Cuộc khủng hoảng triền miên
Sẽ không gỡ nổi cảnh rối ren chính trị ở Sài Gòn. Bất cứ trong hoàn cảnh nào. Nó diễn ra trong bối cảnh quyền kiểm soát trong chính phủ ở các tỉnh bị suy giảm, lực lượng của địch tăng lên, các cuộc tấn công táo bạo vào các cơ sở Mỹ, người ta tranh luận ngày càng sôi nổi là có thể làm được những gì để tránh thất bại của Nam Việt Nam.
Có một điều nghịch lý là cho dù kiểm soát của chính phủ bị suy giảm nhiều ở các cấp xã và chính phủ đã phải bỏ ra một số vùng thì quân đội Nam Việt Nam, khi phải đương đầu với địch thì thường lại không co vòi bỏ chạy. Khi phải có một cuộc chiến đấu sống mái ở chiến trường, thì sự rối ren về chính trị lại ít có tác động đến hàng ngũ binh sĩ. Tác động chỉ có ở cấp lãnh đạo bên trên – các tư lệnh quân đoàn và sư đoàn - những người không muốn liều mạng hoặc hành động một cách quyết định, đưa quân ra trận chừng nào kẻ địch không buộc họ phải làm như vậy. Nếu có làm điều gì, chính phủ rất có thể nói là họ đã làm điều sai trái.
Vì lực lượng của địch tăng lên với những đơn vị cỡ tiểu đoàn hoặc lớn hơn nữa, các đơn vị quân đội Nam Việt Nam thường phải bỏ nhiệm vụ bình định, bỏ công tác phìng thủ tĩnh tại cho dân chúng để chống lại các đơn vị lớn của địch. Coi thường các đơn vị lớn là sẽ gặp tai hoạ. Đuổi theo địch mà không có lực lượng ít ra là tương đương thì cũng thất bại.
Đó là điều đã xảy ra ở tỉnh Bình Định là nơi mà quân đội Nam Việt Nam đã bị một trận thất bại nghiêm trọng và bản thân tôi có chịu trách nhiệm một phần.
Theo yêu cầu của tôi, các chỉ huy quân đội Nam Việt Nam đã chia lực lượng của họ thành các đơn vị nhỏ, phân về cho các quận trưởng để bảo vệ tỉnh và để tuần tra rộng rãi nhằm ngăn chặn sự di chuyển của Việt cộng. Chiến thuật này có tác dụng tốt trong một thời gian nhưng đến tháng 11-1964, hai trung đoàn chủ lực của Việt cộng từ trong rừng ra đã mở cuộc tấn công lớn.
Các đơn vị lớn của Việt cộng đã đánh bại hết đơn vị này đến đơn vị khác của quân đội Nam Việt Nam và các đơn vị dân vệ. Thiếu lực lượng dự bị thích đáng, các chỉ huy quân đội Nam Việt Nam đành chịu bất lực không phản công được. Để cứu vãn tình thế, tôi được chấp nhận cho mấy đơn vị lực lượng đặc biệt của lục quân Mỹ tư Okinawa sang làm nhiệm vụ tạm thời để huấn luyện lại dân vệ và nâng đỡ tinh thần các đơn vị quân đội Nam Việt Nam đã phải xây dựng lại và qua một chương trình huấn luyện dài ngày. Phải qua một thời gian dài thì tổn thất của tỉnh Bình Định mới có thể khắc phục được. Đó là một bài học mà tôi phải nhắc lại trong những tháng sau này khi mà các đồng nghiệp của tôi cũng như trong báo chí Mỹ có nhiều người đòi ít chú ý đến các đơn vị lớn của địch để đưa nhiều quân hơhn vào công tác bình định.
Một khó khăn cơ bản là ở chỗ quân đội Việt Nam thiếu quân số để có mặt khắp mọi nơi ngay tức khắc. Nếu các đơn vị quan đội Nam Việt Nam đi tìm hoặc đánh đuổi các đơn vị lớn của địch thì quân du kích địa phương lại có thể nổ vào và giành lại quyền kiểm soát trước một đám dân vệ được trang bị tồi, được chỉ huy kém và không có cơ động chiến đấu cao. Thế nhưng nếu không đánh bại các đơn vị lớn thì không thể co an ninh. Đúng như lời Lewis Carrolls Red Queen đã nói, các bạn cần phải chạy liên miên để ở lại một chỗ.
Cũng như mọi việc ở Nam Việt Nam, phải mất một thời gian dài thì kết quả công việc mới bắt đầu xuất hiện, nhưng đến mùa thu 1964, đã có khoảng 230.000 người phục vụ trong lực lượng chính quy và khoảng 270.000 người trong các lực lượng địa phương va lực lượng dân vệ. Quân số Nam Việt Nam có bao nhiêu là tuỳ thuộc ở nhiều nhân tố, cơ sở nhân lực có sẵn cho chính phủ tuyển mộ và bắt linh, số quân mà chính phủ có thể thu nhận được và hệ thống huấn luyện mà quân đội Nam Việt Nam có thể đảm bảo được một cách có lợi và ngân quỹ mà Bộ Quốc phòng ở Washington sẵn sàng bỏ ra.
Dựa vào một truyền thống nói rằng đứa trẻ lên 20 tuổi mới gọi là người lính, từ lâu Nam Việt Nam đã không chịu hạ tuổi quân dịch xuống tuổi 18. Sau đó tình hình trở nên thảm hại đáng phàn nàn khi mà hàng ngàn quân Mỹ tuổi 18, 19 đang phải chiến đấu và bỏ mạng vì một đất nước không chịu bắt thanh niên cùng lứa tuổi đó vào quân dịch.
Cũng có điều đáng tiếc nữa là con cái nhiều nhà lãnh đạo Nam Việt Nam lẽ ra phải đi chiến đấu thì lại tách ra khỏi cuộc chiến tranh để sang du học ở Âu châu. Trong khi đòi phải hạ tuổi quân dịch xuống thì tôi càng thúc giục người Nam Việt Nam phải chấm dứt lề thói này bằng cách chỉ rõ cho họ thấy con cái các vị tai to mặt lớn ở Mỹ cũng đã phục vụ ở Việt Nam. Đại uý Thomas Throcmorton chẳng hạn, con trai người phụ tá của tôi là Johnny Throcmorton đã bị thương nặng ở dạ dày trong khi làm cố vấn cho một tiểu đoàn dù năm 1964 và trong chuyến sang làm nhiệm vụ lần thứ hai trong một thời gian lại bị thương gần chết vì một vụ nổ máy bay lên thẳng. Một trong các con trai của đại sứ Taylor là đại uý Tom Taylor đã chiến đấu với sư đoàn dù 101 và hai con rể của tổng thống Johson là Charles Robo và Patrick Nugent cũng đều sang phục vụ. Con trai của đô đốc Holn S. McCain Jr. thay thế Oley Sharp làm tổng tư lệnh Thái Bình Dương đã bị bắt khi máy bay của anh bị bắn hạ ở Bắc Việt Nam; và thượng uý Stephen W. David, con thiếu tướng Franklin M. David bị giết năm 1967 lúc phục vụ ở sư đoàn dù 101 vào lúc bố anh làm sĩ quan hậu cần cho tôi ở Sài Gòn.
Có điều đáng khích lệ là mỗi tháng có khoảng 3.000 người Việt Nam “tình nguyện” vào lính. Chắc chắn là họ có phần bị bắt lính, nhưng sự kiện này cũng phản ánh sự nhận thức và mối quan tâm của dân chúng đối với vận mệnh đất nước.
Phải tính đến một thực tế là mỗi tháng quân đội Nam Việt Nam đào ngũ là 5.000 đến 7.000 người. Khó mà nói rằng những người đó đều chạy theo địch tất cả; thực ra nhiều người không phải đào ngũ theo ý nghĩa thực sự của từ đó, họ chạy sang Pháp để chăm sóc gia đình hoặc về gặt lúa hoặ đăng lính trở lại trong các lực lượng địa phương hoặc nhân dân để được ở gần gia đình.
Thống kê của Nam Việt Nam quá tồi nên không phản ánh đúng như khía cạnh này của vấn đề. Mặc dù chính phủ chủ trương một đường lối cứng rắn đối với những người đào ngũ và những kẻ trốn quân dịch, đặc biệt là ở Sài Gòn một nơi hấp dẫn đối với họ, việc thực hiện đường lối đó, trong cái không khí chính trị hay thay đổi, rất yếu kém.
