Chương 1
Quế Trân tỳ nhẹ tay lên ô cửa, đầu hơi nghiêng nghiêng, mái tóc dài lòa xòa che khuất một phần khuôn mặt. Cô bé ngồi yên như thế đã lâu, dường như bất động, đôi mắt mơ màng và buồn tênh. Cô bé đang suy tư, dáng gầy trông tội nghiệp quá.Ngoài kia mặt trời đã chạy trốn tự bao giờ, sương mù bắt đầu giăng giăng. ĐàLạt buổi chiều ảm đạm và ướt át làm sao. Lẫn trong màn sương thấp thoáng những ánh đèn và trên những hàng cây gió đang thổi về với cái lạnh tê buốt.ĐàLạt thành phố của sương mù, thành phố của huyền thoại, cảm hứng của thi sĩ và bối cảnh của bao cuộc tình. Trước cảnh Đà Lạt hoàng hôn, Quế Trân lặng lờ như một giòng sông. Cô bé đang thưởng thức vẻ đẹp của thành phố cao nguyên nổi tiếng? Cô bé đang tìm nguồn mạch cho một bài thơ? Không, cô bé đang thả hồn trong nỗi buồn... nỗi nhớ...Đôi mắt cô bé đang dõi về chân trời xa chợt lại gần hơn. Những luống cải trong khu vực nhỏ trước mặt có vẻ xanh tươi hơn sau cơn mưa vội vã ban chiều. Mấy chú gà con mấp máy chiếc mỏ xinh xinh kêu lên những tiếng ‘‘chíp chíp” yếu ớt rồi chạy đuổi theo gà mẹ để dành mồi... Khóm hồng nhung trước hiên nhà càng thẳm màu hơn khi không gian chuyên chở về bóng tối.Quế Trân gục mặt vào đôi tay, nước mắt ứa ra, giọng sũng ướt:- Trời ơi! Buồn quá. Ba mẹ ơi, anh Linh chị Thảo ơi... những người thân yêu của tôi mô rồi.Đôi vai rung nhẹ theo tiếng nấc, cô bé để mặc cho nước mắt thấm ướt tay áo. Kỷ niệm ngày thơ ấu ở Huế bổng dưng như thác lũ tràn về ngập lụt vỡ bờ. Tất cả như cuốn phim quay chậm hiện rõ trong tâm hồn cô bé.Giòng họ Công Tằng mấy đời làm quan lớn trong Triều. Ông ngoại Quế Trân sống trong giai đoạn Pháp thuộc với chức Tri Phủ - chán nản trước cảnh a dua, xu nịnh của một số quan trong triều đối với người Pháp, ông cáo quan về vui với vườn tược. Cảm kích trước sự liêm khiết đó, dân trong thành phố vẫn kính cẩn gọi ông là « Cụ Phủ »Quan liêu mãi mãi là một bức thành kiên cố, đóng khung những con người bảo thủ trong cuộc sống khép kín.Ở trường học, bạn bè nhìn Quế Trân với đôi mắt xa cách, đôi lúc họ muốn kết thân nhưng vẫn có “một cái gì đó vô hình” khiến họ không thể thân hơn với cô bé thèm một tình bạn. Ở nhà, Quế Trân chỉ được quanh quẩn ra đến ngoài vườn và cánh cổng cao, im sững là ranh giới ngăn biệt cô bé với những đứa trẻ khác. Cô bé thường đứng trong cổng dán mắt vào những khe hở nhìn một cách thèm thuồng trò chơi của mấy cô bé khác đồng lứa.Chỉ một bức tường mà ngăn đôi hai thế giới. Họ tự do và sung sướng biết bao, còn cô bé không bạn bè, sống cô đơn như chiếc bóng. Ngay đến anh Linh, chị Thảo cũng không thể tiêu phí thì giờ để tìm hiểu « nỗi buồn con nít » của cô bé.Anh Linh lúc nào cũng đạo mạo với cặp kính trắng, bạn bè là từng chồng sách cao chi chít chữ số, nhìn anh miệt mài học nhiều lúc cô bé tự hỏi khối óc của anh to bằng bao nhiêu để có thể chứa hết ngần kia những lý, những công thức, những con số?Còn chị Thảo ở trường về là giam mình trong phòng với len, chỉ, vải