Tập 1

– Có người sắp chết đuối! Có người sắp chết đuối!

Đông Hồ cho canô chạy chầm chậm trên mặt biển. Anh vừa điều khiển chiếc canô vừa thả hồn theo những ánh tà dương đang rải bạc lấp lánh trên mặt biển mênh mông.

Trời nước bao la xanh ngát một màu. Mặt biển phẳng lặng khiến cho con người ta một cảm giác bình yên.

Bỗng anh nghe có tiếng kêu cầu cứu.

Tác phong của một thủy thủ có nhiều kinh nghiệm trên biển thật linh hoạt.

Đông Hồ vòng canô lại. Trước mắt anh một dáng người đang chới với trên sóng biển. Không chần chừ anh dừng canô lại, ôm phao lao thẳng đến nơi người bị nạn.

Ôm chặt người bị nạn trong tay, Đông Hồ mới phát hiện:

– Thì ra là một cô gái.

Đông Hồ không có thời gian nghĩ ngợi gì thêm. Anh vội đưa nạn nhân lên canô. Lúc ấy đội cứu hộ của bãi tắm Mũi Nai cũng vừa ra đến. Họ cùng Đông Hồ đưa nạn nhân lên canô.

Một người trong đội nói với Đông Hồ:

– Cám ơn anh.

Đông Hồ nghiêm nghị:

– Tại sao các anh không cảnh báo để khách du lịch bơi ra khỏi vùng cấm của bãi tắm chứ?

– Xin lỗi! Chúng tôi đã quản lý không chặt chẽ.

– Thôi được rồi! Đây không phải là lúc truy cứu trách nhiệm. Chúng ta mau đưa nạn nhân vào bờ đi.

– Vâng!

Cô gái sau phút sợ hãi đã bình tĩnh trở lại. Nhận ra mình vừa thoát chết, cô lí nhí nói với Đông Hồ:

– Cám ơn anh!

Đôi mắt Đông Hồ nhìn cô thật sắc:

– Lần sau cô nhớ giữ đúng nội qui của bãi tắm. Cô biết việc làm của mình thật nguy hiểm hay không?

– Tôi biết! Và tôi không dám có lần sau đâu.

– Vậy thì tốt!

Đông Hồ nói xong, anh lên canô của mình chạy thẳng. Tai nạn vừa qua là một chuyện bình thường trên biển. Chuyện cứu người vừa rồi của anh, cũng là một chuyện bình thường.

Đông Hồ nhanh chóng quay về với tâm hồn lãng mạn của mình. Anh không thể lãng phí một buổi chiều thật đẹp trên biển. Anh lại thả hồn mình theo những sợi nắng cuối ngày dần tắt trong hoàng hôn. Mặt trời như một quả bóng tròn đỏ ối chìm dần xuống chân trời. Trời và nước hòa nhau tạo một sắc hồng đẹp như một bức tranh thủy mạc.

Đông Hồ nói như reo:

– Biển chiều thật đẹp!

– Tiểu Du! Con làm mẹ sợ quá!

Bà Tiểu Ngọc ôm lấy Tiểu Du giọng có vẻ sợ hãi:

– Tại sao khi không con lại giận dỗi bơi ra ngoài xa như vậy hả? Con có biết như thế nguy hiểm lắm hay không?

Tiểu Du rươm rướm nước mắt trả lời mẹ:

– Tại mẹ ép con.

Bà Tiểu Ngọc ngọt ngào:

– Tiểu Du! Mẹ chỉ muốn tốt cho con thôi.

Tiểu Du ngúng nguẩy:

– Tốt cái gì mà tốt. Con chỉ mới vừa tốt nghiệp đại học thôi. Con chưa có dịp đi làm để được học hỏi thêm gì cả. Chưa chi mẹ đã vội muốn con phải lấy chồng rồi. Mẹ sợ cái gì mà lại vội đẩy con ra khỏi gia đình chứ?

– Không phải thế đâu! Mẹ chỉ muốn con tìm hiểu Minh Khuê thôi. Mẹ thấy nó cũng là một con người rất tốt đó.

Tiểu Du lại phản kháng:

– Tốt! Tốt! Trước mặt mẹ ai cũng tốt cả. Chỉ có con gái mẹ là tồi tệ thôi.

Bà Tiểu Ngọc ra vẻ không hài lòng về câu nói của con gái:

– Tiểu Du! Tại sao con lại nói với mẹ như thế hả?

– Chứ không phải sao? Nếu con gái mẹ không xấu xa, tồi tệ thì việc gì mà mẹ phải vội vã đem gán ghép cấp tốc gả con cho người khác chứ?

– Tiểu Du! Con nói thế không nên đâu, lỡ như hai bác Minh Thuận và cả Minh Khuê nghe được thì ...

– Thì sao chứ? Con cũng cần cho họ biết rõ quan điểm của con.

Bà Tiểu Ngọc bực bội:

– Tiểu Du! Con đừng có mà ngang bướng nữa. Mẹ phải giải thích thế nào thì con mới chịu hiểu hả?

– Con không cần hiểu gì cả. Con chỉ biết rằng mẹ một mực muốn tống khứ con đi mà thôi.

Biết không thể dùng lý lẽ cứng rắn với Tiểu Du, bà Tiểu Ngọc ngọt ngào:

– Tiểu Du! Con là con gái của mẹ mà. Tại sao mẹ lại phải làm như thế với chính con gái của mình chứ?

– Nếu vậy thì mẹ đừng nên ép con nữa. Con chịu từ Sài Gòn xuống đây là con đã hạ mình lắm rồi. Mẹ đừng làm mất thêm thể diện của con nữa.

– Tiểu Du! Tiểu Du ...

Bà Tiểu Ngọc chưa kịp phản kháng câu nói của Tiểu Du thì Minh Khuê từ xa đã gọi vang vọng. Bà chỉ kịp dặn dò con gái:

– Ăn nói với người ta phải biết giữ lời đó!

– Con biết rồi!

Vừa chạy đến bên bà Tiểu Ngọc và Tiểu Du, Minh Khuê đã nở một nụ cười đầy thiện cảm:

– Bác và Tiểu Du ra đây lúc nào vậy? Sao không gọi con để cùng ra ngắm biển chiều với?

Câu hỏi của Minh Khuê khiến bà Tiểu Ngọc hơi bối rối. Nhưng bà Tiểu Ngọc cũng trấn tĩnh lại:

– Đột nhiên Tiểu Du nó muốn tắm biển. Thấy anh chị và cháu còn nghỉ nên bác không gọi.

Minh Khuê có vẻ tiếc rẻ:

– Cũng vì ngủ nướng một chút mà cháu làm mất đi một buổi chiều tuyệt vời trên biển.

– Không sao! Chúng tôi còn lưu lại đây một thời gian nữa. Cháu đừng buồn, mình vẫn còn nhiều cơ hội mà.

Minh Khuê chợt nhìn Tiểu Du. Anh nhìn thấy trong mắt cô có cái gì đó thật xa vắng.

– Tiểu Du!

Tiểu Du đang đứng nhìn mặt biển nhuộm một màu tím biếc mà nghĩ ngợi xa xôi. Tiếng gọi của Minh Khuê làm cô giật mình bối rối:

– Gì hả anh?

– Sao Tiểu Du có vẻ buồn bã quá vậy?

– Đâu có! Du đâu có buồn gì đâu!

Bà Tiểu Ngọc chống chế thay cho con gái:

– Từ nhỏ Tiểu Du ít khi xa nhà, chắc nó nhớ nhà thôi.

– Nếu biết thế cháu đã không dám đề nghị bác đưa Tiểu Du từ Sài Gòn xuống đây chơi.

Tiểu Du thấy Minh Khuê buồn, cô cũng nghe lòng mình xốn xang. Cố nở nụ cười vui:

– Đâu có! Được đi chơi Du rất thích, rất là vui. Nhất là lần đầu tiên được đến thăm vùng biển Hà Tiên này. Mình được dịp ngắm tận mắt một kỳ quan thiên nhiên của đất nước. Đối với Du đây là một cơ hội hiếm có, Du phải cám ơn anh đó.

Mắt Minh Khuê như có một ngọn lửa nhỏ:

– Du nói thật hả?

– Anh nhìn mặt Du giống như là một kẻ nói dối hay sao?

Minh Khuê cười hiền:

– Anh xin lỗi! Anh vụng về quá!

Thật ra thì Tiểu Du rất có cảm tình với Minh Khuê. Là một Việt kiều thành công trên thương trường của Hoa Kỳ, anh luôn khiêm tốn, hòa nhã không tự mãn với chính mình. Đó là những đức tính hiếm có ở những thanh niên thời đại.

Nhưng từ tình bạn tới tình yêu thì khoảng cách ấy vẫn còn xa lắm.

Bà Tiểu Ngọc đã lẳng lặng bỏ đi để cho cả hai được cởi mở niềm tâm sự.

– Sao Tiểu Du lặng thinh vậy? Bộ Tiểu Du không thích nói chuyện với anh hả?

– Du nghĩ anh nên làm một nhà tâm lý học hơn là một thương nhân.

– Tại sao?

– Tại vì như thế anh sẽ hiểu người khác hơn mà không cần phải hỏi lại.

Minh Khuê vụng về xoa hai bàn tay vào nhau:

– Xin lỗi! Anh lại vô ý nữa rồi!

– Anh cứ xin lỗi mãi. Anh không xem Tiểu Du là bạn hay sao?

– Được Tiểu Du xem là bạn thì đó là niềm hạnh phúc của anh.

– Vậy thì chúng ta hãy đối xử với nhau bằng tình cảm chân thật của mình.

Đừng khách sáo như thế nữa.

– Anh rất vui khi Tiểu Du cho anh một cơ hội.

– Cơ hội gì hả anh?

Đôi mắt Tiểu Du vụt tối. Minh Khuê cảm nhận điều đó đến đau lòng. Anh hỏi nhỏ:

– Tiểu Du! Em đã có người yêu chưa?

– Người yêu?

Câu hỏi của Minh Khuê làm Tiểu Du chợt nghĩ đến mình. Từ nhỏ Tiểu Du chỉ biết có học hành, vô tư, cô hồn nhiên vui sống trong vòng tay yêu thương của cha mẹ, thầy cô, bạn bè. Cô chưa bao giờ nghĩ là mình sẽ có người yêu. Cô trả lời Minh Khuê mà không cần suy nghĩ:

– Tôi cần gì mà phải có người yêu chứ?

Minh Khuê ngạc nhiên:

– Sao Du lại nghĩ thế?

– Vì tôi nghĩ mình không cần có tình yêu nam nữ.

Minh Khuê bỗng trở nên mạnh dạn hơn. Anh hùng hồn biện minh cho ý sống của mình:

– Tiểu Du! Em đừng có những ý nghĩ sai lệch như thế. Ai trong chúng ta cũng cần phải có tình yêu. Bởi vì tình yêu là cuộc sống, là nhịp đập của trái tim mình.

– Nhưng tình yêu đâu nhất thiết phải là tình yêu nam nữ?

– Đó là quy luật tự nhiên mà mỗi người, ai trong chúng ta đều không tránh khỏi.

– Nhưng Du không muốn thế. Du chỉ muốn sống trong tình yêu thương nhân loại mà thôi.

Giọng Minh Khuê se buồn:

– Mong rằng chúng ta sẽ hiểu nhau nhiều hơn. Bây giờ trời đã tối rồi. Mình về thôi Tiểu Du.

Tiểu Du lặng lẽ bước theo Minh Khuê quay về. Cô nhìn ra biển đêm xa mịt mùng. Có một cái gì đó gợi buồn bao vấn vương trong lòng cô.

Hình như biển đã đem đến và mang đi theo một sức sống vừa bừng dậy trong trái tim tưởng đã mãi ngủ yên của mình.

Đôi mắt đó vừa ấm nồng vừa sắc bén bỗng hiện lên làm xôn xao trái tim con gái.

Tiểu Du thầm công nhận biệt thự của ông bà Minh Huân được thiết kế xây dựng thật là hoàn mỹ. Phòng khách, phòng ngủ, phòng ăn thật tiện nghi, thoáng mát và khang trang ...

Lên sân thượng, toàn cảnh Hà Tiên thật tuyệt vời hiện ra trước mắt.

Minh Khuê hướng dẫn và giải thích cho Tiểu Du từng thắng cảnh của Hà Tiên:

– Trước mắt là núi pháo đài nằm bên cửa biển thơ mộng tạo nên một thắng cảnh nổi tiếng trong Hà Tiên thập cảnh đó.

– Địa danh này là gì hả anh?

– Đây là nơi mà người đời gọi là Kim Dự Lan Đào.

– Còn bên phải chúng ta hả anh?

– Bên phải là vịnh Thái Lan bao la xanh mút chân trời. Em hãy nhìn những hòn đảo thấp thoáng xa xa trông như đàn cò trắng chấp chới những chiếc cánh nhỏ lấp lánh dưới ánh mặt trời.

Tiểu Du xuýt xoa:

– Thiên nhiên thật hữu tình.

– Em nhìn cái vòng cung biêng biếc ngoài bờ biển kìa. Đó chính là bãi tắm Mũi Nai mà chiều hôm qua em ra tắm đó.

– Chiều hôm qua ... bãi tắm Mũi Nai?

Tiểu Du lẩm bẩm. Hình ảnh của chiều hôm qua bỗng hiện lên trước mắt cô.

Vòng tay của người thanh niên lạ đó đã ôm gọn cả tấm thân mình. Tiểu Du bỗng thấy nao nao những điều không rõ rệt.

Minh Khuê không để ý đến thái độ thẫn thờ của Tiểu Du. Anh tiếp tục nói:

– Kia là núi Lãng, nơi lưu giữ đền thờ của dòng họ Mạc ẩn hiện trong rừng cây.

Tiểu Du nhìn theo hướng Minh Khuê chỉ. Cô cảm nhận được vẻ hùng vĩ, thiêng liêng của núi rừng sông nước quê hương anh.

– Bên trái là cầu nối lung linh sóng nước và núi Tô Châu xanh thẳm ngang trời.

Xoay người phía sau, Minh Khuê tiếp tục dẫn giải:

– Sau lưng chúng ta là Đông Hồ phẳng lặng in bóng trời mây. Và còn rất nhiều, rất nhiều những di tích trong nội ô, thị xã. Chúng ta còn rất nhiều thời gian, hy vọng anh sẽ đưa em đi thưởng ngoạn toàn cảnh nước non Hà Tiên này.

Tiểu Du ngạc nhiên nhìn anh:

– Anh giống như một người bản xứ đặc hiệu. Không thể nào tin được là anh đang sống ở hải ngoại.

– Tuy anh sống và làm ăn ở hải ngoại. Nhưng lúc nào anh vẫn là người Việt Nam chính thống, mang trong tim dòng máu đỏ, da vàng.

– Sao anh không về Việt Nam mà định cư để an ủi hai bác lúc tuổi đã xế chiều?

Minh Khuê nhún vai:

– Biết làm sao hơn, bởi công việc làm ăn mà. Đã nhiều lần anh muốn rước ba mẹ sang bên ấy. Nhưng ông bà lại nhất quyết không rời xa nơi quê cha đất tổ này.

– Hình như bất cứ người Việt Nam nào cũng thế. Ai cũng quyến luyến cũng muốn gắn chặt đời mình với quê hương, với nguồn cội của mình.

– Có lẽ cũng chính vì thế mà anh cảm thấy Tiểu Du không thích gần gũi với anh.

– Anh đừng nghĩ thế mà tạo thêm một khoảng cách xa giữa chúng ta, Nếu anh bảo giữa chúng ta phải có tình yêu thì nó quá vội vã. Nhất thời, Du không thể chấp nhận được. Còn tình bạn thì lúc nào chúng ta cũng đều có cả.

– Anh nghĩ rằng từ tình bạn tiến tới tình yêu không xa lắm.

Tiểu Du xa xôi:

– Phải! Tuy rằng nó không xa lắm, nó chỉ cách nhau có một bước chân thôi, nhưng có người suốt cả cuộc đời không thể nào bước đến.

– Tiểu Du! Chẳng lẽ anh không còn một chút hy vọng nào sao?

– Minh Khuê! Em không biết nói sao cho anh đừng buồn. Chuyện hôn nhân của chúng ta là chuyện gán ghép giữa hai gia đình. Còn giữa chúng ta thì mình đâu có tình yêu.

– Tiểu Du nói chỉ đúng có một phần thôi. Tình yêu không có trong lòng Tiểu Du thôi, chứ còn riêng anh nó đã có từ lâu. Hình ảnh của Tiểu Du đã khắc sâu trong tâm tưởng của anh rồi.

Tiểu Du bật cười:

– Trí tưởng tượng của anh quả thật là quá phong phú. Anh mới biết Du lần đầu thì làm sao anh đã có tình yêu từ lâu. Lại còn có chuyện khắc sâu hình bóng Du trong tâm tưởng nữa chứ?

– Du cho là anh khoác lác hay sao?

– Du không dám nghĩ thế. Nhưng sự thật là vậy, anh chỉ mới biết Du lần đầu mà.

Minh Khuê rút trong chiếc ví của mình ra một tấm ảnh đưa cho Tiểu Du:

– Du nhìn nè!

Tiểu Du kinh ngạc nhìn người trong ảnh. Một cô bé với hai chiếc bím tóc như hai cánh bướm đang đong đưa trên chiếc xích đu trong vườn. Tiểu Du kêu lên:

– Là Du sao?

Minh Khuê gật đầu:

– Phải! Hình ảnh của cô bé Tiểu Du ngây thơ hồn nhiên đã làm xao xuyến trái tim anh. Được gia đình hai bên chấp nhận anh nôn nóng về nước để được tiến hành thủ tục kết hôn vói em.

Tiểu Du hoảng hốt:

– Không! Không! Mình chưa thể đâu anh!

– Anh biết! Anh không có quyền gì mà ép buộc Tiểu Du. Nhưng Tiểu Du không thể không cho phép anh chờ đợi phải không?

– Đừng Minh Khuê! Anh đừng phí thời gian vì em nữa!

– Ngày nào Tiểu Du chưa có người yêu thì ngày đó anh còn có quyền hy vọng.

– Nhưng ...

Minh Khuê cắt ngang câu nói của Tiểu Du:

– Chúng ta chưa có tình yêu. Chớ không phải là vĩnh viễn mình không có.

Tiểu Du! Em hãy cho anh một cơ hội đi Tiểu Du.

Tiểu Du không biết nói gì hơn đành phải lặng thinh. Cô có thể không yêu Minh Khuê nhưng cô không có lý do nào bắt buộc Minh Khuê đừng yêu mình.

Tiểu Du khẽ thở dài:

– Tất cả chỉ còn chờ theo duyên số mà thôi.

– Phải! Anh tin rằng chúng ta sẽ có duyên số.

Tiểu Du thẫn thờ nhìn ra ngoài mặt biển xa. Ánh mắt ấy lại hiện lên trong cô.

Cảm giác bâng khuâng xốn xang làm cô cứ thấy nao nao trong lòng. Ánh mắt ấy cứ nửa như dịu dàng, nửa nghiêm nghị hiện lên mãi trong cô.