Thương vong của Việt cộng vượt xa thương vong của quân đội Nam Việt Nam: theo báo cáo của chính phủ, trên 20.000 Việt cộng bị giết và bị bắt trong năm 1964 so với trên 7.000 người của phía Việt Nam (!). Thế nhưng Việt cộng hình như hoàn toàn có khả năng bổ sung quân số. Việt cộng phát triển rất nhanh, trong vòng một năm họ tăng thêm khoảng 85.000 người đã có quân số ước tính khoảng 170.000 người. Phần lớn được tuyển mộ ở miền Nam, điều đó phản ánh một cơ sở rộng rãi trong quyền kiểm soát của Việt cộng cũng tăng lên tới con số 12.000 người trong năm 1964.
Phục kích là chỗ mạnh của Việt cộng và là chỗ yếu của quân đội Nam Việt Nam. Bằng phục kích, trong nhiều dịp Việt cộng đã tiêu diệt nhiều đại đội của quân đội Nam Việt Nam. Mặc dù lực lượng máy bay lên thẳng của Mỹ đã tăng lên tới mức ở mỗi sư đoàn quân đội Nam Việt Nam có một đại đội máy bay thuộc lục quân Mỹ hoặc một phi đoàn thuộc lính thủy đánh bộ Mỹ, phần lớn sự di chuyển của quân đội Nam Việt Nam vẫn phải dùng đường bộ. Một chiến thuật thông thường của Việt cộng là đánh vào một tiền đồn của quân đội Nam Việt Nam rồi nằm chờ lực lượng dự bị của quân Nam Việt Nam hành quân đường bộ đến cứu tiền đồn đó.
Tôi đã thường xuyên thúc giục các chỉ huy quân đội Nam Việt Nam phải tuần tra trước rồi mới chuyển quân nhằm phát hiện các ổ phục kíchở một địa điểm cố định. Vì địch ở yên một chỗ nên chúng có thể bị đánh thọc sườn và bị tiêu diệt. Để nhắc nhở các cố vấn Mỹ, tôi đã phân phát cho họ những thẻ nhỏ bỏ túi giải thích cách thức làm thất bại các trận phục kích, nhưng mặc dù tất cả mọi nỗ lực của tôi, cho mãi đến sau này khi các đơn vị đã chứng minh được cách thức làm việc này thì các đơn vị quân đội Nam Việt Nam mới có khả năng đánh lừa và đánh bại các cuộc phục kích của địch.
Là người từ lâu đã nghiên cứu Tôn Tử, một triết gia quân sự Trung Quốc, một người có thể gọi là Clausevitz của phương Đông mặc dù Ttôn Tử đã viết lý thuyết quân sự của mình trước nhà triết học quân sự Đức thế kỷ 19. Tôi rất lo là nhiều sĩ quan Nam Việt Nam, mà tôi thấy trước đó đối với các sĩ quan Triều Tiên, tán thành sự quan tâm của tôi đối với lý thuyết của Tôn Tử. Thường thường Việt cộng đã thoát khỏi vòng vây của quân đội Nam Việt Nam, khiến tôi đâm nghi là các viên chỉ huy quân đội Nam Việt Nam đã tuân thủ một cách không đúng đắn phương châm của Tôn Tử nói phải coi chừng kẻ địch bị bao vây vì nó chiến đấu như con hổ bị mắc bẫy: “đối với một kẻ địch bị bao vây ta phải để cho nó một lối thoát”.
Thế nhưng cuối cùng tôi đã kết luận rằng quân Nam Việt Nam đã chiến đấu rất găng nhưng Việt cộng đã chuồn mất với một sự thành thạo khác thường.
Ngoài tỉnh Bình Định ra, sự xoáy mòn nghiêm trọng nhất trong quyền kiểm soát của chính phủ là vùng của quân đoàn 1 là nơi ít có truyền thống trung thành với chính phủ ở Sài Gòn hơn bát cứ nơi nào khác và là nơi khuấy động của sinh viên và Phật giáo đã làm tăng thêm mọi nỗi khó khăn. Ngoài các thành phố ra, tất cả những gì mà chính phủ còn kiểm soát được là các làng mạc nằm dọc đường số 1 quan trọng và sự kiểm soát đó thậm chí cũng không vững chắc. Chỉ có khu vực của chương trình hợp tác quanh Sài Gòn là chính phủ mở rộng được ảnh hưởng của mình.
Làng Phú Hoà Đông ở tỉnh Bình Dương, phía Bắc Sài Gòn đã cung cấp một dẫn chứng về những gì có thể làm được nếu có thể duy trì được an ninh. Trước khi có hợp tác, Phú Hoà Đông gần như là khu vực chết, chỉ có 738 dân. Sáu tháng sau, dân số ở đó tăng lên tới 1.800 người. Trước chỉ co 47 trẻ em đến trường, 6 tháng sau có tới 1.000 em (?). Trước ở đây không có chở búa gì, 6 tháng sau có trên 100 thương gia làm các nghề kinh doanh. Thế nhưng mỗi Phú Hoà Đông là có hàng chục làng khác ở các nơi khác trong nước mà Việt cộng đi lại tự do, nếu không đi lại ban ngày thì chắc chắn là đi lại ban đêm.
Hoạt động của quân Nam Việt Nam, trong nhiều trường hợp là đáng khuyến khích. Ở trại Kânnch, một tiền đồn của lực lượng đặc biệt Mỹ ở tỉnh Bình Định, phía Bắc An Khê, một toán người Thượng thuộc bộ tộc Hre đã cầm chân cả một trung đoàn địch, Như tôi đã luôn luôn làm sau mỗi trrận đụng độ lớn, tôi đã bay ra trại đó tìm gặp những người Thượng nhỏ bé cổ sơ để vui mừng trước hoạt động của họ.
Sau khi đại bộ phận sư đoàn 25 quân đội Nam Việt Nam rời tỉnh Quảng Ngãi để tham gia chương trình hợp tác và địch có một nỗ lực quyết định để đè bẹp lực lượng dân vệ ở gần thị xã Quảng Ngãi, viên sĩ quan tác chiến của tôi, Bill Depuy đến vào các cao điểm của hoạt động và đích thân điều động các đơn vị đến những nơi nguy kịch. Nhờ khôn khéo đưa một tiểu đoàn biệt động của quân đội Nam Việt Nam vào trận đánh và nhờ chủ nghĩa anh hùng của các nhân viên cố vấn của tiểu đoàn, đại uý Christopher O’Sullivan nên đã cứu vãn tình thế mặc dù sau đó O’Sullivan đã chết trận. Anh được truy tặng huân chương “Chữ thập phục vụ xuất sắc” và huân chương “Ngôi sao bạc”. Người cha của O’Sullivan sau đó đã viết cho tôi một bức thư cảm động, trong đó ông tỏ ý tiếc là mình “chỉ có một đứa con trai để cung cấp cho trận đánh”.
Trong một chuyến đi thăm quận Hoài Nhơn thuộc tỉnh Bình Định ngay sau khi một đại đội của lực lượng địa phương đã đẩy lùi được một trận tấn công của Việt cộng, tôi đã được gặp người anh hùng của trận đánh, thượng sĩ Trương, người đã nắm quyền chỉ huy sau khi viên sĩ quan duy nhất còn lại của đại đội bị chết. Trong những chuyến đi thăm sau đó, tôi đã cảm kích trước cách thượng sĩ Trương chỉ huy đại đội nên đã lưu ý tướng Khánh về điểm đó và tướng Khánh đã đích thân đi Hoài Nhơn đề bạt Trương lên trung uý. Trương có khả năng đến mức Việt cộng trong quận đã công khai rêu rao sẽ giết chết anh.
Trong một chuyến đi công tác khác, tôi thấy Trương đã hãnh diện mang lon trung uý mặc dù do lối quản lý không có hiệu lực, 6 tháng sau anh vẫn chỉ được trả lương thượng sĩ. Tôi thấy điều này sẽ được sửa chữa ở Sài Gòn, nhưng một thời gian ngắn sau đó tôi nhận được tin là Việt cộng đã thực hiện lời đe doạ của họ. Trung uý Trương đã bị giết trong khi đi tuần tra.
Trương là điển hình cho nhiều người Nam Việt Nam chiến đấu trong nhiếu năm dài đăng đẳng với những khó khăn kinh khủng mà không nhìn thấy chỗ kết thúc nhưng vẫn làm nhiệm vụ một cách tận tuỵ và không biết sợ hãi. Cảm động trước cái chết của anh, tôi đã viết thư chia buồn với người vợ goá trẻ tuổi và đã yêu cầu chính phủ Nam Việt Nam trợ cấp cho chị.
Mặc dù có những hoạt động nổi bật của các cá nhân và các đơn vị quân đội Nam Việt Nam, những cảnh thất bại liên tiếp vẫn bao trùm lên toàn bức tranh.