vóc. Mỗi khi mon men lại gần cô bé lại bị chị Thảo xua nhẹ: « Trân ra vườn chơi đi, để chị làm việc… ». Cô bé đành buồn bã lủi thủi ra vườn ngồi khóc thút thít, mấy lần Vú Năm hay dì Yến bắt gặp lại dỗ dành cô bé bằng múi quít hay múi thanh trà ngọt lịm rồi tiếp tục công việc dở dang của mình. Thỉnh thoảng rảnh rỗi dì Yến kéo Quế Trân ra sau vườn, hái hoa kết thành chiếc vương miện đội lên đầu cô bé và gọi đùa là « nàng công chúa bé nhỏ » của dì. Những cái vuốt ve, những câu chuyện cổ tích mà Vú Năm kể cũng khiến cô bé càng gần gũi với Vú hơn. Bà ngoại, ba mẹ, anh Linh, chị Thảo, tất cả cũng đều thương Quế Trân nhưng họ coi Quế Trân như đã lớn, tình thương ấy ít khi được bộc lộ bằng cử chỉ mà họ nghĩ chỉ dành cho những đứa trẻ lên hai, lên ba.Người lớn có thế giới riêng của người lớn, cô bé có cảm tưởng mình như chú chim Di nhỏ bé trong lồng son. Cô bé không thiết tha với chiếc lồng son kết hoa mà chỉ thèm được tự do chạy nhảy cho thỏa thích đôi chân, thèm nhìn những khoảng trời hồng đang mở rộng bên kia bức tường cho no nê đôi mắt.Cô bé thuờng chạy vào khóc thút thít bên tay mẹ. Người mẹ đọc được nguyên nhân những giọt nước mắt kia. Với giọng dịu dàng nhưng nghiêm nghị, bà nói:- Trân, con phải nhớ từ đời ông cố tổ cho đến ông nội, ông ngoại con đều làm quan. Một đứa con giòng dõi nhà quan không thể bè bạn với những đứa bé tầm thường như rứa …- Me coi, con không có một đứa bạn mô hết …Bà mẹ ngắt lời:- Con muốn có bạn? Được, để khi mô lại bác Tuần, me cho con theo, con muốn chơi với Yến Thu con bác Tuần không?Quế Trân lắc đầu:- Con nớ kiêu dễ sợ, con không chơi với hắn mô.- Răng con biết hắn kiêu?- Hắn học lớp con mà, đứa mô cũng không ưa Yến Thu hết.Bà mẹ vặn hỏi:- Con nói hắn kiêu mà kiêu ra răng?- Nó ỷ nó học giỏi, nó ỷ nó con nhà quan, nó không thèm chơi với đứa mô ngoài con nhỏ Quyên Quyên con ông Đốc Toại.- Con cũng là con nhà quan, răng nó không chơi với con?- Nó làm quen nhưng con không ưa …- Rứa ở lớp con không có bạn thân?- Dạ…Bà mẹ nhìn con xót xa nhưng rồi bà cương quyết:- Ở trường, con có thể chơi với tất cả, nhưng ở nhà me không muốn thấy con lê la với những đứa trẻ trong xóm … con phải nghe me. Một đứa trẻ ngoan không khi mô cãi lời cha mẹ.Trước sự cứng rắn của mẹ, cô bé buồn lắm nhưng cũng quen dần, suốt ngày thui thủi một mình với con miu miu.Anh Linh chị Thảo cũng vậy. Ý tưởng con nhà quan đã thấm sâu trong tận cùng tim óc, đã in nếp trong tế bào nên họ không kết thân với bạn bè cùng lớp. Đi học, xe đưa tới tận cổng. Lúc về xe đón vào tận sân. Tiếng cổng rít lên khi khép lại như một nhắc nhở của cuộc sống đều đặn đến độ nhàm chán.Nói tới đất thần kinh là nói đến lễ nghi, quan cách, bảo thủ. Thế nhưng, bên trong bức tường cao kia chuyện gì đã xảy ra?Có lần Quế Trân thắc mắc hỏi chị:- Chị Thảo ơi! Răng bạn em chỉ có một bà ngoại mà mình có tới hai hả chị? Răng một người gọi là bà ngoại lớn, một gọi là bà ngoại nhỏ? Răng …Chị Thảo lấm lét nhìn trước nhìn sau, kéo