Duyên số! Tất cả chỉ chờ nơi duyên số. Nếu giữa anh và cô có duyên số thì ắt sẽ gặp lại nhau thôi.

Tiểu Du cảm thấy yên lòng với ý nghĩ của mình. Cô không hiểu được tâm trạng của Minh Khuê, anh cảm thấy mình đang chơi vơi trên sóng nước. Anh muốn tìm thấy bến bờ của mình. Muốn thế anh phải bơi, phải ngụp lặn trong sóng nước để về đích.

Như một vận động viên trước khi ra trận. Anh tâm huyết với chính mình:

Nhất định, nhất định mình phải chiến thắng. Phải về đích thật sớm thật nhanh để giành lấy trái tim của người mình yêu. Hạnh phúc là phải đấu tranh, phải giành giật. Hạnh phúc không phải ngồi không để chờ ban tặng.

Minh Khuê và Tiểu Du cùng lặng thinh với những suy nghĩ của riêng mình.

Khó khăn lắm Tiểu Du mới trốn được khỏi vòng kiểm soát của mẹ, sự nhiệt tình của Minh Khuê để thưởng ngoạn một mình.

Không cần người dẫn đường, Tiểu Du lần đến một khoảng đất rộng. Chùa Tam Bảo hiện lên vàng rực rỡ trong nắng. Bồi hồi Tiểu Du bước qua cổng chùa trang nghiêm. Trước mắt cô một hồ sen bát ngát có tượng Phật Bà Quan Âm đang ngự. Gương mặt bà thật thánh thiện, đôi mắt dịu dàng tỏa sáng niềm tin.

Tiểu Du quỳ xuống bên chân Phật Bà lâm râm khấn nguyện:

Phật Bà cứu khổ cứu nạn xin hộ độ cho con vượt qua vạn lý tình trường.

Tiểu Du như cảm ứng được lời nguyền của mình đang vang đến tai đức phật.

Cô đứng lên đi ra phía sau hồ sen. Đức Phật Thích Ca ngồi quay mặt vào chùa, dưới cội bồ đề tán xòe cao rậm lá. Gương mặt tôn nghiêm thoát tục. Ngài đã bỏ lại sau lưng tất cả nhung lụa, vàng son, quyền uy tối cao để biến cả đời mình cho đạo hạnh. Thật khâm phục làm sao.

Đang chìm cõi hồn mình vào sự huyền vi của Phật đạo, cô bỗng nghe một giọng nói trong ấm vang lên:

– Hải Như! Em thấy thế nào? Ngôi chùa này có thanh nhàn, tao nhã không?

Giọng người con gái tươi vui:

– Mỗi nơi mỗi cảnh, mỗi nét đẹp. Chúng ta với con mắt của người phàm tục đâu có làm sao mà cảm nhận được.

Tiểu Du quay mặt lại. Đúng lúc ánh mắt của người con trai đó cũng nhìn thấy cô. Một thoáng sững sờ hiện lên trong mắt cả hai. Họ nhận ra nhau trong ngỡ ngàng:

– Là cô sao?

Tiểu Du sau một thoáng bối rối cũng điềm tĩnh:

– Không ngờ lại được gặp anh ở đây?

Hải Như nhìn cả hai ngạc nhiên:

– Hai người quen nhau hả?

– Không có!

Hải Như càng ngạc nhiên thêm:

– Đông Hồ! Anh nói cái gì mà kỳ lạ vậy? Rõ ràng là anh quen với cô ta sao lại bảo là không có hả?

Tiểu Du nghĩ thầm:

– Thì ra tên anh ta là Đông Hồ.

Đông Hồ nói như thanh minh:

– Thật ra là vậy mà. Anh không hề biết tên của cô ta nữa. Nói gì mà quen.

– Sao kỳ lạ vậy? Việc này là sao hả anh Đông Hồ?

Đông Hồ có vẻ bối rối, không biết giải thích ra sao. Tiểu Du nói thay anh:

– Thật ra là thế. Chúng tôi không hề quen nhau.

Hải Như thắc mắc:

– Nhưng sao cả hai lại biết nhau chứ?

– Có một lần tôi đi tắm ở bãi tắm Mũi Nai. Vô tình tôi bơi ra khỏi vùng cấm và bị sóng dập. Anh ấy đã cứu tôi thoát nạn.

Hải Như gật gù:

– Thì ra là thế.

Giọng cô có vẻ như vui mừng hơn. Hải Như nói trong sự thán phục bằng những lời ca tụng anh:

– Đông Hồ lúc nào cũng thế cả. Anh luôn vì mọi người mà không nề khó nhọc.

– Hình như cô hiểu rất nhiều về anh Đông Hồ thì phải.

Đôi mắt Hải Như sáng rực, Tiểu Du bỗng nghe trái tim mình đau nhói khi nhận ra tình yêu mà Hải Như đã dành cho Đông Hồ:

– Chúng tôi chơi với nhau từ thuở nhỏ mà.

– Thì ra hai người là thanh mai trúc mã.

Đông Hồ bối rối:

– Không! Không phải thế đâu!

Hải Như có vẻ giận dỗi:

– Thế chúng ta là gì của nhau hả?

– Thì mình là bạn từ thuở nhỏ, cùng chia sẻ những vui buồn của tuổi thơ.

Hải Như liếc xéo:

– Thế mà bảo không phải ...

Tiểu Du cảm nhận được sự thừa thãi của mình. Cô nói nhỏ:

– Xin cám ơn anh đã cứu tôi.

– Không riêng gì tôi mà nếu như là ai cũng thế. Cô đừng bận tâm về chuyện đó nữa.

– Thi ân bất cầu báo, nhưng riêng tôi, người đã mang ơn thì không thể dễ dàng quên, nhưng bây giờ tôi không làm phiền hai người đi lễ chùa nữa. Xin chào anh, chào cô.

Đông Hồ cũng nói lời chia tay với người con gái mà chỉ có một lần quen biết.

– Xin chào!

Tiểu Du quay đi mà lòng bùi ngùi đau xót. Có một mũi gai nào vừa đâm thủng làm nhỏ máu trái tim cô. Nước mắt chực rơi xuống bờ mi mỏng.

– Cô gì ơi!

Tiểu Du vội vã đưa tay lau nước mắt rồi quay lại nhìn Đông Hồ. Cô trấn tĩnh mình:

– Có chuyện gì không anh?

– Tôi muốn biết tên cô?

– Tiểu Du!

– Có lẽ Tiểu Du không phải là người ở vùng này?

– Phải! Tôi từ Sài Gòn xuống đây nghỉ mát.

– Sài Gòn!

Tiếng Sài Gòn như đọng lại trong Đông Hồ một kỷ niệm khó quên. Tiểu Du hiểu lầm ý của Đông Hồ nên thanh minh:

– Sài Gòn bây giờ là thành phố Hồ Chí Minh đó anh.

– Tôi biết!

Đông Hồ bỗng trở nên lạnh lùng:

– Thôi! Cô về đi!

Nói xong, Đông Hồ quay đi mà không cần biết đến tâm trạng của Tiểu Du.

Nước mắt được tích trữ từ trong đôi mắt tủi hờn vụt tuôn ra, Tiểu Du tức tối:

“Đúng là Đông Hồ đã khinh mình quá đáng mà. Muốn nói chuyện với mình thì kêu lại. Còn không nói thì bỏ đi không cần lịch sự. Người gì mà ... mà ...”.

Mà sao? Tiểu Du cứ hỏi mãi mà không biết dùng từ gì để kết tội anh. Tiểu Du hờn tủi:

– Mình có là gì của người ta đâu mà đòi hỏi chứ? Mình chỉ là một kẻ được người ta thi ân cứu giúp thôi. Bổn phận của mình phải lo báo đáp chớ có quyền gì mà bắt buộc người ta đối xử tốt với mình.

– Tiểu Du! Tiểu Du!

Giọng Minh Khuê gọi cô từ xa. Tiểu Du gạt nước mắt. Cô không muốn cho Minh Khuê thấy sự yếu đuối của mình.

– Tiểu Du! Sao Tiểu Du lại đi một mình khiến cả nhà lo lắng vậy?

Tiểu Du như hối hận:

– Du xin lỗi!

Minh Khuê nhìn Tiểu Du lo lắng:

– Hình như Tiểu Du đang khóc phải không?

– Đâu có! Du đâu có khóc.

– Sao mắt Du đỏ hoe vậy?

– Chắc bụi bay vào mắt Du thôi.

– Tiểu Du! Du có điều gì giấu anh phải không?

– Không! Không! Du đâu có chuyện gì đâu. Anh đừng bận tâm lo lắng cho Du.

Giọng Minh Khuê se buồn:

– Nếu được lo lắng cho Du thì đó là niềm hạnh phúc của anh rồi.

– Du hiểu được tấm chân tình của anh nhưng.

Minh Khuê khoát tay:

– Anh hiểu! Du không cần phải nói nữa!

Tiểu Du muốn nói với Minh Khuê nhiều điều. Nhưng cô lại sợ mình sẽ làm tổn thương anh thêm.

– Mình về thôi Du?

– Vâng! Chúng ta về!

Minh Khuê và Tiểu Du bước đi bên nhau giữa buổi chiều nắng tắt. Minh Khuê có cảm giác như tình yêu của mình cũng vụt tắt như chút nắng chiều cuối ngày.

Minh Khuê hỏi nhỏ:

– Chừng nào Tiểu Du về thành phố?

Tiểu Du có vẻ mang nhiều luyến tiếc:

– Ngày mai Du sẽ về.

– Mai Du về rồi sao?

– Phải! Du phải về để nhận quyết định bổ nhiệm công tác.

– Du sẽ đi dạy học thật hả?

– Phải! Vì đó là mơ ước của Du mà.

– Du sẽ dạy ở đâu? Trong thành phố hả?

Tiểu Du lắc đầu:

– Du không biết! Nhưng nguyện vọng của Du là được về một vùng xa.

Minh Khuê ngạc nhiên:

– Sao thế? Du không thích ở thành phố sao?

– Không phải! Nhưng ở thành phố thì rất nhiều người đăng ký. Còn ở những vùng xa thì ít ai muốn về.

– Vì vậy mà Du muốn đi.

– Đó chỉ là một trong những lý do thôi. Cái chính là Du muốn được đem kiến thức của mình truyền đạt cho các em không có điều kiện học hành mà thôi.

– Du thật là một người con gái tốt.

– Du không tốt như anh tưởng đâu.

– Đêm nay Du có thể thức với anh một đêm cuối này không?

Tiểu Du gật đầu:

– Nếu đêm nay không có anh cùng thức, Du sẽ rất cô đơn.

– Cám ơn Du đã cho anh một đêm kỷ niệm.

– Sao lại cám ơn Du? Mình là những người bạn chân tình mà.

– Phải! Chúng ta chỉ là bạn.

Minh Khuê nói với nỗi buồn sâu lắng của mình.

Trăng sáng vằng vặc in bóng xuống mặt hồ nước xanh lấp lánh tinh quang.

Nhìn xa xa ngoài cửa biển có những núi đá dựng trông như những hang động hoang du, kỳ bí, tuyệt đẹp.

Không đợi Tiểu Du hỏi, Minh Khuê đã giải thích:

– Đây là Đông Hồ Ấn Nguyệt, nơi để cho những tao nhân mặc khách đến để thi vịnh ca ngâm tỏ tình cùng trăng nước.

– Đông Hồ Ấn Nguyệt?

– Tiểu Du thắc mắc với cái tên của nó hả?

Tiểu Du lắc đầu:

– Không! Địa danh nào cũng có ý nghĩa riêng của nó. Du đâu có biết gì mà thắc mắc.

Tiểu Du biết mình đã nói dối với chính mình. Cái tên Đông Hồ đã gợi cho cô một nỗi buồn man mác. Thì ra tên anh ta là một địa danh của vùng đất này. Có lẽ cái tên ấy cũng gắn liền với một thiên tình sử nào thật thiết tha.

Minh Khuê ngồi xuống bên hồ tâm sự:

– Anh rất thích được đến đây vào những đêm trăng rằm để được say với thiên nhiên, thơ mộng hữu tình. Trước trời biển bao la ta bỗng thấy nhỏ bé, nghe lòng mình dào dạt mối tình quê.

– Tính cách của anh thật khác xa với hoàn cảnh sống của anh.

– Anh tốt nghiệp đại học ngoại thương được du học tiếp xúc với nền kinh tế của Hoa Kỳ. Anh tuy sống và làm việc với giới thương mại nhưng anh luôn giữ bản chất thuần túy của người Việt. Lòng anh luôn mang nặng tình yêu quê hương đất nước của mình.

– Có lẽ chính vì thế mà Du vô cùng cảm mến anh. Du muốn được cùng anh gắn bó với nhau trong tình bạn hữu.

– Ước muốn của anh dù có xa hơn thế cũng không thể được.

– Đừng nhắc đến chuyện đó nữa, Minh Khuê – Tại sao?

– Tại vì Du sợ chuyện hôn nhân sẽ là một bờ rào chấn ngang tình cảm của chúng ta.

– Anh sẽ chờ một ngày nào trái tim Du rộng mở.

– Du sợ mình sẽ làm cho anh thất vọng.

– Nếu thế, Du cũng không có lỗi gì cả. Bởi tình yêu không thể đến bằng sự gượng gạo hay ép buộc.

– Nhưng liệu chúng ta có thể vượt qua áp lực của hai gia đình hay không?

– Anh sẽ cố gắng thuyết phục và giải thích cho cả hai gia đình thông cảm cho chúng ta. Anh tin rằng ngày nào đó Du sẽ cảm nhận được tình yêu của anh.

Tiểu Du thở dài:

– Du cũng mong như thế.

Tiểu Du nhìn xa xa, bóng trăng lồng bóng núi ngã dài trên mặt biển bao la.

Núi còn có trăng, trăng còn có núi. Sao cô vẫn cô đơn hắt hiu với tâm sự của mình.

Đông Hồ! Đông Hồ ơi! Cái tên ấy có lẽ sẽ khắc sâu trong tâm não Tiểu Du suốt cả cuộc đời.

– Du có nghe biển thở hay không?

Giọng Minh Khuê bồi hồi. Tiểu Du đặt tay lên lồng ngực của mình lắng nghe. Giác quan của cô hóa thân vào biển. Cô đã lắng nghe tiếng biển thở phập phồng.

Tiểu Du nói như reo:

– Du nghe rồi! Du đã nghe tiếng biển thở rồi.

– Có lẽ biển đang hát đó.

– Phải! Biển đang hát. Chúng ta có cùng chung cảm xúc rồi Tiểu Du.

– Du cũng đã nghe lời biển thiết tha, bài hát cô đơn biển cạn.

Minh Khuê thất vọng:

– Thật sao?

– Thật! Du cảm thấy mình thật cô đơn.

– Dù anh đang đứng cạnh bên Du sao?

– Du xin lỗi! Du không thể nói khác với lòng mình được. Dù ánh mắt anh có ấm nồng tha thiết, Du vẫn thấy lòng mình vời vợi vắng xa. Du ...

Minh Khuê hét lên:

– Đừng nói nữa! Du có biết những lời nói tàn nhẫn của Du đã làm tan nát trái tim anh không?

– Du biết! Nhưng Du nghĩ anh sẽ hiểu mà không trách Du. Bởi vì nếu Du nói dối anh, Du sẽ tàn nhẫn hơn như thế nữa.

– Phải! Anh đâu có quyền gì mà hờn trách Du.

Minh Khuê chợt cứng rắn hơn:

– Thôi! Chúng ta đừng nhắc đến chuyện ấy nữa. Mình chỉ còn có một đêm nay thôi, anh muốn được làm tròn vai trò của một người chủ ân cần tiếp đón một người khác. Du hãy vui lên đi. Đừng bận tâm vì những chuyện không vui ấy nữa.

– Chừng nào anh đi?

– Du về rồi anh sẽ đi.

– Rồi anh sẽ về chứ?

– Tất nhiên! Bởi vì đây là quê hương của anh. Anh còn những tình thương cao cả trên mảnh đất này mà.

– Du cảm thấy mình thật mâu thuẫn với chính mình. Vừa không muốn có anh nhưng vẫn thấy sợ mất anh.

Anh cảm thấy mình được an ủi được xoa dịu rất nhiều về sự mâu thuẫn của Đông Hồ. Đông Hồ phẳng lặng như đang mơ mộng. Trăng in bóng nước hòa quyện cùng nhau. Cảnh vật hữu tình sao con người lại quá vô tình.

Minh Khuê và Tiểu Du đang tự hỏi với chính mình. Cả hai nhìn nhau rồi lại lắc đầu không có lời giải đáp.

Minh Khuê nghĩ:

Anh không biết mình phải làm gì để mở ngỏ trái tim của một người con gái? Chưa gặp đã yêu, tình anh đã sâu nặng thiết tha. Anh không thể nào xóa nhòa được một tình yêu mà bấy lâu ấp ủ, nặng mang. Anh sẽ chờ, chờ một ngày Tiểu Du đón nhận anh. Dù thời gian chờ đợi có dài bao lâu, anh cũng không bỏ cuộc.

Cùng với Minh Khuê, Tiểu Du cũng mang nặng niềm tâm sự:

Đông Hồ! Cái tên và con người ấy sao cứ mãi hiện lên làm nhức nhối trái tim mình, một thoáng gặp gỡ với cái nhìn lạnh lùng đó có gì khiến mình cứ nhớ mãi khôn nguôi. Đông Hồ! Đông Hồ! Cái tên ấy cứ vang vang trong trái tim và tâm não của mình ...

Tiểu Du cắn môi:

– Làm sao bây giờ? Làm sao có thể xóa nhòa tất cả để sống mãi với cái thời gian hồn nhiên, vô tư của mình? Tiểu Du không muốn mình phải dấn thân vào chốn tình trường nhiều khổ lụy. Nhưng biết làm sao khi trái tim đã rộng mở đón một người.

Trăng vẫn sáng vằng vặc in trên mặt nước Đông Hồ, thiên nhiên vẫn đẹp, vẫn sống động như một bức tranh sơn thủy. Nhưng Minh Khuê và Tiểu Du vẫn không cảm nhận được. Bởi vì hai tâm hồn họ vẫn là hai bến bờ đối nghịch.

Cùng đi, đi mãi trên hai con đường thẳng song song. Không thể cùng nhau đến một điểm giao hẹn.

Nhưng họ vẫn đi, đi để tìm cho mình một điểm dừng chân. Ngày đó, không biết đến bao giờ, nhưng với nhiệt huyết của tuổi trẻ, họ tin rằng mình sẽ đến nơi mình cần đến.

Tiểu Du cầm tờ quyết định trong tay. Cô vui mừng reo lên:

– Mình đạt được ước mơ rồi.

Thúy Nga vui mừng cùng bạn:

– Tiểu Du! Bạn được ở thành phố hả? Quận nào vậy?

– Đâu có!

– Sao? Không ở thành phố à?

Tiểu Du gật đầu:

– Phải! Mình đâu có ở thành phố.

– Vậy vùng ven đô hả?

– Cũng không phải!

– Vậy bạn dạy ở đâu mà mừng quá vậy?

– Mình đăng ký nguyện vọng là được phục vụ ở một vùng xa.

– Vùng xa đó là nơi nào? Phú Quốc hả?