Một nhân tố góp phần vào đó là một loạt vũ khí mới mà Việt cộng bắt đầu sử dụng vào năm 1964, mà loại quan trọng nhất là súng tấn công do Liên Xô cung cấp, súng tự động AK-47, một thứ vũ khí ưu việt mà tốc độ hoả lực cao của nó đã tạo ra một tiếng nổ đinh tai tương tự như loại “đại bác burp” của Đức dùng trong Thế chiến II. Từ trước tới nay, Việt cộng chỉ sử dụng chủ yếu những vũ khí bắt được của quân đội Nam Việt Nam hoặc lấy được trong chiến tranh chống Pháp. Đến giữa năm 1964, Bắc Việt Nam bắt đầu cung cấp cho họ súng trường và súng máy có một cỡ duy nhất 7,62mm đưa từ Liên Xô và Trung cộng vào. Họ cũng cung cấp những súng phóng hoả tiễn hiện đại, súng cối và súng không giật. Phần lớn những thứ vũ khí này được vận chuyển bằng đường biển rồi được chuyển lén lút vào một số nơi trong vô số vũng nhỏ dọc bờ biển rất dài của Nam Việt Nam, lực lượng tàu thuyền của Nam Việt Nam trong khi cố sức bịt kín bờ biển đã gặp phải nhiều đặc điểm của một cái sàng. Mặc dù hoả lực tăng thêm đã làm cho việc tiếp tế đạn dược của địch thêm phức tạp nhưng việc này lại được khắc phục bằng lợi thế của việc tiêu chuẩn hoá và hiệu lực vũ khí tăng thêm. Đối chọi với vũ khí mới, quân đội Nam Việt Nam lại phải dùng những lại vũ khí của Mỹ từ thời Thế chiến II, trong đó có lại súng trường bán tự động M-1 và đối với các lực lượng địa phương và nhân dân thì dùng các loại carbine bán tự động M-2.
Có lẽ thất bại có tính chất báo trước rõ nhất của quân đội Nam Việt Nam trong năm 1964 đã xảy ra vào cuối tháng 12 ở tỉnh Phước Tuy, dọc bờ biển cách Sài Gòn một đoạn ngắn. Hai trung đoàn Việt cộng tập hợp nhau lại để hình thành sư đoàn 9, đơn vị cấp sư đoàn đầu tiên của địch, thâm nhập từ các chiến khu C và D tới bờ biển, tập hợp các vũ khí mới lại và rút vào vùng rừng núi cạnh đó để huấn luyện. Ngày 27-12, sư đoàn này từ trong rừng và một đồn điền cao su kéo ra rồi đánh tràn vào ấp Bình Giã, một nơi có khoảng 6.000 người công giáo tỵ nạn từ Bắc Việt Nam vào.
Hai ngày sau đó, một tiểu đoàn biệt động Việt Nam mở đường tiến vào rìa ấp đó. Đến ngày thứ ba, lúc một tiểu đoàn lính thủy đánh bộ tới, địch rút vào đồn điền cao su. Ở đây, lính thuỷ đánh bộ đã chiến đấu ác liệt kéo dài cho tới lúc Việt cộng bỏ cuộc giao chiến vào ngày đầu năm mới.
Trong cuộc chiến đáu đó, các tiểu đoàn biệt động và lính thuỷ đánh bộ gần như bị tiêu diệt sạch. Dù thất bại nghiêm trọng như vậy, một thực tế báo trước là kẻ địch hình như đang chuển từ chihến tranh du kích và chiến tranh bằng đơn vị nhỏ sang giai đoạn mới và có lẽ là cuối cùng, tấn công bằng các đơn vị lớn và giữ vững trận địa.
Bản thân việc đó đã đáng lo ngại rồi. Chúng tôi thậm chí sẽ càng lo ngại nếu lúc đó chúng tôi biết vào đấu tháng 9-1964, Bắc Việt đã quyết định đưa các trung đoàn và sư đoàn Bắc Việt Nam vào miền Nam, một quyết định vượt ra ngoài khuôn khổ chi viện cho các cuộc nổi loạn sang sự can thiệp bằng các đơn vị chính quy của quân đội Bắc Việt Nam.
Từ tháng 10, chúng tôi đã biết rằng quân thâm nhập từ miền Bắc Việt Nam không phải chỉ có “những người tập kết” mà còn có cả lính chính quy và lính nghĩa vụ của quân đội Bắc Việt Nam. Các chuyên viên tình báo của Nam Việt Nam nói rằng quân thâm nhập gồm các đơn vị riêng lẻ của Bắc Việt Nam, nhưng các chuyên viên tình báo của tôi lại coi đó là những bộ phận hoàn chỉnh được thành lập với mục đích thâm nhập nhưng sau đó được chia nhỏ ra để bổ sung cho các đơn vị Việt cộng. Dù ở trường hợp nào, họ vẫn là binh lính Bắc Việt Nam.
Liệu quân Bắc Việt Nam vào thành những đơn vị hay theo lối cá nhân riêng lẻ thì cứ tranh luận. Sau đó chúng tôi được biết trung đoàn chính quy đầu tiên của Bắc Việt Nam đã đến tỉnh Kontum trong tháng 12-1964.
Trong khi các giới Mỹ ở Sài Gòn và Washington người ta đang tranh luận ngày càng hăng tiếp sau tình hình chianh trị không ổn định tiếp diễn ở Nam Việt Nam và lực lượng của địch lớn mạnh lên, tôi tỏ ra kém hăm hở đòi phải có những gì cần thiết để đảo ngược tình thế hơn một số người, vì ngay từ đầu tôi đã tin rằng sẽ không có những giải pháp dễ dàng, rằng cuộc chiến tranh sẽ kéo dài và tốn kém. Trong khi nói chuyện với bộ trưởng Mc Namara khi ông đến thăm tháng 5-1964, lúc bộ trưởng thoả mãn khi nói tôi đúng là người xứng đáng thay thế Paul Harkins, tôi gọi tình hình này là một “cái hố không đáy”. Tôi lưu ý rằng sẽ phải mất nhiều tiền của và tinh thần kiên nhẫn vô hạn của nhân dân Mỹ. Chỉ với tinh htần như vậy chúng ta cuối cùng mới có thể thắng được. Tinh thầnkiên nhẫn mà tôi coi là quan trọng đến mức tôi đã yêu cầu Mc Namara kiến nghị một kiểu chương trình tiếp xúc giữa nhân dân và nhân dân, làm cho nhân dân Mỹ thông cảm với nhân dân Viêt Nam (!), tạo ra một sự kích thích tinh thần kiên nhẫn vượt xa bất kỳ tinh thần nào mà lợi ích chiến lược của Mỹ ở Đông Nam Á đòi hỏi. Mc Namara đã gác bỏ gợi ý của tôi.
Sau đó tôi được biết là Washington đã quyết định tiến hành chiến tranh ở mức độ thấp. Năm 1964 là năm bầu cử mà kẻ có khả năng đối địch với tổng thống lại là một người chủ trương có những biện pháp mạnh nhất chống Bắc Việt Nam. Quả vậy, vì sợ đám diều hâu buộc phải chấp nhận các biện pháp cứng rắn, chính phủ Johson từ lâu đã giữ không cho công chúng biết tin nói rằng quân chính quy Bắc Việt Nam đang kéo vào Nam Việt Nam. Thậm chí sau bầu cử, chính sách cực kỳ thận trọng làm cho con thuyền chính trị không bị chòng chành nhiều, chính sách vừa có súng vừa có bơ, chiến tranh cộng với “Xã hội vĩ đại” vẫn tiếp tục.
Không có ai tỏ ra còn nhớ phương châm của Tôn Tử “chưa hề có một cuộc chiến tranh trường kỳ mà một nước nào đó thu được lợi”. Cũng không ai nhớ lại lời quở trasch của quận công Wellington tại nguyên lão nghị viện Anh: “Một nước lớn không thể làm một cuộc chiến tranh nhỏ”.
Chỉ ít ngày sau khi tôi đén Việt Nam lần đầu năm 1964, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ đã đề nghị đánh vào căn cứ bên ngoài của cuộc nổi loạn tức là ném bom Bắc Việt Nam. Nếu tôi được hỏi ý kiến về đề nghị này, tôi sẽ đồng ý, mặc dù tôi đã cầm chắc là Bắc Việt nam đang chi viện cho cuộc nổi loạn và cuối cùng chúng ta sẽ phải làm điều gì đáy, nhưng tại sao lại có những hành động khiêu khích khả dĩ làm cho Bắc Việt Nam tăng cường tham chiến vào lúc quân Nam Việt Nam rõ ràng chưa thể đối phó được?