em vào phòng khép cửa lại rồi thì thầm:- Răng em thắc mắc dữ rứa? Đừng khi mô nhắc lại câu nớ nữa nghe, me nghe me la chết. Em còn nhỏ tò mò chi chuyện người lớn, chừng vài năm nữa em sẽ hiểu.Câu trả lời của chị Thảo không làm cô bé hài lòng và không đợi vài năm nữa mới giải đáp thắc mắc đó mà chỉ nửa năm sau cô bé đã hiểu tất cả.Sau một cơn đau tim, ông ngoại vĩnh viễn nằm xuống. Tang ma xong dường như bầu không khí trong nhà trở nên căng thẳng.Câu chuyện nổ bùng dữ dội như trái bóng bị nén lâu ngày. Biến cố làm xáo trộn tâm hồn cô bé, làm rơi đi lớp sơn danh giá mà giòng họ Công Tằng đã cố công đánh bóng tự bao ngày qua.
Một buổi sáng mặt trời còn ngủ quên, Quế Trân đã choàng giấc nhưng còn lười biếng cuộn mình trong chăn lắng nghe tiếng chim chào mào đang đón chào nhau ngoài vườn, nghe tiếng cây cỏ xào xạc vang trong gió sớm … bỗng dưng cô bé giật mình … tiếng bà ngoại vang lên, giọng phẫn nộ. Âm thanh chát chúa xé tan khỏng không gian đặc quánh lặng yên của buổi mai. Tiếng nói thoắt trở thành tiếng hét lồng lộng trong ngôi nhà thênh thang:- …. Chừ thì hai mẹ con mụ đi đi, đừng ăn báo cô nữa, tui hết cơm hết gạo nuôi rồi …Trời ơi! Chuyện chi đã xảy ra? Quên cả lạnh, quên cả mang dép, Quế Trân tung chăn vùng dậy chạy nhanh xuống nhà. Dì Yến và Vú Năm đang khóc, cả hai lui cui xếp quần áo vào chiếc vali cũ rách. Quế Trân chạy tới ôm chầm cánh tay Vú Năm, tình thương tràn ngập khiến cô bé buột miệng:- Ngoại ơi! Ngoại bỏ con đi mô rứa?Vú Năm vuốt tóc cô bé:- Con ở lại, vú đi nghe…Đôi mắt Vú Năm lướt nhanh trên những khóm cúc tây, thược dược và dừng lại trên màu đỏ hồng nhung, bao năm qua chúng được chính bàn tay bà chăm sóc, bà nhìn chúng luyến lưu bởi bà sắp rời xa, xa từ ngọn cỏ cành cây trong khu vườn quen thuộc này.Bà nói như nói với chính mình, như nói với một người đã khuất: « Phải ta phải đi tới một nơi thật xa, mười mấy năm qua biết bao kỷ niệm, chừ chẳng còn gì, Chẳng còn lý do chi để ta lưu lại nơi đây. Thôi, vĩnh biệt tất cả, linh hồn ông có lẽ cũng không nỡ trách tôi … ở lại một ngày là thêm đắng cay tủi nhục »- Ngoại ơi! Ở lại với Trân, đừng đi mô hết.- Người ta đuổi vú mà con.- Con thương ngoại, ngoại đi con bỏ cơm bỏ học…- Đừng nói bậy con, ráng ăn nhiều cho khoẻ, học cho chăm, vú đi rồi vú gửi quà về cho, chừ vú chỉ còn mấy khóm hoa, vú cho con hết…Quế Trân mếu máo lắc đầu:- Con không cần chi hết, con cần ngoại thôi…Vú Năm cương quyết: - Không thể được, ông ngoại con chết rồi, vú chẳng còn địa vị chi để sống mãi trong ngôi nhà ni hết. Bà ngoại ngồi trên sập trừng mắt ngó Trân: - Lên nhà, ai cho phép mi kêu mụ vú bằng ngoại, chỉ có mình tau là ngoại mi thôi, nghe rõ chưa Trân? Mụ vú là người ăn kẻ ở trong nhà, nó ham địa vị bà phủ hai, nó dùng nhan sắc quyến rũ ông ngoại mi… Ủa, răng mi chưa đi lên nhà mà còn xớ rớ đó, tau đập bi chừ … Trân sợ hãi thoát khỏi vòng tay vú Năm rồi lùi dần lên nhà. Giọng nói của Ngoại là một mệnh lệnh, khó cưỡng lại và tia mắt ngoại