– Cũng không phải.

– Vậy thì ở nơi nào? Nơi nào có thể làm cho bạn vui dữ vậy?

– Hà Tiên!

– Hà Tiên?

– Phải!

– Tại sao lại là Hà Tiên? Tại sao bạn ở thành phố mà lại đăng ký về miền tây dạy học hả?

– Tại mình thích!

– Sở thích của bạn thật là kỳ quái, trong khi bạn có đủ điều kiện ở lại thành phố lại không chịu. Bạn có biết Hà Tiên là nơi nào không?

Tiểu Du gật đầu:

– Biết!

– Biết?

Thúy Nga như không tin lời nói của bạn mình. Tiểu Du thích thú nhìn gương mặt ngơ ngác của bạn:

– Bạn không tin mình à? Mình đã đến Hà Tiên rồi.

– Bao giờ?

– Vừa có kết quả tốt nghiệp xong.

Thúy Nga vỡ lẽ:

– Thì ra là thế. Lúc ấy mình đi Nha Trang với gia đình nên không biết bạn cũng đi du lịch ở Hà Tiên.

Thúy Nga hỏi nhỏ:

– Đi với ai vậy? Bồ hả?

Tiểu Du liếc mắt:

– Bậy bạ! Mình đi với mẹ thôi.

– Đi với mẹ?

Thúy Nga tròn mắt:

– Với mẹ?

– Sao? Khủng khiếp lắm sao? Đi du lịch với mẹ thì có gì là lạ mà bạn làm như là chuyện lớn như là sắp động đất vậy?

– Mình ngạc nhiên thôi.

– Có gì là ngạc nhiên?

– Thông thường thì người ta đi du lịch với người yêu hoặc bạn bè. Ít ai đi với mẹ.

Thúy Nga kề sát tai Tiểu Du:

– Nè! Nói thật đi! Có phải là đi ra mắt không?

Tiểu Du giật mình:

– Sao bạn biết?

Thúy Nga cười to:

– Không ngờ mèo mù vớ phải cá rán, đoán mò thôi. Không ngờ lại đúng. Hèn gì mà một mực bỏ thành phố về Hà Tiên. Nè! Chừng nào thì đám cưới vậy?

– Đám cưới gì?

– Thì đám cưới của bạn với vị hôn phu đó?

– Cái gì là vị hôn phu hả?

– Tiểu Du ơi! Có phải vì bạn sắp đám cưới nên bị ngơ ngẩn không? Thì chồng sắp cưới thì người ta gọi là vị hôn phu chớ gọi bằng gì?

– Mình đâu có đám cưới với ai đâu.

– Tiểu Du ơi! Mình không hiểu thế nào cả? Chuyện ra sao? Bạn hãy kể cho mình nghe đi?

Tiểu Du tóm tắt câu chuyện cho Thúy Nga nghe. Cô kết luận:

– Mình không thể đám cưới với anh ấy khi mình không hề có tình yêu với anh ấy!

Thúy Nga vỗ mạnh vào vai Tiểu Du:

– Hay! Có chí khí. Không thể nào chấp nhận được sự áp đặt của gia đình.

Tiểu Du ôm vai nhăn mặt. Thúy Nga nhìn bạn ngạc nhiên:

– Sao? Mình nói sai à?

Tiểu Du gượng nói:

– Bạn nói không sai. Nhưng bạn đánh mình đau quá.

Thúy Nga cũng nhăn mặt:

– Xin lỗi! Mình quên, bạn ví như một bình pha lê chỉ để ngắm chớ không thể va chạm.

– Thôi! Đừng nói chuyện của mình nữa. Hãy nói chuyện của bạn đi.

– Chuyện của mình là chuyện gì?

– Thì chuyện bạn được phân công về đâu?

– Thành phố này!

– Thành phố này hả?

– Mình không ngờ bạn bên ngoài yếu đuối như thế nhưng bên trong lại chứa đựng một tinh thần quá mạnh mẽ. Mình thích thực tế, mình không thích phiêu lưu. Dù sao ở thành phố điều kiện cũng tốt hơn.

– Dù là không cùng chung chí hướng nhưng chúng ta vẫn là bạn thân chứ?

– Tất nhiên rồi! Đâu có lý do gì mà chúng ta không là bạn thân. Mình luôn mong như vậy.

– Tiểu Du à! Mình thấy là bạn thật mâu thuẫn với chính mình rồi đó.

– Mâu thuẫn thế nào?

– Bạn đã không chấp nhận cuộc hôn nhân này, sao lại phải về tận Hà Tiên, quê hương của người ta chứ?

– Mình chưa nói hết cho bạn biết. Minh Khuê là một Việt kiều. Anh ấy sẽ về Mỹ, anh ấy không có ở lại Hà Tiên.

– Nhưng bạn làm thế chẳng khác nào gieo cho người ta một hy vọng chứ?

– Đây chỉ là chuyện trùng hợp thôi. Lúc đăng ký nguyện vọng, mình đâu có nghĩ mình sẽ về Hà Tiên.

– Chắc là duyên nợ.

– Bạn nói gì vậy Thúy Nga?

– Mình nghĩ bạn và Minh Khuê ắt là có duyên nợ nên mới có chuyện trùng hợp như thế.

– Không đâu ...

Tiểu Du không dám kể lại chuyện gặp gỡ với Đông Hồ rồi nghe vấn vương cho Thúy Nga nghe. Chỉ là chuyện bèo nước gặp nhau thôi. Có nghĩa gì đâu.

– Tiểu Du! Sao bạn không nói hết ý nghĩ của mình đi.

– Mình nghĩ là đã không yêu thì gần gũi cũng thế thôi. Không có tiếng sét ái tình thì làm gì có chuyện rung động của trái tim để mà yêu chứ?

– Tiểu Du! Bạn lượm ở đâu cái triết lý đó vậy? Thường ngày bạn rất ghét tranh luận về đề tài tình yêu lắm mà.

– Thì mình cũng nghe người ta nói nên nôm na nói theo vậy mà.

– Nè! Có chuyện gì thì thành thật khai báo đi nghe!

Tiểu Du tránh né:

– Có gì đâu mà khai báo.

– Không có chuyện gì sao bỗng dưng má đỏ hồng vậy?

– Tại trời nắng thôi.

– Nắng chiều mà hồng đôi má? Chuyện này lạ à nghe.

– Thúy Nga! Sao bạn không buông tha cho mình vậy?

– Thú nhận rồi hén.

– Có gì mà thú nhận hả?

– Thì chuyện tình yêu đó mà.

– Nghe nói là tình yêu chỉ nói bằng mắt chớ không thể nói bằng lời. Nên mình không thể nói được.

– Như vậy là bạn đã yêu.

– Mình không biết! Mình không biết mà.

Tiểu Du bỏ chạy. Thúy Nga nhìn theo khẽ mỉm cười:

– Phải vậy chứ! Nếu Tiểu Du mãi mãi không bước đến tình yêu ắt hẳn cuộc sống của bạn sẽ rất vô vị lắm đó.

Ông Nhật Hào nhìn con gái đầy lo lắng:

– Tiểu Du! Con đã suy nghĩ kỹ cho quyết định của mình chưa? Bây giờ vẫn còn kịp, ba có thể giúp con.

– Con cám ơn ba đã nghĩ cho con, nhưng con muốn được đi xa để mở rộng tầm nhìn. Con không muốn suốt đời sống mãi trong thành phố chật hẹp, ngột ngạt này.

– Ba chấp nhận ý nghĩ của con. Nhưng con có biết gian khó rộng mở trước mắt con hay không?

– Con biết! Và con đã sẵn sàng đương đầu cùng nó.

Bà Tiểu Ngọc cũng xen vào:

– Đi đâu thì mình còn lo lắng chứ về Hà Tiên thì mình cũng nhẹ nỗi lo.

Ông Nhật Hào nhìn vợ nghiêm khắc:

– Em cũng đừng nên gán ghép cái chuyện nợ duyên cho con nữa. Nó đã không bằng lòng thì bậc cha mẹ như chúng ta không nên ép buộc.

Bà Tiểu Ngọc có vẻ giận dỗi chồng:

– Em chỉ nói thế chứ có ép buộc con cái gì đâu.

– Anh chỉ nhắc chừng em vậy thôi.

– Ba con nói như thế là đúng đó mẹ. Mình đã không thể đáp lại được tình cảm của người ta thì cũng đừng nên nhờ vả chuyện ăn ở. Xuống dưới con sẽ tự lập.

– Con nói vậy có nghĩa là ...

– Mình không báo cho gia đình Minh Khuê biết. Con sẽ tự lo tự sắp xếp chuyện ăn ở của mình.

Bà Tiểu Ngọc lo lắng:

– Như thế có được không?

– Mẹ xem con gái của mẹ đã hai mươi hai tuổi rồi. Đâu có còn là một cô bé như ngày xưa đâu mà mẹ lo lắng chứ?

– Chính vì con đã lớn nên mẹ càng lo. Làm cha mẹ mà nếu ngày nào con mình chưa thành gia lập thất thì nó vẫn còn là một đứa trẻ đầy nông nổi.

– Mẹ ơi! Mẹ đừng có lo lắng những điều xa xôi nữa. Con gái của mẹ sẽ lấy chồng cho mẹ vui lòng nhưng không phải là bây giờ.

– Đời con gái như ...

Tiểu Du cười to cắt lời mẹ:

– Như đóa phù dung sớm nở tối tàn phải không? Mẹ ơi! Con đã quá ngao ngán cái điệp khúc của mẹ rồi. Con hứa với mẹ con sẽ không là đóa phù dung sớm nở tối tàn. Mà con sẽ là một đóa hướng dương. Mười phương vẫn hướng một phương mặt trời. Đó là mẹ đó. Mẹ là mặt trời luôn chói lọi trong lòng con.

Bà Tiểu Ngọc mắng yêu con gái:

– Tài gì không tài. Chỉ có cái tài là khéo nịnh mà thôi.

– Con nịnh mẹ để được hưởng lợi lộc tội gì mà không nịnh chứ?

Ông Nhật Hào nhìn vợ, nhìn con. Lòng ông rộn lên niềm vui. Tiểu Du! Đứa con gái yêu thương của ông không đi theo cái xu hướng thời đại của tuổi trẻ. Nó có đầy đủ điều kiện để hưởng thụ. Nhưng con đường nó chọn thật đứng đắn.

Cống hiến tuổi trẻ và kiến thức cho xã hội, nhất là những vùng còn thiếu thốn ánh sáng văn hóa, của sự văn minh tiến bộ. Ông ủng hộ con gái mình. Ông bảo:

– Thôi! Hai mẹ con đừng phí thời gian vì những chuyện không đâu nữa. Tiểu Ngọc! Em hãy lo sắp xếp cho Tiểu Du đi. Chiều nay anh sẽ đưa cả nhà đi ăn nhà hàng để tiễn Tiểu Du.

– Ba! Ba vẫn còn mang nặng đầu óc tiểu tư sản, sao mình không làm tiệc tại nhà mà phải đi nhà hàng hả ba?

– Vì ba không muốn mẹ con phải cực nhọc nấu nướng. Ba muốn mẹ con rảnh rang để vui cùng chúng ta.

– Được vì chồng vì con, em đâu có nệ.

– Ba quả là một người chồng thật tuyệt vời. Và mẹ con thật là một người vợ vô cùng hạnh phúc.

– Còn đối với con ba là người thế nào?

Tiểu Du nói thao thao:

– Đối với chị em chúng con, ba là một người cha mẫu mực. Ba luôn cảm hóa chúng con bằng đức độ và tài năng. Chúng con là những con người vô vàn hạnh phúc khi có người cha như ba.

Ông Nhật Hào kêu lên:

– Thôi con đừng nói nữa! Mũi ba sắp bể rồi đây nè!

Trước hạnh phúc của gia đình bà Tiểu Ngọc nghe lòng mình dâng lên bao niềm vui. Nhưng rồi nỗi buồn cũng chợt đến với bà khi bà nghĩ đến con gái. Rồi nó sẽ xa bà như một cánh chim non rời xa tổ ấm của mình. Một mình bay, một mình đối đầu với bao nhiêu bão giông của cuộc đời.

Bà ôm chặt con gái vào lòng như sợ mất đi một báu vật quý giá của mình.

Tiểu Du cảm nhận được tình mẹ. Cô ngả đầu vào lòng bà hít thật sâu vào lòng một hương thơm, một hơi ấm thân quen. Để mai này khi xa gia đình, cô sẽ nhớ mãi, nhớ mãi phút giây này.

Đông Hồ! Nơi mà Tiểu Du được phân công lại là Đông Hồ. Nơi khắc sâu trong lòng cô nhiều kỷ niệm. Cô được sống trên vùng đầy thơ ca, tìm hiểu về nhiều các thi nhân trong Tao đàn Chiêu Anh các.

Con người của xứ thơ ca cũng tuyệt vời như những bài thi vịnh, Tiểu Du được đón tiếp thật nồng hậu. Ban giám hiệu nhà trường đưa cô đến một ngôi nhà nhỏ nhưng thật nên thơ:

– Tạm thời cô cứ ở đây. Đừng ngại gì cả. Gia đình chỉ có bà Tiên thôi. Bà ấy rất hiếu khách. Có cô bà ấy sẽ thêm vui.

Tiểu Du ngần ngại:

– Tôi có thể ở trong trường cũng được. Tôi không dám làm phiền người khác.

– Ở trong trường bất tiện lắm. Thiếu điều kiện sinh hoạt lại buồn nữa. Khi học trò về hết, cô sẽ ở lại với ai?

Tiểu Du rùng mình lè lưỡi:

– Tôi sợ lắm! Tôi không dám ở một mình đâu.

Ông Tâm cười khì:

– Vậy thì ở lại đây đi!

Tiểu Du không biết phải làm sao hơn đành phải gật đầu chấp thuận:

– Đành vậy thôi! Cám ơn thầy.

Bà Tiên từ trong nhà bước ra:

– Ai vô nhà tui vậy?

Ông Tâm chào bà:

– Cô à! Hôm trước nhà trường đã có bàn với cô chuyện gởi một cô giáo đến ở nhờ.

Bà Tiên hồ hởi:

– Ờ! Chuyện đó không có gì. Tui ở nhà một mình cũng buồn. Có thêm người thì thêm bạn thôi. Không sao đâu!

– Chúng tôi biết cô là người dễ tính nên mới dám gửi.

– Cô ấy đã đến rồi hả?

– Phải! Tôi đã đưa cô ấy đến rồi. Thôi tôi về nghe cô.

Tiểu Du cúi chào bà Tiên:

– Con xin chào dì.

Bà Tiên nhìn Tiểu Du từ đầu đến chân. Bà xuýt xoa:

– Con cái của ai mà đẹp quá. Ước gì mà dì có được một đứa con gái như con.

Tiểu Du nghe xúc động trước tấm chân tình của bà Tiên. Cô đến gần bà:

– Thì con đã là con gái của dì rồi nè.

Mắt bà Tiên sáng lên:

– Thật hả?

Nhìn bà Tiên vui như vừa bắt được của, Tiểu Du thấy mình lòng bùi ngùi.

Đất và con người Hà Tiên thật là hữu tình. Nó kết hoa nên những vần thơ tình thương cao cả.

– Con nào dám dối dì.

– Thế con chịu ở đây luôn với ta không?

– Vâng! Con chỉ sợ con gây cho dì nhiều phiền phức thôi.

– Có phiền phức lại càng vui. Chớ ở đây cuộc sống lúc nào cũng đơn điệu đến buồn chán luôn đó con à.

– Dì ở đây một mình sao?

– Dì có một thằng con trai nhưng nó cứ đi, đi mãi. Một mình dì cứ sống, chờ đợi mà thôi.

Tiểu Du cảm nhận được nỗi cô đơn của bà Tiên. Cô động viên bà:

– Từ nay dì không còn buồn nữa. Đã có con ở cạnh dì rồi.

Bà Tiên thở dài:

– Đến một lúc nào đó rồi con cũng sẽ ra đi thôi. Ngoại trừ là ...

– Là sao hả dì?

– Con chịu làm con dâu của dì.

Má Tiểu Du đỏ hồng lên bởi câu nói thật tình của bà Tiên:

– Dì ơi! Dì đừng nói vậy mà.

– Mắc cỡ phải không, con gái mới lớn đứa nào cũng thế. Nói đến chuyện vợ chồng là mắc cỡ, nhưng khi có chồng thì lại đeo chồng như sam vậy.

Tiểu Du ngây thơ hỏi:

– Bộ con gái ai cũng thế hả dì?

– Phải! Ai cũng thế cả.

– Thế còn dì?

– Dì cũng như bao nhiêu người đàn bà khác. Cũng có tình yêu, cũng có một người chồng. Nhưng rồi hạnh phúc ấy đã thoáng qua như làn gió thoảng qua trên mặt nước Đông Hồ này.

– Tội nghiệp dì quá!

– Tất cả đã đi qua rồi. Dì đã gắng sống, gắng chịu đựng để vượt qua bể đời sóng gió mà nuôi con.

– Số phận nghiệt ngã luôn dành cho những người đàn bà như chúng ta.

Bà Tiên bỗng đổi buồn làm vui:

– Con mới đến mà dì đã lôi con vào chuyện buồn của dì rồi, thôi, con vào cất đồ tắm rửa, ăn cơm rồi nghỉ ngơi. Dì cháu mình còn có nhiều thời gian mà tâm sự cho cạn nguồn.

– Dạ!

Tiểu Du xách hành lý theo bà Tiên vào trong nhà. Gian nhà nhỏ được bài trí đơn sơ, gọn gàng nhưng rất đẹp mắt và tao nhã. Chắc bà Tiên là một người rất đam mê nghệ thuật thơ ca. Trên vách bà còn treo một cây đàn cổ. Thấy Tiểu Du nhìn đàn, bà mỉm cười:

– Con thích đàn không?

– Dạ thích!

– Con có biết đàn không?

– Dạ không!

– Con biết đàn này thuộc loại đàn gì không?

Tiểu Du lắc đầu:

– Dạ không!

– Đây là đàn nguyệt cầm.

– Thảo nào nó có hình như một vòng nguyệt.

– Để rồi có dịp dì sẽ đàn và hướng dẫn cho con hiểu biết về cây nguyệt cầm này.

– Dạ! Cám ơn dì!

– Thôi! Con đi tắm rồi ăn cơm với dì.

– Dạ!

Tiểu Du xúc động trước sự nhiệt tình của bà Tiên. Cô cảm thấy ấm áp cõi lòng nơi xứ lạ. Ngày mai, cô sẽ đến trường bước lên bục giảng đem hết kiến thức đã học ở những năm đại học ra mà dìu dắt các em. Đây là những năm cuối rất quan trọng quyết định cho tương lai của các em học sinh.

– Nhất định, mình sẽ cố gắng hết sức mình ra mà cùng các em dạy tốt, học tốt.

Trái với những dự định của Tiểu Du về ngày đầu tiên bước lên bục giảng.

