hơn bầu trời. Chàng thầm nhủ:

“Xem ra tâm trạng của Yến muội cũng chẳng khá hơn mình.”.

«Ôi, chúng ta đừng trở về thì hơn.» Lời vừa đến cửa miệng, chưa kịp thốt ra, bỗng bị một tiếng sấm cắt đứt.

Người vợ như kinh hoàng bởi tiếng sấm, kêu lên một tiếng thảng thốt, suýt nữa ngã nhào.

Người chồng vội ôm nàng vào lòng.

– Kinh ... Kinh lang, thiếp ... thiếp sợ quá.

– Con gái của Lưỡng Hồ đại hiệp mà sợ tiếng sấm ư? Cũng may là không có kẻ khác, nếu không đồn ra chốn giang hồ, thiên hạ cười chết còn gì?

Trên giang hồ ai không biết danh Lưỡng Hồ đại hiệp Hà Kỳ Vũ? Ông là nhân vật nhất nhì trong số đệ tử tục gia phái Võ Đang, bảy mươi hai thức «Liên Hoàn Đoạt Mệnh Kiếm Pháp» nghe đâu còn cao hơn Chưởng môn phái Võ Đang ba phần.

Người vợ chính là Hà Ngọc Yến, con gái độc nhất của Lưỡng Hồ đại hiệp.

Người chồng chính là Địch Kinh Sĩ, nhị đệ tử của Lưỡng Hồ đại hiệp. Hai người còn có một vị đại sư huynh là Qua Chấn Quân.

Hà Ngọc Yến cười chua chát nói:

– Con gái của Lưỡng Hồ đại hiệp! Hắc hắc, con gái của Lưỡng Hồ đại hiệp, thiếp đã gây ra chuyện nhục nhã gia phong thế này, còn mặt mũi nào nhận mình là con gái của Lưỡng Hồ đại hiệp nữa chứ?

Địch Kinh Sĩ cúi đầu:

– Lỗi tại ngu ca, đã làm liên lụy đến Yến muội.

Hà Ngọc Yến giậm chân:

– Chính chàng đã làm hại thiếp.

Địch Kinh Sĩ lòng vốn áy náy, nhưng lời lẽ của Hà Ngọc Yến quá nặng, chàng bất giác ngẩn người, giọng não nề nói:

– Chúng ta đã là vợ chồng với nhau một năm rồi. Yến muội còn chưa lượng thứ cho ngu ca sao?

Hà Ngọc Yến xiêu lòng, trỏ ngón tay vào trán chồng nói:

– Rõ ngốc, nếu không lượng thứ thì sao thiếp lại bảo chàng cùng về nhà?

Thiếp không phải nói chuyện ấy, mà là ... hứ, nếu không phải chàng hại thiếp, thiếp đâu có suýt té ngã mấy lần trên đoạn đường núi này?

Địch Kinh Sĩ chợt hiểu:

– Không sai. Ngu ca ngốc thật, cả con chúng ta mà cũng quên mất. Đâu, để ngu ca nghe thử.

Chàng áp tai vào bụng vợ, mỉm cười nói:

– Nghe thấy rồi, nó đang vung quyền tung cước, lớn lên nhất định sẽ là một cao thủ võ lâm.

Hà Ngọc Yến đẩy chàng ra:

– Thôi, trời sắp mưa lớn rồi, chúng ta đi mau.

– Yến muội đi nhanh thế này, cẩn thận con của chúng ta đấy.

– Con đường núi này, thiếp rành hơn Kinh lang, chỗ hiểm nhất đã qua khỏi rồi, không té ngã nữa đâu.

Chỗ hiểm nhất đã qua khỏi, phía trước đã là đường bằng phẳng thật ư?

Đương nhiên, trong lòng Hà Ngọc Yến nghĩ không phải là con đường núi này.

Nàng không dám chắc chắn, bất giác khẽ thở dài nói:

– Nếu không vì đứa con trong bụng ...

Nàng không nói tiếp, nhưng Địch Kinh Sĩ hiểu, Hà Ngọc Yến chính vì thấy mình đã có con, ở nơi đất lạ quê người không có thân thích nên mới khát khao trở về nhà. Địch Kinh Sĩ ngước nhìn trời nói:

– Trời đầy đặc mây đen thế kia, e không kịp về đến nhà đâu, chúng ta hãy tìm chỗ tránh mưa thì hơn.

Hà Ngọc Yến như không nghe, đi càng nhanh.

Bỗng ánh chớp lóe lên, tiếng sấm vang lên liên hồi.

Hà Ngọc Yến làu bàu:

– Muốn mưa thì cứ tha hồ, sấm chớp mà không chịu mưa, thật bực chết được.

Địch Kinh Sĩ vội nói:

– Vậy để ngu ca thổi một bài cho Yến muội giải khuây nhé.

Chàng lấy ra một cây địch, thổi một khúc nhạc mà Hà Ngọc Yến ưa thích nhất.

Đây vốn không phải là một khúc nhạc tươi vui, nên Hà Ngọc Yến càng nghe càng thấy thương tâm và bồn chồn, sau cùng chịu không nổi nữa, bổng nói:

– Thôi đừng thổi nữa, Kinh lang càng thổi thiếp càng thấy bồn chồn không yên.

Địch Kinh Sĩ ngạc nhiên:

– Yến muội sao vậy?

Nhìn vẻ mặt vợ, chàng liền hiểu ngay, thở dài não nuột nói:

– Yến muội còn giận ngu ca hay sao?

Không sai, đây chính là khúc nhạc mà Hà Ngọc Yến ưa thích nhất. Nàng chính là đã bị vị nhị sư huynh quyến rũ trong một đêm gió xuân say đắm đã xảy ra lỡ lầm. Cũng trong đêm ấy, lần đầu tiên nàng uống rượu. Không, không phải rượu mà là mật đắng cuộc đời. Hà Ngọc Yến não nề nói:

– Chuyện đã trót lỡ rồi, còn gì nói nữa? Chẳng phải thiếp giận chàng, mà là thiếp cảm thấy không còn mặt mũi nào để gặp phụ thân.

Địch Kinh Sĩ bỗng nói:

– Thú thật, ngu ca quả cảm thấy sờ sợ, sợ khi đến nhà Yến muội, tình nghĩa vợ chồng chúng ta sẽ không còn tiếp tục được nữa, chi bằng để ngu ca trở lại Liêu Đông. Khi nào Yến muội sinh nở xong, chúng ta hẵng sẽ đoàn tụ.

– Nàng dâu xấu xí sớm muộn cũng phải gặp cha mẹ chồng, sợ cũng phải gặp. Phụ thân tuy nghiêm khắc, nhưng thiếp biết lão nhân gia rất thương thiếp.

Nay gạo đã thành cơm, niệm tình thiếp đã có con, lão nhân gia cùng lắm là mắng cho Kinh lang một trận, rồi cũng sẽ lượng thứ cho chàng thôi. Ủa, Kinh lang đang nghĩ gì vậy?

– Ngu ca ... đâu có nghĩ gì. Ồ! Mưa to rồi, đến đằng kia tránh mưa mau.

Lần này không có tiếng sấm, mưa trút xuống như thác đổ.

Hai người đến nấp dưới một mỏm đá nô ra trên vách núi. Mưa mỗi lúc càng to, Hà Ngọc Yến chẳng rõ có phải ngắm mưa hay không, nàng đứng thừ người ra.

Nàng bỗng nghĩ đến đại sư huynh, hôm bỏ nhà ra đi, lúc từ biệt đại sư huynh cũng mưa to như thế này. Người mà nàng cảm thấy không còn mặt mũi gặp, thật ra chẳng phải phụ thân, mà là đại sư huynh.

Ngay khi nàng nghĩ đến đại sư huynh, Địch Kinh Sĩ bỗng nói:

– Nhưng đại sư huynh ...

Hà Ngọc Yến rúng động cõi lòng, lớn tiếng nói:

– Kinh lang định nói gì? Đừng để bụng, cứ thẳng thắn nói ra đi.

– Thú thật, ngu ca rất sợ đại sư huynh.

– Kinh lang yên tâm, đại sư huynh nhất định sẽ lượng thứ cho chàng.

– Không, ngu ca biết chắc là đại sư huynh không buông tha cho ngu ca đâu.

– Hãy tin lời thiếp, đại sư huynh thật ra đã sớm lượng thứ cho chàng rồi.

– Sao Yến muội lại biết?

– Lời nói của thiếp, chàng không tin. Phải đại sư huynh chính miệng nói, chàng mới tin hay sao?

Ngay khi ấy, ánh chớp lóe lên, bỗng thấy hai người đang phóng đi về hướng này. Dẫn đầu chính là đại sư huynh Qua Chấn Quân, theo sau là lão gia nhân Hà Lượng.

Hà Lượng chạy rất chậm. Lão hãy còn trên đồi là đại sư huynh đã đến trước mặt họ rồi.

Hà Ngọc Yến hết sức lấy làm lạ. Nhà nàng ở tại một thôn trang cách đây năm dặm về phía nam, mưa to thế này, vì sao họ lại đến đây? Chả lẽ họ có tài tiên tri, đến đón nàng về nhà hay sao? Ồ! Vì sao vẻ mặt đại sư huynh lại u ám ghê rợn thế kia?

Đại sư huynh không lên tiếng, ánh mặt lạnh lùng từ nàng chuyển dịch sang Địch Kinh Sĩ, gườm gườm nhìn chàng hệt như là một kẻ thù bất cộng đái thiên.

Mưa đã giảm đi phần nào, trời không còn tối như trước nữa. Hà Ngọc Yến đã nhìn rõ vẻ mặt đại sư huynh, nàng bất giác rùng mình, cảm thấy lạnh hơn cả lúc trời mưa to nhất. Nàng hiểu rõ nỗi thương tâm của đại sư huynh, nhưng không hiểu nỗi vẻ lạnh lùng khác thường này. Nàng cũng chưa bao giờ trông thấy ánh mắt đại sư huynh ngập đầy thù hận như thế. Đại sư huynh không lên tiếng, nàng cũng không dám lên tiếng.

Như là cảnh một năm trước tái hiện. Hôm ấy nàng từ biệt đại sư huynh dưới cơn mưa to, cũng thấy mắt đại sư huynh rớm lệ, nhưng ánh mắt không hề có vẻ hận thù. Còn bây giờ, vẻ mặt đại sư huynh còn u ám và ghê rợn hơn hôm ấy.

Nàng thầm nghĩ:

“Đại sư huynh thấy mình trở về với Địch Kinh Sĩ, dĩ nhiên là không khỏi thương tâm, nhưng dù thế nào cũng không thể thương tâm hơn hôm ấy, bởi hôm ấy là ngày vĩnh biệt của hai người. Lúc bấy giờ mình không hề nghĩ lại có ngày trở về, và đại sư huynh cũng tin chắc là sẽ không bao giờ gặp lại mình nữa, vậy mà đại sư huynh vẫn khoan thứ cho hai người. Bây giờ, hai người đã trở về, vì sao đại sư huynh lại như vậy? Chả lẽ còn có điều gì khiến đại sư huynh thương tâm hơn là vĩnh viễn cách biệt mình hay sao?”.

Nàng không chịu nổi ánh mắt lạnh lùng như vậy của đại sư huynh, mặc dù ánh mắt không phải nhắm vào nàng. Nàng gom hết can đảm nói:

– Đại sư huynh, tiểu muội với nhị sư huynh đã về.

Qua Chấn Quân bấy giờ mới quay mặt sang nói:

– Lẽ ra sư muội đã phải trở về sớm hơn.

Hà Ngọc Yến lặng cả người, đại sư huynh không nói đến Địch Kinh Sĩ, nàng không dám tin vào tai mình, sự thật hoàn toàn khác với ý nghĩ của nàng, quả nhiên Địch Kinh Sĩ lo lắng chẳng sai. Nàng ngẩn người, run giọng nói:

– Đại sư huynh, tiểu muội biết hai người rất có lỗi với ...

Qua Chấn Quân ngắt lời:

– Những lời này sư muội sớm đã nói rồi, không cần phải nhắc lại, ngu huynh cũng chưa bao giờ trách sư muội.

Cũng vẫn chỉ là nói đến một mình nàng.

Hà Ngọc Yến lại gom hết can đảm nói:

– Vậy những lời đại sư huynh đã nói thì sao?

– Ngu huynh đã nói là giữ lời, cũng không bao giờ nhắc lại lần thứ hai.

Hà Ngọc Yến chớm hy vọng:

– Đa tạ đại sư huynh một lời hứa đáng giá ngàn vàng. Kinh Sĩ còn chưa mau đến khấu ...

Bỗng lời nói của nàng như cô đặc lại, không nói tiếp được nữa.

Vẻ mặt đại sư huynh vẫn lạnh lùng, nhưng ánh mắt nhìn nàng như đượm vẻ thương hại.

Địch Kinh Sĩ cũng như bị đông đặc lại, không chút động đậy.

Hà Ngọc Yến rùng mình nói:

– Đại sư huynh quên rồi sao? Hôm ấy chính miệng đại sư huynh đã nói ...

Qua Chấn Quân ngắt lời:

– Ngu huynh không hề quên những lời ngu huynh đã nói, ngu huynh còn nhớ rõ từng tiếng, dường như sư muội quên thì có.

Quên ư? Nàng sao có thể quên được? Tình cảnh hôm đó như đang ở trước mắt. Cũng giống như bây giờ, trời đổ mưa to, nàng đứng trước mặt đại sư huynh, chỉ khác là không có Địch Kinh Sĩ. Đại sư huynh cũng như lúc này, lặng thinh đứng nhìn nàng. Nàng bất chấp đất bùn dơ bẩn, co chân quỳ xuống nói:

– Sư ca, tiểu muội thật có lỗi với sư ca, tiểu muội ...

– Sư muội sao thế này? Có gì cứ nói, không nên như vậy.

– Tiểu muội còn mặt mũi nào nói với sư ca, chỉ xin sư ca ...

Đại sư huynh khẽ thở dài:

– Sư muội định bỏ đi với nhị sư đệ phải không?

Hà Ngọc Yến rúng động mạnh trong lòng:

– Đại sư huynh đã biết cả rồi ư?

Đại sư huynh nhẹ gật đầu, vẻ mặt còn u ám hơn bầu trời.