như toát ra một sự nghiêm khắc cùng cực. Thái độ của ngoại đối với vú Năm là thái độ khắc nghiệt của bà mẹ chồng đối với nàng dâu. Nóng giận và ghen ghét dồn nén bao năm khiến ngoại buông ra những lời mà với số tuổi non nớt của Trân chưa thể cho biết. Bà Ngoại biết vú Năm thương Trân, biết Trân quyến luyến vú Năm, dì Yến – Hai người mà bà ngoại coi như những cái gai cần phải nhổ ngay. Một mình bà ngoại dằn vặt vú Năm chưa đủ, bà muốn khơi dĩ vãng, cái bí mật mà bà phải chịu đựng trong suốt thời gian qua để Trân cũng ghét bỏ vú Năm như bà. Vú Năm là người bế ẵm Trân từ khi còn đỏ hỏn cho đến bây giờ, tình thương vú Năm dành cho Trân còn hơn bà đối với cháu. Chỉ có thái độ ghét bỏ của Trân mới làm cho vú Năm đau lòng xót dạ thôi. Bà ngoại nhất định dùng đòn tâm lý ấy để chặt đứt nguồn yêu thương sau cùng còn lại của vú Năm là Quế Trân. Thế nhưng ngoại đã lầm, những tiết lộ của bà ngoại vẫn không làm giảm đi một mảy may tình thương mà Quế Trân dành cho vú Năm, cho dì Yến…
Quế Trân ngồi bó gối trên giường, đôi mắt đỏ hoe, bây giờ cô bé đã hiểu, nỗi thắc mắc ngày nào được giải đáp và cô bé mười ba bắt đầu biết suy tư từ đó. Hồi ông ngoại còn sống, bà ngoại sanh được một người con gái, đó là mẹ Trân bây giờ. Năm năm trôi qua, bà ngoại chỉ sanh thêm một người con trai nhưng « hữu sanh vô dưỡng », đứa bé trai ấy chết sau một cơn bệnh ngặt nghèo mặc dù ông ngoại đổ ra không biết bao nhiêu tiền để chạy chữa. Ông Ngoại lại bắt đầu chờ đợi một đứa con trai khác, bà ngoại siêng năng đi chùa hơn để khẩn cầu một đứa con. Nghe đền nào linh thiêng bà ngoại cũng không quản xa xôi, đến tận nơi để khấn vái cầu xin nhưng vô ích, bà vẫn không sanh thêm được đứa nào. Thời gian lặng lờ trôi qua mang theo những hy vọng còn xót lại, ông ngoại băn khoăn và buồn thật nhiều. Theo quan niệm người xưa thì « không con trai để nối giõi tông đường là đã phạm một trong những tội đại bất hiếu » vì thế nỗi muộn phiền chỉ tạm vắng khi ông ngoại túy lúy trong men rượu. « Cụ phủ gương mẫu » ngày nào bây giờ mất hết phong độ mà chỉ còn là « con sâu rượu » Trong thời gian ấy vú Năm được nhận vào giúp việc. Trong một ngày mưa tầm tã con « ma men đã quỵ ngã trước tấm nhan sắc ấy. Ông ngoại lén lút cất nhắc cô hầu gái lên địa vị « bà phủ hai». Sự cất nhắc lén lút không thể giữ mãi cho đến ngày vú Năm mang thai dì Yến, hình dáng đổi khác của Vú Năm và tia mắt bối rối của ông ngoại đã tự tố giác tất cả. Biết không thể tiếp tục che đậy, ông Ngoại đành dùng lý do «cần con trai nối giõi» để làm dịu cơn giận của bà Ngoại. Quả nhiên trước lý do rất hữu lý ấy và hơn nữa vì hai chữ «danh giá» bà Ngoại cố dồn nén bao phẫn nộ vào tận đáy lòng. Bà đã đem tất cả sự khôn khéo để giữ sĩ diện cho gia đình. Nguồn hy vọng của ông Ngoại lại vươn lên cao nhưng có lẽ số ông Ngoại không có con trai, vú Năm cũng chỉ sinh được dì Yến rồi thôi. Sự kiện đó càng đào sâu hố ngăn cách giữa vú Năm và bà Ngoại. Bà Ngoại ganh ghét một cách ngấm ngầm