Cô nghĩ là khi cô bước vào học trò của cô sẽ trang nghiêm đứng chào. Tiểu Du sẽ chững chạc bước lên bục giảng:

“Chào các em! Cô là Tiểu Du cô sẽ phụ trách hướng dẫn môn văn cho các em. Mong rằng chúng ta sẽ hợp tác tốt để cùng giảng dạy, cùng học tập”. Các em học sinh sẽ chào đón Tiểu Du bằng những tràng pháo tay nồng nhiệt.

Nào ngờ, khi Tiểu Du vừa bước vào lớp, hơn phân nửa học sinh đứng dậy chào cô. Còn số còn lại thì lao nhao:

– Cô giáo trẻ quá, đẹp quá!

Tiểu Du nghiêm sắc mặt nhìn xuống lớp. Cô gõ nhẹ cây thước lên bàn:

– Các em ổn định trật tự lại. Ai là lớp trưởng của lớp này?

Một cô bé có gương mặt sáng sủa, thông minh đứng lên:

– Thưa cô! Là em ạ!

– Em tên gì?

– Em tên Ngọc Châu ạ.

– Em hãy giúp cô ổn định lớp, vẽ cho cô sơ đồ lớp và ghi tên từng em trên sơ đồ đó giúp cô nhé?

– Dạ!

– Bây giờ chúng ta bắt đầu học. Cô là Tiểu Du ...

Tiểu Du say sưa thuyết trình cho các em học sinh hiểu rõ tầm quan trọng của văn học nghệ thuật, những áng văn mà các thi nhân đã truyền lưu lại.

– Tiết học hôm nay đến đây là hết. Tiết học sau, chúng ta sẽ bắt đầu đi thẳng vào chương trình. Xin chào các em!

– Chào cô ạ!

Tiểu Du sung sướng bước ra khỏi lớp. Cô như một người lính vừa thắng trận trên mặt trận văn hóa. Tiểu Du bước vào phòng dành cho giáo viên với cái nhìn đầy thiện cảm của các đồng nghiệp ...

– Thế nào, hôm nay tốt chứ con?

Bà Tiên ân cần hỏi. Tiểu Du vui vẻ trả lời:

– Tốt! Rất tốt! Dì ạ!

– Chúc mừng con Tiểu Du.

– Cám ơn dì!

– Học trò có ngoan không con?

– Dạ, các em rất ngoan, nhưng ...

Bà Tiên có vẻ hồi hộp:

– Nhưng sao hả con?

– Chúng làm con sợ.

– Hả! Bọn chúng làm gì đến mức con phải sợ chứ?

– Chúng không làm gì cả, nhưng ...

– Nhưng sao nữa?

– Các em lớn quá!

Bà Tiên cười khì:

– Đây là trường cấp ba mà. Vả lại, con quá nhỏ bé, so với học trò chắc có đứa còn lớn hơn con. Nhưng con đừng có lo, học trò ở đây hiền lắm. Tuy lớn xác nhưng chúng biết thế nào là tôn sư trọng đạo mà.

– Dì có vẻ hiểu nhiều về tâm lý của các em học sinh quá.

– Dì cũng đã một thời là giáo viên mà.

Tiểu Du thán phục:

– Dì tài thật!

– Có gì đâu! Bình thường như bao giáo viên khác thôi.

– Dì đã nghỉ hưu bao lâu rồi?

– Cũng chỉ mới vài năm gần đây thôi. Dì cũng buồn, nhưng vì tuổi già rồi, sức khỏe lại kém nên đành vậy thôi.

– Dì ơi! Dì chưa nói với con về người con trai của dì.

– Nó là thủy thủ, sống xa nhà, lênh đênh trên biển.

– Là thủy thủ à?

– Con ngạc nhiên sao?

– Dạ không! Bỗng dưng con liên tưởng đến một người.

– Là ai vậy?

– Dạ, là một người không quen.

– Con nói thật lạ. Không quen mà lại tưởng, thế là sao hả?

– Dạ, chỉ có biết mà không quen.

– Con nói lòng vòng khiến dì không hiểu gì cả.

– Dì đừng bận tâm chuyện của con nữa. Dì hãy nói chuyện của dì đi.

– Dì có chuyện gì đâu mà nói.

– Thì chuyện cây nguyệt cầm của dì đó. Dì hứa sẽ kể cho con nghe mà.

Bà Tiên thở dài. Tiếng thở dài nghe thật xót xa:

– Chuyện xa xưa rồi, nhắc lại làm gì.

– Dì ơi! Có chuyện xưa mới có chuyện ngày nay. Có những câu chuyện xa xưa đã đi vào huyền thoại, dì kể cho con nghe đi.

Trước sự hiếu kỳ của Tiểu Du, bà Tiên cũng không đành lòng từ chối. Giọng bà nghe xa xăm:

– Thôi được rồi, dì sẽ kể cho con nghe.

– Dì kể đi dì.

Bà Tiên bước đến, gỡ cây đàn từ trên vách xuống. Bà ôm chặt cây đàn vào lòng như ôm chặt lấy kỷ niệm của ngày xanh thuở ấy.

Đôi mắt bà hướng về xa đi ngược dòng trở về quá khứ của ngày xa xưa cũ ...

...

Đông Hồ phẳng lặng như đang mơ mộng. Bóng trăng lồng lộng in trên mặt hồ nước xanh biếc. Những dãy núi chập chùng xa xa mờ ảo một cõi biên thùy.

Cẩm Tiên tung chân trên bãi cát mịn màng, thích thú nâng niu một loài hoa dại trên bờ hồ. Hàng dương lả lơi trong tiếng gió thổi vi vu, nghiêng mình soi bóng trên mặt nước.

Bửu Sơn ôm cây đàn trên tay, anh khẽ rung từng sợi tơ hòa cùng tiếng thơ ngâm của mình.

Nắng nhạt, Bình san sương mờ Thạch động, mây vượt Tô Châu giăng trắng Đông Hồ Hà Tiên như một người con gái. Mùa xuân áo mỏng thẹn đôi bờ ...

Cẩm Tiên dẩu môi phụng phịu:

– Người con gái trong thơ đó là ai vậy?

Bửu Sơn mỉm cười:

– Là một nàng tiên trên mặt nước Đông Hồ.

– Nàng tiên đó là ai hả?

– Là người con gái có một tâm hồn đẹp như thơ, có một giọng ngâm như tiếng oanh vàng buổi sáng.

– Bửu Sơn! Anh cứ nói vòng vo mãi để tránh né câu trả lời. Anh không thật tình với em rồi. Em về đây!

Cẩm Tiên giận dỗi bỏ đi về. Bửu Sơn vội để cây đàn xuống bên hòn đá. Anh chạy theo Cẩm Tiên:

– Cẩm Tiên! Em đừng có giận dỗi nữa!

– Muốn thế, anh phải nói cho em nghe người con gái mà anh muốn nói đến là ai vậy?

Bửu Sơn nâng mặt Cẩm Tiên lên. Anh đặt đôi môi mình mơn man trên má cô. Giọng anh thì thầm:

– Là em, là người con gái đã chiếm hết tâm hồn anh trong đêm thơ Nguyên dạ hoa đăng.

– Anh đừng có nhắc đến đêm thơ đó nữa. Mắc cỡ lắm!

– Đó là kỷ niệm ngày gặp gỡ của đôi ta mà. Có gì làm cho em thẹn thùng mắc cỡ chứ?

– Mắc cỡ chứ sao không? Trong đêm hội hoa đăng ấy, người tham dự toàn là những bậc văn nhân tao nhã và những nghệ sĩ từng có tên tuổi trong làng thơ ngầm. Còn em, chỉ là một cô giáo nhỏ, ngơ ngác trong làng thơ. Vậy mà dám múa rìu qua mắt thợ, bước lên ngâm bài “Nguyên dạ hoa đăng” của nàng Xuân Tự. Bây giờ nghĩ lại em còn thấy rùng mình.

– Và cô giáo nhỏ đó đã rất thành công. Ngoài việc cô được các thi sĩ và quan khách tham dự tán thưởng, cô còn chiếm được tình yêu của người dạo đàn cho cô nữa.

Cẩm Tiên ngả đầu vào ngực anh nũng nịu:

– Anh này kỳ quá! Cứ nhắc mãi chuyện ấy.

– Anh sẽ không bao giờ quên những ngày ấy. Và ngàn sau, mặt nước Đông Hồ sẽ còn ghi sâu lại cuộc tình diễm tuyệt của hai tâm hồn được kết bằng thơ, bằng trái tim tôi kỹ.

– Bửu Sơn ơi! Em sợ lắm!

– Em sợ gì hả?

– Em sợ cuộc tình của chúng ta sẽ mong manh như nàng Phù Dung với chàng Mạc Thiên Tích ngày xưa.

Bửu Sơn chặn ngang lời nói của Cẩm Tiên bằng một nụ hôn dài:

– Chuyện ngày xưa là chuyện ngày xưa. Còn chuyện ngày nay, em không phải là nàng Phù Dung. Còn anh, anh đâu phải là chàng Mạc Thiên Tích. Anh là Bửu Sơn chỉ yêu mỗi một cô giáo Cẩm Tiên mà thôi.

Cẩm Tiên ngất ngây trong men say tình yêu, trong lời tha thiết của người tình:

– Cẩm Tiên! Chúng ta sẽ dựng nên một căn nhà nhỏ bên bờ hồ. Mình sẽ sống hạnh phúc trong tiếng cười và giọng nói của trẻ con. Đứa đầu lòng dù là trai hay gái chúng ta vẫn đặt tên nó là Đông Hồ. Đông Hồ mãi là dấu tích tình yêu và hạnh phúc của chúng ta.

– Nghe anh nói mà em tưởng tượng là được hạnh phúc của mình.

– Tất cả sẽ là hiện thực. Nó sẽ mãi mãi sống như ánh trăng trên mặt nước Đông Hồ này.

– Bửu Sơn! Em luôn chờ đợi ngày ấy.

– Ngày ấy sẽ không còn xa với chúng ta đâu, Cẩm Tiên à.

Cẩm Tiên mơ màng nghĩ đến hạnh phúc mà mình và Bửu Sơn đang mơ ước.

Những bài thơ tuyệt tác sẽ ra đời. Không phải một mà sẽ là một thi tập. Một thi tập ca ngợi hạnh phúc, tình yêu của con người sẽ sống mãi trong lòng những con người của đất Hà Tiên thơ mộng này.

Cẩm Tiên chạy như người điên trong cơn giông bão. Từng cơn gió mạnh quét những hạt mưa vào mặt cô đến đau rát. Cô cố chạy ra biển cố giữ lấy một người, không biết lý do gì mà lại bỏ ra đi. Anh chỉ gửi lại cho cô cây nguyệt cầm với lời nhắn nhủ:

“Hãy đợi anh trở về”.

Người nghệ sĩ ấy đang đi tìm lý tưởng ở một chân trời nào, bỏ lại sau lưng một quê hương còn nghèo, còn khó, và bỏ lại người tình của mình với bao đau khổ dâng cao.

– Bửu Sơn ơi! Anh tàn nhẫn lắm Bửu Sơn ...

Biển vẫn một màu đen âm u với những cơn sóng dữ. Mưa vẫn phủ đầy trên bầu trời mịt mùng mây đen. Bửu Sơn đã ra đi rồi, vĩnh viễn không bao giờ còn hiện hữu trên bầu trời Đông Hồ này nữa. Anh sẽ đến thiên đường mà anh hằng mong ước? Hay xác thân anh phải vùi sâu giữa lòng biển đen thăm thẳm?

– Bửu Sơn! Bửu Sơn ơi.

Cẩm Tiên như muốn ngã quỵ trên bờ biển. Cô muốn lao thân xuống lòng biển để đi tìm anh. Nhưng có một cái gì đó đang động đậy trong hơi thở trong cô. Cẩm Tiên đưa tay sờ vào bụng mình. Cô hốt hoảng đứng lên:

– Bửu Sơn ơi!

Sóng biển dâng cao ụp xuống người cô làm cô té ngã. Cẩm Tiên cố gắng chống chọi với cơn bão biển để đứng lên. Cô phải sống, sống để cho mầm sống trong thân thể cô được sống. Cẩm Tiên cố đứng lên nhưng sóng biển cứ quật lấy cô, cuốn hút cô vào lòng biển.

Giữa lúc Cẩm Tiên sắp buông xuôi hai tay để ngủ yên trong lòng biển cả thì có một bàn tay nắm chặt cô:

– Cẩm Tiên! Cố lên nào!

Cẩm Tiên nhận ra Toàn Phúc một đồng nghiệp của mình. Cô gượng theo anh:

– Toàn Phúc! Em ...

– Đừng nói nữa! Vào bờ đi!

Toàn Phúc nói như hét. Cẩm Tiên không còn biết nói gì hơn là làm theo lời anh. Cả hai dìu nhau vào đến bờ. Cẩm Tiên mệt lả nhưng vẫn cố hỏi:

– Toàn Phúc! Sao anh biết em ở đây mà đến cứu em vậy?

– Tình cờ anh thấy em chạy như bay trong mưa bão nên vội chạy theo em.

Cẩm Tiên! Vì sao mà nên nỗi vậy?

Cẩm Tiên hai tay ôm mặt khóc nức nở. Toàn Phúc vỗ về:

– Đừng khóc nữa Cẩm Tiên. Có uẩn khúc gì em hãy kể cho anh nghe đi!

Cẩm Tiên nói trong màn lệ:

– Toàn Phúc ơi! Người ta đã đi rồi, đã bỏ Cẩm Tiên rồi.

– Ai? Bửu Sơn à?

Cẩm Tiên gật đầu:

– Phải!

Toàn Phúc có vẻ giận dữ:

– Người ta đã bỏ đi thì em còn quyến luyến làm gì. Cẩm Tiên! Hãy can đảm đứng lên đi em!

– Em không còn đứng lên nữa Toàn Phúc ơi.

– Vì sao? Em là một cô gái đầy nghị lực mà. Đâu có lý do gì mà em không vượt nổi cõi tình trường này hả Cẩm Tiên?

– Toàn Phúc ơi!

Cẩm Tiên nói trong đau thương:

– Em không thể nào vượt qua được vì ...

– Vì sao hả em?

– Em đã có thai rồi.

– Hả?

Toàn Phúc sửng sốt kêu lên:

– Em nói sao? Em đã có thai à?

– Phải! Đã hai tháng rồi.

– Bửu Sơn có biết chuyện này không?

Cẩm Tiên lắc đầu:

– Không! Em chưa nói cho anh ấy biết.

– Vì sao em không nói?

– Em không chắc lắm. Và em cũng muốn dành cho anh ấy một sự bất ngờ.

– Khổ cho em rồi Cẩm Tiên ơi. Bây giờ phải làm sao đây? Hay là ...

– Là sao hả anh?

– Anh sẽ thay Bửu Sơn gánh vác trách nhiệm này. Em nghĩ sao?

– Không! Không thể được!

– Tại sao?

Cẩm Tiên cứng rắn hơn:

– Em không thể làm khổ anh. Em không thể để anh vì em mà mất đi hạnh phúc của mình.

– Nhưng đối với anh đó là hạnh phúc thì em nghĩ sao?

– Em không xứng đáng với anh, em không xứng đáng với anh.

– Tình yêu chỉ có yêu và đáp lại. Không có sự xứng đáng hay là không cả Cẩm Tiên.

– Chính vì lẽ đó mà em không thể bắt anh hy sinh. Tình yêu của em đã tặng hết cho một người. Em không thể đền đáp cho anh được Toàn Phúc ơi!

Toàn Phúc thở dài:

– Anh tên Toàn Phúc mà không tìm thấy chút phúc nào cả. Anh không ép buộc em. Bây giờ em tính thế nào?

– Em sẽ hoàn toàn gánh lấy trách nhiệm việc làm của mình. Em chỉ sợ mẹ em biết được chuyện này mẹ em sẽ buồn lắm.

– Cẩm Tiên! Anh có lời này muốn nói với em.

– Chuyện gì hả anh?

– Dù không được cùng em chia sẻ những buồn vui, những mất mát đau thương trong cuộc sống. Em hãy cho anh được làm một người bạn, bất cứ lúc nào em cần, đừng ngại hãy đến với anh.

– Cám ơn anh. Em sẽ không quên tấm chân tình của anh.

– Thôi! Mình về Cẩm Tiên. Em không thể ở mãi giữa trời mưa giông bão đâu.

Biết làm sao hơn, Cẩm Tiên đành theo Toàn Phúc về nhà. Giông bão hôm nay đâu có bằng bão giông đang tàn phá tâm hồn cô.

...

Bà Tiên nghẹn ngào rơi nước mắt, câu chuyện ngày xưa như vừa mới xảy ra:

– Hai mươi tám năm rồi mà dì ngỡ chỉ mới hôm qua. Hai mươi tám năm dì cố sống, cố chịu nhiều nỗi nhọc nhằn mà nuôi con. Dì muốn giữ tròn câu hẹn ước với người xưa, nên vẫn còn chờ đợi ở đất Đông Hồ này.

– Còn con của dì là ...

– Nó tên Đông Hồ. Dì đã đặt tên Đông Hồ theo sự ước mơ của cha nó hôm nào.

– Đông Hồ!

Tiểu Du sửng sốt kêu lên.

– Con biết nó hả?

– Dạ biết!

– Thế càng hay! Con biết nó trong trường hợp nào?

Tiểu Du kể lại chuyện hôm nọ cô suýt chết đuối ở bãi tắm Mũi Nai:

– Nếu không có anh Đông Hồ cứu con thì hôm nay con đã không còn nữa rồi.

– Có lẽ chuyện đó là duyên số.

– Dì! Dì nói gì vậy?

– Dì có nói gì đâu. Dì chỉ nói là thế nào rồi hai đứa cũng gặp nhau.

– Dì à ...

– Gì vậy con?

– Cái cô tên Hải Như đó, sao con không thấy cô ấy đến chơi hả dì?

– Hải Như à? Nó chuẩn bị thi tốt nghiệp đại học ở tận thành phố. Cũng ít có dịp mà hai đứa cùng về quê một lượt lắm.

– Vậy à!

– Tụi nó là hai anh em cùng chơi với nhau từ lúc nhỏ. Con Hải Như nó nhõng nhẽo lắm, cứ bắt Đông Hồ chiều chuộng đủ điều. Tội nghiệp Đông Hồ, nó không có em nên lúc nào cũng thương yêu chiều chuộng Hải Như là em gái vậy.

Không biết lời nói của bà Tiên có làm cho Tiểu Du yên lòng hay không, nhưng cô bỗng cảm thấy bao nhiêu bâng khuâng, lo lắng trong lòng mình tan biến. Một chút tin yêu lại về trong mắt, thắp sáng lại niềm tin trong trái tim hồng.

Tiểu Du nhặt từng chiếc lá úa trên những chậu hoa. Cô nâng niu những nụ hoa mới nở, hít sâu vào mũi hương thơm của từng loài hoa. Từng sợi nắng chiều vương trên tóc lấp lánh như những tinh hoa của thiên nhiên. Cô gái như nàng Bạch Tuyết trong rừng hoa ngây ngất với cảnh vật khe khẽ hát một ca khúc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn ...

“Ta mang cho em một đóa quỳnh Quỳnh thơm hay môi em thơm Ta mang cho em một chút tình ...”.

Bàn tay cô chợt chạm phải một vật gì mềm mềm, nhầy nhầy, Tiểu Du nhìn xuống:

– Á!