Hà Ngọc Yến bật khóc:

– Sư ca, tiểu muội không thể làm vợ sư ca nữa, tiểu muội không dám xin sư ca lượng thứ, chỉ xin sư ca buông tha cho Kinh Sĩ.

Qua Chấn Quân giọng cay đắng:

– Ngu huynh biết trước sẽ có ngày hôm nay. Nhị sư đệ là người đa tài đa nghệ, lại biết cách làm vui lòng sư muội, ngu huynh thật sự không sánh bằng.

– Sư ca, không phải tiểu muội muốn thay lòng đổi dạ, từ thuở bé phụ thân đã hứa gả sư muội cho sư ca, tiểu muội vốn cũng muốn trở thành người vợ hiền của sư ca. Ôi, những lời này thật ra bây giờ không cần nói nữa, nói ra sư ca cũng chẳng tin.

Qua Chấn Quân mắt rực lên:

– Sư muội đã bị nhị sư đệ dụ dỗ, mắc lừa y phải không?

– Cũng chẳng thể hoàn toàn trách Kinh Sĩ, chỉ trách số mệnh tiểu muội phải có nghiệt chướng này thôi.

– Vậy là sư muội thật ra cũng thương yêu nhị sư đệ phải không?

– Sư ca đừng hỏi nữa, nếu sư ca rộng lòng dung thứ cho tiểu muội và Kinh Sĩ thì hãy để cho hai người rời khỏi đây, còn như không, sư ca muốn xử trí thế nào tùy ý.

Hà Ngọc Yến đã tự nguyện nhận lãnh hết tội lỗi, Qua Chấn Quân chẳng còn gì để nói nữa. Qua Chấn Quân khoát tay não nề nói:

– Hai người đi đi, chỉ cần nhị sư đệ thật sự tốt với sư muội, ngu huynh cũng không trách y. Tuy nhiên ...

– Tuy nhiên sao?

– Hai người từ nay toan tính thế nào?

– Mai danh ẩn tánh, ra đi thật xa.

Qua Chấn Quân thở dài:

– Hà tất phải như vậy?

– Tính nết của phụ thân, sư ca biết rất rõ, lão nhân gia trước nay không thích Kinh Sĩ, nếu hay biết việc này, tiểu muội là con gái, hoặc giả có thể khỏi tội chết, còn Kinh Sĩ e rằng nhẹ nhất cũng bị lão nhân gia phế bỏ võ công.

– Tạm thời lẩn tránh một thời gian cũng được, khi nào sư phụ nguôi giận, ngu huynh sẽ nói hộ cho. Nhưng trên giang hồ lòng người hiểm trá, hai người tuổi còn trẻ, giao thiệp bạn bè phải hết sức thận trọng, kẻo lầm đường lạc lối, ảnh hưởng đến thanh danh hiệp nghĩa của sư phụ lão nhân gia.

– Sư ca yên tâm, tiểu muội và Kinh Sĩ cũng rất sợ bị phụ thân bắt về, sao dám mượn danh lão nhân gia bêu riếu trên giang hồ? Tiểu muội đã nói rồi, tiểu muội với Kinh Sĩ đã nhất quyết mai danh ẩn cư ở một nơi không ai biết, âm thầm sống trọn kiếp này cũng không hề gì.

– Hai người cũng không nên tiêu cực như vậy, sư phụ tính tuy cố chấp, nhưng rồi cũng sẽ lượng thứ cho hai người thôi. Lúc ấy hai người cũng vẫn có thể trở thành đôi hiệp lữ vang danh giang hồ kia mà.

– Đó e là chuyện của mười tám năm sau.

– Nhị đệ sợ sư phụ cũng quá mức, thật ra hai người không cần ...

– Tiểu muội biết, tiểu muội với Kinh Sĩ lén phụ thân bỏ nhà ra đi sẽ càng khiến lão nhân gia tức giận, nhưng tiểu muội lấy chồng là phải theo chồng, đành tuân theo ý của Kinh Sĩ thôi.

Nhưng có một điều mà nàng không dám nói ra, nàng biết người mà Địch Kinh Sĩ sợ nhất không phải là phụ thân, mà chính là đại sư huynh.

Qua Chấn Quân thở dài:

– Sư muội đã quyết ý bỏ đi với nhị đệ, ngu huynh cũng không khuyên cản, nhưng mong là sư muội hãy nhớ lấy những lời nói của ngu huynh.

– Tiểu muội sẽ nhớ kỹ trong lòng. Sư ca, nếu không còn gì dặn bảo, vậy tiểu muội đi đây.

Thật chẳng ngờ, chỉ một năm sau, hai người lại quay về.

Thật chẳng ngờ, điều mà Địch Kinh Sĩ đã lo lắng, giờ đây lại trở thành sự thật.

Vì sao giọng điệu của đại sư huynh lại hoàn toàn đổi khác thế này?

Hà Ngọc Yến giọng đượm vẻ tức giận hỏi:

– Đại sư huynh, tiểu muội đã quên những gì nào?

Qua Chấn Quân trầm giọng:

– Ngu huynh có nói là có thể lượng thứ cho Địch Kinh Sĩ cướp sư muội từ tay ngu huynh, nhưng không hề nói là có thể lượng thứ cho y làm bất kỳ điều gì.

Sư muội có cần ngu huynh lặp lại không?

Hà Ngọc Yến cãi lại:

– Tiểu muội với Kinh Sĩ không hề lầm đường lạc lối, và cũng không hề làm tổn hại đến thanh danh hiệp nghĩa của phụ thân.

Qua Chấn Quân đanh mặt, lạnh lùng nói:

– Ngu huynh không phải nói sư muội.

Địch Kinh Sĩ không biết hôm ấy hai người đã nói những gì, chàng chỉ biết là đại sư huynh nhất định không buông tha cho mình. Chàng không còn chịu nổi ánh mắt lạnh lùng của đại sư huynh nữa, bỗng lớn tiếng nói:

– Sư muội không cần van xin cho ngu ca. Đại sư huynh, tiểu đệ quả là có lỗi với đại sư huynh. Đại sư huynh muốn xử trí tiểu đệ thế nào, tùy ý đại sư huynh.

Qua Chấn Quân cười khảy:

– Ngươi cũng không phải có lỗi với Qua mỗ, mà là có lỗi với sư phụ.

Địch Kinh Sĩ sửng sốt:

– Đại sư huynh nói sao? Tiểu đệ có lỗi với sư phụ là thế nào?

Qua Chấn Quân chưa trả lời, lão gia nhân Hà Lượng cũng đã đến nơi. Hà Lượng là gia nhân lâu năm trong nhà nàng, trung thành với phụ thân nàng hơn cả, luận vai vế còn là trưởng bối của nàng.

Hà Lượng hầm hầm trỏ vào Địch Kinh Sĩ nói:

– Đâu chỉ có lỗi nhẹ nhàng như vậy, tên gian tặc này ...

Qua Chấn Quân vội ngăn cản:

– Đại thúc, khoan vội chửi mắng y, để hỏi rõ ràng rồi hẵng tính.

Hà Lượng hậm hực:

– Còn phải hỏi nữa ư? Chính mắt lão bộc đã trông thấy mà.

Địch Kinh Sĩ cũng tức giận quát:

– Hãy nói rõ xem, đại thúc đã trông thấy gì? Tại sao lại mắng Địch mỗ là gian tặc?

Qua Chấn Quân khoát tay:

– Việc này Qua mỗ sẽ làm sáng tỏ. Sư muội hãy cùng với Hà đại thúc về nhà trước đi.

Hà Ngọc Yến lắc đầu:

– Không, tiểu muội với Kinh Sĩ đã là vợ chồng, việc của Kinh Sĩ cũng là việc của tiểu muội, tiểu muội phải ở lại đây với Kinh Sĩ.

Hà Lượng tức giận:

– Tiểu thư có biết hắn đã làm gì không? Nếu biết mà tiểu thư còn bênh vực hắn thì đừng trách lão ô ...

– Đại thúc định làm gì nào?

Hà Lượng đã nhìn nàng khôn lớn, hết sức thương yêu chiều chuộng nàng.

Lúc này lòng ông rỉ máu, dịu giọng nói:

– Tiểu thư, lão ô tin rằng hiện giờ tiểu thư còn bị tên gian tặc này giấu giếm.

Tiểu thư là người lòng dạ hiền lương, hẳn không phải táng tận bệnh tâm cuồng như hắn.

Y muốn nói nếu nàng biết việc làm của chồng mà còn bênh vực, thì nàng là táng tâm bệnh cuồng.

Hà Ngọc Yến hết sức kinh nghi, quát:

– Thật ra Kinh Sĩ đã làm chuyện gì? Nói mau.

Qua Chấn Quân chậm rãi nói:

– Sư muội muốn ở lại cũng được, nhưng chỉ sợ sư muội chịu không nổi thôi.

Hà Ngọc Yến rắn giọng:

– Trời sụp, tiểu muội cũng chẳng sợ.

– Thôi được, vậy thì sư muội hãy thành thật trả lời, đêm hôm qua tiểu muội có ở bên Địch Kinh Sĩ hay không?

Hà Ngọc Yến đỏ mặt hỏi:

– Đại sư huynh hỏi điều ấy làm gì?

Qua Chấn Quân quát:

– Hãy trả lời.

– Tiểu muội không ở bên Kinh Sĩ thì còn ở bên ai chứ?

– Suốt cả đêm, Địch Kinh Sĩ đều ở bên sư muội chứ?

Hà Ngọc Yến rúng động cõi lòng, thầm nhủ:

“Sao đại sư huynh lại biết thể nhỉ? Chả lẽ đại sư huynh đã sớm dò biết hành tung của hai vợ chồng mình, đêm hôm qua đã đến rình rập hay sao?”.

Thì ra đêm hôm qua, Địch Kinh Sĩ quả có một khoảng thời gian không ở bên nàng. Hai người đã ở trọ trong một khách điếm nhỏ. Hà Ngọc Yến nửa đêm thức giấc, phát giác chồng mình không có ở bên cạnh. Chừng nửa giờ sau chàng mới về, ngay cả Hà Ngọc Yến cũng không biết chàng đã đi đâu. “Mình nên trả lời theo sự thật hay là che giấu cho chàng?” Hà Ngọc Yến do dự mãi không dám trả lời.

Địch Kinh Sĩ tiến ra nói:

– Địch mỗ tự hỏi không làm điều gì trái lương tâm, chẳng cần phải giấu giếm. Không sai, đêm hôm qua Địch mỗ quả có rời khách điếm vì chút chuyện riêng tư.

Hà Lượng cả giận:

– Ngươi còn dám nói là không làm điều trái lương tâm, ngươi rõ ràng là một tên táng tâm bệnh cuồng.

Qua Chấn Quân khoát tay ngăn cản Hà Lượng.

Hà Lượng lui sang bên nói:

– Qua công tư hãy hỏi hắn đi, thật ra việc này đã có bằng chứng quá rõ ràng, không cần phải hỏi nữa.

Qua Chấn Quân quay sang Địch Kinh Sĩ hỏi:

– Việc riêng tư gì?

– Gặp một người bạn.

– Người đó là ai?

– Đại sư huynh không có quyền biết việc riêng tư của Địch mỗ. Địch mỗ không phải tù phạm, đâu thể để cho đại sư huynh chất vấn như là tù phạm được.

Đêm hôm qua, Địch Kinh Sĩ cũng trả lời như vậy với vợ. Hà Ngọc Yến hết sức hoang mang, loáng thoáng cảm thấy có gì không ổn, bèn quay sang Địch Kinh Sĩ nói:

– Kinh lang, nếu chàng không hổ thẹn với lương tâm thì cứ thẳng thắn nói ra với đại sư huynh đi.

Địch Kinh Sĩ cười não nề:

– Ngay cả Yến muội cũng không tin ngu ca ư?

Hà Lượng bỗng hét to:

– Lão ô không còn dằn được nữa. Qua công tử không cho, lão ô cũng phải nói. Tên gian tặc họ Địch kia, ngươi đã phạm tội tày trời mà còn dám điềm nhiên như người vô sự, thật tức chết đi được.

Qua Chấn Quân trầm giọng:

– Thôi được, ngươi không dám nói, Qua mỗ nói cho.

Hà Ngọc Yến thắc mắc hỏi:

– Hà đại thúc, đêm qua Kinh Sĩ đã làm gì vậy?

– Đêm qua lão ô chính mắt trông thấy hắn, tội do hắn gây ra, không chối cãi được đâu.

– Thật ra Kinh Sĩ đã gây ra tội gì chứ? Xin đại thúc hãy nói, điệt nữ cũng phải có quyền biết chứ?

Hà Lượng nước mắt chảy dài, lạnh lùng nói:

– Đêm qua, hắn thực ra chẳng phải đi gặp bạn bè gì cả, mà là đến nhà tiểu thư giết chết lão nhân gia.

Lúc này mưa đã ngưng, nhưng tiếng nói của Hà Lượng hệt như tiếng sấm nổ ngang đầu Hà Ngọc Yến. Nàng không dám tin vào tai mình, sững sờ hỏi:

– Hà đại thúc nói sao?

Hà Lượng hét to:

– Hắn là kẻ thù giết cha tiểu thư, tiểu thư còn chưa biết hay sao?

Hà Ngọc Yến lảo đảo, khó khăn lắm mới đứng vững lại được, hét lên:

– Điệt nữ không tin. Điệt nữ không tin. Gia phụ sao lại chết dưới tay Kinh Sĩ được?

Hà Lượng lắc đầu thở dài:

– Lão ô có khi nào nói dối tiêu thư? Tiểu thư không muốn tin cũng phải tin, lão gia quả thật đã bị kẻ gian sát hại, kẻ gian đó chính là ...

Hà Ngọc Yến lắc mạnh đầu:

– Không, kẻ gian đó chắc chắn không phải là Kinh Sĩ.

Hà Lượng quả quyết:

– Chính mắt lão ô đã trông thấy, còn giả sao được?

Địch Kinh Sĩ bình tĩnh lạ thường nói:

– Đại sư huynh, lúc sư phụ bị sát hại, đại sư huynh có nhà không?

Qua Chấn Quân nghiến răng:

– Nếu Qua mỗ có ở nhà thì đâu để cho kẻ gian đó tẩu thoát.