vì bà hiểu cái tình của chồng mình đối với người vợ hai, bà vẫn còn nể sợ chồng nên không dám tỏ thái độ ấy một cách công khai. Vú Năm dường như biết thân phận lẽ mọn của mình lại thêm tính tình hiền lành nhịn nhục và khóc thầm trước đôi mắt khiêu khích và những lời bóng gió ngụ ý khinh bỉ của người vợ lớn. Từ lâu bà Ngoại vẫn nung nấu thù ghét vú Năm vì vú là người đã chen vào hạnh phúc của bà, đã khuấy động cuộc đời bình lặng của bà bằng đôi mắt mơ buồn … Ngay từ giây phút đầu tiên nhận vú Năm làm người giúp việc, bà đã thầm khen vú Năm là một thiếu nữ đẹp, cái đẹp dịu dàng, nhu mì và mộc mạc của cô thôn nữ Vỹ Dạ đã làm xúc động lòng bà nhưng điều bà không ngờ tới là chỉ nửa năm sau từ một người giúp việc, Vú Năm đã bước lên địa vị «bà phủ hai» khiến cho bà từ lòng thương mến đã đổi thành thù ghét.Ngày nay, dù vú Năm đã nhiều tuổi nhưng vẫn còn phảng phất nét đẹp ngày nào, dì Yến là người thừa hưởng trọn vẹn tấm nhan sắc của mẹ nhưng cánh hoa ấy bị bao bọc bởi bốn bức tường cao nên ít ai biết đến.Ngày ông Phủ còn sống, trước mặt ông, bà luôn luôn tỏ ra ngọt ngào với vú Năm. Bà muốn cho ông thấy bao giờ bà cũng là người cao thượng, đầy lòng vị tha, nhưng vắng ông, bà tiếp tục chửi mắng đầy tớ bằng những lời bà muốn dành cho vú Năm:- Con Thoa mô? Công chuyện bề bộn như ri mà không lo làm, suốt ngày lo sửa sang sắc đẹp để làm chi? Để quyến rũ chồng người ta phải không?Vú Năm hiểu những lời ấy dành cho mình, buồn tủi nhưng vú Năm cắn răng chịu đựng. Nhìn gương mặt héo buồn của vú Năm, bà Phủ hả hê sung sướng. Trong bà đang có những con sóng ngầm, những ngọn lửa âm ỉ chỉ chờ cơ hội để nổ tung bốc cháy.Sau khi chồng xuôi tay khép mắt, bà Phủ liền đổi thái độ với vú Năm. Bà dùng uy quyền của người vợ cả để dằn vặt, hành hạ người vợ lẽ. Tuy bất mãn muốn chống đối nhưng rồi vú Năm vẫn thụ động vì bản chất hiền lành còn tồn tại nơi con người của Vú.Sự khắc nghiệt của bà Phủ thể hiện rõ rệt trong việc bà bắt các cháu mình gọi người vợ lẽ bằng danh từ «vú Năm» thay vì gọi bằng «bà Ngoại» như ông Phủ đã buộc hồi còn sống. Danh từ «vú Năm» như để đưa địa vị người vợ lẽ xuống thành bà vú hay người giúp việc trong nhà cũng thế.
Trân chạy về phòng gục mặt xuống gối khóc rưng rức. Cô bé thì thầm gọi tên hai người thân yêu sắp ra đi, một chuyến đi không hẹn ngày trở lại. Dì ơi! Còn mô những buổi sáng lạnh co ro trong vòng tay dì nhìn ngọn lửa hồng liếm chõ xôi, mùi nếp mùi đậu xanh thơm nức khiến cháu vòi vĩnh đòi ăn, dì cốc nhẹ đầu cháu mắng con nhỏ ni hư ăn, ngoại chưa thời, ba mạ chưa thời mà đã đòi ăn, la cháu nhưng dì vẫn lén cho cháu nắm xôi còn nóng hổi. Còn mô những buổi trưa hai dì cháu nằm ôm nhau trên chiếc chõng tre già nua, rồi cháu thiếp đi trong tiếng hát của dì, tiếng hát trầm buồn như một lời ru. Còn mô những buổi chiều hai dì cháu thơ thẩn trong vườn, những vòng hoa bưởi thơm ngát dì choàng lên đầu cháu mà ví von cháu là nàng công chúa bé bỏng của dì, những múi thanh trà dì