Tôi đặc biệt lo sợ là Bắc Việt Nam sẽ trả lời việc ném bom bằng cách đưa những đơn vị lớn vào miền Nam. Trừ khi có sự can thiệp trực tiếp của Liên Xô, Trung cộng - điều mà tôi thấy không có khả năng xảy ra. Bắc Việt Nam không có thể phản ứng bằng cách nào khác nếu không phản ứng trên bộ? Lúc bị sức ép tăng cường thì cái cơ cấu mỏng tang là Nam Việt Nam lúc đó sẽ sụp đổ. Mặc dù tôi tin rằng với một chính phủ ổn định, sáng suốt thì cuối cùng Nam Việt Nam có thể đập tan được Việt cộng, tôi không hề nuôi ảo tưởng như vậy nếu Bắc Việt Nam công khai can thiệp.
Tôi ít quan tâm đến phản ứng của Bắc Việt Nam mà quan tâm nhiều đến các hoạt động bí mật chống miền Bắc và đánh vào hành lang tiếp tế ở vùng cán soong Lào được gọi là đường mòn Hồ Chí Minh. Mốt số các hoạt động này đã được tiến hành từ đầu năm 1961 mà không có sự phhản ứng rõ ràng nào của Bắc Việt Nam ngoài những biện pháp cụ thể để phong fthủ chống lại các hoạt động đó. Mặc dù tôi hết sức dè dặt không rõ các hoạt động bí mật đó đã được những gì: có lẽ là phản ứng duy nhất mà chúng tôi có thể làm để chống miền Bắc mà không gây một mức độ phản ứng mà Nam Việt Nam không thể đối phó được. Tôi cũng không lo ngại gì về đạo lý của các hoạt động đó vì nó cũng giống như điều mà Bắc Việt Nam từ lâu đã làm để chống miền Nam.
Tổng thống Kennendy đã cho phép tiến hành các hoạt động bí mật đầu tiên từ giữa năm 1961. Đây là một chương trình bao gồm việc đưa đặc vụ Nam Việt Nam vào Bắc Việt Nam tìm cách thành lập các mạng lưới đề kháng ở miền Bắc, rải truyền đơn và đưa những lực lượng nhỏ của Nam Việt Nam vào vùng cán xoong Lào để tấn công các căn cứ và các đường tiếp tế của cộng sản.
Cuối năm, Nam Việt Nam, dưới sự giúp đỡ của Mỹ, đã tổ chức một đội xuồng máy để tìm bắt quân thâm nhập và đồ tiếp tế của địch ở ngoài khơi bờ biển Nam Việt Nam.
Ngay sau khi tổng thống Kennedy bị ám sát, tổng thống Johson đã chỉ thị vạch rõ kế hoạch cho hoạt động tăng cường chống Bắc Việt Nam. Từ công tác vạch kế hoạch này xuất hiện chương trình OPLAN 34A, ấn định các hoạt động bí mật của Nam Việt Nam do MACV[1] và CIA[2] huấn luyện và chi viện về mặt hậu cần. Ý định đề ra là bằng cách dần dần tăng cường sức ép, các nhà lãnh đạo Bắc VIệt Nam có thể phải chấm dứt sự ủng hộ của họ cho các cuộc nổi loạn ở Nam Việt Nam và Lào, mặc dù một số ít người liên quan đến kế hoạch nàythực sự hy vọng đạt tới một kết quả rõ ràng như vậy. Khi Washington đã chấp nhận, kế hoạch bắt đầu chủ yếu bằng những hoạt động nhằm các mục tiêu tình cờ nhưng sau đó gồm có những hành động như nã đại bác vào các cơ sở quân sự dọc bờ biển Bắc Việt Nam.
Để vạch kế hoạch và thực hiện các cuộc hoạt động đó, MACV đã thành lập một đội nghiên cứu và quan sát với các tên mật mã là SOG. Đó là một kiểu “lực lượng đặc nhiệm hỗn hợp tiến hành chiến tranh không chính quy”, do đó gồm có các đại biểu của tất cả các quân chủng của Mỹ và một số nhân viên liên lạc của CIA. Mặc dù SOG là một thành phần của MACV nhưng lại có văn phòng đặc biệt trong hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ giám sát các hoạt động vì ngay từ đầu Washington đã thực hiện sự kiểm soát chặt chã nhất đối với các hoạt động của SOG. Mọi hành động của nó đều phải được bộ trưởng quốc phòng, bộ trưởng ngoại giao và Nhà Trắng phê chuẩn trước.
SOG còn điều hành các đài phát thanh với những máy phát rất mạnh; một trạm ở Huế gọi là đài “Tiếng nói tự do”mang tên đài “xám” vì nó không bao giờ tiết lộ địa điểm của nóvô hạn; còn các đài khác gọi là đài “đen” mà người ta nói đặt trong nội địa Bắc Việt Nam và do người Bắc VIệt Nam ly khai điều hành. SOG đã tiến hành một số buổi phát thanh đến từ trên một máy bay cánh quạt.
Các hoạt động của SOG có hiệu lực đến đâu? Khó mà nói được điểm này! Căn cứ vào những cố gắng ngăn chặn của Bắc Việt Nam thì thấy các buổi phát thanh của SOG rõ ràng là lợi hại. Các đội tuần tra của SOG ở Lào đã phá huỷ những khối lượng lớn đạn dược và các đồ tiếp tế khác, buộc Bắc VIệt Nam phải bỏ nhiều nhân lực vào công tác phòng thủ và đưa lỗ tai và con mắt của chúng ta ra ngoài biên giới Nam Việt Nam tới những vùng mà địch đã dùng để mở các cuộc tấn công vào Nam Việt Nam. Chương trình nhồi sọ liệu có đạt được những kết quả rõ rệt hay không thì có thể không bao giờ biết được.
Nếu không đạt được gì thì nó hẳn phải có tác dụng gây ra sự tham nhũng trong các quan chức của họ vì các quan chức đó đã tịch thu thứ mà người Nam Việt Nam đã biếu. Người Nam Việt Nam đã đối phó bằng cách cho mội thứ hai cái, một cái sẽ bị tịch thu, còn cái thứ hai được giấu đi để dùng sau này. Theo tôi nghĩ, dù sao trong một cuộc chiến tranh lấy ý chí chống lại ý chí như bất kỳ cuộc chiến tranh nào trong lịch sử, thì cũng nên làm như vậy.
Mặc dù tổng thống Johson đã bác bỏ đề nghị đầu tiên của Hội đồng tham mưu trưởng liên quân về việc ném bom Bắc VIệt Nam nhưng ông có cho phép vạch kế hoạch khi có tình huống khẩn cấp để trả đũa hoặc thậm chí gây nên sức ép mạnh hơn chống miền Bắc. Do CINCPAC[3] chuẩn bị mùa xuân 1964, kế hoạch này được gọgi là OPLAN 37 gồm 3 giai đoạn hoạt động: đánh các đường thâm nhập của địch, đánh vào các vùng ven biên giới Lào, Campuchia và chống Bắc Việt Nam. Giai đoạn 1 quy định truy kích các lực lượng địch băng qua biến giới Lào và campuchia; giai đoạn 2 gồm các cuộc oanh kích trả đũa “ăn miếng trả miếng” các cuộc tấn công và các hoạt động đánh mìn chống Bắc Việt Nam; giai đoạn 3 là tăng cường oanh tạc một cách nghiêm trọng và liên tục chống miền Bắc. Tất cả các hoạt động đó sẽ do lực lượng Nam Việt Nam tiến hành với sự giúp sức của các máy bay Mỹ.
Những người trong chúng tôi ở Sài Gòn có biết OPLAN 37 thấy ít có khả năng là tổng thốngg sẽ thực hiện nó cho tới sau cuộc bầu cử tháng 11. Quả vậy, chúng tôi thấy rõ ràng là một kế hoạch sau bầu cử. Lúc tổng thống trả đũa các sự kiện vịnh Bắc Bộ đầu tháng 8 bằng các cuộc oanh tạc thì đó chỉ là một việc làm trong một lúc không có liên quan đến OPLAN 37. Mặc dù tôi tán thành các cuộc oanh tạc trả đũa, nó đã làm cho tôi càng lo hơn vì sợ Bắc Việt Nam có thể phản ứng bằng cách đưa các đơn vị lớn vào miền Nam trước khi Nam Việt Nam có khả năng đối phó với diễn biến đó. Tuy không tin là Hồ Chí Minh sẽ liều lĩnh tiến hành một cuộc chiến tranh công khai, do đó phơi bày các lực lượng của ông ta cho tới cuộc tấn công của không quân, tôi vẫn cho rằng ông ta có thể đẩy mạnh thâm nhhập, có thể đưa vào một số các đơn vị chính quy của ông và với sức mạnh tăng thêm đó sẽ tấn công vào các căn cứ lớn của Mỹ ở Đà Nẵng, Biên Hoà và Tân Sơn Nhất. Sự lo ngại của tôi có được giảm nhẹ lúc Washington phái thêm 20 máy bay của không quân Mỹ đến Tân Sơn Nhất, chuyển một số khác đến Thái Lan và Philipin, đặt hai đội đổ bộ thuộc tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ trên tàu ở vịnh Bắc Bộ và báo động các đơn vị khác và khả năng được triển khai, trong đó có một lữ đoàn dù thuộc lục quân Mỹ.