Tiểu Du hét lên rồi ngất xỉu. Một bàn tay nâng lấy cô gọi:

– Cô ơi! Cô làm sao vậy?

Đôi mắt của chàng trai vừa đỡ lấy Tiểu Du vụt sáng lên:

– Là ... là ...

Nhìn gương mặt xanh xao nhạt thếch của Tiểu Du, chàng trai quýnh quáng gọi to:

– Mẹ! Mẹ ơi!

Bà Tiên ở đằng sau nghe tiếng con gọi vội chạy lên:

– Đông Hồ! Con mới về đó hả?

Cảnh tượng trước mắt làm bà hốt hoảng:

– Tiểu Du! Tiểu Du làm sao vậy Đông Hồ?

– Tiểu Du bỗng dưng ngất xỉu. Mẹ đến giúp con đi.

Bà Tiên vội chạy đến giúp Đông Hồ đưa Tiểu Du vào nhà. Bà lấy dầu xoa bóp cho Tiểu Du. Tiểu Du lần hồi tỉnh. Bà Tiên mừng rỡ hỏi:

– Tiểu Du! Con tỉnh rồi hả?

Tiểu Du trả lời yếu ớt:

– Dạ!

– Vì sao mà con đột ngột bị ngất xỉu vậy?

– Dạ, tại ...

Tiểu Du đưa tay mình lên. Cô chợt rú lên:

– Á!

Đông Hồ vội gỡ bàn tay của Tiểu Du ra. Anh phì cười:

– Thủ phạm là đây rồi.

Thì ra Tiểu Du bóp phải con sâu. Trong lúc ngất xỉu, cô vẫn còn bóp chặt con sâu trong tay. Đông Hồ vừa gỡ con sâu ra vừa cười khì khì:

– Đúng là con gái mà.

Bà Tiên có vẻ phật ý:

– Con cười luôn cả mẹ hả?

– Con đâu dám!

– Mẹ cũng là người sợ sâu đến ngất xỉu mà.

– Con quên. Vậy là từ nay mẹ có người đồng cảnh ngộ để chia sẻ rồi. À! Mà sao cô ta lại đến ở trong nhà mình vậy mẹ?

– Tiểu Du là cô giáo được phân công dạy học ở trường học của mình đó.

– Thì ra cô ta vừa là người đồng cảnh mà cũng là đồng nghiệp của mẹ nữa.

Bà Tiên chợt buồn:

– Mẹ không còn là cô giáo nữa rồi.

– Con xin lỗi đã làm cho mẹ buồn.

– Có gì đâu, đó là sự thật mà. Kìa, Tiểu Du tỉnh rồi kìa!

Tiểu Du tuy đã tỉnh nhưng nét hốt hoảng vẫn còn in trên gương mặt của cô.

– Dì ơi!

– Tiểu Du! Không có gì. Đông Hồ đã lấy con sâu ra rồi. Con đừng sợ nữa.

Lần sau nhớ đừng có ra ngoài mà bắt sâu nữa nghe.

– Con đâu có bắt sâu. Con chỉ nhặt lá úa mà thôi.

– Nhưng trong lá úa có rất nhiều loài sâu ẩn trú.

Tiểu Du le lưỡi:

– Những bông hoa đẹp thế kia mà bị những con sâu quái ác quấy nhiễu thì thật là bất công.

Tiểu Du ngồi dậy có vẻ kiên quyết:

– Từ nay con sẽ không còn sợ sâu nữa. Con sẽ diệt hết loài sâu kia để cho những bông hoa xinh đẹp kia được đẹp mãi với cuộc đời.

– Chúc mừng cô Tiểu Du.

Tiểu Du ngượng ngùng nhìn Đông Hồ:

– Là anh hả?

– Tiểu Du không ngạc nhiên khi thấy tôi sao?

– Không! Vì dì Tiên đã kể cho tôi nghe về anh rồi.

– Mẹ! Sao mẹ lại kể cho người lạ nghe về con vậy?

– Tiểu Du không phải là người lạ.

– Nhưng ...

– Mẹ đã nhận Tiểu Du là con gái rồi.

– Mẹ! Mẹ nói sao?

– Con không hoan nghênh Tiểu Du là thành viên của gia đình mình sao?

– Không phải! Nhưng ...

Đông Hồ không biết nói làm sao. Trong thâm tâm anh, anh không mong đón nhận cô là một người em gái. Có một cái gì đó còn mơ hồ, chưa rõ rệt trong lòng anh chưa thể thành lời.

Sợ Tiểu Du hiểu lầm sẽ buồn, bà Tiên an ủi:

– Cái thằng đó cục mịch lắm con ơi. Ai không hiểu cứ tưởng nó là người vô tình. Nhưng thật ra nó rất ư là chân tình đó.

Tiểu Du cảm nhận lời nói của bà Tiên bởi vì lòng cô cũng nghĩ thế. Nếu không chân tình anh đã không xả thân xuống biển để cứu cô. Tiểu Du chưa có dịp đền đáp lại ơn của anh. Cô đâu có dám giận.

Đông Hồ không nói gì. Anh tin rằng Tiểu Du sẽ hiểu anh nhiều hơn. Tuy chỉ có đôi lần gặp gỡ chưa có dịp trao đổi với nhau bao lời tâm sự, nhưng anh tin rằng mình và Tiểu Du đã có một sự giao hòa.

Đông Hồ chọn một cái bàn tròn dưới rặng mù u. Đông Hồ đưa Tiểu Du ra bãi tắm Mũi Nai không phải để tắm biển, anh chỉ mời cô ra đây ngồi ngắm biển, tâm sự vài lời mà thôi.

– Ngồi ở đây chúng ta có thể mở lòng đón ngọn gió mặn mà của trùng dương. Chúng ta có thể nhìn về xa xa, thuyền đánh cá về đậu đầy bến tạo nên một khung cảnh thơ mộng ở bờ biển hình vòng cung này. Xa hơn nữa là một vùng núi non hùng vĩ chập chùng.

Tiểu Du cứ ngồi yên mà lắng nghe Đông Hồ nói. Cũng giống như Minh Khuê, anh luôn ca ngợi quê hương đất nước con người của Hà Tiên này.

– Tôi là người sống trên biển. Tôi luôn nghe hương biển ngạt ngào trong người. Gió biển, nắng biển là hai thứ không thể thiếu trong cuộc đời tôi.

Tiểu Du nghe trái tim mình đập theo từng lời nói của Đông Hồ, từng tiếng thở hòa theo từng nhịp sóng của biển. Cô cứ như đã hóa thân vào cả non nước vừa đẹp vừa thơ này.

– Sao Tiểu Du không nói gì hết vậy?

– Du muốn nghe anh nói.

– Nếu không có kẻ đồng hành thì tâm sự của anh cũng vì như con gió lạc loài ngoài biển khơi vậy.

– Không! Anh sẽ không cô độc vì Du luôn lắng nghe tâm sự của anh. Chắc là anh có rất nhiều kỷ niệm với vùng biển thân yêu này.

– Phải! Kỷ niệm đối với anh rất nhiều, kỷ niệm nào cũng sâu sắc đáng nhớ.

– Anh có thể kể cho Du nghe một kỷ niệm đáng nhớ nhất của anh không?

– Chuyện rất dài. Du có chịu nghe không?

– Du sẵn sàng nghe anh kể. Anh hãy kể đi!

– Một câu chuyện thật tức cười nhưng đã làm cho mẹ anh điêu đứng. Có lẽ tuổi trẻ nông nổi có lúc cũng thật vui, thật ấn tượng.

– Ai cũng thế, ai cũng có một tuổi trẻ đầy nông nổi. Và nếu như mình không vượt qua thì mình sẽ đánh mất tương lai của mình.

– May mắn cho anh có được một người mẹ hiền. Vì mẹ, anh đã sống có mục đích, có chân lý. Nhưng anh đã làm khổ mẹ vì sự ham tìm tòi, hiểu biết của mình.

– Du nghĩ, kỷ niệm của anh chắc là một sự khám phá, tìm tòi.

– Đúng vậy! Lúc ấy anh chỉ mới vừa tốt nghiệp cấp 1 mà thôi. Một thằng bé mới vừa mười hai tuổi. Luôn nhìn đời bằng những câu hỏi, những khát vọng, tìm tòi.

Anh tâm sự với một thằng bạn:

– Không biết thành phố Hồ Chí Minh là ở đâu? Nơi ấy có khác gì cái vùng biển heo hút của mình không Hoàng?

Hoàng nhìn Đông Hồ ngơ ngác:

– Tớ ... tớ cũng đâu có biết.

– Bạn có dám đi cùng mình không?

– Đi đâu?

– Thành phố Hồ Chí Minh chớ đi đâu. Mình nghe nói ở đó là một Sài Gòn đầy hoa lệ. Một “Hòn Ngọc Viễn Đông” rực rỡ, những tòa nhà nguy nga, cao ngất trên trời.

– Nhưng chúng ta đâu có tiền.

– Mình đâu cần tiền.

– Không có tiền thì lấy gì mà đi hả?

– Đi bằng cái này nè.

– Bằng chiếc xe đạp cũ rích này hả?

– Phải!

Hoàng lắc đầu:

– Mình không dám! Mình không đi với bạn được đâu.

– Không đi cũng không sao. Nhưng bạn phải hứa với mình một điều.

– Điều gì hả?

– Không được nói với ai chuyện này, kể cả mẹ mình.

– Nhưng lỡ như mẹ bạn đi tìm, hỏi mình thì làm sao hả?

– Ngốc ơi! Bạn cứ trả lời là mình không biết là xong.

Hoàng ngơ ngác hỏi:

– Tại sao bạn lại phải giấu mẹ hả?

– Vì nếu mình xin phép, mẹ sẽ không bao giờ cho mình thực hiện chuyến du lịch bằng xe đạp này.

– Phải! Người lớn luôn lo lắng, không thích cho trẻ em mình mạo hiểm đâu.

– Bạn biết thế là tốt.

– Nhưng ...

– Nhưng cái gì? Đây là thời điểm tốt nhất để mình thực hiện ước mơ của mình. Chúng ta đã thi chuyển cấp xong. Trong thời gian chờ đợi kết quả chúng ta đâu có làm gì. Nếu không đi sau này phải lao vào học tập, không có thời gian nữa đâu. Bạn hãy đi cùng mình đi.

– Những lời lẽ của bạn rất làm cho mình ham muốn. Nhưng ... mình không dám đâu. Mình sợ bị ăn đòn lắm.

Đông Hồ bực mình:

– Bạn không đi thì thôi. Con trai gì mà nhát gan như thỏ đế vậy.

Thế là cậu bé Đông Hồ âm thầm thực hiện ước mơ của mình. Đêm đó, chờ cho mẹ ngủ say, cậu len lén lấy gói đồ của mình treo trên cổ xe. Và cậu bắt đầu cuộc hành trình của mình.

Trong bóng đêm Đông Hồ vẫn mênh mông nước biếc, núi non vẫn bao bọc đẹp như một bức tranh thủy mạc. Bỏ mặc sau lưng cái đẹp của quê hương, Đông Hồ lầm lũi đạp xe trên đường. Cậu bé nghĩ:

– Phải rời khỏi Đông Hồ lúc trời chưa sáng. Nếu không thì mình sẽ bị mẹ phát hiện bắt lại. Mình sẽ không còn cơ hội nữa.

Càng nghĩ, Đông Hồ đạp càng hăng, tuy còn nhỏ nhưng Đông Hồ cũng khá rành rẽ về đường đi của quê mình. Cậu đã ra được đến cầu nổi Tô Châu lung linh sóng nước, lần đầu cậu được ngắm nhìn núi Tô Châu xanh thẳm ngang trời lúc bình minh.

Qua cầu, Đông Hồ sợ lạc đường. Cậu len lỏi thăm những người bán hàng đường xuống Châu Đốc. Có người e ngại nhìn cậu:

– Xa lắm! Không đi được đâu!

Đông Hồ kiên quyết:

– Cứ chỉ cho con. Con sẽ đi được mà.

– Nhưng con đi Châu Đốc để làm gì hả?

– Con đi tìm mẹ con.

Lần đầu tiên Đông Hồ nói dối.

– Mẹ con sao lại ở Châu Đốc còn con ở đây hả?

– Tại vì ...

Đông Hồ cố bịa ra một câu chuyện thật bi đát làm hai mẹ con thất lạc nhau.

Biết bà bán hàng xúc động, Đông Hồ thúc giục:

– Dì ơi! Dì chỉ cho con đi. Để con đi sớm. Dì nói đường xa lắm mà.

– Tội nghiệp quá! Còn nhỏ mà phải vất vả tìm mẹ. Con hãy theo bờ kinh Vĩnh Tế mà đến Lạc Quới. Sau đó theo đường cầu sắt Vĩnh Thông mà vào Châu Đốc rồi hỏi thăm địa chỉ của mẹ con.

– Dạ, con cám ơn dì.

Bà bán hàng dúi vào tay Đông Hồ mấy chiếc bánh rồi bảo:

– Cầm lấy theo mà ăn.

– Dạ, cám ơn dì!

Đông Hồ thấy lòng mình xốn xang. Cậu đã lợi dụng lòng tốt của bà bán hàng. Thật ra cậu đâu có khổ như đã nói. Con đường vất vả gay go này là do cậu tự chọn mà.

Không có thời gian để suy nghĩ thêm, Đông Hồ đạp xe đi thẳng theo con đường mà bà bán hàng đã chỉ.

Nắng trưa gay gắt đổ lên đầu. Mồ hôi nhễ nhại khắp cả thân thể, Đông Hồ vẫn không nản lòng. Chỉ mới khởi hành thôi đã sợ vất vả thì sau này chí trai làm sao mà làm nên việc lớn chứ.

Đông Hồ dừng lại lấy bánh của bà bán hàng cho để ăn. Số tiền mà cậu mang theo rất ít ỏi, cần phải tiết kiệm thật nhiều. Ghé chỗ bán hàng, Đông Hồ hỏi xin nước uống. Người bán hàng vui vẻ cho nước uống. Nghe Đông Hồ nói, bà bán hàng ân cần cho thêm Đông Hồ bình nước rồi dặn dò:

– Đường còn xa cố chạy nghe. Nếu không đến kịp thì dọc đường xin người ta cho nghỉ đỡ nghe.

– Dạ, cám ơn dì!

Đông Hồ lại cố chạy, cố vượt qua cái nắng trưa như đổ lửa trên đầu. Đông Hồ ngước mắt lên nhìn ông mặt trời, khẽ mỉm cười thách thức:

– Xem ông có nắng như thế này mãi hay không?

Ông trời rồi cũng phải chào thua Đông Hồ. Ông dịu dần rồi mát hẳn. Nhưng Đông Hồ không vui mừng mà lại tăng thêm nỗi lo:

– Mình không thể đi ban đêm, đường vắng lại rất nguy hiểm. Vả lại, cần phải nghỉ ngơi để lấy lại sức nữa. Không thể gấp rút được.

Đông Hồ tìm đến một ngôi nhà nhỏ nằm bên đường. Vẫn chiêu cũ, Đông Hồ xin ngủ nhờ một đêm rồi hỏi đường xuống Châu Đốc.

Chủ nhà lắc đầu:

– Từ đây xuống Châu Đốc nếu đạp xe như cháu ít nhất cũng mất ba ngày đường.

– Ba ngày hả bác?

– Ừ! Nhưng dọc đường cháu cứ xin nghỉ lại. Không ai nỡ từ chối một cậu bé khốn khổ như cháu đâu.

Đông Hồ lặng thinh. Bởi cậu không muốn nói dối thêm. Không thể lợi dụng lòng tốt của người ta nhiều như thế.

– Chắc là đói lắm phải không? Sẵn có mắm Châu Đốc, cháu ăn đi rồi đi ngủ.

Mai còn đi sớm.

– Dạ, cám ơn bác.

Cơm với mắm thật là ngon, lần đầu Đông Hồ được ăn một bữa cơm thật ngon như thế. Ăn cơm xong, Đông Hồ được chủ nhà cho ngủ trên một bộ ván nhỏ trước nhà.

Ngả lưng xuống, Đông Hồ nghe một cảm giác mệt mỏi dâng tràn. Cậu bé nhớ mẹ, lòng cậu dâng lên bao nỗi xốn xang:

– Chắc giờ này mẹ đang tìm mình, không sao. Khi đến nơi mình sẽ quay về ngay mà.

Nghĩ thế, Đông Hồ tạm yên trong giấc ngủ. Trong giấc mơ, cậu thấy cả Sài Gòn hiện lên thật đẹp.

– Dậy đi nào! Sáng rồi!

Bác chủ nhà đánh thức Đông Hồ. Đông Hồ dụi mắt hỏi:

– Sáng rồi hả bác?

– Ừ! Sáng rồi! Dậy rửa mặt đi rồi đi.

Đông Hồ thu xếp chăn màn xong đi rửa mặt. Cậu định từ giã bác chủ nhà thì ông đã kéo cậu lại mâm cơm:

– Vội gì! Ăn một miếng cơm với mắm đi rồi đi!

Đông Hồ không từ chối, bởi cậu cũng muốn được ăn một lần nữa cơm với mắm vùng này:

– Cám ơn bác! Chào bác, con đi!

– Ừ! Đi bình yên nghe.

– Dạ!

Đông Hồ lại tiếp tục cuộc hành trình của mình. Qua hai ngày đêm, cậu đã đến được Châu Đốc. Cậu đã được tận mắt nhìn dãy Thất Sơn hùng vĩ, uy nghi.

Đông Hồ dừng lại viếng lăng Thoại Ngọc Hầu, vào viếng đến Bà Chúa Xứ rồi vội vã lên đường không kể ngày đêm.

Cậu đã vượt qua hai nhánh sông Tiền và sông Hậu của dòng Cửu Long mênh mông. Cuối cùng, cậu cũng qua được cầu Mỹ Thuận. Cậu biết, không còn bao lâu nữa cậu sẽ được đến thành phố như mong ước.

Đông Hồ nghỉ chân ở bến phà Mỹ Thuận như một cậu bé bụi đời chính thống. Ở đây cũng có rất nhiều cậu bé ngủ vỉa hè như cậu. Nhưng Đông Hồ biết mình khác họ, bởi vì cậu còn có mẹ. Chuyến đi này cậu chỉ đi vì lý tưởng, cậu có gia đình. Cậu không lang thang cơ nhỡ như những đứa trẻ khác.

– Ở đâu tới vậy?

Một cậu bé trạc tuổi cậu hếch mặt hỏi:

Đông Hồ trả lời:

– Tận Hà Tiên lận.

– Cái xứ có núi, có rừng, có biển đó hả?

Đông Hồ bỗng thấy tự hào về quê hương mình vô cùng:

– Ừ! Đó là quê hương tôi đó.

– Bộ ở dưới đó khắc khổ lắm sống không được mà lang thang lên đây?

Rồi cậu ta làm ra vẻ rất rành đời:

– Rồi! Kiểu này chắc cậu ấm giận hờn gia đình bỏ nhà ra đi chứ gì?