dành cho cháu thật ngọt như tình thương mênh mang cùa dì... Và ngoại dấu yêu của con, ngoại sắp bỏ con mà đi, từ nay căn nhà thênh thang sẽ thiếu bóng ngoại, khu vườn với những cây trĩu trái, chúng sẽ buồn vì thiếu đôi tay ngoại, đôi tay đã chăm sóc tưới bón chúng từ bao năm qua...Tiếng hét của ngoại còn vang lên lồng lộng trong buổi mai lạnh buốt:- Mụ không đi ngay mà còn đứng khóc lóc cái chi? Con Trân cháu tui, mắc mớ chi tới mụ mà mụ nhắc, không có mụ nó cũng không chết mô? Nó chừ còn con nít biết chi mà mụ kể lể với nó, mụ muốn chia rẽ bà cháu tui hả? Mụ là con hồ ly mà, phá hoại hạnh phúc gia đình tui như rứa chưa vừa ý bằng lòng răng? Hừ... tướng mẹ con mụ là cái thứ tướng sát phu...- Ông ngoại con Trân đau tim mới chết, tụi mà sát phu thì ông nớ chết lâu rồi chứ mô có sống tới chừ con Yến hai mươi mấy tuổi rồi...- A! Mụ giỏi, còn cãi nữa, thôi đừng nhiều lời, giòng họ nhà tui không thể dung chứa những người như mẹ con mụ.Giọng vú Năm sũng ướt:- Con Yến nó cũng mang họ như con bà..Bà Ngoại rít lên tàn nhẫn:- Biết mô nó không là máu mủ người khác, mụ đem trút vô cho gia đình tui gánh chịu, mụ ham cái gia tài ni mà. Ui chao! Đừng mơ tưởng vô ích. Nì, tui nói cho mà nghe, con Yến không có phần mô …Đôi mắt vú Năm mở lớn:- Trời ơi! Bà có thể nói một câu vô hậu như rứa răng?Sự uất ức khiến bà run rẩy cả đôi chân như chực ngã, đột nhiên bà gạt nhanh nước mắt. Qua khe cửa, lần đầu tiên Quế Trân thấy đôi mắt vú Năm quắc lên dữ dội:- Được, tui sẽ đi cho bà vui lòng, ra khỏi nơi đây không phải mẹ con tôi chết đói mô, nhưng trước khi đi tui cần nói cho bà biết, tui không ham một đồng cắc mô trong cái nhà ni hết. Còn hai bàn tay là còn làm việc kiếm tiền nuôi thân, tui không bao giờ là hạng người ỷ lại quyền thế để áp bức, hành hạ người khác. Bà ngoại đập tay lên sập:- Mụ nói cái chi? Mụ nói ai ỷ lại quyền thế?Vú Năm không trả lời bước nhanh lên nhà trên, đứng trước bàn thờ người chồng quá cố bà xúc động, miệng lẩm bẩm khấn vái trong khi nước mắt tuôn trào.« Ông sống khôn thác thiêng phò hộ mẹ con tui được yên thân sống nốt quãng đời còn lại… »Bà Ngoại nhìn theo bĩu môi:- Ui chao! Ơn nghĩa dữ … khéo làm bộ.Mẹ Trân nãy giờ vẫn yên lặng bỗng bước tới rụt rè:- Thôi mạ, bao nhiêu sự bí mật trong nhà mình chẳng còn bưng bít được nữa, còn chi là danh giá.Bà Ngoại đưa tay quệt mạnh vết trầu bên mép:- Tau không cần giữ gìn cái chi nữa, tau nhịn nhiều rồi, con mụ nớ phải đi cho khuất mắt tau, hắn là cái gai, phải nhổ đi cho khỏi chướng, để nó ăn báo cô hoài tau bực lắm.- Mẹ đuổi dì Năm đi, chắc linh hồn cha con buồn lắm … Ra khỏi nhà mình mần răng dì nớ sống, mấy chục năm ni có thấy ai tới thăm dì nớ mô.- Mi khéo lo … tau nghe nói nó có đứa cháu họ xa ở trên ĐàLạt chừ thì lên nớ mà ăn nhờ ở đậu.- Con ngại người ăn kẻ ở trong nhà đi đồn, đi nói…- Hừ, đứa mô đồn bậy bạ tau đuổi đi luôn.Bà Ngoại dửng dưng nhìn vú Năm và dì Yến xách vali lầm lũi bước ra cổng. Nắng đã lên, hai chiếc bóng gầy trải dài trên sân gạch. Từ vuông cửa nhỏ, Trân đỏ hoe mắt trông theo cho đến khi cả hai lách mình ra và cánh cổng sắt khép kín lại.