Mặc dù địch không tấn công các căn cứ của chúng tôi, một sự kiện khác lại xảy ra ở vịnh Bắc Bộ trong đêm 18-9-1964 lúc các khu trục hạm Edwards và Morton nổ súng và hình như đánh chìm các tàu phóng ngư lôi của địch căn cứ vào màn hiện hình của ra đa. Có lẽ không chắc mục tiêu đó trong thực tế là tàu của Bắc Việt Nam. Washington lần này không ra lệnh trả đũa.
Ngài đại sứ của tôi lo ngại về khả năng phản ứng của Bắc Việt Nam đối với việc ném bom miền Bắc, trong giai đoạn này tôi nghĩ rằng khả năng duy nhất, tuy là xa xôi, để thuyết phục các nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam ngừng chi viện của họ cho cuộc nổi loạn, là chứng minh trong nội địa Nam Việt Nam rằng cuộc nổi loạn dứt khoát sẽ thất bại. Theo tôi nghĩ, chúng ta có thể sử dụng tốt hơn nữa - mạnh không quân của chúng ta đã đạt mục đích đó bằng cách chi viện cho các hoạt động của quân đội Nam Việt Nam và bằng cách đánh vào đường thâm nhập của địch ở Lào.
Việc dùng máy bay Mỹ lần đầu tiên ở vùng cán xoong Lào bắt đầu từ tháng 5-1964 theo một chương trình gọi là Yankee Team, trong đó các máy bay của không quân và của hàng không mẫu hạm thuộc hải quân được sử dụng để bay trinh sát trên vùng cán xoong và cánh đồng Chum thuộc vùng Trung Bắc Lào nhằm yểm trợ cho lực lượng không quân Hoàng gia Lào. Theo những quy tắc giao chiến gắt gao do Washington quy định, máy bay chỉ có thể nổ súng nếu bị bắn và mỗi tuần ở vùng cán xoong chỉ giới hạn ở 5 phi vụ.
Cuối tháng 8, tôi yêu cầu chấp nhận các cuộc oanh tạc phối hợp của Mỹ và Nam Việt Nam đánh các mục tiêu cụ thể ở vùng cán xoong nhưng Washington không tán thành. Trong thời gian dài, hoạt động không quân duy nhất được phép tiến hành ở vùng cán xoong thực tế là tằng cường các phi vụ Yankee Team và được phép tấn công các mục tiêu tình cờ, chẳng hạn nơi tập kết quân và vận tải của Bắc Việt Nam. Các hoạt động này bắt đầu từ ngày 14-12-1964. Được mang tên Berret Roll, các chuyến bay này mỗi tuần chỉ có 2 phi vụ, mỗi phi vụ dùng 4 máy bay, do đó không lấy gì làm ngạc nhiên là Bắc Việt Nam đã không phát hiện được là một chương trình mới đang được tiến hành.
Trong mấy tháng trời, thậm chí tôi cũng không xin được phép sử dụng máy bay Mỹ để chi viện cho các lực lượng quân đội Nam Việt Nam ngoài những điều đã quy định trong chương trình Farmagate vốn đã gắt gao rồi. Ngày 1-11, tôi đã yêu cầu cho phép dùng máy bay Mỹ “nếu và lúc cần” nhưng cũng chẳng ăn thua gì. Do thấy rõ đơn vị lớn của địch tăng thêm đã xuất hiện trên chiến trường, tôi lại yêu cầu lần nữa vào cuối tháng 1-1965, tôi có ý định giới hạn quy mô yêu cầu để mong yêu cầu của tôi được chấp thuận.
Tôi đánh điện về "theo sự thận trọng về quân sự, tôi bắt buộc phải xin phép sử dụng máy bay phản lực Mỹ trong một vai trò oanh tạc... trong những tình huống khẩn cấp”. Lần này, Washington tán thành nhưng với điều kiện là tôi phải đích thân quản lý mỗi phi vụ. Tôi chỉ được phép oanh tạc để tránh một thắng lợi “lớn” của Việt cộng, để khỏi phải mất “nhiều” sinh mạng người Mỹ hoặc để thực hiện nhữhng cuộc tấn công vượt xa ngoài khả năng của máy bay Việt Nam.
Dưới sự chứng minh này về giá trị của máy bay Mỹ, tôi lại yêu cầau cho tôi quyền hành động rộng rãi hơn. Tôi báo cáo “sức mạnh” vũ khí, tài nghệ và hoạt động của Việt cộng đã tăng lên tới mức chúng tôi không có thể giữ các phương tiện quân sự có trong tay mà không dùng để ủng hộ chiến dịch chống nổi loạn. Tôi xin phép được sử dụng máy bay Mỹ trong lãnh thổ Nam Việt Nam “khi tôi xét thấy cần làm”. Thế nhưng, lại một lần nữa Washington chỉ nới lỏng dây cương chút ít mà thôi. Sử dụng máy bay ngoài tình huống khẩn cấp hoặc để tiến hành các cuộc tấn công tiêu diệt thì tôi phải được hội đồng tham mưu trường ở Washington phê chuẩn đối với từng phi vụ.
Cuối cùng, tôi thành công. Một bức điện trả lời đã bãi bỏ gần hết mọi điều hạn chế. Mặc dù chương trình huấn luyện Farmagate vẫn tiếp tục, tất cả máy bay thật sự không thuộc người Nam Việt Nam đều mang phù hiệu của Mỹ và có thể được sử dụng vào các phi vụ chiến thuật mà không phải tuân theo điều kiện đáng nực cười là phải có một người Việt Nam đi theo. Tất cả máy bay Mỹ trên lãnh thổ Nam Việt Nam đều có thể sử dụng để yểm trợ các hoạt động của quân đội Nam Việt Nam và cả không quân Nam Việt Nam có thể làm được việc đó một mình.
Trong khi đó, cho đến mùa thu 1964, quân số Mỹ đã tăng lên chút ít đạt con số gần 23.000 người. Mức tăng lên này chủ yếu ở các đơn vị máy bay lên thẳng của lục quân, các đơn vị yểm trợ bằng không quân, các đơn vị thông tin và lực lượng đặc biệt. Trong số những đơn vị mới tới có bộ chỉ huy lực lượng đặc biệt số 5 vào tháng 10, kết quả của một số lời yêu cầu trước đó của tướng Harkins, cũng trong mùa thu, lần đầu tiên người Nam Việt Nam đồng ý với cácc cố vấn Mỹ hoạt động ở cấp tiểu đoàn.
Gần hết năm, tôi vẫn tỏ ra không bối rối về tình hình quân sự bằng đại sứ Taylor hoặc các quan chức ở Washington. Cũng như Taylor, tôi muốn thực hiện việc ném bom trả đũa về cuộc tấn công của Việt cộng trong tháng 11 vào căn cứ của chúng ta gần thị xã Biên Hoà, nhưng tôi không thể hiểu quan điểm của Washington bằng một sự thay đổi như vậy về chính sách 2 ngày trước cuộc bầu cử tổng thống có thể coi là một thủ đoạn chính trị hay không? Tôi cũng hoan nghênh các ý kiến của hội đồng tham mưu trưởng liên quân sau đó mấy ngày bảo phải vạch kế hoạch cho các cuộc trả đũa về những cuộc tấn công sau này, nhưng ném bom theo lối ăn miếng trả miếng là điều khác với việc tiến hành một chiến dịch không quân liên tục chống miền Bắc.