– Vậy tiểu đệ muốn hỏi Hà đại thúc vài câu, được chăng?

– Được.

Hà Lượng cười khẩy:

– Ngươi còn muốn ngụy biện gì nữa ư?

– Tại hạ còn chưa hỏi, sao đại thúc biết là ngụy biện?

– Thôi được, ngươi hỏi đi.

– Đêm qua, sư phụ ngộ hại lúc nào?

– Chừng gần canh hai.

– Đêm qua, vợ chồng tại hạ đã ở trọ tại Ngưu Miên Trấn ...

Hà Lượng nóng nảy ngắt lời:

– Ngưu Miên Trấn cách nhà chỉ chừng hai mươi lăm dặm, với khinh công của ngươi, đi và về chỉ nửa giờ là đủ.

– Đêm qua, từ canh hai đến canh ba, Ngưu Miên Trấn mưa suốt, lúc ấy đại thúc ở trong nhà, ngoài trời phải chăng là đang mưa?

Hà Lượng gật đầu:

– Phải, ngoài trời đang mưa.

– Tại hạ biết sư phụ có thói quen ngủ sớm, lúc ấy lão nhân gia đã ngủ rồi phải không?

– Lão ô không biết đã ngủ hay chưa, nhưng nghe lão nhân gia kêu to như nằm mơ, vội chạy đến phòng lão gia xem thử, lúc ấy gian tặc ngươi đã giết chết lão gia rồi.

Hà Lượng cứ nhất mực nói là chính mắt đã trông thấy, tựa hồ như không thể nào biện bác được nữa.

Địch Kinh Sĩ bỗng quay sang Hà Ngọc Yến hỏi:

– Yến muội, lệnh tôn có thói quen thắp đèn lúc ngủ không?

Hà Ngọc Yến đáp không cần suy nghĩ:

– Đương nhiên là không?

– Hà đại thúc khi nghe tiếng kêu của sư phụ, hẳn là không đốt đèn trước rồi mới đến xem chứ?

– Không sai, lão ô không nhìn thấy rõ mặt ngươi, nhưng chỉ nhìn thấy bóng từ sau lưng ngươi, lúc ấy ngươi vừa từ cửa sổ phóng ra. Ngươi bái sư từ năm mười tuổi, năm nay đã hai mươi hai. Mười hai năm qua, lão ô đã nhìn ngươi lớn lên, cho dù lão ô tuổi già hoa mắt cũng không thể nào nhìn lầm.

– Nếu là bình thường, đại thúc nhìn thấy bóng sau lưng tại hạ là có thể nhận ra, đó không có gì lạ, nhưng đêm qua ...

– Đêm qua sao?

– Đêm qua trời mưa, không có trăng sao, theo như lời đại thúc, lúc ấy tại hạ đang thi triển khinh công đào tẩu, chỉ trong thoáng chốc đại thúc sao có thể nhận ra được?

Hà Ngọc Yến nghe vậy liền nhẹ người nói:

– Phải rồi, có lẽ đại thúc có thiên kiến với Kinh Sĩ nên mới ...

Hà Lượng gắt giọng:

– Địch Kinh Sĩ, ngươi tưởng ngụy biện như vậy là có thể thoát khỏi hiềm nghi ư? Không sai, lão ô không nhìn thấy rõ, nhưng lão phu nghe thấy rất rõ.

Hà Ngọc Yến ngẩn người:

– Đại thúc nghe thấy gì?

– Khi lão phu chạy vào phòng lão gia, đã nghe lão gia đang mắng:

«Súc sinh, lão phu đã dạy ngươi võ công, ngươi lại dùng ...» đến đó thì ngưng ngang và lão gia đã chết.

Hai từ «súc sanh» thường chỉ dùng để mắng chửi con cái và đồ đệ ngỗ nghịch. Nếu Hà Lượng nói đúng sự thật thì hung thủ dường như ngoài Địch Kinh Sĩ, không còn ai khác.

Địch Kinh Sĩ mặt tái ngắt, thừ người ra hồi lâu, bỗng hỏi:

– Đại sư huynh đêm qua vì sao lại không có ở nhà?

Qua Chấn Quân chưa kịp đáp, Hà Lượng đã hầm hầm tức giận đáp ngay:

– Sao? Ngươi còn định vu oan giá họa cho Qua công tử ư? Chính vì bị ngươi dụ dỗ con gái bỏ nhà ra đi, lão gia mới tức giận đến mức ngã bệnh, đêm qua Qua công tử chính là ra trấn hốt thuốc cho lão gia, canh tư mới về.

Qua Chấn Quân tiếp lời:

– Qua mỗ đã gõ cửa dược điếm. Chủ dược điếm có thể làm chứng cho Qua mỗ, lúc ấy đang là canh ba.

Địch Kinh Sĩ thở dài:

– Còn Địch mỗ thì không có người làm chứng, xem ra Địch mỗ đành chịu mang lấy tội lỗi này rồi.

Hà Lượng cả giận:

– Gian tặc ngươi nói vậy, chả lẽ lão ô với Qua công tử cấu kết hãm hại ngươi hay sao?

Chưa dứt lời, lão đã không dằn được, vung tay tát Địch Kinh Sĩ.

Địch Kinh Sĩ lách người né tránh, trầm giọng nói:

– Hà đại thúc, lão nhân gia đã hầu hạ sư phụ nhiều năm, Địch mỗ kính trọng đại thúc như bậc trưởng bối, xin đừng chửi mắng và động thủ đánh người, bằng không ...

Hà Lượng tức giận quát:

– Bằng không thì sao? Tên nghịch đồ sát hại sư phụ, lão ô thật hận không thể ăn tươi nuốt sống ngươi.

Đoạn lão liều mạng nhào tới, nhưng bị Địch Kinh Sĩ ôm lại. Ông không còn cách nào khác hơn, há miệng táp vào tay Địch Kinh Sĩ.

Địch Kinh Sĩ như cũng đã nổi giận, hai tay đẩy mạnh ra, «phịch» một tiếng, Hà Lượng ngã lăn ra đất.

Qua Chấn Quân vội đỡ Hà Lượng lên, đưa tay thăm mũi, Hà Lượng đã tắt thở. Qua Chấn Quân mặt tái ngắt, đạt thi thể Hà Lượng xuống, tuốt kiếm ra quát:

– Địch Kinh Sĩ, ngươi định giết người diệt khẩu, nhưng hãy còn Qua mỗ đây.

Hà Ngọc Yến bàng hoàng:

– Sao? Hà đại thúc chết rồi sao?

Địch Kinh Sĩ cũng sững sờ, chàng chỉ xô Hà Lượng ra mà thôi, chả lẽ vậy mà lão gia nhân này lại chết được sao? Chàng chưa định thần, Qua Chấn Quân đã vung kiếm đâm tới. Địch Kinh Sĩ vội rút kiếm ra đón đỡ và hét:

– Lỡ tay làm chết Hà đại thúc, đó là lỗi ở Địch mỗ, nhưng mang tội sát hại sư phụ, Địch mỗ quyết không thể thừa nhận.

Hà Ngọc Yến cũng hốt hoảng nói:

– Đại sư huynh sao không để cho Kinh Sĩ phân trần?

– Y còn gì để phân trần nữa chứ?

– Vì lẽ gì Kinh Sĩ lại sát hại sư phụ? Không sai, bọn này có làm bại hoại gia phong, nhưng tiểu muội tuyệt đối không tin là Kinh Sĩ vì sợ phụ thân trừng phạt mà gây ra điều đại nghịch bất đạo như vậy.

– Đương nhiên không phải đơn thuần chỉ vì việc ấy.

– Vậy chứ vì sao?

Qua Chấn Quân đanh mặt:

– Sư muội nhất định muốn biết?

– Phải, tiểu muội nhất quyết muốn biết.

Qua Chấn Quân thở dài:

– Ngu huynh sợ sư muội không chịu nổi, vốn không muốn để sư muội biết ...

Hà Ngọc Yến nghẹn ngào:

– Phụ thân đã chết, Hà đại thúc đã chết, còn điều gì có thể khiến tiểu muội không chịu nổi nữa chứ?

– Vốn ra sư huynh không muốn cho sư muội biết, nhưng nếu vậy thì sư muội sẽ nghĩ là sư huynh thừa cơ báo tư thù. Thôi được, sư muội đã muốn biết thì sư huynh xin nói ra, bởi vì Địch Kinh Sĩ là gian tế của Mãn Châu.

Hà Ngọc Yến bàng hoàng, không sao đứng vững được, ngồi bệt xuống đất, run giọng nói:

– Đại sư huynh ... có chứng cứ gì ... mà bảo Kinh Sĩ là ...

– Một năm qua hai người ở đâu?

– Một ngư thôn bên bờ Tùng Hoa Giang.

– Vì sao lại chạy đến vùng đất của người Mãn Châu?

– Vì để tránh gặp người quen biết.

Qua Chấn Quân quay sang Địch Kinh Sĩ quát:

– Địch Kinh Sĩ, Qua mỗ muốn ngươi trả lời.

– Sư muội đã trả lời thay tiểu đệ rồi, đại sư huynh còn muốn tiểu đệ trả lời gì nữa?

– Chỉ sợ là ngươi giấu giếm sư muội mà thôi. Theo Qua mỗ thì ngươi đến đó chính là để tiện bề liên lạc với chủ mua.

Địch Kinh Sĩ cười não nề, nhưng mắt đã lộ hung quang, giọng cay đắng nói:

– Địch mỗ dự liệu chẳng sai, đại sư huynh quả nhiên định viện cớ giết Địch mỗ.

Tiếng binh khí chạm nhau chát chúa, hai người đã động thủ giao chiến.

Hà Ngọc Yến hốt hoảng hét to:

– Hai người hãy khoan động thủ. Đại sư huynh, tiểu muội có điều cần nói, van xin đại sư huynh hãy ...

Địch Kinh Sĩ trầm giọng:

– Sư muội dừng van xin, đại sư huynh không tha cho ngu ca đâu.

Qua Chấn Quân thở dài:

– Sư muội còn chưa tin y là người xấu sao? Thôi được, sư muội có điều gì thắc mắc, nói đi.

– Tiểu muội với Kinh Sĩ ở đó đánh cá mưu sinh, trong thôn toàn là ngư dân.

Ở đó một năm, tiểu muội chưa từng gặp một quan viên Mãn Châu nào. Nếu bảo có «chủ mua» thì chỉ là chủ mua tôm cá thôi.

– Mua chuộc gian tế đâu nhất thiết phải do quan viên ra mặt?

– Trong thôn không có bao nhiêu người. Kinh Sĩ cũng rất ít khi đi lại với người ngoài, tiểu muội chẳng thấy có ai khả nghi cả.

– Có một người đàn ông mắt tam giác và hai tai to, sư muội có biết người đó không?

– Đó là Hoắc Bốc Thác, phổ ky của một hiệu buôn cá ở tiểu trấn. Cá nhà đánh được đều là bán cho hiệu buôn này. Người ấy thế nào?

– Đó là chuyện của nửa năm đầu. Nửa năm sau thì bỗng nhiên người ấy mất tích, đúng không?

Hà Ngọc Yến kinh nghi bất định:

– Không sai, nghe đâu hiệu buôn cá ấy đã thay phổ ky khác, còn nguyên nhân vì sao, chúng tiểu muội không bao giờ tò mò chuyện người, nên không có hỏi. Đại sư huynh biết người đó ư?

– Người đó ngu huynh chưa từng gặp, nhưng thân phận của y thì ngu huynh biết.

– Ồ! thân phận của y là gì?

– Y là cao thủ thuộc hạng nhất nhì của phái Trường Bạch, trước khi làm phổ ky cho hiệu buôn cá, y là vệ sĩ của Nỗ Nhĩ Ha Xích, Kha Hãn nước Kim.

Hà Ngọc Yến sững sờ, nàng thật không ngờ một phổ ky tướng mạo xấu xí tầm thường thế kia mà lại là một cao thủ võ lâm.

Qua Chấn Quân nói tiếp:

– Thế nhưng thân phận hiện nay của y là gian tế Mãn Châu, phụng mệnh Nỗ Nhĩ Ha Xích hiện đang hoạt động trong Kinh thành Đại Minh chúng ta, và còn thay đổi họ tên người Hán là Quách Phác.

– Đại sư huynh, cho dù những điều đại sư huynh nói đều là sự thật, nhưng liên can gì đến tiểu muội và Kinh Sĩ chứ? Tiểu muội và Kinh Sĩ đâu hề biết thân phận ấy của y.

– Sư muội không biết, nhưng Địch Kinh Sĩ biết.

Qua Chấn Quân thoáng dừng, quát:

– Địch Kinh Sĩ, đến giờ mà ngươi vẫn chưa chịu nhìn nhận hả?

– Đại sư huynh muốn Địch mỗ nhìn nhận gì?

– Vì sao ngươi lại từ Quan Ngoại về?

– Đại sư huynh, tiểu muội chẳng đã nói rồi còn là gì? Chính tiểu muội đã bảo Kinh Sĩ về nhà, vì tiểu muội đã hoài thai ...

Hà Ngọc Yến mặt đỏ bừng, song vì cứu mạng chồng, nàng cũng chẳng màng xấu hổ nữa.

Qua Chấn Quân trầm giọng:

– Sư muội đã bị y lừa rồi. Bề ngoài y là thuận lời sư muội, nhưng thật ra nguyên nhân chính là vì y nhận được một bức mật thư của Hoắc Bốc Thác. Chính Hoắc Bốc Thác đã bảo y trở về.

Hà Ngọc Yến kinh nghi bất định:

– Đâu có bức mật thư nào, tiểu muội chưa từng nghe ...

Qua Chấn Quân ánh mắt bén như tên nhọn nhìn Địch Kinh Sĩ, lạnh lùng nói:

– Y đương nhiên là không nói với sư muội rồi.

Bỗng y lại lớn tiếng quát:

– Địch Kinh Sĩ, việc đã đến nước này rồi, hẳn ngươi cũng biết là chẳng thể giấm giếm được nữa. Ngươi có dám nói là không có bức thư ấy, có dám để cho Qua mỗ lục soát không? Qua mỗ biết ngươi phải giữ bức thư ấy làm tín vật, hẳn là chưa tiêu hủy, nếu không ở trong mình ngươi thì là ở trong tay nải.

