Ngoài Phùng Khắc Khoan, ông Mạc Dĩnh Chi cũng là trạng nguyên của hai nước Nam và nước Tàu.
Sách "Nam Hải Dị Nhân" chép rằng Mạc Đĩnh Chi tự là Tiết Phu, người làng Lũng Đổng huyện Chí Linh (Hải Dương, Bắc Việt) nguyên về giòng giõi quan thái thú Mạc Hiển Tích về triều nhà Lý (Hiển Tích đỗ trạng nguyên đời vua Trung Tôn nhà Lý, làm đến Lại bộ thượng thư)
Tục truyền làng Lũng Đổng có một khu rừng rậm, cây cối bùm tum, lắm giống hầu (con khỉ) ở. Mẹ Ông ấy thường khi vào rừng kiếm củi, phải con hầu đực bắt hiếp. Về nói với chồng, chồng ăn mặc giả làm đàn bà, giắt sẵn con dao sắc vào rừng, con hầu quen thói lại ra, bị Ông kia chém chết bỏ thây tại đấy.
Sáng hôm sau ra xem thì mối đã đùn đất lấp hết, thành gò mả.
Bà kia từ đấy thụ thai, đủ tháng sinh ra Mạc Đĩnh Chi, mặt mũi xấu xí, người nhỏ loắt choắt tựa như giống hầu.
Mạc Đĩnh Chi lớn lên bốn năm tuổi, tư chất thông minh hơn người. Bấy giờ Hoàng tử là Chiêu Quốc Công mở trường dạy học trò, Mạc Đĩnh Chi vào học. Đến năm gần hai mươi tuổi là năm Giáp Thìn đời vua Anh Tôn nhà Trần, Mạc Đĩnh Chi thi đình văn đáng đỗ đầu cả mọi người nhưng vua trông thấy người hình dáng xấu xa, toan không cho đỗ Trạng nguyên, Đĩnh Chi làm một bài phú "Ngọ tỉnh liêu" để ví vào mình, vua mới lại cho đỗ Trạng Nguyên.
Khi Mạc Đĩnh Chi phụng mênh sang sứ nhà Nguyên bên Tàu, có hẹn trước với người Tàu ngày mở cửa ải. Bất ngờ hôm ấy trời lại mưa, Mạc Đĩnh Chi sai hẹn; hôm sau mới đến thì người Tầu đóng cửa không cho vào. Đĩnh Chi nói tử tế xin cho mở cửa. Người Tầu ra một câu từ trên ải ném xuống và bảo hễ đối được thì mở cửa.
Câu ra:
"Qúa quan trì, quan quan bế; nguyện quá khách quá quan".
Nghĩa là: Qua ải chậm, người coi ải đóng cửa ải, mời khách qua đường qua ải mà đi.
Đĩnh Chi viết nagay một mảnh giấy, đối lại đưa lên:
"Xuất đối dị, dối đối non, thỉnh tiên sinh tiên đối".
Nghĩa là: Ra đối dễ, đối lại khó, mời tiên sinh đối trước.
Người Tàu khen có tài nhanh nhẩu, mới mở cửa ải cho vào. Khi đến cửa Yên Kim, người tàu thấy ông xấu xa, có bụng khinh bỉ. Một hôm, viên tể tướng Tàu mời vào phủ đường ngồi chơi, Đĩnh Chi trông thấy trên bức tường có thêu con chim sẻ vàng đậu trên cành trúc, tưởng là chim thực, đứng dậy chạy lại bắt. Người Tàu cười ầm cả lên. Đĩnh Chi xé tan ngay bức trướng ấy ra.
Chúng ngạc nhiên hỏi cớ làm sao thì thưa rằng:
Tôi có nghe người ta thường vẽ chim sẻ đậu cành mai không ai vẽ đậu cành trúc. Nay tể tướng sao lại cho vẽ thế. Trúc là giống cây quân tử, chim sẻ là loài vật tiểu nhân, vẽ thêu như thế là ra cho tiểu nhân ở trên quân tử, tôi e rằng đạo tiểu nhân mỗi ngày thịnh lên, mà đạo quân tử mỗi ngày suy đi, nên tôi trừ giúp cho thánh triều đấy thôi:
Chúng chịu là biện bác có lẽ.
Đến khi vào chầu, nhân có ngoại quốc dâng một đôi quạt quý. Vua Tàu xai Đĩnh Chi và một người sứ Cao Ly, mỗi người đề một bài tán vào quạt.
Sứ Cao Ly làm xong trước.
Lời tâu rằng:
"Uẩn lòng trùng trùng, y Doãn Chu Công, Vũ tuyết thê thê, Bá Di Thúc Tề".
Nghĩa là: Đang lúc nắng nực, thì như ông Y Doãn, ông Chu Côn (ý là đắc dụng với thời). Đến khi mưa tuyết lạnh ngắt thì như Bá Di, ông Thúc Tề (ý nói là xếp xó một chỗ).