Tôi vẫn còn tin rằng chúng tôi sẽ phải chờ trước khi bắt đầu ném bom liên tục cho tới khi chính phủ Nam Việt Nam được “thiết lập” trên cơ sở chính trị, quân sự và tâm lý tương đối vững chắc trước khi chúng tôi gây ra những tình huống căng thẳng lớn có thể xảy ra bằng cách thực hiện các biện pháp có khả năng làm cho Bắc Việt Nam đưa nhiều quân vào. Tuy đồng ý rằng đánh miền Bắc sẽ có tác động có lợi cho tinh thần của Nam Việt Nam, tôi có nói với đại sứ là “tôi không phải là người có ý nghĩ là nước này đã chán nản thất vọng trong tình huống này”. Tôi cho rằng chính chúng ta phải chờ ít ra là sang năm mới để xem chính phủ đã tiến bộ như thế nào tôi mới đề ra một chính sách cứng rắn chống miền Bắc và tôi thấy có khả năng chờ cho đến mùa xuân 1965. Trước đề nghị của hội đồng tham mưu trường liên quân là gia đình nhân viên quân Mỹ phải về nước và một lực lượng lính thuỷ đánh bộ Mỹ đổ bộ lên Đà Nẵng, tôi trả lời cả hai việc đó không chứng tỏ là thiếu tin tưởng ở người Việt Nam sẽ không ảnh hưởng tai hại đến tinh thần của họ.
Mặc dù tôi có phản đối nhiều, cả đại sứ Taylor lẫn hội đồng tham mưu trường liên quân đều có ý nghĩ ngày càng thiên về hướng ném bom miền Bắc liên tục. Nếu tôi không lo ngại trước phản ứng của Bắc Việt Nam chống lại một nước Nam Việt Nam chưa sẵn sàng thì tôi đã đồng ý rồi vì hoàn toàn rõ ràng là ném bom sẽ ngăn cản sự chi viện của Bắc Việt Nam cho cuộc nổi loạn mặc dù đạt được mức nào thì còn tuỳ ở cường độ của chiến dịch. Đại sứ Taylor và một số quan chức dân sự ở Washington còn có thiên hướng ném bom một chiến dịch leo thang dần dần, vặn lấy kẻ địch với sức ép mỗi ngày mỗi tăng cho tới lúc cuối cùng – theo luận thuyết của họ - các nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam sẽ kêu lên “xin chịu bỏ”.
Chủ trương này cuối cùng được chính sách “phản ứng từng bước”. Sau đó được chấp nhận, nó là một trong những sai lầm thảm hại nhất trorng chiến tranh.
Trước sức ép leo thang, Bắc Việt Nam đã có thể thích ứng mỗi bước mới và khắc phục thiệt hại khiến cho mọi hy vọng là các nhà lãnh đạo địch sẽ thấy triển vọng bước sắp tới là không thể chịu đựng được đều là sai lầm. Cách duy nhất ném bom miền Bắc để có thể thuyết phục Bắc Việt Nam khiến họ chùn bước là đánh thật chắc chắn, thật nhanh và thật mạnh, không phải là bằng mọi thứ trong kho vũ khí của Mỹ vì như vậy sẽ giết chết quá nhiều người mà bằng lực lượng đủ để họ đau và để chứng minh một quyết tâm rõ ràng và vững chắc. Ngay từ đầu, các cuộc đánh phá phải nhằm và những mục tiêu sống còn, chẳng hạn như các cơ sở công nghiệp có hạn nhưng rất quan trọng chung quanh Hà Nội và Hải Phòng; và sẽ phải bao gồm cả việc rải mìn ở cảng Hải Phòng. Washington lo sợ rằng tiến hành những trận oanh tạc nặng nề đột ngột và đánh mìn ở cảng sẽ khiến cho Trung cộng hoặc Nga can thiệp, đó là sự lo sợ hão huyền.
Thậm chí dù Washington có thi hành một chính sách ném bom mạnh mẽ, tôi vẫn không tin Bắc Việt Nam sẽ chịu lùi bước. Việc họ có nhượng bộ chút ít lúc tổng thống Nixon thực hiện chính sách đó năm 1972, đó là một vấn đề khác vì lúc đó tình hình của cuộc nổi loạn đã khác xa tình hình năm 1964 và năm 1965. Buộc Bắc Việt Nam phải lùi bước vào thời gian sớm sủa đó, chúng ta phải làm nhiều hơn là chỉ đánh đau vào lãnh thổ của họ, chúng ta phải chứng minh là họ không thể thắng ở miền Nam và Nam Việt Nam phải đạt tiến độ thật sự trong công tác bình định, năm 1964 và đầu năm 1965, đánh bại địch hoặc thậm chí khống chế được cuộc nổi loạn là một vấn đề về ổn định chính trị và những lợi ích có tính chất phụ trợ như vậy mà một chương trình ném bom có thể đạt được theo ý tôi, là bé nhỏ khiến ta không nên liều lĩnh gây nên một sự phản ứng của Bắc Việt Nam.
Đại sứ Taylor viết gửi tổng thống: “Ở đây chúng tôi đang phải đương đầu với một tình hình xấu đi nghiêm trọng mà đặc điểm của nó là sự rối ren chính trị liên tục, thái độ vô trách nhiệm và tình trạng chia rẽ trong nội bộ quân đội, sự trì trệ trong chương trình bình định, tình cảnh chống Mỹ ngày càng tăng, những dấu hiệu khủng bố ngày càng tăng của Việt cộng chĩa vào nhân viên người Mỹ và sự thất vọng sâu sắc và sự mất tinh thần trền hầu khắp Nam Việt Nam". Ông viết tiếp: "Chúng tôi đã có nhiều cố vấn khiến người Việt Nam chưa thể tiếp nhận hết. Đưa lính chiến đấu Mỹ vào có thể dẫn tới hậu quả là người Nam Việt Nam để cho Mỹ "nhận lấy quả bóng" và căn cứ theo chủ nghĩa thực dân trước, sẽ dẫn tới sự thù địch công khai chống người Mỹ. Để người Mỹ đảm bảo an ninh cho chính mình đòi hỏi phải có 75.000 lính Mỹ, và cho dù như vậy cũng không ai có thể đảm bảo là sẽ không có những vụ Biên Hòa và khách sạn Brink xảy ra nữa.
Nhận thấy có nhiều nhân tố vượt ra ngoài khả năng của Mỹ thay đổi nó đi được, chẳng hạn chính phủ không ổn định và tâm trạng chung mệt mỏi vì chiến tranh, Taylor kết luận rằng "cần phải có thêm" một cái gì mới để khắc phục những cái mà chúng tôi không thể kiểm soát "được", mội cái gì đó sẽ góp phần tập hợp các phe phái khác nhau trong nước đứng sau lưng chính phủ. Khả năng duy nhất - đại sứ Taylor thấy như vậy là món ăn cũ: ném bom miền Bắc. Ông yêu cầu thực hiện có hiệu quả quyết định ném bom ăn miếng trả miếng bằng cách cho phép vạch kế hoạch chung với Nam Việt Nam để trả đũa và phát triển một quá trình để có khả năng trả đũa trong vòng 24 giờ. Sau khi xảy ra một trận tấn công của địch. Ông viết thêm khi các cuộc oanh tạc đó bắt đầu, chúng ta sẽ có lý do để đưa vợ con người Mỹ về mà không ai coi đó là sự rút lui. Một khi những điều kiện ổn định tối thiểu đã được thiết lập trong nội bộ chính phủ Sài Gòn thì chuyển sang giai đoạn 2, các cuộc oanh tạc "từng bước" chống miền Bắc. Ông viết "Không có hành động tích cực ngay bây giờ tức là chấp nhận thất bại trong tương lai khá gần".
Hoàn toàn rõ ràng là phải làm gì đây để nâng đỡ quân đội Nam Việt Nam và nhân dân. Chúng tôi có thể làm điều gì khác được? Lý thuyết nói rằng một chiến dịch ném bom từng bước sẽ khiến các nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam chịu lui bước vẫn chưa phải là điều tôi có thể chấp nhận được, nhưng cũng nhưr đạii sứ Taylor - là người cũng có nhều ngờ vực - tôi thấy không thể có giải pháp nào tốt hơn trong khuôn khổ thời gian hạn chế. Ghi nhận ý kiến bảo lưu của đại sứ Taylor nói rằng việc ném bom từng bước sẽ được hoãn lại cho tới lúc sự ổn định của chính phủ Nam Việt Nam được tăng thêm, tôi tán thành kiến nghị đó.