Ba me, anh Linh, chị Thảo cũng đứng yên bất động, trên khuôn mặt họ lộ vẻ nửa như thương hại nửa như bất mãn, nhưng không ai dám nói câu trước sự phẫn nộ của bà Ngoại. Cơn giận lắng xuống, bà bắt đầu lo ngại tai tiếng.Tất cả như cơn bão tố ùa về thật tàn khốc làm vỡ tung cái vỏ lễ nghi, cái vỏ đạo đức gia phong mà từ lâu gia đình Quế Trân cố bảo thủ.Người ta thường nói? « Bức vách có tai », câu ấy có lẽ đúng. Mặc dù bà Ngoại đã dặn dò gia nhân phải kín miệng, đánh đổi sự kín miệng ấy bằng mọi cách. Hăm dọa cũng có, vuốt ve cũng có và đồng tiền cũng có, nhưng không chuyện gì có thể giấu mãi dưới ánh sáng mặt trời vì chỉ một thời gian sau cả dẫy phố đều biết chuyện vú Năm, người vợ lẽ của ông Phủ, xuất thân chỉ là một cô tớ gái giúp việc và cả hai mẹ con người vợ lẽ đã bị bà Phủ đuổi đi vì ganh ghétChuyện này khiến nhiều người xầm xì bàn tán, họ cho rằng bà ngoại quá khắc nghiệt, ăn ở thất đức.Luồng dư luận có lẽ tới tai bà Ngoại nên bức tường đã cao lại có vẻ cao hơn, cánh cổng đã khép chặt lại có vẻ chặt hơn, ngăn cách hẳn thành một thế giới riêng biệt. Ít khi người ta thấy những người trong gia đình Quế Trân ra khỏi cổng, nếu có họ cũng lặng lẽ âm thầm như những chiếc bóng.Chuỗi ngày tháng nói tiếp nhau trôi qua, câu chuyện của gia đình cụ Phủ rồi cũng mờ đi, nhạt đi. Người ta đã quên hay đúng hơn đã ném nó vào một xó xỉnh trong tiềm thức.Cô bé Quế Trân ngày nào nay đã lớn hơn, đã biết lén lấy gương nhỏ của me đem vào phòng ngồi ngắm mình hàng giờ hay lấy mấy cánh cúc tây cài lên tóc mà mơ mình làm nàng công chúa ngủ trong rừng. Cô bé lớn lên cùng với một đam mê. Cô bé mê hoa hồng vô cùng, nhất là hoa hồng nhung màu huyết dụ. Những khóm hồng nhung trong sân là kỷ niệm sau cùng của vú Năm còn để lại.Sống trong tình thương tràn đầy, vật chất không thiếu nhưng cô bé vẫn cảm thấy buồn, thấy thiếu vắng một cái gì đó. « Cái gì đó » có thể là sự tự do. Nếu mãi làm chú chim trong chiếc lồng kết hoa hay sống như một cây cỏ mềm yếu suốt đời núp bóng cội tùng biết bao giờ cô bé mới tìm được một người bạn?Nhà vắng người lại càng vắng hơn. Anh Linh đậu xong phần II đã bay vô SàiGòn thi vào kiến trúc. Chị Thảo lo tụng bài kỹ hơn để chuẩn bị cho kỳ thi toàn phần năm tới. Vỏn vẹn trong nhà chỉ còn bà Ngoại, ba me, chị Thảo, Quế Trân, o Nhạn, chị Bảy và chú tài xế. Quế Trân buồn bã đếm từng ngày trôi qua với nỗi nhớ quắt quay, nhớ vú Năm, nhớ dì Yến, nhớ những kỷ niệm êm đềm ngày xưa …Bận rộn lo lắng với thi cử, rồi chờ đợi kết quả trong hồi hộp phập phồng, chị Thảo mừng đến chảy nước mắt khi thấy tên mình trong danh sách những thí sinh đậu. Ba me mở tiệc ăn mừng, Quế Trân nhớ rõ trong số những người đến dự tiệc có cả vợ chồng bác Tuần và anh Bằng (con bác Tuần) nữa. Chị Thảo hôm nay dễ thương với chiếc áo dài màu hoàng yến me mới thưởng hôm có kết quả. Suốt buổi