Tay nải của Địch Kinh Sĩ lúc nãy tránh mưa đã để dưới mỏm đá, Hà Ngọc Yến chỉ cần với tay là lấy được. Địch Kinh Sĩ mặt biến sắc, bất giác đưa mắt nhìn về phía ấy.

Hà Ngọc Yến thầm nhủ:

“Nếu Kinh Sĩ đúng là xấu xa như đại sư huynh đã nói thì mình cũng không nên bênh vực nữa.”.

Nàng cắn răng, lập tức mở tay nải, quả nhiên tìm gặp một bức thư. Trong thư viết:

«Đệ ở kinh sư, may mắn đã có được đường tiến thân. Một ngày gần đây hẳn sẽ được một chức quan nhỏ. Huynh về lo xong đại sự, xin hãy lập tức đến kinh gặp gỡ.» Trong thư tuy không ghi danh tánh, nhưng Hà Ngọc Yến nhận ra quả đúng là bút tích của Hoắc Bốc Thác. Nàng bán cá cho Hoắc Bốc Thác, cũng thường nhờ Hoắc Bốc Thác mua hộ vật dụng đánh cá, và thỉnh thoảng còn nhờ y vào thành mua hộ vật dụng hàng ngày, do đó Hoắc Bốc Thác thường có viết hóa đơn thanh toán tiền bạc cho nàng. Hà Ngọc Yến xem thư xong, toàn thân run rẩy hỏi:

– Bức ... bức thư này phải không?

Địch Kinh Sĩ như không còn sợ hãi như trước nữa, chàng thản nhiên đón tiếp ánh mắt của vợ nói:

– Thư là thật, ngu ca không cho sư muội biết là vì có nguyên nhân bất đắc dĩ, nhưng ngu ca không hổ thẹn với lòng ...

Qua Chấn Quân cười khẩy ngắt lời:

– Sư muội hẳn cũng đã nhận thấy bức thư này không phải là thư giao tế thông thường. Thư đã là thật, chả lẽ sư muội còn hoài nghi lời nói ngu huynh là giả nữa sao?

Nhưng Hà Ngọc Yến lòng còn đầy nghi vấn, ngẩng lên hỏi:

– Đại sư huynh nói là không quen biết Hoắc Bốc Thác phải không?

– Không sai, ngu huynh chưa từng gặp người đó. Tướng mạo của y, ngu huynh chỉ nghe người khác nói mà thôi.

– Tướng mạo chỉ là phụ, điều tiểu muội không hiểu là đại sư huynh sao lại biết bức thư này là gửi cho Kinh Sĩ? Và nội dung bức thư này, đại sư huynh như cũng đã biết trước. Đã là mật thư, lẽ dĩ nhiên Kinh Sĩ chẳng dễ gì tiết lộ với «người khác», trừ phi đó là bạn bè thân thiết, đúng không?

Qua Chấn Quân lạnh lùng:

– Không nhất thiết phải là bạn thân mới biết, kẻ địch của y cũng có thể biết.

– Vậy nghĩa là sao?

– Đừng quên lệnh tôn là Lưỡng Hồ đại hiệp và đồng thời cũng là nhân vật lãnh đạo phái Võ Đang. Tuy lão nhân gia không ở Kinh sư, nhưng trong Kinh sư cũng có đệ tử phái Võ Đang. Hoắc Bốc Thác hành tung khả nghi, y đến Kinh sư không lâu thì thân phận đã bị người khám phá.

– Đại sư huynh muốn nói là có đệ tử Võ Đang đã báo cho phụ thân biết về bí mật liên quan đến Hoắc Bốc Thác chứ gì? Nhưng bí mật về thân phận dễ dàng điều tra, còn bí mật về bức thư, chả lẽ cũng là điều tra ra hay sao?

– Không phải là điều tra ra mà là chính mắt đã xem qua. Sư muội đừng ngạc nhiên, hãy nghe ngu huynh nói tiếp sẽ rõ. Bức thư này là do trợ thủ của Hoắc Bốc Thác mang hộ về Liêu Đông. Người giám sát Hoắc Bốc Thác lập tức theo dõi trợ thủ đó. Khi trợ thủ này rời khỏi Kinh sư ngày thứ ba thì đã bị người ấy bắt lại.

– Người mang thư đã bị đệ tử Võ Đang bắt giữ, vậy sao bức thư này còn đến tay Kinh Sĩ?

– Đệ tử Võ Đang đương nhiên không giết chết người mang thư, y chỉ điểm ẩn huyệt người đó. Khi bị điểm ẩn huyệt, hậu quả ra sao có lẽ ngu huynh không cần phải nói.

Phái Võ Đang có một thủ pháp độc môn, khi điểm vào ẩn huyệt người nào, người đó vẫn có thể đi đứng bình thường, nhưng nếu vận khí, lập tức bụng đau như cắt. Sau khi bị điểm ẩn huyệt, nội thương càng ngày sẽ càng trầm trọng. Nếu sau bảy ngày mà vẫn chưa được người phái Võ Đang giải huyệt, người ấy sẽ đau đớn tột cùng mà chết.

Hà Ngọc Yến đã hiểu ra phần nào, lại hỏi:

– Y không giết người ấy là để người ấy vẫn mang thư trao đến tay Kinh Sĩ chứ gì?

– Không sai, nếu không vậy thì sao thể khiến phản đồ tự chui đầu vào lưới rập?

– Vị đệ tử phái Võ Đang ấy là ai?

– Đinh sư thúc.

Đinh sư thúc đây chính là tam đệ của phụ thân Hà Ngọc Yến, tên là Đinh Vân Hạc. Đinh Vân Hạc tuy võ công không bằng sư huynh, nhưng túc trí đa mưu có tiếng trong phái Võ Đang.

– Vì lẽ gì Đinh sư thúc lại phải tốn công sức như vậy để dụ dẫn Kinh Sĩ trở về?

– Một là lão nhân gia chưa biết Địch Kinh Sĩ phải chăng đã quyết ý bội phản sư môn, sợ trúng kế phản gián của địch. Việc thanh lý môn hộ là phải do sư phụ đích thân động thủ, Đinh sư thúc không tiện vượt quyền thay thế. Ôi, nhưng không ngờ sự thể lại diễn biến ngoài dự liệu của lão nhân gia. Phản đồ tuy đã bị dụ dẫn trở về, nhưng sư phụ lại bị phản đồ sát hại.

Địch Kinh Sĩ lớn tiếng phản đối:

– Sư phụ không phải là do Đinh mỗ sát hại. Bức thư này cũng không phải bảo Địch mỗ làm gian tế cho Mãn Châu. Địch mỗ có thể thề ...

Qua Chấn Quân cười khẩy, đồng thời đưa mắt nhìn Hà Ngọc Yến:

– Ai còn tin lời thề của ngươi nữa chứ?

Đồng thời đưa mắt nhìn Hà Ngọc Yến.

Hà Ngọc Yến cũng không dám nói là tin, nhưng lòng nàng vẫn bán tín bán nghi.

Nàng lẩn tránh ánh mắt lạnh lùng của Qua Chấn Quân, nói:

– Tiểu muội còn một điểm nghi vấn nữa.

– Sư muội nói đi.

– Người mang thư là trợ thủ của Hoắc Bốc Thác, Đinh sư thúc không giết y, vậy sao y không về bẩm báo với Hoắc Bốc Thác?

Ý nàng là nếu Hoắc Bốc Thác hay biết, ắt sẽ tìm cách báo cho Địch Kinh Sĩ, vậy thì Địch Kinh Sĩ đâu tự chui vào bẫy rập.

Qua Chấn Quân nhếch môi cười:

– Sư muội nghĩ ấu trĩ quá.

– Xin đại sư huynh chỉ giáo cho.

– Không sai, giới hiệp nghĩa là phải một lời hứa đáng ngàn vàng, nhưng đó cũng là tùy theo người, với bạn bè khác, với kẻ địch khác.

– Sau khi người ấy đã mang thư đến nơi, Đinh sư thúc không giải huyệt cho y sao?

– Đinh sư thúc sao thể để y có thể sống thêm? Y vừa trao thư xong, rời khỏi, là Đinh sư thúc đã giết y ngay.

– Vậy Đinh sư thúc giờ này hiện ở đâu?

Qua Chấn Quân thở dài:

– Ngu huynh vừa mới nói rồi, diễn biến sau đó ngay cả Đinh sư thúc cũng không ngờ đến, lão nhân gia bị ám sát chết trước cả lệnh tôn rồi.

– Đinh sư thúc cũng đã bị ám sát rồi ư?

– Ngu huynh cũng là sáng nay mới hay tin. Đinh sư thúc vừa về đến Kinh sư đã chết đột ngột, trên người không hề có thương tích, nhưng cao thủ võ học có thể nhận ra lão nhân gia đã chết bởi «Phong Lôi Chưởng» của phái Trường Bạch.

Hà Ngọc Yến sững sờ, nàng không chỉ đau lòng vì Đinh sư thúc bị sát hại, mà là nàng còn nuôi một tia hy vọng, hy vọng những điều đại sư huynh nói không hoàn toàn đúng sự thật, nhưng giờ Đinh sư thúc cũng đã chết, đâu còn đối chứng nữa?

Qua Chấn Quân như hiểu tâm ý nàng, lạnh lùng nói:

– Đinh sư thúc đã về đến nhà chúng ta trước rồi mới trở về Kinh sư, bức thư chỉ vỏn vẹn mấy câu, Đinh sư thúc đã nhớ thuộc lòng và đọc cho sư phụ nghe, lúc ấy ngu huynh cũng có mặt. Bức thư ấy viết là:

«Đệ ở kinh sư, may mắn đã có được đường tiến thân, một ngày gần đây hãn sẽ được mốt chức quan nhỏ. Huynh về lo xong đại sự, xin hãy lập tức đến kinh gặp gỡ.» Lo liệu đại sự gì? Hẳn không phải là ở nhà chờ sư muội sinh sản, đúng không?

Hà Ngọc Yến run giọng:

– Vậy theo đại sư huynh thì đại sự ấy là gì?

Qua Chấn Quân gắt giọng:

– Đó còn phải ngu huynh nói ra nữa sao? Sư muội cũng tự nghĩ ra được mà.

Y phản sư cầu vinh, điều quan trọng hơn hết đương nhiên chẳng phải ngoài bảo toàn bản thân.

Ý nói rất rõ ràng, Địch Kinh Sĩ vì sợ sư phụ thanh lý môn hộ nên đã tiên hạ thủ vi cường, ra tay sát hại sư phụ trước.

Đó vốn cũng là một suy luận hợp lý, nhưng Hà Ngọc Yến sao thế chấp nhận một sự thật tàn nhẫn như vậy? Nàng lắc đầu nguầy nguậy:

– Không, không, cho dù Kinh Sĩ có lầm đường lạc lối thì tiểu muội cũng không thể tin được Kinh Sĩ lại sát hại phụ thân.

Thế nhưng, nàng không tin cũng phải tin, bởi nàng không còn tìm ra được lý do nào có thể phản bác lại đại sư huynh nữa. Hà Ngọc Yến cắn răng:

– Địch Kinh Sĩ, Hà Ngọc Yến này thật đã lầm ngươi. Ngươi ... ngươi còn gì để nói nữa?

Địch Kinh Sĩ cười đau khổ:

– Ngay cả Yến muội cũng không tin ngu ca, ngu ca thật không còn gì để nói nữa. Tuy nhiên ...

Qua Chấn Quân quát:

– Còn tuy nhiên gì nữa?

– Đại sư huynh, xin hãy khoan hạn cho mười hôm, đến hạn kỳ tiểu đệ nhất định sẽ trở lại nói rõ sự thật.

Địch Kinh Sĩ nói vậy ngụ ý là tại đây và vào lúc này, chàng chưa thể nói ra sự thật.

Hà Ngọc Yến lưu ý ánh mắt của Địch Kinh Sĩ, cảm nhận được nỗi đau khổ trong lòng chàng, nhưng lại không hề có vẻ hổ thẹn ray rứt, mà thản nhiên đón tiếp ánh mắt của nàng. Hà Ngọc Yến bất giác động tâm, thầm nhủ:

“Người đã làm điều trái lương tâm, không bao giờ có thể thản nhiên như vậy, chả lẽ Địch Kinh Sĩ quả thật có điều uẩn khúc gì?”.

Nhưng Địch Kinh Sĩ giờ đây đã từ cương vị là chồng nàng trở thành nghi hung sát hại phụ thân nàng, nàng sao thể chấp nhận lời yêu cầu của chàng được?

Nàng đưa mắt nhìn đại sư huynh.

Qua Chấn Quân cười khẩy:

– Ngươi mà còn trở lại ư? Gạt trẻ con cũng chẳng tin. Hắc hắc, ngươi đã sát hại sư phụ mà còn định tìm đường thoát thân, thật khéo tính toán. Nếu Qua mỗ mà niệm tình buông tha cho ngươi, sư phụ trên trời linh thiêng cũng chẳng dung thứ cho Qua mỗ.

Những lời nói này hiển nhiên cũng là nói với Hà Ngọc Yến, nàng còn nói gì được nữa? Nàng bấm bụng cắn răng, run giọng nói:

– Đại sư huynh, thù giết cha lẽ ra là phải do tiểu muội báo, nhưng giờ đành phải nhờ đại sư huynh ra sức giùm.

Chỉ nghe «vút» một tiếng, Qua Chấn Quân đã vung kiếm tấn công Địch Kinh Sĩ.

Hà Ngọc Yến bưng mặt khóc thút thít.

Địch Kinh Sĩ vung kiếm đỡ gạt, thở dài nói:

– Đại sư huynh nóng lòng muốn hạ sát Địch mỗ thế này, thật ra cũng chẳng ngoài dự liệu của Địch mỗ. Địch mỗ biết đại sư huynh đã chờ cơ hội này lâu lắm rồi. Đại sư huynh, Địch mỗ nói có đúng không?

Qua Chấn Quân cả giận:

– Qua mỗ báo thù cho sư phụ chứ không phải tính toán ân oán riêng tư với ngươi. Ngươi đã sát hại sư phụ với Hà Lượng, chả lẽ còn có thể trách Qua mỗ không niệm tình hay sao?