Bấy giờ Mạc Đĩnh Chi chưa nghĩ ra ý tứ làm sao, nhác trông sang quản bút bên kia, biết là lời lẽ như thế mới suy ra mà đề một bài như sau này:
"Lưu kim thước thạnh thiên địa vi lô nhi ư tư thời hề Y Chu cự nho! Bắc phong kì lương, vủ tuyết tái đô; nhi ư tư thời hề Di Tề ngã phụ Y ! dụng chi tắc hành xả chi tắc tàng, dụng ngã nhữ hữu thị phù ?"
Nghĩa là: Nắng chảy vàng tan đá, trời đất như lò lửa, người về lúc ấy ví như Y, Chu, hai ông quan tọ Gió bấc lạnh lẽo, mưa tuyết lấp đường, người về lúc ấy ví như Di Tề, hai người chết đói. Than ôi ! Khi dùng đế thì ra khi không dùng đến thì cất đi, chỉ ta với người được thôi.
Đề xong dâng lên, vua Tàu cầm bút khuyên chữ "y", phê rằng "Lưỡng quốc trạng nguyên" nghĩa là trạng nguyên hai nước.
Thường khi Mạc Đĩnh Chi cưỡi lừa đi đường, chạm phải ngựa Tàu. Người kia đọc lên một câu rằng:
"Sú ngã kỵ mã, Đong di chi nhân dã ! Tây di chi nhân dã ! Tây di chi nhân dã".
Nghĩa là: Chạm vào ngựa của ta cưỡi, ấy là người Đông di hay Tây di?
Mạc Dĩnh Chi chả lời liền:
"át dư thừa lư, nam Phương chi cường dư ! Bắc Phương chi cường dư !"
Nghĩa là: Chắn đường lừa ta đi, thử xem người Nam phương mạnh hay ngoời Bắc phương mạnh.
Lại thường đối đáp người Tàu, Tàu ra rằng:
"An nữ khứ, thi nhập vi gia"
Nghĩa là chữ an, bỏ chữ nữ, chữ vào là chữ gia.
Đối rằng:
"Tù, nhân xuất; vương lai thánh quốc"
Nghĩa là: Chủ từ bỏ chữ nhân, chũ vương đến thì là chữ quốc.
Người Tàu phê rằng:
- Con cháu về sau tất cả người làm đến đế vương nhưng hiềm về chữ quốc đơn thì hưởng nước không được tràng cửu mấy nỗi.
Lại ra:
"Nhật hỏa vân yên; bạch chú thiêu tàn ngọc thỏ".
nghĩa là: Lửa mặt trời khói đám mây, ngày trắng đốt tàn con thỏ ngọc.
Đối:
"Nguyệt cung tinh đạn, hoàng hôn xạ lạc kim ô".
Nghĩa là: Cung mặt nguyệt, dạn nhôi sao chiều hôm bắn rụng cái ô vàng.
Người Tàu phê rằng:
- Con cháu về sau tất có người cướp nước. (Mạc Đặng Dung về sau giết vua cướp nước).
Một khi bà hoàng hậu ở Tàu mất, vua Tàu sai ông Mạc Đĩnh Chi vào đọc văn tế. Đến lúc quì xuống cầm bản văn đọc thì chỉ thấy một tờ giấy trắng, có bốn chữ "nhất". Đĩnh Chi không nghĩ ngợi gì, đọc ngay rằng:
"Thanh thiên nhất đóa vân, hồng tô nhất điểm tuyết, ngọc uyển nhất chi hoa, giao trì nhất phiến nguyệt. Y ! Vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết".
Nghĩa là: Một đám mây trên trời xanh, một giọt tuyết trong lò đỏ, một cành hoa vườn thượng uyển, một vầng trăng ao Giao trì. Than ôi, mây rã, tuyết tan, hoa tàn, trăng khuyết.
Bài văn này còn chép vào sử Tàu. Người Tàu ai cũng chịu tài ứng biến nhanh.
Đĩnh Chi làm quan liêm chính hết sức, vua Minh Tôn thường sai người đem mười quan tiền, rình lúc tối bỏ vào cửa nhà ông ấy. Sớm mai, ông vào tâu ngay với vua, xin bỏ tiền ấy vào kho.
Vua bảo rằng:
- Tiền ấy không có ai nhận thì nhà ngươi cứ việc lấy mà tiêu.
Bấy giờ Mạc Đĩnh Chi mới lấy. Đến triều vua Hiền Tôn, làm nên đến chứ Tả bộc xạ (Tể tướng). Văn chương lưu truyền lại về sau rất nhiều. Con ông là Khẩn, Trực, cùng làm đến ngoại lang. Cháu là Địch, Toại, Viên cùng có quyền thế, làm quan lúc nhà Minh cai trị. Đời cháu chắt thiên sang ở làng Cổ Trai, huyện Nghị dương thì có Đặng Dung là cháu bẩy đời, làm vua nhà Mạc.