Đông Hồ không đính chính. Cậu ta làm ra vẻ kẻ cả hơn, hiểu sự đời hơn:

– Ai sống êm ấm cũng mơ một cuộc sống giang hồ phiêu bạt. Những kẻ sống trong cảnh phiêu bạt giang hồ thì lại mơ một mái ấm gia đình.

– Tớ không phải thích phiêu bạt giang hồ. Tớ chỉ muốn đi du lịch thôi.

– Đi du lịch hả?

– Ừ!

– Bằng chiếc xe đạp này hả?

– Ừ!

Cậu bé đó thích thú nhìn Đông Hồ. Đông Hồ cũng thấy mình có nhiều cảm tình với cậu bé này.

– Nè! Có thích đi cùng mình không hả?

– Thích lắm chứ!

– Vậy thì hai chúng ta cùng đồng hành đi. Mình cùng đi thành phố Hồ Chí Minh bằng chiếc xe đạp này đi.

Mắt cậu bé sáng lên nhưng rồi lại cụp xuống:

– Tớ rất thích đi nhưng không được.

– Bạn sợ cha mẹ rầy hả?

Giọng cậu bé buồn buồn:

– Tớ có cha mẹ đâu mà sợ bị rầy.

– Vậy thường ngày cậu sống ở đâu?

– Bến phà này.

– Vậy đâu có lý do gì mà cậu không đi được hả?

– Tớ đi thì đàn em của tớ chết đói hết.

– Hả! Em của bạn đông lắm sao?

– Tớ không đếm hết được.

Không muốn Đông Hồ ngạc nhiên lâu, cậu bé ấy giải thích:

– Bốn phương tụ lại toàn là không mẹ, không cha, tớ lớn tuổi nhất nên được làm anh Hai. Hằng ngày, tớ có bổn phận phải lo cho bọn chúng công việc làm rồi sắp xếp chỗ ăn, chỗ ngủ nữa.

Đông Hồ cảm động, chỉ bằng tuổi của mình thôi mà trên vai bạn đã gánh một gánh nặng. Đông Hồ cảm thấy thương mẹ quá. Nếu không có mẹ thì Đông Hồ cũng phải lang thang như các bọn trẻ này thôi. Đông Hồ nhớ mẹ đến rơi cả nước mắt. Cậu bé phì cười:

– Dở hơi quá thế. Đã ghét gió, kỵ mù sương thì đừng có liều lĩnh mà bỏ nhà đi. Tớ khuyên cậu nên về nhà đi.

– Mình đâu có bỏ nhà đi. Mình chỉ đi du lịch thôi. Đã gần đến đích rồi không lẽ bỏ cuộc. Không! Mình phải đi, mình phải đạt được ước mơ của mình.

– Thế thì bạn cứ đi. Nhưng hãy ở lại ngủ với tớ đêm. Bạn cũng cần lấy lại sức để mai đi tiếp chứ!

Đông Hồ ngẫm nghĩ lời nói của cậu bé cũng đúng nên gật đầu:

– Cám ơn bạn. Bạn tên gì?

Cậu bé cười khì:

– Lâu lắm rồi không có ai hỏi đến tên mình cả. Ở đây bọn trẻ cứ gọi mình là anh Hai. Riết rồi quen cứ ngỡ mình là anh Hai, là thứ bự ở chỗ này.

– Mình muốn biết tên thật của bạn?

– Mình tên Thuận!

– Bạn không có cha mẹ thật sao?

– Có! Nhưng mình không biết là ai cả. Mình bị bỏ rơi trên cái phà Mỹ Thuận từ lúc năm tuổi. Các anh chị ở đây nuôi lớn mình, cũng như mình đang nuôi lớn các em nhỏ ở đây vậy.

– Bình thường các em nhỏ ấy làm nghề gì?

– Cũng như mình. Đứa thì bán trà đá, bánh kẹo. Đứa thì bán vé số, ôi đủ thứ nghề. Nói chuyện nãy giờ cậu vẫn chưa cho mình biết tên của cậu?

– Đông Hồ!

– Đông Hồ! Tên của cậu giống một nhà thơ quá!

– Nghe mẹ mình nói ba của mình là một nhạc sĩ. Và ông đã đặt cho mình cái tên Đông Hồ đầy thơ mộng.

– Thế ba cậu ở đâu?

Đông Hồ lắc đầu:

– Không biết!

– Sao kỳ vậy?

– Mẹ mình bảo là ông ấy bỏ đi khi mình còn nằm trong bụng mẹ.

– Bạc bẽo quá! Nhưng bạn còn có phước hơn mình. Bạn còn có mẹ. Còn mình thì ... tất cả đều bạc bẽo.

Đông Hồ cảm nhận được nỗi bất hạnh của bạn. Cậu cảm thấy mình có lỗi nhiều với mẹ. Cậu tự nguyện với lòng, sau lần này cậu sẽ không làm bất cứ điều gì cho mẹ buồn nữa.

Thấy Đông Hồ buồn, Thuận xua tay:

– Thôi, đừng buồn nữa! Cứ ở lại đây ngủ với tớ đêm nay, rồi mai hãy đi sớm.

– Cám ơn cậu!

Thuận trải một manh chiếu ở một vỉa hè rồi bảo:

– Cậu cứ nằm đây nghỉ đi. Để tớ đi gom tụi nó lại. Tụi này nó cũng điên điên lắm. Có khi nó theo xe đi mất mấy ngày kiếm muốn chết luôn.

– Cậu cứ đi lo việc của mình đi.

Đông Hồ cảm thấy làm anh Hai như Thuận không phải dễ. Phải lo toan, phải gánh vác như một người mẹ trong gia đình.

Hình ảnh mẹ hiền từ hiện lên trước mắt Đông Hồ. Cậu ôm mặt vào tay khóc:

– Mẹ! Mẹ ơi!

Từ giã bến phà Mỹ Thuận cùng những đứa trẻ bơ vơ bất hạnh, Đông Hồ đạp xe vượt đoạn đường gần sáu mươi cây số mới đến ngã ba Trung Lương.

Cậu nhìn biển chỉ dẫn có hai hướng một đi thành phố Hồ Chí Minh, hai đi thành phố Mỹ Tho.

Người cũng rất mệt mỏi, Đông Hồ nghĩ thầm:

– Hay là đêm nay mình rẽ vào nội ô thành phố Mỹ Tho. Vừa tham quan vừa tìm một chỗ nghỉ chân qua đêm. Ngày mai lại tiếp tục cuộc hành trình.

Nghĩ là làm, Đông Hồ cho xe rẽ phải đạp về hướng thành phố Mỹ Tho. Tội nghiệp chiếc xe đạp cà tàng này, tuy cũ kỹ nhưng nó bền chắc làm sao, nó đã cùng Đông Hồ vượt hàng trăm cây số để đến với vùng đất này.

Thành phố Mỹ Tho quả là nó không hổ danh với mỹ từ của nó. Một công viên giếng nước rực sáng ánh đèn, một đại lộ Hùng Vương hoành tráng ...

Đông Hồ có lẽ ảnh hưởng rất nhiều đến dòng máu nghệ sĩ của cha, một tính chất đậm đà nét thơ ca của mẹ. Cậu cảm nhận cảnh vật quanh mình, đâu đâu cũng đầy nét thi vị.

Đông Hồ đạp xe chạy dọc bờ sông. Cậu đến công viên Lạc Hồng - một thắng cảnh nổi tiếng của thành phố này. Lạc Hồng! Quả thật đúng với tên gọi. Du khách cứ ngỡ như mình lạc hồn vào một cõi thiên thai. Hàng dương rũ mình soi bóng nước. Dòng sông như dải lụa nhấp nhô ôm bóng những chiếc thuyền nan.

Xa xa màu xanh của những dải đất còn hiện lên làm cho cảnh vật thêm huyền bí.

Đêm Mỹ Tho ... Đông Hồ thả hồn mình vào những vần thơ để ca ngợi thiên nhiên hữu tình.

Đông Hồ lẩm nhẩm đọc bài thơ vụng dại của tuổi thơ:

Sóng nước mơ màng ôm bóng trăng Cành dương lả ngọn uốn soi mình Thuyền ai lướt nhẹ buồm giăng trắng Câu hát câu hò theo gió đưa.

Sài Gòn lộng lẫy đã hiện ra trước mắt Đông Hồ. Một Chợ Lớn phồn vinh náo nhiệt. Những con đường tấp nập xe cộ, những buynh-đinh cao ngất trời làm choáng ngợp cả mắt Đông Hồ. Lần đầu tiên cậu được nhìn thấy chiếc đồng hồ treo trên đầu chợ Bến Thành.

Đông Hồ chạy xe khắp nơi, cậu cũng không biết hết đâu là đâu trên địa bàn thành phố. Đông Hồ chỉ biết đói ăn, khát uống, mệt thì nghỉ ngơi ở một ghế đá công viên nào đó rồi lại đi tiếp. Cậu sống y như một thằng bé bụi đời chính thống.

Chợt thấy đói và mệt, Đông Hồ bước vào một điểm bán cơm bình dân trên vỉa hè. Cậu gọi cho mình một dĩa cơm và một ly trà đá.

Bà bán cơm nhìn Đông Hồ có vẻ e ngại.

Hiểu ý bà, Đông Hồ mỉm cười:

– Bà cứ bán cho cháu, cháu có tiền mà.

Bà bán cơm nhún vai rồi xúc cơm cho Đông Hồ. Vững lòng với một đĩa cơm và một ly trà đá, Đông Hồ đứng dậy thò tay vào túi lấy tiền ra trả. Cậu bé bỗng nghe hụt hẫng vì cái túi rỗng không của mình.

– Chết rồi!

– Chuyện gì?

Bà bán cơm bình thản hỏi.

– Cháu mất tiền rồi.

– Chiêu này cứ lặp lại hoài. Tui bị gạt riết rồi cũng chán.

– Không phải đâu! Cháu mất tiền thật mà!

– Thật hay giả cũng không sao. Cứ đi đi nhưng nhớ để chiếc xe đạp cho tôi là được rồi.

Đông Hồ hốt hoảng:

– Không được! Nếu để xe này lại thì làm sao cháu về với mẹ được.

– Nếu ai cũng nói thế thì chắc tôi sập tiệm quá.

– Bà ơi! Hay là bà để cho cháu làm công cho bà để trừ dĩa cơm này nhé.

– Chỗ của tôi không cần người. Vả lại, tôi cũng không dám chứa người lạ, biết đâu lại gây họa thêm cho mình. Tốt nhất là tôi lấy chiếc xe đạp này. Chừng nào có tiền thì đến đây chuộc lại.

Đông Hồ òa khóc:

– Không! Bà ơi! Cháu phải có xe để về với mẹ của cháu. Bà thương giùm cháu đi! Chỉ có một đĩa cơm thôi mà.

– Ai cũng nói thế thì tôi lấy gì mà sống chứ.

– Anh ơi! Anh nín đi! Em cho tiền anh nè!

Giữa lúc Đông Hồ đang bối rối thì có một cô bé gái đến bên anh vỗ về. Đông Hồ nhìn lại. Trong lúc rối trí mà anh vẫn nhận ra cô bé rất đẹp với hai mắt tròn long lanh như vì sao.

– Cám ơn em! Nhưng anh không thể nhận tiền của em được.

Cô bé giương to đôi mắt tròn lên:

– Vì sao?

– Em còn bé thì làm gì có tiền mà cho anh.

– Mẹ em cho em đó.

Rồi cô bé ngây thơ hỏi lại:

– Bộ anh không có mẹ hả?

Mắt Đông Hồ đẫm lệ:

– Anh có mẹ!

– Sao mẹ anh không cho tiền để anh ăn cơm?

– Tại vì ...

Đông Hồ nghẹn ngào:

– Vì anh đã bỏ mẹ mà đi.

– Sao vậy cháu?

Một người đàn bà có vẻ như là mẹ của cô bé nhẹ nhàng hỏi. Đông Hồ lễ phép chào:

– Thưa dì!

– Chắc là giận mẹ phải không?

– Không phải!

– Thế tại sao cháu lại bỏ nhà mà đi rong như thế?

– Tại vì con chỉ muốn đi du lịch mà thôi.

– Đi du lịch?

– Dạ!

– Cháu không phải là người trong thành phố.

– Dạ không!

– Cháu ở đâu?

– Dạ, tận Hà Tiên lận.

– Hà Tiên?

– Dạ!

Đông Hồ kể lại sự việc mình đã đi bằng chiếc xe đạp này từ Hà Tiên đến thành phố. Nghe xong, người đàn bà nhìn Đông Hồ lắc đầu:

– Cháu quả thật liều lĩnh. Đi như vậy, cháu có biết là mẹ cháu sẽ lo lắng, đau khổ lắm không?

– Cháu ...

– Bây giờ cháu có muốn về nhà với mẹ không?

Đông Hồ nhanh nhảu:

– Dạ muốn!

– Dì sẽ giúp cháu. Hãy nhanh chân về mau đi. Để mẹ cháu chờ mong lòng mẹ khổ đau lắm.

– Cháu sẽ nghe lời dì.

– Cháu về bằng cách nào?

– Dạ, bằng chiếc xe đạp này.

– Vậy chừng nào cháu mới tới?

– Dạ, khoảng năm ngày.

– Trời ơi! Trong năm ngày mới về tới. Mẹ cháu sẽ sống thế nào hả? Bây giờ về ngay đi!

– Làm sao mà con về hả dì?

Người đàn bà ngoắc một chiếc xích lô ở gần đó rồi bảo:

– Anh cầm lấy số tiền rồi chở thằng bé ra bến xe miền Tây mua cho nó một vé xe về Hà Tiên. Anh nhớ đưa nó lên tận xe rồi hãy về nhé!

– Tôi biết rồi! Trường hợp này tôi quen lắm mà.

Rồi anh quay qua bảo Đông Hồ:

– Mau cám ơn đi rồi lên xe về, ông tướng. Sung sướng không muốn, muốn quậy cho khổ mình, khổ người nữa.

Đông Hồ đành phải theo sự sắp xếp của người ơn. Anh cúi chào người đàn bà:

– Cám ơn dì!

Người đàn bà mỉm cười:

– Về mau đi cháu!

Đông Hồ nhìn cô bé có vẻ lưu luyến:

– Tạm biệt cô bé.

Cô bé nhoẻn miệng cười:

– Tạm biệt anh!

Đông Hồ lên xe mà lòng ngậm ngùi. Cậu biết mình vừa thọ ơn một người.

Nhưng không còn cách nào khác hơn nữa, lòng cậu đang nôn nao để về với mẹ.

Vả lại, Đông Hồ cũng không còn sức để về bằng chiếc xe đạp này. Cậu mang theo ánh mắt của cô bé trong suốt đoạn đường dài.

Một hộp cơm, mấy ổ bánh mì và một chai nước, Đông Hồ vừa ăn, vừa ngủ suốt đoạn đường từ thành phố về Hà Tiên.

– Tới rồi! Xuống xe đi thằng nhóc!

Đông Hồ tỉnh dậy ngơ ngác:

– Còn chiếc xe đạp của tôi?

– Đã sẵn sàng rồi! Xuống đi cho con nhờ, ông tướng.

Đông Hồ nhận ra quê hương của mình. Cậu vui mừng đạp xe đi mà lòng nôn nóng muốn được gặp lại mẹ ngay.

Mặt trời ló dạng. Đông Hồ cảm thấy khoan khoái hơn trước sự bao la của trời đất. Cậu chạy qua cầu nổi Tô Châu một cách vội vã. Cậu đã chạy bằng hết sức của mình, cậu mong vượt qua cầu Tô Châu để về lại Đông Hồ.

– Đông Hồ!

Đông Hồ đang gắng sức qua cầu thì nghe tiếng mẹ vừa thảng thốt vừa vui mừng gọi cậu.

Đông Hồ buông chiếc xe chạy đến bên mẹ ôm chặt mẹ vào lòng:

– Mẹ!

Bà Cẩm Tiên vừa khóc vừa ôm chặt Đông Hồ:

– Đông Hồ! Con làm mẹ sợ quá. Mẹ tưởng là sẽ không còn gặp được con nữa.

– Con xin lỗi mẹ!

– Con về là tốt rồi.

– Mẹ đi đâu mà sớm vậy?

– Mẹ định đi tìm con.

– Mẹ biết con ở đâu mà tìm?

– Thằng Hoàng nó vừa nói cho mẹ biết tối hôm qua, Mẹ định đi Sài Gòn tìm con.

– Rất may là con đã về.

– Đông Hồ! Sau này con đừng có dại nữa. Muốn đi đâu cứ nói với mẹ, mẹ sẽ dẫn con đi. Đừng có những ý tưởng khờ dại như vậy. Nếu con có điều gì mẹ không sống nổi đâu Đông Hồ à ...

Đông Hồ cười mà mắt long lanh ngấn lệ:

– Hai mẹ con ôm nhau vừa mừng vừa tủi trên cầu nổi Tô Châu. Sau đó mẹ dắt anh về nhà, và từ đó bị quản lý thật chặt.

Tiểu Du cười nhỏ mà không nói gì. Đông Hồ hỏi:

– Em cười anh hả?

– Không phải!

– Sao lại cười? Chắc em cho là anh ...

– Anh đừng có đoán mò nữa. Anh có biết cô bé mà anh gặp ở thành phố lúc đó là ai hay không hả?

Đông Hồ nhìn Tiểu Du thật lâu. Anh chợt khám phá ra một điều:

– Cô bé đó là em, Tiểu Du!

Tiểu Du gật đầu:

– Cô bé đó chính là em.

Đông Hồ đột ngột ôm chặt lấy Tiểu Du:

– Tiểu Du! Đúng là em rồi Tiểu Du. Định mệnh đã sắp xếp tất cả. Cuối cùng rồi anh cũng được gặp lại em rồi Tiểu Du.

Tiểu Du đưa tay gỡ nhẹ tay Đông Hồ ra. Cô biết có lẽ là do anh quá xúc động thôi. Tiểu Du nhắc nhở:

– Đông Hồ! Người ta nhìn mình kìa!

Đông Hồ ngượng ngùng rồi buông Tiểu Du ra:

– Xin lỗi em, Tiểu Du!

– Đông Hồ! Quá bất ngờ phải không?

– Không quá bất ngờ đâu em. Bởi vì trong tâm tưởng của anh lúc nào em cũng luôn luôn hiện hữu. Đôi mắt em đã theo anh trong suốt mười mấy năm rồi.

Vừa gặp em trên biển hôm ấy, anh đã có cảm giác thật thân thương, gần gũi.

– Phải! Định mệnh đã an bài cho chúng ta gặp lại nhau.

– Và chúng ta yêu nhau.

Tiểu Du cười nhỏ:

– Anh đang tỏ tình với em hay là đang áp đặt em đó?

– Đâu có! Anh chỉ nói lên tình cảm của mình thôi.

– Làm sao có thể yêu nhau một cách nhanh chóng như vậy?

– Mười mấy năm ấp ủ một tình yêu mà em bảo là nhanh chóng hay sao?

– Lúc ấy anh chỉ là một thằng bé biết gì mà yêu?

– Một thằng bé yêu một cô bé, một tình yêu hoàn toàn hiện thực và lãng mạn.

– Đó là chuyện cũ. Còn bây giờ thì ...

– Thì vẫn thế có thay đổi gì đâu ...