Trong khi nói, Qua Chấn Quân xuất kiếm mỗi lúc càng nhanh, bảy mươi hai chiêu «Liên Hoàn Đoạt Mệnh Kiếm Pháp» tung ra như vũ bão, «soạt» một tiếng khẽ, Địch Kinh Sĩ đã bị trúng một kiếm vào vai, tuy chưa chạm xương, nhưng máu tuôn xối xả.

Hà Ngọc Yến ngoảnh mặt đi, không dám xem nữa.

Chỉ nghe Địch Kinh Sĩ lớn tiến nói:

– Đại sư huynh, lẽ ra Địch mỗ không nên động thủ với đại sư huynh, nhưng Địch mỗ chẳng thể để cho con của Địch mỗ mới sinh ra đời đã không còn cha.

Bất luận thế nào Địch mỗ cũng phải nhìn thấy con mình mới có thể nhắm mắt.

Đại sư huynh nhất quyết giết Địch mỗ, đừng trách Địch mỗ không nhường nhịn nữa.

– Ai cần ngươi nhường nhịn? Có bản lĩnh thì hãy giết cả Qua mỗ đi.

«Keng» một tiếng, hai thanh kiếm chạm nhau, Địch Kinh Sĩ chao người hai lượt, hai chân cơ hồ đứng không vững.

Qua Chấn Quân quát lớn:

– Nằm xuống.

Trường kiếm quét ngang ra nhanh như chớp, những ngỡ ít ra cũng có thể chém gãy hai khúc xương sường của Địch Kinh Sĩ.

Nào ngờ, Địch Kinh Sĩ người lảo đảo, trông như đứng không vững, nhưng chàng lẹ làng xoay hai vòng, vừa vặn tránh khỏi đường kiếm hung hiểm của Qua Chấn Quân.

Qua Chấn Quân cười khẩy, thầm nhủ:

“Cách biệt một năm, khinh công tiểu tử này lại tinh tiến thêm một bậc. Nhưng khinh công của ngươi dù giỏi đến đâu cũng khó mà chống nổi bảy mươi hai chiêu kiếm liên hoàn của Qua mỗ.”.

Quả nhiên chỉ mới hai mươi mấy chiêu, Địch Kinh Sĩ toàn thân bị ánh kiếm phủ trùm.

Qua Chấn Quân lại quát:

– Nằm xuống.

Trường kiếm bổ thẳng xuống đỉnh đầu Địch Kinh Sĩ. Chiêu «Trực Bổ Hoa Sơn» này dùng kiếm thay đao, uy lực cương mãnh tuyệt luân, chính là chiêu sát thủ đắc ý nhất của Qua Chấn Quân. Y tự thị công lực thâm hậu hơn đối phương một bậc, Địch Kinh Sĩ khó thể chống đỡ nổi.

Nào ngờ trường kiếm của y khi còn cách đỉnh đầu Địch Kinh Sĩ chừng bảy tấc, trường kiếm của Địch Kinh Sĩ đã nhanh nhẹn vạch một vòng tròn, hóa giải hoàn toàn chiêu kiếm cương mãnh của y.

Qua Chấn Quân kinh hãi thầm nhủ:

“Chiêu kiếm này dường như mình chưa từng trông thấy bao giờ. Hắn đã học được từ đâu thế nhỉ?”.

Phải biết Qua Chấn Quân là đại sư huynh, lúc Địch Kinh Sĩ mới nhập sư môn một hai năm đầu còn do y thay thế sư phụ truyền thụ kiếm pháp cho. Về sau Địch Kinh Sĩ tuy được đích thân sư phụ truyền dạy, nhưng sư huynh đệ cũng là cùng lúc luyện tập, và đương nhiên cũng là do sư huynh chịu trách nhiệm đôn đốc và chỉ đạo. Vì vậy Qua Chấn Quân có thể kể được là một nửa sư phụ của Địch Kinh Sĩ. Vậy mà giờ đây, Địch Kinh Sĩ lại thi triển một chiêu kiếm pháp y chưa từng trông thấy, sao mà y không kinh ngạc được. Nhưng tiếp theo sau lại càng khiến Qua Chấn Quân kinh ngạc hơn nữa, Địch Kinh Sĩ vừa xoay chuyển tình thế, kiếm pháp cũng liền hoàn toàn thay đổi, chỉ thấy trường kiếm trong tay chàng liên tiếp vạch ra những vòng tròn, to có nhỏ có, vây bọc kiếm thế của Qua Chấn Quân, không sao triển khai theo ý muốn được nữa. Đồng thời, những vòng tròn kiếm của Địch Kinh Sĩ như có sức hút mạnh mẽ, dần khiến cho trường kiếm của Qua Chấn Quân chuyển động theo.

Hà Ngọc Yến không nghe tiếng binh khí va chạm nhau, lấy làm lạ, mở mắt ra nhìn.

Qua Chấn Quân lòng đầy hồ nghi, quát:

– Thì ra ngươi ở Liêu Đông đã đầu nhập phái khác, thảo nào đã dám phản bội sư môn.

Địch Kinh Sĩ cười khẩy:

– Thật uổng cho đại sư huynh là đệ tử Chưởng môn.

– Ngươi nói vậy là sao?

Bỗng nghe Hà Ngọc Yến lớn tiếng nói:

– Đại sư huynh, đó là kiếm pháp của bổn môn.

Qua Chấn Quân vỡ lẽ, thất thanh nói:

– Đây ... đây là «Thái Cực Kiếm Pháp» của bổn môn ư?

Thì ra phái Võ Đang có hai pho kiếm pháp danh chấn giang hồ, một là bảy mươi hai chiêu «Liên Hoàn Đoạt Mệnh Kiếm Pháp», còn một chính là «Thái Cực Kiếm Pháp». Trên giang hồ thường thấy là «Liên Hoàn Đoạt Mệnh Kiếm Pháp», còn «Thái Cực Kiếm Pháp» thì thậm chí đệ tử bổn môn, nhất là đệ tử tục gia cũng có rất nhiều người chưa từng được chứng kiến.

Bởi «Thái Cực Kiếm Pháp» là do sư tổ Trương Tam Phong đã sáng chế ra vào lúc cuối đời, và vì pho kiếm pháp này rất tinh thâm ảo diệu, muốn luyện thành ngoại trừ nội công phải thâm hậu, bản thân còn phải có tư chất thật tốt, nên đệ tử Võ Đang đều là luyện «Liên Hoàn Đoạt Mệnh Kiếm Pháp» trước, sau đó khi có thành tựu rồi mới được sư phụ tuyển chọn truyền thụ «Thái Cực Kiếm Pháp», không phải người nào cũng có thể học.

Mặt khác, vì Trương Tam Phong là đạo sĩ, theo quy củ bất thành văn do ông truyền lại, mười người được truyền thụ «Thái Cực Kiếm Pháp» hết chín người là đệ tử đạo gia, rất ít trường hợp được truyền cho đệ tử tục gia. Nguyên nhân là vì Trương Tam Phong sợ đệ tử tục gia dễ gây ra tai họa trên giang hồ, nên sự tuyển chọn cũng hết sức nghiêm khắc. Cũng chẳng phải tuyệt đối không truyền thụ cho đệ tử tục gia, mà là ngoại trừ hai điều kiện ắt có của đệ tử đạo gia, đệ tử tục gia còn phải trải qua sự khảo sát ngấm ngầm của Trưởng lão bổn môn, khẳng định người đó có nhân phẩm tốt mới truyền thụ. Quy củ bất thành văn này của phải Võ Đang mãi đến cuối đời nhà Minh, đầu đời nhà Thanh mới dần thay đổi.

Phụ thân Hà Ngọc Yến là Hà Kỳ Vũ có luyện «Thái Cực Kiếm Pháp», nhưng một là vì các đệ tử chưa luyện thành «Liên Hoàn Đoạt Mệnh Kiếm Pháp», không muốn cho các đệ tử vượt cấp, hai là vì tuân thủ môn quy, chờ các đệ tử dấn thân trên giang hồ vài ba năm, khảo sát nhân phẩm của họ, nhận thấy được mới truyền thụ. Hà Kỳ Vũ vì sợ các đệ tử thấy pho kiếm pháp này sẽ sinh lòng ao ước, nên khi luyện «Thái Cực Kiếm Pháp» ông đều chọn lúc đêm khuya, một mình luyện tập trong nội viên. Tuy nhiên đối với con gái thì ông chẳng thể không cho xem, mà chỉ có thể cảnh cáo nàng không nên luyện vượt cấp. Việc luyện võ là phải tiến theo trình tự. Do đó, Hà Ngọc Yến cũng chỉ nhận ra được chứ chưa phải là hiểu biết về «Thái Cực Kiếm Pháp».

Qua Chấn Quân vừa nghe kiếm pháp Địch Kinh Sĩ thi triển là «Thái Cực Kiếm Pháp», lập tức biến sắc mặt, thầm nhủ:

“Sư phụ thường ngày dường như là không mấy ưa tên tiểu tử này, nào ngờ lại âm thầm truyền thụ «Thái Cực Kiếm Pháp» cho y. Hừ, mình là đệ tử Chưởng môn, cứ nghĩ là y bát của sư phụ đương nhiên sẽ phải truyền cho mình, thật chẳng ngờ sư phụ lại thiên vị như vậy.”.

Bất giác lửa ganh tỵ bừng dậy, bất chấp mình có phải là địch thủ của sư đệ hay không, lại vung kiếm tấn công tới tấp.

Trong khi ấy, Hà Ngọc Yến lại càng kinh ngạc hơn, thì ra nàng cũng như Qua Chấn Quân, trước đây nàng cũng không hề biết là Địch Kinh Sĩ đã luyện thành «Thái Cực Kiếm Pháp».

Qua Chấn Quân tuy liều mạng tấn công, nhưng hoàn toàn bị Địch Kinh Sĩ hóa giải. Trong khi áp lực đối với Địch Kinh Sĩ tuy đã giảm nhiều, nhưng cõi lòng của Hà Ngọc Yến mỗi lúc càng thêm trĩu nặng.

Kinh Sĩ đã học được «Thái Cực Kiếm Pháp» từ đâu? Vì sao ngay cả đối với mình cũng không thố lộ thế nhỉ? Giữa vợ chồng với nhau lẽ ra không nên có bí mật mới phải, vậy mà giờ đây Hà Ngọc Yến đã phát hiện bí mật của chồng không chỉ có một mà thôi. Bức mật thư của Hoắc Bốc Thác, Kinh Sĩ đã giấm giếm nàng.

Đêm qua Kinh Sĩ đã lén lút bỏ đi, chàng đã gặp gỡ những ai? Chàng cũng không chịu nói cho vợ biết. Giờ đây lại thêm pho «Thái Cực Kiếm Pháp», khiến Hà Ngọc Yến càng thêm nghi hoặc.

Không sai, cho đến lúc này nàng vẫn chưa tin Địch Kinh Sĩ có thể là hung thủ đã sát hại phụ thân mình, nhưng nghĩ đến chồng giấu giếm mình nhiều điều như thế này, đó cũng đủ khiến nàng đau lòng và phẫn uất rồi.

Bỗng nàng cảm thấy bụng đau kịch thắt, chẳng rõ có phải do quá kích động mà nên hay không, bởi thai nhi vốn chưa đủ tháng. Bụng mỗi lúc càng đau dữ dội, dù nàng chưa hề có kinh nghiệm, nhưng cũng biết đây là cơn đau trước lúc lâm bồn.

Địch Kinh Sĩ mỗi lui một bước là hóa giải một phần thế công của đại sư huynh, lúc này chàng đã chuyển thủ sang công.

Qua Chấn Quân một chiêu «Cử Hỏa Liệu Thiên» vừa tung ra, lập tức bị vòng kiếm của Địch Kinh Sĩ phong tỏa.

Địch Kinh Sĩ quát:

– Đại sư huynh nếu còn chưa chịu buông tay, chớ trách Địch mỗ không nương tình nữa đấy.

Chàng chỉ cần vạch thêm nửa vòng tròn là có thể chém đứt cánh tay của Qua Chấn Quân. Ngay khi ấy, chàng bỗng nghe tiếng rên đau đớn của Hà Ngọc Yến. Địch Kinh Sĩ giật mình sửng sốt hỏi:

– Yến muội sao vậy hả?

Hà Ngọc Yến rên rỉ:

– Tiểu muội van xin hai người đừng đánh nhau nữa. Tiểu muội ... sắp chết rồi, hãy mau đến giúp tiểu muội ...

Tiếng nói bỗng đứt đoạn, rồi «oa» một tiếng, đó là tiếng khóc của trẻ vừa sinh ra đời.

Địch Kinh Sĩ vừa kinh vừa mừng, bất chấp tất cả, chạy nhanh đến bên vợ, vung kiếm cắt đứt dây rốn, bồng đứa trẻ sơ sinh lên, mừng rỡ reo:

– Ô, con trai.

Ngay khi đang vui mừng khôn xiết, chàng bỗng cảm thấy lạnh thấu tim gan, thì ra trường kiếm của Qua Chấn Quân đã từ sau đâm tới, đâm thẳng vào tim chàng.

Chỉ nghe Qua Chấn Quân giọng lạnh toát nói:

– Sư muội đừng trách sư huynh đã giết hắn, hắn không xứng đáng làm cha của đứa trẻ này.

Hà Ngọc Yến thừ ra như phỗng đá, nàng như không nghe tiếng nói của Qua Chấn Quân, thậm chí cả tư tưởng cũng cô đặc lại. Trong khoảnh khác ấy, đầu óc nàng hoàn toàn trở nên trống rỗng.

Đường kiếm quá nhanh, Địch Kinh Sĩ như cũng chưa biết chuyện gì đã xảy ra, chỉ mặt hiện lên nét ngơ ngẩn, người chao đảo hai lượt rồi từ từ ngã xuống, trên tay còn bồng chặt đứa trẻ sơ sinh.

Đứa trẻ sơ sinh va vào đất đá, đau đớn, lại bật khóc oa oa.

Qua Chấn Quân cúi người xuống gỡ hai tay Địch Kinh Sĩ ra, bồng đứa bé lên, lạnh lùng nói:

– Qua mỗ đã để cho ngươi nhìn thấy con, ngươi có thể nhắm mắt được rồi, đó chính là miệng ngươi đã nói.