tiệc Trân bắt gặp anh Bằng nhìn chị Thảo mấy lần và dường như chị Thảo cũng biết điều đó nên hai má đỏ bừng đôi mắt chớp chớp. Trân đoán «anh chị» đã «ăn ý» với nhau rồi và cô bé cầu mong cho anh Bằng cưới chị Thảo, mong chị Thảo có hạnh phúc dù cô bé có phải xa chị Thảo đi nữa.Quế Trân liếc nhìn ba mẹ? Ông bà đang trò chuyện thân mật với vợ chồng bác Tuần. Thỉnh thoảng bác Tuần gái nhìn chị Thảo với đôi mắt yêu thương, nhìn anh Bằng với đôi mắt trìu mến. Cô bé biết mẹ và bác Tuần đang nói về anh Bằng, chị Thảo, tự dưng cô bé thấy niềm vui tràn ngập.Quế Trân rời bàn ăn, cô bé nghĩ đến mấy bông hồng nhung mới nở hồi chiều – Mình sẽ tặng chị Thảo anh Bằng hai bông đẹp nhất. Cô bé đang loay hoay chọn hoa chợt nghe tiếng chân người, mà cô bé đoán là anh Bằng và chị Thảo. Cô bé đứng yên không dám nhúc nhích, không phải là tò mò nhưng cô bé không muốn khuấy động giây phút êm đầm hạnh phúc của hai người.Tiếng anh Bằng trầm ấm:- Thảo định xong toàn phần sẽ theo phân khoa nào?- Dạ … dạ… Thảo định học Dược, nhưng me muốn Thảo thi vô Sư Phạm…me nói con gái làm nghề dạy học là dễ thương nhất …Anh Bằng cười nhỏ:- Anh cũng nghĩ như rứa. Chừ dạy con thiên hạ, mai mốt lấy chồng có con thì dạy con mình học …Trân đoán hai gò má chị Thảo sẽ đỏ bừng và đôi mắt sẽ chớp chớp, thói quen mỗi lần gặp điều chi làm chị xấu hổ.Tiếng chị Thảo kêu khẽ:- Trời ơi! Anh Bằng nói chi mà có con …dị bắt chết …- Anh nói thật đó, dị chi mà dị, Thảo nhát ghê. Thảo chuẩn bị tinh thần nghe, anh sắp nói một chuyện cam đoan sẽ làm Thảo giật mình và bối rối.Chị Thảo lo lắng:- Chuyện chi rứa anh? Anh làm Thảo lo ghê nơi.- Thảo có biết me anh đang nói với me Thảo chuyện chi không?- ….- Thảo, Thảo có biết anh mến Thảo lắm không? Anh mến Thảo từ hồi Thảo còn học đệ nhị, anh định đợi Thảo thi xong toàn phần sẽ nhờ me anh lại thưa chuyện với me Thảo và bữa ni me anh đang nói chuyện nớ với me em …Tiếng « em » thốt ra êm đềm trìu mến biết bao … Trân bàng hoàng xúc động vì điều nguyện cầu trong buổi tiệc của mình sắp thành, sự xúc động khiến cô bé đánh rơi chiếc kéo đang cầm trong tay mà cô bé định dùng nó để cắt hai cành hoa, chị Thảo giật mình quay lại:- Ai rứa? A … Trân … nãy chừ em đi mô? Em làm cái chi mà đứng chỗ nớ?Trân lúng túng:- Em … Em cũng mới ra …Em nhớ tới mấy bông hồng mới nở khi chiều, em định hái tặng chị với anh Bằng …Chị Thảo cười giọng no đầy hạnh phúc:- Trời ơi! Trân của chị ngoan ghê – Quay sang anh Bằng chị tiếp – Anh biết không, Trân quí mấy khóm hoa hồng của nó lắm, thường ngày nó không cho ai đụng vô mấy cây hoa nớ, không biết răng bữa ni cô bé có nhã ý tặng hoa cho anhvới Thảo rứa?Trân nhìn anh Bằng cười tinh ranh:- Tại bữa ni chị Thảo là người hạnh phúc, « tiểu đăng khoa » rồi còn thiếu cái « đại đăng khoa » nữa là đủ anh Bằng hỉ?Chị Thảo tròn mắt nhìn Trân:- Em biết hết rồi?- Biết chi chị? Em nghe bác Tuần bàn với me về chị và anh Bằng … Cô bé giơ hai cành hoa còn ướt sương:- Chúc mừng chị và anh Bằng.