– Sao lại không có sự thay đổi được. Trong khi hiện tại bây giờ bên anh đã có Hải Như.

Đông Hồ kêu lên:

– Hải Như? Hải Như đâu có liên quan gì đến chuyện tình yêu giữa chúng ta?

– Em cảm thấy như ...

– Em không cần cảm nhận điều gì cả. Em chỉ cần cảm nhận trong trái tim mình có hình bóng của anh hay không?

– Em ... em ...

– Em không cần phải lịch sự hay tế nhị với anh cả. Em chỉ cần nói với anh là có hay không thôi?

Tiểu Du hờn dỗi:

– Anh đối với em giống như là công an đang điều tra tội phạm vậy.

– Xin lỗi em. Anh không quen với những từ hoa mỹ.

– Nhưng những từ hoa mỹ cũng rất cần cho tình yêu.

– Chúng ta chỉ cần lấy sự chân thật mà sống với nhau ...

Tiểu Du phụng phịu:

– Nhưng em không thích những từ cứng ngắt của anh.

– Vậy con người anh, em có thích không?

Bị Đông Hồ mải miết tấn công, Tiểu Du không thể ứng phó được cô gục đầu vào vai anh:

– Em không biết mà.

Đông Hồ sung sướng vòng tay qua bờ vai bé nhỏ của Tiểu Du. Môi anh mơn man trên làn tóc thơm mùi hương trinh nữ.

Khác với lần được anh vớt lên từ biển, Tiểu Du nghe cơ thể mình run nhẹ trong vòng tay anh. Cô ngây thơ hỏi:

– Bây giờ anh còn thích đi thành phố nữa không?

Đông Hồ sôi nổi:

– Còn chứ! Dù lúc anh học Đại học Hàng Hải, anh đã đi khắp Sài Gòn.

Nhưng bây giờ anh vẫn thích được trở lại cái thành phố hoa lệ ấy.

– Sao lúc ấy anh không tìm em?

– Có chứ! Anh luôn tìm em qua hình dáng của các cô bé. Anh không ngờ em lại lớn thế này.

– Em cũng vậy. Trong mắt em anh chỉ là một cậu bé đứng khóc vì không có tiền trả tiền cơm thôi.

– Kỷ niệm đó thật đẹp.

– Để xem sau này khi anh có con, con anh bỏ nhà ra đi như thế xem anh có bảo là kỷ niệm đẹp hay không?

– Lúc đó anh cũng ráng xem coi ai sẽ khóc đến sưng cả đôi mắt cho biết.

– Anh ...

Mắt Tiểu Du rướm lệ:

– Lúc nào anh cũng ăn hiếp em cả. Anh không nhường em dù chỉ một lời nói.

Đông Hồ hôn lên đôi mắt đẹp đang nhỏ lệ của người yêu:

– Tiểu Du! Suốt đời này anh sẽ mãi bên em lo lắng, bảo vệ và chiều theo em tất cả.

– Anh chỉ nói thôi. Chừng đó anh không giữ lời, ăn hiếp em, em biết phải làm sao.

– Thì em phạt lại anh.

– Em biết phạt thế nào?

– Hình phạt nặng nhất là cách ly, anh sợ nhất là cô đơn đó.

– Đông Hồ! Sự cô đơn nào cũng đáng sợ cả Chúng ta không thể nào tự hành hạ lẫn nhau.

– Tiểu Du! Tâm hồn em trong sáng quá.

Tiểu Du chợt buồn:

– Đông Hồ! Chừng nào anh lại đi?

– Ngày mai!

– Ngày mai này anh đã đi rồi. Chỉ còn lại một mình em với nỗi buồn vời vợi.

– Rồi anh sẽ lại về. Hạnh phúc sẽ nhân đôi theo những đợi chờ.

– Đông Hồ! Từ nay em sẽ không còn sống bình lặng như ngày trước nữa. Em sẽ từng chiều, từng chiều ra bến đợi chờ anh.

– Tiểu Du! Kiếp hải hồ anh trót đã nặng mang. Ngoài biển vắng bao la anh luôn nhớ đất nhớ người. Trái tim anh lúc nào cũng thổn thức gọi Tiểu Du.

Đông Hồ khe khẽ ngâm mấy câu thơ:

“Đời anh sương gió tàu say sóng Đầu bạc trùng khơi sóng bạc đầu ...”.

Tiểu Du họa theo anh:

“Mai anh về biển vui cùng biển Có biết bồ câu nhớ hải âu?”.

Đông Hồ nói như lời nhắn gửi:

– Từ nay cánh hải âu giữa lưng trời luôn hướng về chú bồ câu nhỏ. Mong mỏi có một ngày hải âu sẽ hội ngộ bồ câu.

Tiểu Du lặng nghe trái tim mình giục:

Nói đi! Nói với anh rằng “em sẽ đợi anh, chờ anh”.

Bốn mắt nhìn nhau thay cho vạn lời trao gởi. Họ cùng lắng yên tiếng biển thì thầm bài hát:

“Vẫn hát lời tình yêu”.

– Tiểu Du! Về đi Tiểu Du!

Đông Hồ đứng trên bong tàu vẫy tay. Anh đưa tay làm loa:

– Anh sẽ về, Tiểu Du!

Tiểu Du đứng trên bến cảng nhìn con tàu dần xa, dần xa trên biển rộng.

Trong nắng biển, gió biển lồng lộng, mái tóc dài bay bay trong nắng sớm.

Tiểu Du ôm gọn mái tóc trong tay. Cô không muốn vẫy tay dù chỉ là tạm biệt Đông Hồ. Cô sợ sệt biệt ly cách trở. Cô sợ, sợ lắm những tan vỡ chia phôi.

Cô nghe tiếng Đông Hồ vang vọng:

– Anh sẽ về! Tiểu Du ơi! Anh sẽ về!

Tiểu Du nghẹn ngào đáp lại lời anh dù biết rằng anh không thể nghe được lời chân thành của cô:

– Đông Hồ ơi! Em sẽ đợi!

Tiểu Du đứng lặng yên nhìn theo con tàu xa dần cho đến khi nó chỉ còn là một cái đốm nhỏ giữa biển khơi.

Cô thì thầm với biển:

– Biển ơi! Biển đã mang theo người trai vào lòng. Biển hãy cưu mang bảo vệ, giữ gìn để người ấy quay về với vòng tay yêu thương của con người.

Tiểu Du không biết phong tục của người dân biển. Nhưng cô biết họ rất sùng bái Nữ Thần biển, Nữ Thần của hạnh phúc. Cô chắp tay lâm râm cầu nguyện Nữ Thần ban cho nhân loại niềm hạnh phúc. Hãy ngăn chặn những bão giông để con người đừng gánh chịu những mất mát, tang thương.

Tiểu Du định quay về thì một người con gái vội vã chạy đến. Giọng cô bàng hoàng:

– Đông Hồ! Anh đã đi thật rồi sao?

Tiểu Du nhận ra Hải Như. Hải Như chạy ra đây chắc là để tiễn Đông Hồ.

Nhưng anh ấy đã đi rồi.

Tiểu Du chưa kịp nói gì thì Hải Như đã nhìn sững cô:

– Là cô à? Tiểu Du, là cô sao?

– Phải! Tôi là Tiểu Du.

– Cô ... cô có dụng ý gì mà đến ở nhà của Đông Hồ chứ?

– Tôi không có dụng ý gì cả. Đó chỉ là một sự tình cờ thôi. Tôi nghĩ đó là sự sắp đặt của định mệnh.

Hải Như phản kháng:

– Không có sự sắp đặt của định mệnh gì cả! Chỉ là do cô cố ý tiếp cận Đông Hồ thôi. Nhưng cô không thể giành giật của tôi đâu. Tôi và Đông Hồ đã thân thiết với nhau từ thuở nhỏ, tình cảm rất tràn đầy. Còn cô ...

Hải Như bĩu môi:

– Chỉ là một sớm một chiều thôi. Anh ấy chỉ nhất thời có tình cảm với cô khi không có mặt tôi. Nay tôi đã về, tôi sẽ giữ chặt anh ấy. Cô đừng hòng lợi dụng khoảng trống ấy mà xen vào.

Thật tình Tiểu Du muốn trả lời câu nói của Hải Như, nhưng cô lại quá hoang mang. Dù sao những lời nói của Hải Như cũng là sự thật. Liệu tình yêu chân thật, nồng nàn của cô có thể đánh đổi được những tình cảm gắn bó của họ bao năm qua hay không? Và rồi đứng trước một cuộc tình tay ba, liệu cô có đủ bản lĩnh để giành lấy cho mình một tình yêu hay không?

Thấy Tiểu Du phân vân, Hải Như tiếp tục đánh thêm đòn tâm lý:

– Tôi nói thế cô nghĩ có đúng không. Chúng ta dù không quen biết nhau nhưng đồng là phận gái. Tôi không muốn giữa chúng ta phải có người ôm mối hận lỡ duyên. Ngay lúc này tôi muốn giữa hai chúng ta phải có một người bỏ cuộc.

– Và người bỏ cuộc là ...

Hải Như cướp lời:

– Nhất định người ấy phải là cô. Đừng đặt câu hỏi là ai? Với tôi ... cô là kẻ đến sau, cô không có tư cách tranh giành tình yêu với tôi.

– Cô lấy quyền gì để áp đặt tôi chứ?

– Quyền à? Cô hỏi tôi lấy quyền gì hả? Quyền của kẻ đang yêu đang bảo vệ tình yêu của mình, được chứ?

Bỗng dưng Tiểu Du thấy mình mạnh mẽ vô cùng:

– Cô nói thế thì chúng ta cứ công bình mà tuyên chiến với nhau. Tôi cũng là người đang yêu và cũng có quyền bảo vệ tình yêu của mình.

Hải Như tức tối:

– Cô có đủ tư cách để cạnh tranh với tôi à?

– Chúng ta đều có quyền bình đẳng như nhau. Nhất là trong tình yêu.

– Cô!

Hải Như đuối lý. Nhưng cô vẫn bình tĩnh để phản công:

– Được! Để cho cô tâm phục, khẩu phục mà chịu thua thì chiến thắng lại càng vinh quang chứ sao!

– Chúng ta cứ để cho những gì tự nhiên nó đến. Tuyệt đối không được dùng thủ đoạn mà giành giật với nhau.

– Tôi không tồi như thế đâu. Cô hãy lo cho mình đi.

– Tôi tự khắc biết rằng mình phải làm gì mà. Cô không cần phải vì tôi mà lo nghĩ.

Hải Như trừng mắt:

– Tôi không ưa cái lối nói chuyện kẻ cả của cô.

– Tôi cũng không mong chiếm được tình cảm của cô.

– Tôi cũng không mong mình sẽ thấy mặt cô hiện diện ở bầu trời Đông Hồ này.

– Tôi mong cô biến mất đi. Hãy vì nơi mình đã đến đi.

– Ở đâu có khí trời là tôi có thể ở đó.

– Được! Cô hãy đợi đấy!

– Tôi không né tránh đâu. Cô đừng sợ.

– Cuộc chiến này phần thắng chưa biết sẽ ngã ngũ vì đâu. Cô đừng vội tự hào.

– Tôi không bệnh tự mãn đâu.

– Tôi không cần tranh luận với cô nữa, tôi về đây.

Hải Như bực dọc quay đi. Còn lại mình Tiểu Du. Cô bỗng thấy nỗi buồn giăng kín trong hồn. Tình yêu quả thật là lụy phiền, trắc trở. Lúc trước, cô không thích có người yêu vì cô sợ đánh mất đi cuộc sống hồn nhiên, vô tư của mình.

Còn bây giờ thì ...

Tiểu Du thở dài. Tiếng sét ái tình đã giáng xuống đầu cô, đánh trúng lục phủ ngũ tạng làm chấn thương toàn thân. Tiểu Du không thể né tránh được. Tình yêu đến với cô thật bất ngờ và cũng thật là tha thiết. Trái tim cô rên rỉ:

– Đông Hồ ơi! Làm sao em có thể không yêu anh được, anh ơi ...

– Tiểu Du!

Vừa hết tiết dạy, Tiểu Du thu xếp ra về thì cô nghe tiếng gọi nhỏ phía sau.

Tiểu Du quay lại, cô ngỡ ngàng:

– Minh Khuê! Anh về lúc nào vậy?

Minh Khuê đượm nét buồn:

– Anh vừa về! Sao Tiểu Du đến đây mà không đến gia đình anh hả?

– Du chưa có ổn định được nên chưa đến thăm hai bác.

– Du có vẻ như rất xa lạ với gia đình anh. Nếu không thì tại sao Du lại không đến ở với ba mẹ anh?

– Du sợ làm phiền hai bác.

– Thế tại sao Du không sợ làm phiền một người không quen biết hả?

Những câu hỏi dồn dập của Minh Khuê làm Tiểu Du bối rối:

– Du ... Du cũng không biết tại sao nữa.

– Có lẽ Du không muốn đón nhận tình yêu của anh nên tìm cách né tránh?

– Du không nghĩ là anh sẽ về sớm như thế.

– Anh về để đại diện cho công ty ký các hợp đồng với các công ty thực phẩm của Việt Nam.

– Sao anh biết Du ở đây mà đến vậy?

– Về Sài Gòn, anh có đến nhà Du nên mới biết Du đã xuống đây. Anh vừa mừng lại vừa lo.

– Anh mừng gì và lo điều gì?

– Anh mừng là Du xuống đây, chúng ta có điều kiện gần gũi nhau. Và lo là không biết Du có thể chấp nhận hay là vẫn từ chối anh.

Tiểu Du cúi đầu:

– Du xin lỗi.

– Có nghĩa là ...

– Du đành phải phụ tình anh.

– Tại sao? Du vẫn chưa có người yêu mà.

– Trước kia thì đúng, nhưng bây giờ thì ...

– Đã có rồi sao?

Tiểu Du gật đầu. Minh Khuê hơi run giọng:

– Chỉ có mấy tháng ngắn ngủi xa nhau mà Tiểu Du đã thay đổi nhanh như thế sao?

– Không! Du không hề thay đổi, bởi vì từ lúc gặp nhau cho đến bây giờ, Du chưa hề yêu anh.

Minh Khuê xót xa:

– Phũ phàng như thế sao Du?

– Du không thể dối lòng, dối người được.

– Không lẽ anh đã hết hy vọng rồi sao Tiểu Du?

– Rồi anh sẽ tìm được một người con gái khác tốt hơn Tiểu Du. Rồi hạnh phúc sẽ đến với anh thôi.

– Ngày đó sẽ là bao giờ hả Tiểu Du?

– Anh đừng đánh mất niềm tin của mình vì một lý do không đáng như thế.

Du tin rằng anh sẽ tìm được hạnh phúc cho chính mình.

– Anh không thể có hạnh phúc được khi không có em Tiểu Du à. Rồi mai này khi em sống hạnh phúc với người chồng mà em yêu thương thì anh sẽ sống cô đơn, âm thầm trên đất khách mà ôm nỗi đau cho tình duyên bất hạnh của mình.

Tiểu Du thở dài:

– Người đang yêu chưa hẳn là hạnh phúc. Kẻ chưa yêu chưa hẳn đã đau buồn đâu anh.

– Em nói thế sao hả Tiểu Du?

– Tình yêu của em vẫn còn nằm trên đỉnh đầu sóng gió. Không biết rồi nó sẽ trôi giạt về đâu.

– Nghĩa là ...

– Anh đừng bận tâm chuyện của em nữa. Anh hãy nghĩ đến mình đi.

Minh Khuê đặt tay lên bờ vai nhỏ của Tiểu Du:

– Tiểu Du! Dù bất cứ hoàn cảnh nào nếu Du cần anh, hãy điện cho anh biết.

Anh sẽ đến với em. Đừng ôm lấy nỗi buồn một mình nghe em.

– Cám ơn anh, Minh Khuê.

– Hứ! Ở đây là trường học mà hai người còn giở trò như thế. Rồi ở bên ngoài các người còn hành động tồi tệ thế nào nữa?

Minh Khuê buông tay mình xuống quay lại nhìn người con gái vừa xuất hiện trước mặt:

– Cô là ai?

– Anh cần biết lắm sao?

Tiểu Du sau phút ngỡ ngàng, cũng bình tĩnh hỏi:

– Hải Như! Cô đến đây để làm gì hả?

– Để làm gì à?

Hải Như cười mỉa:

– Để biết được sự thật về con người thật của cô. Cô bảo cô yêu anh Đông Hồ.

Cô yêu anh ấy mà khi anh ấy chỉ vừa mới ra đi, cô lại cùng một người con trai khác tỏ tình, âu yếm ở nơi học đường.

Tiểu Du kêu lên:

– Hải Như! Cô hiểu lầm rồi!

– Hiểu lầm à? Chính đôi mắt tôi trông thấy mà còn hiểu lầm à? Còn có một sự thật nào nữa sao?

Lắng nghe cuộc đối thoại của hai người, Minh Khuê đã hiểu ra câu chuyện.

Anh nghĩ là mình cần phải đính chính cho Tiểu Du:

– Cô à! Cô đã hiểu lầm chúng tôi rồi. Chúng tôi chỉ là bạn bè với nhau mà thôi. Tuyệt đối không phải là như cô đã nghĩ.

– Tôi chỉ tin vào những gì mình đã thấy thôi. Anh đừng có mà biện minh.

– Cô quá cố chấp rồi, Hải Như à.

Hải Như chau mày nhìn anh:

– Anh lấy tư cách gì mà phê phán tôi chứ?

– Tôi không có tư cách gì mà phê phán cô cả. Tôi chỉ nói bằng sự bất bình của một con người thôi.

– Anh ...

Hải Như đuối lý trước lời thẳng thắn của Minh Khuê. Cô quay lại với Tiểu Du:

– Chuyện này chỉ có anh Đông Hồ mới có quyền quyết định thôi. Tôi về!

Không thèm chào hỏi Minh Khuê, Hải Như bực dọc bước đi. Minh Khuê nhìn cô lo ngại:

– Tiểu Du! Có gây phiền cho em không Tiểu Du?

Tiểu Du lắc đầu:

– Không! Em tin rằng nếu Đông Hồ thật sự yêu em, anh ấy sẽ hiểu và tin tưởng em thôi.

Minh Khuê lẩm bẩm:

– Phải! Có niềm tin là sẽ có tất mà thôi.

Minh Khuê không biết rằng câu nói ấy anh đang nói cho Tiểu Du hay đang nói cho chính mình nữa.

Tiểu Du cũng gật đầu:

– Phải! Chúng ta mỗi một con người hãy tự thắp sáng cho niềm tin cho chính mình.

Xa xa, núi vẫn ngả dài trên mặt biển, trăng vẫn lồng lộng trên cao in bóng dưới mặt nước Đông Hồ. Trời biển vẫn bao la. Mặt nước vẫn im lìm êm như mặt nước hồ thu. Hàng cây vẫn biếc xanh lả lơi trong gió ...