Hà Ngọc Yến như bừng tỉnh trong cơn ác mộng bởi tiếng khóc của đứa trẻ, gào lên:

– Đưa đứa trẻ đây.

Qua Chấn Quân gượng cười:

– Yến muội hãy xem, đứa trẻ này giống Yến muội quá.

Hà Ngọc Yến đón lấy đứa trẻ, mắt nàng không rơi lệ, nhưng tiếng nói còn bi thiết hơn là khóc:

– Khổ cho hài nhi quá, vừa mới sinh ra đã mất cha ... mất mẹ ...

Qua Chấn Quân kinh hãi:

– Sư muội chớ suy nghĩ vớ vẩn.

Hà Ngọc Yến hôn nhẹ lên mặt đứa trẻ:

– Sư ca, tiểu muội thật có lỗi với sư ca. Tiểu muội cầu xin sư ca một điều, sư ca có chịu nhận lời không?

– Sư muội muốn gì, ngu huynh cũng ưng thuận hết.

– Tiểu muội biết thế nào sư ca cũng sẽ báo thù cho gia phụ, nên tiểu muội không cầu xin sư ca báo phụ thù, nhưng việc này còn khó hơn báo thù nhiều.

– Sư muội cứ nói, bất luận khó khăn đến mấy, ngu huynh cũng sẽ cố gắng hết sức làm tròn.

– Có câu này của đại sư huynh là tiểu muội yên tâm rồi. Tiểu muội cầu xin sư ca nuôi dưỡng đứa trẻ này đến khi khôn lớn nên người ...

– Sư muội yên tâm, ngu huynh nhất định sẽ lo tròn, chúng ta vốn ra chính là ... chính là ... nếu sư muội đồng ý, ngu huynh mong được làm cha đứa trẻ này.

Hà Ngọc Yến cười não nề:

– Không sai, tiểu muội không thể làm vợ sư ca được, chỉ có thể cầu xin sư ca làm cha đứa trẻ này thôi.

Nghe ra lời nói hai người gần như giống nhau, nhưng thật ra ý hoàn toàn khác.

Hà Ngọc Yến nói tiếp:

– Sư ca có thể không cho đứa trẻ này biết phụ thân là ai, nhưng nếu sư ca không phản đối, tiểu muội muốn đặt cho đứa trẻ một cái tên. À, gọi là Ngọc Kinh vậy.

Ngọc Kinh! Đó chẳng phải là tên giữa của hai vợ chồng ghép lại là gì? Cho dù nàng có thể không cho đứa trẻ biết phụ thân là ai, nhưng tên của đã hàm ý kỷ niệm song thân rồi. Nghĩ sâu hơn, cái tên ấy cũng hàm chứa một phần tình cảm của nàng dành cho Địch Kinh Sĩ, nàng không hề xem Địch Kinh Sĩ là kẻ thù giết cha, hãy còn thừa nhận Địch Kinh Sĩ là chồng nàng.

Qua Chấn Quân bất giác cảm thấy lòng chua chát khôn tả, nhưng trong hoàn cảnh này, y còn trách nàng được chăng? Y đành gượng cười, nói:

– Tên được lắm, nhưng nếu sư muội có thể chính mình dạy dỗ đứa trẻ thì càng tốt hơn.

Hà Ngọc Yến tiếng nói càng lúc càng khẽ:

– Ôi, sống trên đời này thật quá đau khổ, xin thứ cho tiểu muội đã đổ trút phiền phức cho sư ca. Ôi, tiểu muội thật đã nợ sư ca quá nhiều, lúc sắp chết còn ...

còn ...

Qua Chấn Quân hoảng kinh:

– Sư muội ... sư muội phải sống tiếp.

Nhưng đã muộn, Hà Ngọc Yến đã ngoẹo đầu sang bên, ngả vào lòng y, trút hơi thở cuối cùng.

Vạn vật và trời đất tựa hồ như đều dừng lại, trên mặt đất có thi thể của Hà Lượng, thi thể của Địch Kinh Sĩ, giờ lại thêm thi thể của Hà Ngọc Yến. Âm thanh duy nhất chỉ còn tiếng khóc của đứa trẻ sơ sinh tội nghiệp, vừa mới chào đời đã mồ côi cả cha lẫn mẹ.

Qua Chấn Quân tay bồng đứa bé, đôi mày khóa chặt:

– Ôi, nuôi dưỡng đứa trẻ này đến khi khôn lớn nên người, đâu chỉ là chút «phiền phức» đơn giản như vậy.

Đúa trẻ khóc thét lên và cào vào mặt Qua Chấn Quân, y cũng nhìn đứa trẻ thật kỹ. Trẻ mới sinh ra, chưa thể phân biệt được là giống cha hay giống mẹ hơn.

Ô! Đây là con của Địch Kinh Sĩ, nhưng cũng là con của Hà Ngọc Yến.

Chẳng rõ là yêu mẹ nên thương con, hay là bản thân đứa trẻ dễ thương, Qua Chấn Quân tương chừng như mình thật sự đã làm cha, âu yếm vỗ về:

– Ngoan, đừng khóc, đừng khóc, ngoan nào.

Nhưng đứa trẻ vẫn khóc. Y có rất nhiều chuyện phải làm, nhưng hiện giờ việc cần thiết hơn hết là sắp xếp thế nào về đứa trẻ. Y không biết trẻ sơ sinh có đói hay không, nhưng dẫu thế nào cũng phải cho nó ăn chút gì đó, và cũng chẳng thể để nó trần trùi trụi thế này, ở chốn núi rừng sẽ cảm lạnh mất.

Người đi xa hẳn có chuẩn bị nước uống. Qua Chấn Quân đã tìm được túi nước bên cạnh Hà Ngọc Yến, đỗ chút ít cho đứa trẻ uống, cười héo hắt nói:

– Ngươi không có sữa mẹ bú, đành uống nước thay sữa vậy.

Đứa trẻ uống xong, quả nhiên thôi khóc.

Nhưng nước dẫu sao cũng chẳng thay thể cho sữa được. Qua Chấn Quân tuy chẳng có kinh nghiệm nuôi trẻ, nhưng cũng biết trẻ sơ sinh nhất thiết phải có chất sữa, dù không phải sữa mẹ, thì cũng phải là sữa người.

Mưa đã ngưng, nhưng trời cũng đã gần hoàng hôn, bên kia thung lũng có khói bốc lên nghi ngút. Qua Chấn Quân chợt nhớ:

– Hiện đang sẵn có một người, sao mình không nghĩ đến nhỉ?

Chính là ngôi nhà kia, có một đôi vợ chồng trẻ cư trú. Chồng tên Lam Kháo Sơn, là một thợ săn, vợ cũng là một thiếu phụ khỏe mạnh đảm đang. Chính vị Lam đại tẩu này mấy hôm trước vừa sinh ra một đứa con gái. Qua Chấn Quân quen rất thân với đôi vợ chồng này, và có lần còn giúp Lam Kháo Sơn đánh chết một con mãnh hổ. Lúc ấy chiếc đinh ba của Lam Kháo Sơn tuy đã đâm vào mình mãnh hổ, nhưng da hổ cứng và dầy, đã thụ thương càng thêm hung dữ. Nếu không nhờ Qua Chấn Quân đến kịp, Lam Kháo Sơn khó mà thoát khỏi miệng hổ.

Qua Chấn Quân thầm nhủ:

“Lam đại tẩu thân thể cường tráng, sữa chi ra cho hai đứa trẻ hẳn là cũng đủ. Lam đại ca là người thật thà, đáng tin cậy, cho dù chẳng kể đến ân huệ của mình, hai người cũng là bạn quen nhau từ thuở bé, Lam đại ca nhất định sẽ giữ bí mật giùm mình.”.

Thế là đã quyết định, Qua Chấn Quân thuận tay từ trong tay nải của Địch Kinh Sĩ lấy ra một chiếc áo, bọc lấy đứa trẻ, vội vã đi tìm Lam Kháo Sơn.

Quả nhiên không ngoài dự liệu, vợ chồng Lam Kháo Sơn sốt sắng nhận lời ngay.

Qua Chấn Quân đã bày cho họ bịa chuyện là đã nhặt được đứa trẻ này dưới chân núi. Người thợ săn thật thà không bao giờ nói dối này cũng phá lệ ưng thuận.

Hai bên thỏa thuận với nhau là khi đứa trẻ này sáu bảy tuổi, Qua Chấn Quân sẽ đến nhận về.

Đi và về không đến mười dặm đường, khi Qua Chấn Quân từ nhà Lam Kháo Sơn về đến chỗ xảy ra biến cố, trời còn chưa tối.

Tất cả đều giống như trước khi y rời khỏi, chỉ khác là lúc ra đi, thi thể của Hà Ngọc Yến và Địch Kinh Sĩ là ở hai nơi, tuy cách nhau không xa, nhưng bây giờ thi thể hai người lại nằm gần bên nhau, một tay Hà Ngọc Yến nắm lấy bàn tay vươn tới trước của Địch Kinh Sĩ. Đó là vì lúc ấy họ chưa chết hẳn, hay là đã có người di chuyển thi thể của họ?

Trên mặt đất không hề có dấu vết của người lạ, và Qua Chấn Quân cũng chẳng tin có người lại làm điều vớ vẩn như vậy. Y chau mày, gỡ tay hai người chết ra, sau đó dùng chiếc thuổng sắt vừa mượn được của vợ chồng Lam Kháo Sơn bắt đầu đào hố. Y đào xong một cái hố, bồng thi thể Hà Ngọc Yến lên, không cầm được nước mắt, xót xa nói:

– Sư muội hãy yên tâm ra đi, ngu huynh sẽ xem con của tiểu muội như là con mình vậy. Ôi, hôm chia tay ngu huynh chẳng thể tiễn đưa sư muội, không ngờ hôm nay là ngày vĩnh biệt.

Trời đã tối, lẽ ra chôn chung hai vợ chồng là tiện hơn hết, nhưng Qua Chấn Quân nghĩ đến cảnh sư muội nắm tay Địch Kinh Sĩ, không nén được lửa hờn ghen trong lòng, thầm nhủ:

“Hắn đã lừa dối mọi người. Dù sư muội cùng y chăn gối lúc sống, ngu huynh quyết không thể để sau khi chết, y cùng chung mộ huyệt với sư muội.”.

Y đặt thi thể sư muội xuống hố rồi lấp đất lại, dựng đá làm dấu. Sau đó lại đào tiếp lỗ thứ hai, vừa được nửa chừng, bỗng nghe tiếng bước chân hối hả. Qua Chấn Quân ngẩng lên nhìn, chỉ thấy đó là một lão đạo sĩ râu dài. Qua Chấn Quân giật mình sửng sốt, vội ném xuổng đi, khom mình thi lễ nói:

– Vô Cực sư bá, xin thứ cho đệ tử đã thất nghinh.

Thì ra Vô Cực đạo trưởng này là người đứng đầu Võ Đang Tam Lão, địa vị trong phái Võ Đang chỉ kém hơn mỗi mình Chưởng môn nhân Vô Tướng mà thôi.

Vô Cực đạo trưởng như đến đây rất vội vã, đưa tay lau mồ hôi trán, hơi thở hổn hển.

Qua Chấn Quân lấy làm lạ, thầm nhủ:

“Vô Cực sư bá võ công thâm hậu, cho dù đi đường xa cũng không đến nỗi mệt nhọc như thế, vì sao thế nhỉ?”.

Vô Cực đạo trưởng chưa điều hòa xong hơi thở, ánh mắt đã di chuyển đến thi thể Địch Kinh Sĩ, vẻ mặt càng thêm khó coi. Qua Chấn Quân thấy vậy lòng thắc thỏm không yên, vừa định bẩm cáo, Vô Cực đạo trưởng đã cất tiếng nói:

– Bần đạo đã đến chậm rồi.

Câu ấy được thốt ra với tiếng thở dài não nuột.

– Bẩm sư bá, đệ tử đây là thay sư phụ thanh lý môn hộ.

Vô Cực đạo trưởng khoát tay:

– Ngươi không cần phải nói. Hôm trước, lúc Đinh sư thúc ngươi từ Liêu Đông trở về, đã có đến Võ Đang Sơn bẩm báo Chưởng môn, lúc ấy ta cũng có mặt, đã biết hết mọi sự rồi.

Đó là điều đương nhiên, Qua Chấn Quân chẳng phải là không nghĩ đến, song vì Vô Cực đạo trưởng nói câu đầu tiên là:

«Bần đạo đã đến muộn rồi», y sợ sư bá quở trách mình tự ý giết chết sư đệ, nên vội phân trần trước.

Qua Chấn Quân thầm nhủ:

“Sư bá biết hết rồi thì tốt. Gian đồ tặc tử, ai cũng có quyền diệt trừ, sư bá hẳn không đến đỗi trách đệ tử thay mặt sư phụ thanh lý môn hộ chứ?”.

Vô Cực đạo trương dường như biết thâm ý của Qua Chấn Quân, thở dài nói:

– Ta cũng chẳng rõ là ngươi có giết lầm người hay không.

Ông quét mắt nhìn Qua Chấn Quân, ngưng một hồi mới nói tiếp:

– Việc này rất nhiều nghi vấn, nhưng tiếc là ta không có thời gian tỉ mỉ nói với ngươi, chỉ có thể cho ngươi biết điều quan trọng hơn hết. Thứ nhất, Hoắc Bốc Thác không phải là người Mãn.

Qua Chấn Quân sửng sốt:

– Nhưng Đinh sư thúc đã điều tra rõ ràng, y là đệ tử phái Trường Bạch, và lại là vệ sĩ của kha hãn Mãn Châu Nỗ Nhi Ha Xích.

– Không sai, Nỗ Nhi Ha Xích cũng tưởng y là người Mãn Châu, nếu không cũng đâu chọn y làm vệ sĩ. Nhưng thật ra y là người Hán, hơn nữa phụ thân y còn là một vị kiếm khách rất có tiếng tăm hồi hai mươi năm về trước, ngươi có từng nghe đến tên Quách Đông Lai chưa?

– Phải chăng là Thương Châu kiếm khách Quách Đông Lai đã thất tung ở Quan Ngoại hồi hai mươi năm về trước?