Một giải pháp có thể có mà các nhà vạch kế hoạch ở Washington đã thăm dà từ năm 1961 là đưa một lực lượng quốc tế vào để canh gác chống thâm nhập qua Lào và khu phi quân sự. Mùa xuân 1961, tổng thống Johnson đã kêu gọi sự giúp đỡ của các nước khác trong thế giới tự do theo chương trình "có thêm cờ" nhưng chương trình này chỉ bao gồm sự giúp đỡ về kinh tế và kỹ thuật. Tháng 12 năm 1964, tổng thống Johnson lại nêu vấn đề này ra. Tôi phấn khởi vì đối với tôi, có quân các nước ngoài quân Nam Việt Nam và Mỹ tham chiến dọc các vùng biên giới là nơi họ có thể tự mình trông thấy sự vi phạm của Bắc Việt Nam và - nếu Bắc Việt Nam cứ tiếp tục làm, họ sẽ tham gia chống thâm nhập thì cả thế giới sẽ có thể thừa nhận sự vi phạm đó và sức ép đòi Bắc Việt Nam từ bỏ sẽ tăng lên. Tuy nhiên thành lập một lực lượng quốc tế đòi hỏi thì giờ và không thể thay thế cho "một cái gì mới" nổi bật, cần có ngay lúc đó.
Mặc dù thông báo của đại sứ Taylor gửi tổng thống không đem lại hành động mới nào quan trọng, tôi có được quyền vào cuối tháng 1-1965 vạch kế hoạch chung với người Việt Nam để ném bom trả đũa và đáp lại một kiến nghị của Taylor là Tổng thống cần phái một đại diện riêng của mình sang xem xét tình hình, cố vấn an ninh quốc gia của tổng thống là George Bundy đã đến Sài Gòn đầu tháng 2. Đến ngày cuối cùng của chuyến đi thăm, ngày 7-2 Bundy đã được thấy Việt cộng tấn công một khu doanh trại của cố vấn Mỹ và sân bay Mỹ ở trại Holoway gần thị xã Pleiku. Dùng súng cối và phá hoại, Việt cộng đã giết chết 8 người Mỹ, phá hủy 5 máy bay và làm hỏng nhiều chiếc khác. Được thực hiện vào lúc thủ tướng Liên Xô Aleksei Kosygin đang ở thăm Hà Nội, cuộc tấn công này được coi là một hành động khiêu khích cố ý.
Được tin về cuộc tấn công đó, George Bundy và các đại sứ Taylor, Jonhson đã đến gặp tôi tại phòng tác chiến đặt ở sở chỉ huy của tôi ở Sài Gòn; Vì cuộc thảo luận chỉ xoay quanh vấn đề phản ứng của chúng ta phải như thế nào về cơ bản là một quyết định chính trị nên tôi chỉ trình bày ý kiến của tôi với tư cách là nhà quân sự khi được hỏi.
Bundy đã đích thân lãnh đạo cuộc thảo luận, sôi nổi quả quyết, đôi lúc còn có phần ngạo mạn. Có thể ông đã buồn phiền vì những điều ông và các quan chức dân sự khác ở Washington dự đoán một cách đầy hy vọng là sẽ không xảy ra thì bây giờ đã xảy ra và nó đã đẩy chúng tôi tới tình thế không hành động không được. Hoặc có lẽ, giống như nhiều nhân vật dân sự giữ các cương vị có quyền lực trong chính phủ, một khi ông ngửi thấy mùi thuốc súng là ông phát triển tâm \ý của một viên tướng của trận tiền.
Mặc dầu Bundy hình như có phân vân về những cuộc oanh tạc trả đũa trong khi Kosygin còn ở Hà Nội ông và tất cả chúng tôi đều thừa nhận là những mục tiêu mà chúng ta sẽ phản ánh sẽ ở xa Hà Nội. Vả lại, cuộc tấn công đi quá ư trắng trợn nên không thể làm ngơ được. Bundy đã đích thân gọi điện thoại cho Nhà Trắng kiến nghị trả đũa. Tổng thống đã nhanh chóng chấp nhận, chỉ cần Nam Việt Nam tán thành nữa là được.
Khi đã có quyết định, tôi cảm thấy trong các đồng nghiệp của tôi một tâm trạng vừa hết sức lo lắng vừa nhẹ nhõm : Nhờ trời, chúng ta đã hành động và đây là một bước ý nghĩ của họ cho nó quan trọng đến mức như vậy. Tôi cũng không tin là việc ném bom sẽ có mọi tác động đối với Bắc Việt Nam nhưng tôi thấy ít ra nó cũng sẽ giúp đỡ tinh thần của Nam Việt Nam.
Sau khi đã bắt đầu vạch kế hoạch chung với người Việt Nam về các cuộc oanh tạc trả đũa, chúng tôi có thể hành động mau lẹ được. Cùng ngày 45 máy bay của hải quân Mỹ đã đánh một doanh trại ở Đồng Hới, ở ngay phía Bắc khu phi quân sự. Bị chậm lúc cất cánh do sương mù dày đặc, máy bay của Nam Việt Nam ngày hôm sau mới đánh 24 máy bay và đánh một doanh trại khác ở gần Chấp Lê. Kỳ ngồi ở máy bay chỉ huy.
Một khi bộ máy tiến hành các cuộc oanh tạc đã hoạt động nhưng trước khi máy bay thực hiện các phi vụ, tôi có mời Bundy đáp máy bay cùng tôi đi Pleiku để quan sát hiện trường và yêu cầu tướng Khánh gặp chúng tôi ở đó để được Ông tán thành việc trả đũa. Khánh đến gặp Bundy và tôi ngay chiếc White Whale. Ông hoan hỉ tán thành đề nghị đó. Tuy thừa nhận là ông không dự đoán sẽ có tác động quân sự to lớn nhờ việc này, ông tỏ ý sung sướng và cuối cùng đã có thể đánh vào nguồn gốc gây ra cảnh khổ sở của nước ông.
Ra ngoài máy bay George Bundy tỏ vẻ đau lòng trước sự đổ nát mà trận tấn công đã gây ra tại khu trại cố vấn. Ông càng tỏ vẻ ngạc nhiên trước sự thô sơ của hệ thống phòng thủ khu trại. Như tôi đã nhận xét khi đi theo hộ tống các vị khách dân sự khác đến thăm một nhà quan sát nhất thời khó lòng mà hiểu được vẻ thô sơ của chiến tranh nổi loạn.
Một người có dịp đến trại Holoway lúc Việt cộng tấn công là một quân nhân hồi chiến thế giới thứ hai là người chuyên về tranh biếm hoạ, Bill Mauldia. Kitsy[4] và tôi trước đó ít ngày đã gặp ông ở Hongkong là nơi chúng tôi có đến nghỉ mát mấy ngày. Tôi dành cho ông một chỗ đi Sài Gòn trên chiếc máy bay của tôi để ông có thể thăm đứa con trai của ông hạ sĩ quan lái máy bay lên thẳng đóng ở thị xã Pleiku. Lúc Việt cộng tấn công, Mauldia đã nhảy từ trên giường ngủ mặc cả quần áo lót chạy đến chỗ này đến chỗ khác để giúp chăm sóc người bị thương. Ông đã đáp máy bay nhanh chóng vào Sài Gòn không phải để vẽ một bức tranh biếm hoạ mà để viết một tập truyện. Sau đó con ông lại sang Việt Nam phục vụ nhiệm kỳ thứ hai với chức vụ đại uý và phụ tá cho một tư lệnh sư đoàn.
Sau khi đã thảo luận thêm với Mc George Bundy không có mặt tôi, đại sứ Taylor đã kiến nghị với tổng thống là Mỹ và Việt Nam trong thực tế cần chuyển sang giai đoạn hai của chương trình 2 giai đoạn chống Bắc Việt Nam bằng cách đánh đường sá để trả đũa. Đại sứ yêu cầu có “có một loạt hành động liên tiếp có kiểm soát và có mức độ” đánh vào các mục tiêu quân sự và các đường thâm nhập của Bắc Việt Nam để trả đũa các sự kiện lớn của Việt cộng hoặc “một chương trình chung hoặc toàn bộ các hành động bạo lực của Việt cộng”.
Có lẽ vào lúc đại sứ Taylor gửi điện nêu ý kiến như vậy về Mỹ thì Bundy và các đồng nghiệp đi theo tôi tới Sài Gòn; họ gồm có trợ lý Bộ trưởng quốc phòng Holn Mc Naughton, phụ tá Nhà Trắng Chester Cooper và chủ tịch nhóm cộng tác về Việt Nam Leonard Unger đang thảo báo cáo gửi tổng thống trên đường trở về Washington. Bundy đã kiến nghị cũng một điều như vậy, mặc dù ông gọi đó là một chính sách “trả đũa liên tục”. Tổng thống Johnson đã nhanh chóng chấp thuận, báo cho đại sứ Taylor biết như vậy ngày 9-2 mặc dầu ông chưa sẵn sàng thông báo công khai quyết định của ông.