– Không sai, Quách Đông Lai đã chết tại Quan Ngoại, Hoắc Bốc Thác đã trưởng thành với nghĩa phụ. Nghĩa phụ y là người tộc Nữ Chân, đã đặt tên Mãn Châu cho y. Nhưng họ Hoắc với họ Quách có âm gần giống như nhau.

– Phải chăng sư bá vì y là hậu duệ hiệp nghĩa người Hán nên cho là y chưa chắc là thật sự trung thành với Nỗ Nhi Ha Xích? Nhưng tục ngữ có câu «Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng», hơn nữa y chưa chắc đã biết thân thế thật sự của mình.

– Ngươi nói cũng chẳng phải là không có lý, nhưng ta hiểu biết về thân thế y cũng chỉ có bấy nhiêu thôi. Nghĩa phụ y là người gì, ta cũng không rõ, nên không dám nói là y thân ở Tào mà lòng ở Hán, nhưng cũng chẳng dám quyết chắc y là gian tế.

Ngay cả thân phận gian tế của Hoắc Bốc Thác còn chưa thể khẳng định, vậy thì phân thận gian tế của Địch Kinh Sĩ lại càng không thể quả quyết. Qua Chấn Quân lòng bàn tay bắt đầu vã mồ hôi lạnh.

– Nhưng bức thư của Hoắc Bốc Thác viết cho Địch Kinh Sĩ đã nói gì sẽ được một chức quan ở Kinh sư, lại bảo Địch Kinh Sĩ lo liệu xong đại sự gì đó, lập tức lên đường đến kinh sư hợp tác với y, vậy thì giải thích thế nào đây? Giọng điệu như là ẩn giấu một âm mưu gì đó.

– Ta cũng chẳng rõ trong thư đã nói là việc gì, đương nhiên là có mưu đồ, nhưng không hẳn là bảo Địch Kinh Sĩ phản bội sư môn.

– Không hẳn là phản bội sư môn, nhưng cũng không hẳn là không phản bội sư môn.

– Qua Chấn Quân, ngươi đừng nghĩ là ta đêm đây để biện hộ cho Địch Kinh Sĩ. Chính vì ta không dám khẳng định nên mới nói là chẳng rõ là ngươi có giết lầm ngươi hay không.

Qua Chấn Quân lặng thinh.

Vô Cực đạo trưởng lại nói tiếp:

– Điều thứ nhì ta muốn nói cho ngươi biết là Đinh sư thúc ngươi không phải chết dưới tay của phái Trường Bạch.

Qua Chấn Quân ngạc nhiên:

– Nghe nói thi thể Đinh sư thúc không có thương tích, vậy sao không phải là dưới tay phái Trường Bạch?

– Ngươi tưởng là chỉ có «Phong Lôi Chưởng» của phái Trường Bạch mới có thể lực thấu thể tạng, giết người không để lại dấu tích hay sao?

– Đệ tử hiểu biết hạn hẹp, chỉ được nghe sư phụ dường như từng có nói vậy.

– Sư phụ ngươi đã nói vậy lúc nào?

– Ba năm về trước, lúc đệ tử mới xuất đạo, sư phụ có kể cho đệ tử nghe về đặc điểm võ công của các môn phái. Vì phái Trường Bạch ở Quan Ngoại chống đối lại các đại môn phái ở Trung Nguyên, nên về «Phong Lôi Chưởng» của phái Trường Bạch, sư phụ đã nói tỉ mỉ hơn.

Vô Cực đạo trưởng khẽ thở dài:

– Nếu mà là bây giờ, có lẽ sư phụ ngươi đã không nói như vậy.

Qua Chấn Quân không hiểu ý, vừa định hỏi, Vô Cực đạo trưởng đã khoát tay nói:

– Ngươi hãy nghe ta nói tiếp, chính ta là người đầu tiên đã phát hiển ra thi thể của Đinh sư thúc ngươi, y bị ám toán trong một khách điếm nhỏ. Lúc ta phát hiện, thi thể Đinh sư đệ còn chưa lạnh, ta nhìn qua đã biết đó là do người của bổn môn hạ độc thủ.

Qua Chấn Quân bàng hoàng:

– Hung thủ là người bổn môn ư? Sao sư bá biết?

– «Thái Cực Chưởng» của bổn phái nếu luyện đến hỏa hầu cũng có thể giết người mà không để lại thương tích, nhưng «Thái Cực Chưởng» là thuần nhu, còn «Phong Lôi Chưởng» là thuần dương, nên tuy cùng không có để lại thương tích trên người, nhưng nếu mổ thi thể ra xem, người chết bởi «Phong Lôi Chưởng» hẳn là tim phổi vỡ nát, còn chết bởi «Thái Cực Chưởng» thì nội tạng vẫn như thường. Tuy nhiên, ta chỉ cần nhìn qua cũng đã nhận ra, không cần mổ thi thể ra xem.

Qua Chấn Quân ấp úng:

– Đệ tử đang định cho sư bá biết một điều lạ lùng, Địch Kinh Sĩ cũng biết «Thái Cực Kiếm Pháp».

– Trước khi y sử dụng «Thái Cực Kiếm Pháp», có từng sử dụng «Liên Hoàn Đoạt Mệnh Kiếm Pháp» hay không?

– Có, chính vì «Liên Hoàn Đoạt Mệnh Kiếm Pháp» không địch nổi đệ tử, nên hắn mới đổi sang «Thái Cực Kiếm Pháp».

– Vậy thì hung thủ chắc chắn không phải y rồi. Không sai, «Thái Cực Kiếm Pháp» phải cần có một nội công bổn môn làm nền tảng. «Thái Cực Chưởng» khi luyện đến trình độ có thể sát hại được Đinh sư thúc của ngươi, nội công đã đến gần cảnh giới lư hỏa thuần thanh. Nội lực của Địch Kinh Sĩ còn chưa bằng ngươi, đương nhiên chưa đạt đến trình độ ấy. Ta biết sư phụ ngươi hồi năm rồi mới luyện «Thái Cực Kiếm Pháp» đến mức thượng thừa, như vậy hẳn cùng cũng có thể vận dụng cao thâm về «Thái Cực Chưởng», nhưng nội công đâu thể truyền cho đệ tử một cách nhanh chóng.

Qua Chấn Quân bây giờ mới vỡ lẽ, sư phụ y năm rồi võ công bổn phái mới đại thành, vậy thì ba năm trước đương nhiên còn chưa biết điểm giống nhau và khác nhau giữa «Thái Cực Chưởng» và «Phong Lôi Chưởng». Y thừ ra một hồi mới nói:

– Nhưng hung thủ sát hại Đinh sư thúc quyết chẳng thể là sư phụ.

– Đương nhiên rồi. Ôi, giá mà sư phụ ngươi còn thì tốt biết mấy, ta đâu phải gấp gáp đến tìm ngươi thế này.

– Gia sư ngộ hại, đệ tử đang định bẩm báo sư bá, thì ra sư bá đã biết ...

– Phải, ta đã có đến nhà sư phụ ngươi, chính vì sư phụ ngươi đã chết nên ta mới phải đến đây.

– Sư bá có xem xét nguyên nhân chết của gia sư chưa?

Vô Cực đạo trưởng chậm rãi nói:

– Hung thủ sát hại sư phụ ngươi cũng sử dụng thủ pháp của bổn môn.

– Vậy Hà Lượng đã không nhìn lầm người rồi.

– Hà Lượng đã trông thấy hung thủ ư?

Qua Chấn Quân nghiến răng:

– Chính vì Hà Lượng trông thấy tên nghịch đồ này sát hại sư phụ, nên hắn mới giết luôn Hà Lượng diệt khẩu.

Vô Cực đạo trưởng lặng thinh trầm ngâm.

Qua Chấn Quân nói tiếp:

– Đệ tử chính vì phải báo thù cho sư phụ. Nếu mà không dứt khoát, e rằng tên nghịch đồ này tẩu thoát, cho nên mới lập tức xử trị hắn. Khi nào sư bá về Võ Đang, xin hãy bẩm cáo Chưởng môn giùm đệ tử, thứ cho tội chuyên quyền của đệ tử.

Vô Cực đạo trưởng chỉ cười áo não, vẫn không lên tiếng.

Qua Chấn Quân không nén được hỏi:

– Tên nghịch đồ này sát hại sư phụ, tội chứng đã rõ ràng, sư bá còn gì hoài nghi nữa ư?

– Ta e rằng không thể trở về Võ Đang Sơn chuyển bẩm Chưởng môn giùm ngươi được nữa rồi.

Qua Chấn Quân sửng sốt:

– Sao vậy?

– Nguyên nhân này lát nữa hẵng nói, ta muốn biết Hà Lượng có phải thật sự đã trông thấy rõ ràng hay không?

Qua Chấn Quân lòng có phần không yên, song vẫn nói:

– Đêm qua tuy trời mưa, nhưng Hà Lượng đã nhìn thấy hắn lớn lên, hẳn là không thể nhìn lầm. Hơn nữa, nếu hắn không phải có tật giật mình thì hà tất giết Hà Lượng diệt khẩu?

Qua Chấn Quân sợ sư bá trách y hành động hấp tấp, chưa điều tra rõ ràng đã giết người bừa bãi, nên đã giấu không nói ra là Hà Lượng chỉ trông thấy bóng sau lưng.

Vô Cực đạo trưởng ngẫm nghĩ hồi lâu mới nói:

– Hà Lượng đã chính mắt trông thấy, lẽ ra thì không còn nghi ngờ gì nữa, nhưng ...

– Nhưng sao?

Vô Cực đạo trưởng đột nhiên vung tay, một chưởng bổ thẳng vào người Qua Chấn Quân.

Qua Chấn Quân giật mình kinh hãi, theo bản năng xuất thủ chống đỡ, trong tình thế sống chết, đương nhiên y đã vận hết toàn lực.

Vô Cực đạo trưởng chỉ sử dụng hai thành công lực, Qua Chấn Quân đã lảo đảo suýt ngã.

Vô Cực đạo trưởng đỡ y lại nói:

– Ngươi đừng kinh hãi, ta chỉ là thử công lực của ngươi thôi.

Nhưng trong khi nói, ông lắc đầu như đang suy nghĩ điều gì đó.

Qua Chấn Quân định thần lại, vội nói:

– Đêm qua, lúc gia sư bị hại, đệ tử đang ở ngoài trấn, không có trong nhà.

Vô Cực đạo trưởng cười:

– Ta dương nhiên là không hoài nghi ngươi, thử công lực của ngươi chỉ là để chứng thực một điều thôi.

– Điều gì vậy?

Vô Cực đạo trưởng chậm rãi nói:

– Địch Kinh Sĩ không phải là hung thủ sát hại sư phụ ngươi, bởi hung thủ đã dùng một chiêu trong «Liên Hoàn Đoạt Mệnh Kiếm Pháp» hóa làm chưởng pháp, qua thương tích trên người sư phụ ngươi có thể nhận ra, đó là một chiêu trí mạng.

Qua Chấn Quân hiểu ý ông nói:

– Sư phụ đang lúc bệnh hoạn, hơn nữa lão nhân gia không ngờ hung thủ lại là ...

Y sực nhớ ra sư bá đã hạ kết luận hung thủ không phải là Địch Kinh Sĩ, nên y đành nuốt lại ba tiếng Địch Kinh Sĩ.

– Không sai, sư phụ ngươi hẳn vì hung thủ là người quen thân nên không đề phòng mới bị ám toán. Tuy nhiên với nội công của sư phụ ngươi, cho dù là đang lúc bệnh hoạn cũng chẳng dễ gì bị người ta một chưởng đánh chết. Nội lực người này tuy không bằng hung thủ đã sát hại Đinh sư thúc ngươi, nhưng so với ngươi thì thâm hậu hơn nhiều, ta nghĩ là mình đã không nhận xét lầm.

Qua Chấn Quân nhẹ người, thầm nghĩ:

– Chỉ cần sư bá không nghi ngờ Qua mỗ là được rồi.

Vô Cực đạo trưởng nói tiếp:

– Nội lực người ấy đã thâm hậu hơn ngươi, trong khi Địch Kinh Sĩ nội lực không bằng ngươi, vậy thì hung thủ sao lại là y được?

– Vậy chả lẽ Hà Lượng đã nói dối?

Qua Chấn Quân vì muốn thối thác trách nhiệm, vẫn không dám nói ra chi tiết.

– Ta thấy hẳn là có vấn đề, chỉ tiếc là Hà Lượng đã chết, không sao tra hỏi tận tường. Tuy nhiên, qua sự thật đã biết, ít ra cũng có thể xác định một điều, đó là bổn môn đã có phản đồ và không chỉ một người, hung thủ sát hại Đinh sư thúc người là một, hung thủ sát hại sư phụ ngươi là hai, thậm chí còn có kẻ thứ ba.

– Kẻ thứ ba có thể là Địch Kinh Sĩ chăng?

Qua Chấn Quân nghĩ đến rất có thể mình đã giết lầm người, tiếng nói bất giác run rẩy.

Vô Cực đạo trưởng nhấn mạnh:

– Ta không dám nói y không phải là phản đồ thứ ba, nhưng có thể khẳng định y không phải là một trong hai hung thủ kia.

Ông như có vẻ mỏi mệt, người thoáng chao đảo, thở mạnh một hơi mới nói tiếp:

– Nhưng bất luận y có phải là phản đồ hay không, đằng nào y cũng đã chết rồi, nên điều cần làm trước mắt không phải là tra cứu sự thật về việc phản bội sư môn của y, mà là cấp tốc bẩm cáo với Chưởng môn về những gì đã biết.

Qua Chấn Quân lặng thinh, Vô Cực đạo trưởng nói tiếp:

– Kẻ sát hại sư phụ ngươi còn là phụ, kẻ hạ sát Đinh sư thúc ngươi công lực mới đáng kể, «Thái Cực Chưởng» của y thật có thể nói đã vận dụng đến mức xuất thần nhập hóa, ngay cả ta cũng không bằng.

Qua Chấn Quân lặng người:

– Cao thủ cỡ như sư bá, trong bổn phái có lẽ chẳng có được mấy người.

Trong số đệ tử đạo gia phái Võ Đang, cùng vai vế với Vô Cực có chưởng môn nhân Vô Tướng cùng hai vị trưởng lão Vô Sắc và Vô Lượng, còn đệ tử tục gia thì có đến sáu bảy người, nhưng trình độ võ công của họ không thê sánh bằng đệ tử đạo gia, nên «mấy người» mà Qua Chấn Quân nói thật ra chỉ gồm Vô Tướng, Vô Sắc và Vô Lượng.

Vô Cực đạo trưởng lắc đầu:

– Sự việc trọng đại, ta không dám đoán bừa, ngươi cũng không nên nghĩ bậy. Hơn nữa, chưa hẳn là lớp tuổi già trong phái mới có cao thủ như vậy. Tục ngữ có câu «Chân nhân bất lộ tướng, lộ tướng phi chân nhân». Tên phản đồ ấy đã định tâm chờ đợi thời cơ mưu hại đồng môn, cho dù y đã luyện thành võ công tuyệt đỉnh thì cũng giấu kín. Những lời này ngươi ghi khắc trong lòng, ngoại trừ Chưởng môn nhân, ngươi tuyệt đối không được tiết lộ với bất kỳ ai.

– Vâng, đệ tử biết rồi.

Vô Cực đạo trưởng người chao đảo dữ dội, hết sức khó nhọc nói:

– Qua sự thật đã phát hiện, kẻ sát hại Đinh sư thúc ngươi chính là chủ mưu và võ công của y ghê gớm hơn hết. Người này tuy ta không dám đoán bừa, nhưng tin chắc là y đang tiềm phục trong Tam Thanh Quán trên Võ Đang Sơn. Ngươi hãy cảnh giác Chưởng môn nhân đề phòng ám toán. Còn kẻ sát hại sư phụ ngươi, y còn biết sử dụng «Liên Hoàn Đoạt Mệnh Kiếm Pháp», tuy rất tinh thâm, nhưng có khả năng chỉ là một cao thủ trong đệ tử tục gia. Thôi, những gì cần nói ta đã nói xong, ngươi hãy về lo liệu tang sự của sư phụ ngươi, ngày mai hẵng lên đường đến Võ Đang Sơn bẩm cáo Chưởng môn giùm ta.

Qua Chấn Quân ngạc nhiên:

– Vì sao sư bá không trở về?

Vô Cực đạo trưởng thở dài:

– Chả lẽ ngươi còn chưa nhận ra ta đã thọ trọng thương nghiêm trọng sao?

Giá mà sư phụ ngươi còn sống, có thể ta còn sống được thêm một hai năm, nhưng giờ thì ta sắp từ giã cõi đời, ngươi còn gì cần hỏi thì mau nói đi.

Qua Chấn Quân thật ra sớm đã nhận thấy sư bá thọ nội thương, nhưng không biết là nghiêm trọng như vậy. Y cả kinh, vội nói:

– Sư bá không thể chết được, hãy mau vận công điều thương. Đệ tử tuy võ công kém cỏi, nhưng cũng còn có thể đảm trách việc hộ vệ.

Vô Cực đạo trưởng thở dài:

– Người khỏi phải nhọc tâm, ta đã bị ám khí có kèm «Thái Cực Nội Lực» trúng vào huyệt đạo, nội lực đã xuyên qua huyệt đạo, gây tổn thương tâm mạch.

Nếu chỉ bằng vào sức bản thân, chắc chắn không thể cứu vãn được tính mạng, trừ phi có người tinh thông tâm pháp bổn môn, giúp ta đả thông kỳ kinh bát mạch.

Ôi, tiếc là ngươi ...

Ông không nói hết câu, nhưng Qua Chấn Quân cũng hiểu ý. Không sai, Qua Chấn Quân ngay «Thái Cực Kiếm Pháp» còn chưa luyện, huống hồ là «Thái Cực Nội Lực», nội công bổn môn y chỉ mới bước váo ngưỡng cửa, sao thể đả thông kỳ kinh bát mạch cho Vô Cực đạo trưởng kia chứ? Giờ y mới hiểu ra vì sao lúc sư bá vừa đến đây đã thốt ra câu:

«Bần đạo đã đến muộn rồi». Đó không phải là vì chẳng kịp ngăn cản y hạ sát Địch Kinh Sĩ, mà còn là vì sư phụ y đã chết. Nhưng bốn tiếng «Thái Cực Nội Lực» lại khiến cho Qua Chấn Quân bàng hoàng sửng sốt, vội hỏi:

– Kẻ ám toán sư bá là ai vậy?

– Chính là kẻ đã giết Đinh sư thúc ngươi.

Qua Chấn Quân sững sờ, thừ ra nhìn Vô Cực đạo trưởng.

Vô Cực đạo trưởng hiểu ý nói:

– Ta tuy không thấy mặt kẻ ấy, nhưng biết chắc là cùng một người ... Lúc bấy giờ ta đang xem xét thương thế của Đinh sư đệ, bất ngờ một ngọn tiền tiêu từ cửa sổ bay vào, bị trúng phải hệt như là «Thái Cực Chưởng» vậy. Ta nhờ vào nội công đã khổ luyện mấy mươi năm, nghịch vận chân khí, không đến nỗi táng mạng tại chỗ, nhưng không thể nào đuổi theo hung thủ được. Ôi, ta đã cố hết sức mình, đến đây để báo cho sư phụ ngươi biết, nhưng cũng chẳng thể kéo dài mạng sống hơn hai hôm. Bây giờ đã đến lúc. Sư phụ ngươi đã chết, hậu sự của ta chỉ còn nhờ ngươi lo liệu thôi. Hậu sự của ta không phải là thể xác thối tha này, mà là nhờ ngươi bẩm cáo với Chưởng môn nhân ...

– Sư bá, còn một điều nữa.

Vô Cực đạo trưởng đã nhắm mắt, nghe vậy lại mở mắt ra nói:

– Điều gì nói mau đi.

– Nghĩa phụ của Hoắc Bốc Thác, tuy sư bá không biết ông ta là người thế nào, nhưng hẳn đã điều tra ra hiện ông ta ở đâu chứ?

Vô Cực đạo trưởng không hiểu vì sao y lại hỏi một điều không quan trọng như vậy trong lúc này, nhưng ông không còn thời gian và tinh thần để suy nghĩ nữa, gắng gượng nói:

– Người đó ... trước kia ở ... ở Liêu Đông ... Liêu Nhi Câu, nhưng ... nhưng ...

– Nhưng sao?

Qua Chấn Quân áp sát tai bên miệng Vô Cực đạo trưởng mới nghe:

– Ông ta đã chết rồi.

Rồi thì đầu ông ngoẹo sang một bên, trút hơi thở cuối cùng.

Thật đã có quá nhiều người chết, Qua Chấn Quân thở dài thầm tính, người chết gồm có Đinh sư thúc, sư phụ, sư muội Hà Ngọc Yến, sư đệ Địch Kinh Sĩ, lão gia nhân Hà Lượng, người đưa thư cho Hoắc Bốc Thác và nghĩa phụ của Hoắc Bốc Thác. Những người có liên quan hoặc biết việc này đã chết gần hết, giờ chỉ còn một mình y còn sống nữa thôi.

Chưởng môn nhân Võ Đang tuy biết việc này, nhưng không biết là y, Qua Chấn Quân đã giết lầm người. Y buông tiếng thở dài thậm thượt, lòng hoang mang khôn tả. Phải, trên cõi đời này không ai biết là y đã giết lầm người, nhưng như vậy là giảm nhẹ tội lỗi của y hay sao?

Y đã hứa với sư bá là sẽ chuyển báo với Chưởng môn nhân về những gì lão nhân gia vừa kể lại, nhưng nếu mai kia điều tra rõ Địch Kinh Sĩ không phải là hung thủ, cũng không phải là gian tế thì y sẽ như thế nào?

Kinh Sĩ, tội ngộ sát không đến đỗi bắt y phải đền mạng, hình phạt nặng nhất có lẽ chỉ diện bích sám hối sáu tháng một năm, chắc chắn sẽ không trục xuất khỏi sư môn. Nhưng sau khi sự thật sáng tỏ, đứa con của Địch Kinh Sĩ với Hà Ngọc Yến hẳn nhiên cũng sẽ biết, Địch Ngọc Kinh có thể không xem y là kẻ thù giết cha chăng? Và điều quan trọng hơn nữa là lương tâm y có yên ổn được hay không?

Không sai, sư bá có bảo điều quan trọng nhất hiện nay là bẩm cáo lại với Chưởng môn nhân biết bổn môn ít nhất là có hai phản đồ. Trong số đó, một người võ công rất cao cường và thủ đoạn tàn bạo. Còn về Địch Kinh Sĩ có phải là phản đồ hay không, chẳng cần phải điều tra vội, bởi đằng nào Địch Kinh Sĩ cũng đã chết rồi. Y có thể giấu nhẹm một số chi tiết, không cần cho Chưởng môn nhân biết. Nhưng y có thể làm như vậy chăng?

Trời đã dần tối, Qua Chấn Quân một mình đứng giữa hoang sơn, như đã biến thành pho tượng đá, không ai biết lòng y đang nghĩ gì.

Một cơn gió lạnh thoảng qua, y mới bừng tỉnh quay về thực tại.

– Đằng nào cũng đã chết rồi, hãy để họ nhập thổ vi an, mình cũng phải đi khỏi đây thôi.

Đoạn y nhặt lấy xuổng, đào tiếp cái hố đã bỏ dở khi nãy. Hiện còn đến ba tử thi, Qua Chấn Quân không còn thời gian để đào ba cái hố nữa, nhưng nếu chôn chung sư bá với sư đệ và Hà Lượng thì Qua Chấn Quân lại cảm thấy áy náy không yên.

Y do dự một hồi, sau đó đặt thi thể Vô Cực đạo trưởng xuống trước, tiếp đến là thi thể Hà Lượng nằm bên trái, lòng thầm khấn:

– Sư bá đã là người ngộ đạo, theo lời dặn bảo của lão nhân gia, đệ tử đưa sư bá về trời. Đệ tử biết là sư bá hẳn không trách đệ tử quá qua loa đâu. Hà đại thúc lão nhân gia là người chết không đáng hơn hết, nhưng tiểu điệt để cho đại thúc bầu bạn với sư bá, hẳn là đại thúc không trách tiểu điệt.

Sau cùng y mới đưa mắt nhìn thi thể Địch Kinh Sĩ, lòng bỗng có ý nghĩ:

“Mình không nên phạm sai lầm lần nữa, mình đã giết lầm y, không nên ngăn cản y chôn chung với sư muội mới phải.”.

Nhưng nếu muốn vậy, y phải đào hố đã chôn Hà Ngọc Yến lên, trong khi lúc này trời đã tối hơn. Phân vân hồi lâu, sau cùng y vẫn đặt thi thể Địch Kinh Sĩ nằm bên phải Vô Cực đạo trưởng.

Ngay khi y vừa định lấp đất, bỗng lại nhớ đến một điều, bèn bồng thi thể Địch Kinh Sĩ lên, chẳng phải là y đổi ý chôn riêng sư đệ, mà là định soát lấy bức thư của Hoắc Bốc Thác. Nhưng lạ thay, y không tìm thấy bức thư ấy nữa.

Bức thư ấy đã bị người lấy đi vào lúc y đến nhà Lam Kháo Sơn, hay là rơi ra ngoài bị gió thổi bay đi mất nhỉ? Y chỉ nhớ là Địch Kinh Sĩ đã lấy lại bức thư từ tay Hà Ngọc Yến, nhưng không lưu ý là Địch Kinh Sĩ có cất nó vào trong tay mình hay không, bởi lúc ấy y đang tức giận vì sư muội đã bênh vực cho Địch Kinh Sĩ, sau đó là hai người động thủ giao chiến, bức thư ấy đã rơi và bị gió thổi bay đi mất.

Y không tìm được bức thư ấy, nhưng lại tìm được một cây ngọc tiêu. Sư muội vốn là vị hôn thê của y, chính là đã bị Địch Kinh Sĩ dùng tiếng tiêu quyến rũ mất.

Y cắn răng, bỗng vung tiêu giáng mạnh vào đá. «Bộp» một tiếng, ngọc tiêu vỡ nát, sau đó ném những mảnh vụn ngọc tiêu xuống hố. Xong xuôi, Qua Chấn Quân mới chợt tỉnh ngộ, thầm nhủ:

“Vì sao mình lại ghét ngọc tiêu này? Ô, có lẽ mình đã ganh ghét sư đệ đa tài đa nghệ, đã cướp mất tình cảm của sư muội chăng? Ôi, khi nãy mình đã nóng lòng hạ sát sư đệ, phải chăng là cũng có phần nào vì ghen tức?”.

Y lấp xong hố, chôn chung sư đệ với sư bá, ném bỏ xuổng, y cảm thấy mình như cũng đã bị chôn lấp, trên cõi đời này không còn gì đáng để cho mình lưu luyến nữa.

Địch Kinh Sĩ cũng như y, đều là lớn lên tại nhà sư phụ, chỉ khác là người trước kẻ sau mà thôi. Lúc y mới nhập sư môn, sư muội còn chưa ra đời. Lúc Địch Kinh Sĩ nhập sư môn, sư muội đã lên bảy. Đành rằng sư muội mới ra đời đã kề cận bên y, và sư đệ cũng là y nhìn thấy lớn lên, nhưng tình cảm đối với sư đệ đương nhiên chẳng thể so sánh với sư muội. Tuy nhiên dù ân hay oán, y xem sư đệ cũng như một người thân, nhưng giờ đây mọi người thân đều đã xa rời y rồi.

Y muốn khóc nhưng không có nước mắt, và cũng chẳng thể ở đây bi ai, bởi y còn phải về nhà, trong nhà hãy còn một người ân nghĩa nặng hơn hết đối với y, đó là sư phụ đang chờ y về mai táng.

Ô! Trong bao năm qua y đã quen xem nhà sư phụ như là nhà của mình, nhưng giờ đây ngôi nhà ấy chỉ còn lại mỗi mình y. Trời đất tuy rộng lớn, nhưng đâu còn tìm được một ngôi nhà có thể để y an thân lập mệnh? Y không dám nghĩ nhiều nữa, chỉ nghe lòng vô vàn quạnh hiu, vô vàn trống trải.