Chính sách mới ném bom trả đũa đã gặp ngay một sự thử thách. Hình như không sợ sự trả đũa của chúng tôi về trận tấn công Pleiku, Việt cộng đã giáng một đón còn sấm sét hơn nữa vào 10-2 tại thị xã Quy Nhơn ven biển, một vụ nổ đã phá huỷ một khách sạn dùng làm cư xá cho quân nhân Mỹ. Toàn bộ khách sạn đổ sập giết chết 23 người, làm bị thương 21 người và làm kẹt những người khác dưới đống gạch ngói nát vụn, Đây là số thương vong nhiều nhất của Mỹ xảy ra trong riêng một sự kiện.
Đống gạch nặng nề đã kẹt một quân nhân Mỹ, một chân anh đã bị ngôi nhà đó chèn lại. Cách duy nhất để kéo anh ra là cưa cái chân đó đi, nhưng các bác sĩ Mỹ vì vóc người to lớn quá nên không thể chui qua một lỗ nhỏ trong đống gạch ngói để vào cưa được. Một sĩ quan quân y Triều Tiên người nhỏ bé, đại uý Ung Sup Kim, một nhân viên trong đội viện trợ y tế của Nam Triều Tiên, đã tình nguyện chui vào đống gạch ngói để làm việc đó mặc dầu rất nguy hiểm cho tính mệnh của anh. Sau đó tôi đã khen thưởng Kim và mấy năm sau tôi đã có thể đích thân cảm ơn anh một lần nữa lúc tôi đến thăm Cộng hoà Triều Tiên với vị tham mưu trưởng lục quân Mỹ. Sau đó Kim di cư sang Mỹ.
Sau khi chúng tôi đã quyết định oanh tạc trả đũa về vụ Quy Nhơn, kế hoạch của chúng tôi thoả thuận về các mục tiêu đã thất bại - một sự minh hoạ cho cái dại dột là giao cho một uỷ ban gồm các cố vấn của tổng thống ở cách xa hàng ngàn dặm điều hành các chi tiết cụ thể về một cuộc chiến tranh mặc dầu có những tiến bộ hiện đại trong kỹ thuật thông tin. Vụ nổ ở Quy Nhơn xảy ra lúc 8h sáng ngày 8-2. Sau khi đã nhận được sự tán thành của chính phủ Việt Nam về một trận oanh tạc trả đũa, ngay sau nửa đêm bộ chỉ huy của tôi đã báo cho CINCPAC ở Haiwai và hội đồng tham mưu trưởng liên quân ở Washington biết các mục tiêu mà sư đoàn không quân số 2 định đánh. Mấy phút sau đó hội đồng liên quân trưởng không quân đề nghị một lô mục tiêu khác. Những bức điện rối rắm và đôi lúc mâu thuẫn nhau đã được chuyển qua chuyển lại suốt đêm. Có lúc CINCPAC, có lẽ phản ánh các chỉ thị của Washington đã ra lệnh là không được báo cho Việt Nam biết các mục tiêu đã được tự chọn trong khi thực tế họ sẽ tham gia các trận ném bom và các trận dính líu sâu vào công tác vạch kế hoạch phi công Việt Nam cũng như phi công Mỹ đã thức suốt đêm, lại hoang mang trước những mệnh lệnh và phản mệnh lệnh nên khi quyết định đến vào buổi rạng sáng ngày 12-2 các phi công đã kiệt sức.
Tuy vậy các cuộc oanh tạc theo đường lối chỉ đạo là phải trả đũa trong vòng 24 giờ cũng được máy bay của Mỹ và không quân Việt Nam tiến hành đánh vào Chấp Lê còn máy bay của Mỹ đánh vào Đồng Hới.
Khi thông báo công khai các trận oanh tạc, Nhà Trắng tránh dùng từ “trả đũa” hoặc không nhắc cụ thể tới Quy Nhơn. Các cuộc oanh tạc là để đáp lại “các hành động khiêu khích trực tiếp thêm nữa của chế độ Hà Nội” và những “hành động xâm lược liên tục”.
Bằng cách tránh gắn liền với các trận oanh tạc vào những hành động cụ thể của địch, Tổng thống đã tìm cách giữ quyền tự do hành động.
Hai ngày sau đó tổng thống Johnson đã nêu rõ quyết định của ông chuyển sang giai đoạn 2. Ông thông báo công khai rằng theo tên mật mã “Rolling Thunder”. Mỹ và Việt Nam sẽ đi vào “một chương trình hành động không quân có mức độ và hạn chế” đánh các mục tiêu quân sự ở Bắc Việt Nam ở phía Nam vĩ tuyến 19.
Tuy thừa nhận rằng quyết định đó thể hiện một sự thay đổi quan trọng trong chính sách của Mỹ, tôi vẫn thấy không có hy vọng gì – căn cứ vào những hạn chế đã được đề ra – là nó sẽ có bất kỳ tác động nổi bật nào đối với diễn biến của cuộc chiến tranh. Chẳng hạn mỗi ngày chỉ có từ 2 đến 4 cuộc tấn công, mỗi cuộc chỉ đánh từ 2,3 mục tiêu và tất cả điều nằm ở phía Nam vĩ tuyến 19. Theo tôi đó là một cách “gửi một bức điện”- theo cách nói của đại sứ Taylor và những người khác - yếu hèn một cách đáng sợ nhằm thuyết phục các nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam phải lùi bước. Thế nhưng như đã phản ánh trong một bức điện của bộ ngoại giao, một số người trong giới chính khách ở Washington lại thấy khả năng có những diễn biến làm tới “cao điểm” trong vòng “ít tháng tới”.
Trận oanh tạc đầu tiên theo kế hoạch Rolling Thunder được dự định vào ngày 20 – 2 nhưng cuộc khủng hoảng chính phủ ở Sài Gòn do cuộc đảo chính của Phát - Thảo gây ra đã khiến đại sứ Taylor phải huỷ bỏ. Cho đến 23 mới tiến hành được chiến dịch này.
Hệ quả của việc quyết định phát động Rolling Thunder là một quyết định đưa vợ con người Mỹ về nước, do đó chấm dứt cuộc tranh cãi từ lâu về vấn đề này. Tổng thống bảo chúng tôi đưa về hết trong vòng một tuần lễ đến mười ngày. Chúng tôi đã làm trong sáu ngày.
Vì đã dự kiến từ lâu sẽ có lệnh này, các bà đã chuẩn bị xong trừ những việc phải làm đến phút cuối cùng và đã tổ chức các đội Hồng thập tự gồm người Việt Nam và người Mỹ đã giúp đỡ Tân Sơn Nhất. Bà Eileen Green đã cộng tác với bộ đồng phục Hồng thập tự cho tới lúc chiếc máy bay cuối cùng lên đường, sau đó tập hợp con cái lại, mang theo hai túi không phải dựng quần áo mà là đựng bạc của người bà con có rồi lên máy bay. Nhiều người đi máy bay của hãng Pam American, hàng ngày có một chuyến về Mỹ.
Kitsy yêu cầu cho đi chuyến máy bay cuối cùng nhưng do gặp may là đi được vào ngày Lễ Valentina và dự định sống ở Haiwai, lúc đầu tại một ngôi nhà nhỏ do một người bạn cũ của tôi là đại tá về hưu Dick Ripple thuê hộ. Lúc tôi tiễn đưa bà và các con lên máy bay. Tôi cảm thấy buồn bã và không chắc chắn, một tâm trạng mà tất cả những người khác hẳn cũng cảm thấy như vậy. Các bà vợ, các con cái, các ông chồng không ai có thể biết liệu chúng ta có bao giờ lại đoàn tụ được. Lúc máy bay đã ở trên bầu trời, đôi mắt tôi nhìn chằm chằm vào máy bay cho tới lúc nó chỉ còn là một chấm nhỏ rồi biến mất. Đến lúc đó, tôi vẫn nhìn với hy vọng được nhìn một lần nữa, buồn nhưng vững dạ vì những người thân yêu của tôi đang đến nơi an toàn.
Hơn bất kỳ sự bắt buộc nào của chiến trường hoặc các quyết định ở Whasington, việc ra đi chứng tỏ chiến tranh đang thay đổi. Nó sẽ diễn biến như thế nào và nó có thể ảnh hưởng đến từng cá nhân trong mỗi người chúng tôi như thế nào, cả tôi lẫn những người khác, không ai có thể biết được.
---
[1] MACV: Bộ chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ
[2] CIA: Cục tình báo trung ương Mỹ
[3] CINCPAC: Bộ chỉ huy Thái Bình Dương
[4] Kitsy: vợ của Westmoreland