Cảnh cũ vẫn còn nguyên vẹn. Sau hai mươi lăm năm biến động, ông Bửu Sơn chợt nhận ra mình đã già đi theo năm tháng. Lòng ông bâng khuâng với bao ý nghĩ:

– Không biết có nên tìm gặp Cẩm Tiên hay không? Sau hai mươi lăm năm xa cách, biết người xưa giờ đã ra sao? Có lẽ đang sống ấm êm trong mái ấm gia đình. Bên hạnh phúc, bên đàn con xinh. Sự có mặt của mình sẽ gây nhiều xáo trộn cho người ấy.

Hai mươi lăm năm xa xứ, ông luôn nhớ đến quê hương. Nhớ đến người yêu mà khi ra đi ông không có một lời từ giã. Ông chỉ kịp gửi lại cho người yêu cây đàn và lời nhắn gửi:

– “Hãy đợi anh trở về”.

Hai mươi lăm năm. Mới đó mà đã hai mươi lăm năm rồi. Ông Bửu Sơn lặng nhìn mặt nước Đông Hồ. Hình ảnh của quá khứ dần hiện lên theo từng con sóng nhỏ li ti trên mặt nước ...

...

– Bửu Sơn! Ngại ngần gì nữa, chúng ta đi đi!

Bửu Sơn vùng vằng:

– Tôi muốn từ giã Cẩm Tiên.

– Không kịp đâu! Tàu đang đợi chúng ta đó. Nhanh lên đi! Anh đã gởi lại lời nhắn nhủ với cô ấy rồi mà.

– Nhưng ...

– Đừng phân vân nữa Bửu Sơn.

– Thiện Hoàng! Chúng ta không đi có được không?

– Bửu Sơn à! Không ai muốn rời bỏ quê hương mình cả. Nhưng anh thấy đó, những nhạc sĩ như chúng ta không được trọng dụng. Những bài hát mà chúng ta sáng tác ra đều bị phê phán là còn mang nặng mùi bi lụy, không có xu hướng cách mạng.

– Tôi nghĩ đó chỉ là tạm thời thôi.

– Tạm thời là đến bao giờ hả? Tuổi của chúng ta đâu còn trẻ, đâu thể chờ đợi được nữa. Ở bên đó người ta rất tán dương âm nhạc trữ tình, lãng mạn của tuổi trẻ. Những ca khúc của chúng ta sẽ được trọng dụng. Bửu Sơn, anh là một thiên tài âm nhạc, anh không thể chôn vùi tài năng của mình được.

– Nhưng còn Cẩm Tiên?

– Đàn ông phải lấy sự nghiệp của mình làm trọng. Anh không thể vì một chữ tình mà đánh mất tất cả được Bửu Sơn.

– Nhưng ...

– Qua bên ấy ổn định xong, chúng ta sẽ tìm cách liên lạc với Cẩm Tiên. Thời gian này chỉ là sự xa cách thôi. Anh và cô ấy sẽ đoàn tụ mà. Đi thôi, kẻo trễ chuyến tàu đó.

Bửu Sơn có muốn nán lại cũng không được, Thiện Hoàng đã giữ chặt tay anh kéo đi, Bửu Sơn chỉ còn kịp nhìn lại lần cuối mặt nước Đông Hồ rồi theo Thiện Hoàng đi vội về phía bờ biển:

Bửu Sơn, Thiện Hoàng cùng một số người trên tàu bắt đầu một cuộc viễn dương. Ngày đầu tiên sóng êm gió lặng. Nhưng tất cả đều phải ở dưới hầm tàu để bảo đảm bí mật. Không ai được phép lên tàu. Thức ăn và nước uống có người cung cấp.

Cuộc hành trình êm ả kéo dài đến ngày thứ ba. Mọi người bỗng chao đảo, té sấp vào nhau. Cả hầm tàu nhốn nháo. Thiện Hoàng nhăn mặt:

– Chắc là bị gặp bão rồi.

Giọng của ai đó hốt hoảng kêu lên:

– Bão hả? Trời ơi! Nếu gặp bão lớn biết làm sao đây?

Bửu Sơn trấn an mọi người:

– Mọi người đừng lo. Chắc là không sao đâu. Tàu của chúng ta lớn mà không sao đâu.

Tuy nói thế nhưng trong lòng Bửu Sơn cũng mang đầy lo lắng. Anh đã từng nghe nhiều về số phận của những người vượt đại dương. Họ phải đối đầu với nhiều hiểm họa. Bão biển vùi dập. Đói khát vì thiếu lương thực, lại còn thêm nạn cướp biển hoành hành. Số người đi thì nhiều nhưng số người đến thì rất ít.

Con tàu lại chòng chành tới cao độ. Có nhiều tiếng gãy vụn ở tầng trên. Tất cả không ai còn giữ được bình tĩnh. Họ cùng bám víu nhau ra khỏi hầm tàu, khung cảnh trước mặt đã làm họ đã hoảng sợ lại càng thêm hoảng sợ. Cột buồm bị gãy, máy tàu bị hỏng. Những đợt sóng to cao hơn những nóc nhà đang ập lên con tàu. Cái chết như chực chờ trước mặt họ. Không ai bảo ai, họ cùng đưa tay lên cầu nguyện cho sóng lặng gió yên.

Lời cầu nguyện của họ chắc là linh nghiệm. Gió bắt đầu êm hơn, sóng cũng nhẹ hơn. Mưa gần như tạnh hẳn.

Mọi người mừng rỡ reo lên:

– Êm rồi! Êm rồi! Chúng ta sống rồi!

Thiện Hoàng ôm chặt lấy Bửu Sơn:

– Sống rồi! Chúng ta sống rồi!

Bửu Sơn tuy mừng rỡ nhưng lòng vẫn đầy lo lắng:

– Tuy bão đã êm nhưng hiện giờ chúng ta đang nguy cấp vì máy tàu bị hỏng.

Rồi còn lương thực nữa. Khó khăn vẫn còn trước mắt.

Nghe Bảo Sơn nói mọi người có mặt trên tàu càng nhốn nháo hơn:

– Chúng ta phải làm sao bây giờ?

– Mọi người bình tĩnh. Chúng ta vẫn còn hy vọng. Tàu tuần tra trên hải phận quốc tế sẽ cứu chúng ta mà.

Niềm hy vọng lại nhân cao lên trong lòng mọi người. Ai cũng muốn được sống, được đến vùng đất thánh mà họ hằng mong ước.

Một ngày, hai ngày rồi đến ba ngày, họ vẫn còn lênh đênh trên biển, lương thực ít dần rồi hết hẳn. Tất cả bắt đầu đói, từ cầm cự cho đến đói lả. Tất cả cùng nhìn nhau tuyệt vọng. Những giọt nước mắt khốn khó rơi trên mắt. Họ ôm nhau cố truyền cho nhau chút sinh lực để sống.

Thiện Hoàng bỗng lên cơn sốt dữ dội. Bửu Sơn ôm chặt anh lo lắng:

– Thiện Hoàng! Cố lên Thiện Hoàng!

Thiện Hoàng nhếch đôi môi khô rát vì đói, vì khát lẫn bệnh tật lên thều thào:

– Chắc là tôi ... tôi bỏ cuộc quá Bửu Sơn ơi!

Bửu Sơn hốt hoảng:

– Thiện Hoàng! Anh đừng nói thế. Cố gắng lên! Chúng ta sẽ vượt qua mà.

– Tôi ... tôi không chịu đựng nổi đâu anh.

– Không! Nhất định anh sẽ thoát mà.

– Bửu Sơn! Nếu tôi có bề gì ... anh hãy cố gắng vượt qua nghe.

– Không! Không! Chúng ta sẽ sống cùng nhau mà.

Thiện Hoàng không nói gì. Anh lả người hẳn đi vì cơn sốt hành hạ. Thiện Hoàng chìm dần trong cơn mê man.

Dù lo lắng cho bạn nhưng Bửu Sơn cũng đành bất lực. Trên tàu không có lương thực, không có thuốc men. Biết làm sao đây?

Nhiều tiếng khóc nức nở vang lên. Họ cũng đồng cảnh ngộ với Bửu Sơn.

Đành phải nghẹn ngào nức nở tiễn biệt người thân trong hoàn cảnh bi thương này.

Thiện Hoàng nhìn Bửu Sơn bằng đôi mắt đờ đẫn. Bửu Sơn ghé sát tai vào Thiện Hoàng:

– Thiện Hoàng! Anh muốn nói gì phải không?

Thiện Hoàng mấp máy đôi môi nhưng anh không thể thốt thành lời. Anh chỉ nhìn bạn, cái nhìn như xoáy vào lòng Bửu Sơn một nỗi đau. Thiện Hoàng từ từ buông xuôi hai tay bất động, hồn anh bay vào cõi hư vô.

Bửu Sơn đưa tay vuốt hai hố mắt sâu thẳm của Thiện Hoàng, Bửu Sơn cố nuốt hai dòng nước mắt tuôn trào. Anh khóc cho bạn và khóc cho mình. Trên bước đường lưu vong để đến thiên đường. Thiên đường chưa thấy mà địa ngục đã đón chờ.

– Thiện Hoàng! Thiện Hoàng ơi!

Gió biển thốc lên, mùi thi thể bốc lên, những người còn lại ngột ngạt, khó chịu:

– Quăng xác người chết xuống biển!

Nhiều người phản đối:

– Không được! Không được!

– Mọi người bình tĩnh. Chúng ta hãy cứu những người sống. Còn những người chết thì xem như an phận. Dù chúng ta có gìn giữ thi thể của họ cũng chẳng được gì đâu. Sanh mạng của những người còn sống là quan trọng nhất.

Mọi người thấy có đúng không?

Tất cả đều im lặng. Bởi vì bản thân họ cũng không biết là mình có còn sống hay là không nữa.

Bửu Sơn quay mặt đi khi người ta quăng xác Thiện Hoàng xuống biển:

– Thiện Hoàng ơi! Hãy ngủ yên trong lòng biển nghe anh. Vĩnh biệt anh!

Mọi người trên tàu cúi đầu chào vĩnh biệt những người ra đi. Họ lại lênh đênh trên biển trong mỏi mòn, tuyệt vọng.

Cờ trắng vẫn phất lên nhưng vị cứu tinh của họ vẫn chưa đến. Đói khát đã làm cho họ không còn chút sức lực nào. Họ chỉ có một con đường là nằm chờ chết. Họ đã thấy trước mắt họ là hình bóng của tử thần.

Giữa lúc họ chực chờ thần chết thì thần cứu mệnh đã đến với họ. Một chiếc tàu tuần tra của Malaysia phát hiện ra họ. Toàn bộ những con người trên tàu đều ngất lịm ...

Bửu Sơn tỉnh dậy sau cơn ngất. Anh thấy mình đang nằm trên giường cùng những người khác. Trên tay họ đều mang dây truyền dịch. Bên cạnh có một nhân viên y tế đang chăm sóc.

Bửu Sơn mừng rỡ nhận ra đó là một người Việt. Anh gọi:

– Cô ơi!

– Anh cần gì? Anh đã khỏe chưa?

– Cám ơn cô! Tôi đã khỏe. Đây là đâu hả cô?

– Đây là một hòn đảo thuộc lãnh địa của Malaysia.

– Tại sao chúng tôi lại ở đây?

– Đây là địa điểm tập trung những người vượt biên. Đây là trại tị nạn.

– Số phận của chúng ta rồi sẽ ra sao hả cô?

Bửu Sơn lo lắng hỏi. Cô gái nhìn anh lắc đầu:

– Tôi không biết nhưng những người ở đây đều có chung một hoàn cảnh như nhau.

– Là sao hả cô?

– Đàn ông thì bị bóc lột, đánh đập. Đàn bà thì phải chịu làm nô lệ tình dục cho bọn quản lý đảo này.

– Tồi tệ thế sao cô?

– Có nhiều việc còn tồi tệ hơn thế nữa. Thôi! Anh đừng nói nữa. Hãy nghỉ ngơi đi.

– Cô ơi!

– Anh còn muốn hỏi gì nữa?

– Không lẽ chúng ta phải chịu như thế mãi sao hả cô?

– Ba tháng một lần, chính phủ Hoa Kỳ sẽ đến phỏng vấn. Ai trúng tuyển sẽ được đưa về đất liền.

– Cô đã được phỏng vấn chưa?

– Rồi!

– Cô có đạt yêu cầu không?

– Có!

– Sao cô không đi?

Cô gái thở dài:

– Tôi có học một khóa y tá. Tôi muốn ở lại để được chăm sóc sức khỏe của người dân bản xứ của mình. Tôi muốn được chia sẻ với mọi người nỗi đau thương này.

– Cô thật là cao cả.

– Ai cũng mong lìa bỏ quê hương để tìm cho mình một vùng đất Thánh.

Nhưng Thánh địa ở đâu chưa thấy mà địa ngục thì hiện hữu ngập đầy.

Bửu Sơn xót xa nhớ đến cái chết của Thiện Hoàng:

– Đã bước đi rồi thì không còn đường để bước lại. Ví như chân đã nhúng chàm rồi thì không thể nào mà tẩy rửa được.

– Ở đây ai cũng nuôi hy vọng là được chính phủ Hoa Kỳ chiếu cố chính sách đón người tị nạn vào đất liền thôi.

Rồi cô quay sang anh lời nói nửa chân thật, nửa như lời mai mỉa:

– Anh hãy nằm nghỉ đi. Cố lấy sức để chờ đợi và hy vọng được hưởng ân huệ đó.

Cô gái bỏ đi. Bửu Sơn nằm một mình với tâm trạng đầy hoang mang:

– Không biết rồi cuộc sống của mình sẽ ra sao? Hai thằng bạn, cùng gom góp hết số vốn để làm một cuộc đổi đời. Bây giờ một thằng thì bỏ thây dưới biển cả, một thằng thì nằm trong trại tị nạn này.

Bửu Sơn tay đã trắng lại càng thêm trắng. Cũng may là trước khi ra đi anh còn kịp gửi lại cho Cẩm Tiên cây đàn và lời nhắn gửi:

– Hãy đợi anh về!

Bửu Sơn ôm nỗi đau vào lòng mà thổn thức:

– Cẩm Tiên ơi! Ngày về còn xa lắm Cẩm Tiên ơi!

Sức khỏe của Bửu Sơn và tất cả những người còn sống sót trên con tàu được cứu hộ đã hồi phục. Họ không còn được chăm sóc nữa. Số phận của họ giống như những người đang sống tị nạn trên đảo.

Trong lý lịch của mình, Bửu Sơn không khai báo mình là một nhạc sĩ. Anh biết mình đã lầm. Là nghệ sĩ, nhất là lại nằm trong giới sáng tác, ai lại đành lòng rời bỏ quê hương, phản bội tổ quốc để làm một kẻ lưu vong. Anh không phải là một nghệ sĩ. Anh chỉ là một kẻ ham lợi danh, như con thiêu thân vụt thấy ánh đèn, lao vào vùng sáng một lần. Chỉ một lần thôi rồi vĩnh viễn vùi thân vào cõi chết.

– Mình không xứng đáng với tình yêu của Cẩm Tiên. Cẩm Tiên trong sáng quá, thánh thiện quá. Mình chỉ là một kẻ trốn chạy, không thể đem hạnh phúc cho cô ấy.

Nghĩ thế, Bửu Sơn đưa ra một quyết định cho chính mình:

– Mình không thể liên lạc với Cẩm Tiên. Hãy để cô ấy tìm hạnh phúc với một người xứng đáng hơn mình.

Bửu Sơn gục đầu trong đôi tay rên rỉ:

– Cẩm Tiên ơi! Hãy tha thứ cho anh ...

– Anh nhớ nhà hả?

Bửu Sơn ngẩng mặt lên. Anh nhận ra chính là cô y tá dễ thương. Giọng anh thật chua xót:

– Ai ly hương mà không nhớ nhà nhớ quê hương hả cô?

– Anh tên là Bửu Sơn?

– Cô biết tên tôi?

– Tôi có xem qua bản khai lý lịch của anh.

– Kể ra cô cũng là một nhân vật quan trọng trong guồng máy cai trị ở đây.

– Tôi có bổn phận chăm sóc sức khỏe cho từng người.

– Cô tên gì?

– Thúy Hoa!

– Thúy Hoa! Cô gốc người ở đâu?

– Sài Gòn? Còn anh?

– Tôi không biết!

Thúy Hoa bật cười:

– Anh thật lạ. Ai lại không biết quê hương, nguồn cội của mình chứ?

– Tôi vốn thua con người ở điểm đó. Tôi không biết cha mẹ mình là ai? Quê quán ở đâu cả. Tôi lớn lên trong viện cô nhi. Từ nhỏ, tôi đã sống nhờ tình thương của các xơ rồi.

Thúy Hoa bật khóc:

– Anh không có gia đình, anh có thể sống lưu vong. Còn tôi, tôi bỏ gia đình cha mẹ mà đi nên thượng đế đã trừng phạt tôi.

– Cô có thể sang Mỹ định cư mà, ở đó cô có thể tạo được một tương lai cho mình, sao cô lại từ chối?

– Tôi ở lại đây là để chấp nhận hình phạt của thượng đế. Vả lại, không có tôi, ai sẽ chăm sóc cho những người trôi giạt đến đây? Tàu của anh chỉ là đàn ông còn đỡ khốn khổ hơn. Còn có những người đàn bà khi lênh đênh trên biển, bị cướp biển, cướp bóc, hiếp dâm. Tình trạng còn tồi tệ hơn nhiều.

Không để cho Bửu Sơn nói thêm, Thúy Hoa đã nói:

– Tôi đã từng là nạn nhân nên tôi hiểu rất rõ hoàn cảnh này.

Bửu Sơn lặng thinh không nói. Bởi vì anh cũng không biết nó là gì để chia sẻ sự mất mát, đau thương của Thúy Hoa.

Thúy Hoa hỏi nhỏ:

– Anh đang nghĩ gì?

– Tôi đang nghĩ về mình.

– Anh có hối hận khi bỏ quê hương mà ra đi không?

– Cái hối hận bao giờ cũng đi sau việc đã làm. Tôi không đặt vấn đề hối hận lên cao, mà tôi nghĩ mình cần phải làm gì để tỏ lòng mình với đồng bào, với quê hương mình. Và tôi muốn làm một cái gì đó để tạ lỗi với người xưa. Nhưng rất tiếc ...

Bửu Sơn nhún vai tỏ vẻ bất lực:

– Tôi không thể làm gì khác hơn là sống ở đây như một tên nô lệ.

– Rồi anh sẽ được sang Mỹ mà. Hiện nay chính quyền Hoa Kỳ cũng đang khẩn trương đón rước những người Việt Nam đang tị nạn trên đảo này.

– Khác với cô, tôi sẽ không ở lại đây. Vì ở lại đây tôi cũng không giúp ích gì cho mọi người.

– Mỗi người một lý tưởng. Tôi không thể ép buộc anh sống như tôi.

– Thúy Hoa! Tôi khâm phục ý chí và nghị lực của cô.

– Những lời tán tụng nhau bây giờ đâu có ích gì.

– Tất cả những gì chúng ta nói với nhau chỉ là những lời tâm sự. Chỉ có những người đồng cảnh ngộ với nhau mới hiểu nhau thôi.

Lời nói của Thúy Hoa nghe thật xót xa:

– Phải! Chúng ta là những người đồng cảnh ngộ, là những kẻ trốn chạy mà sống kiếp lưu vong.

Bửu Sơn muốn nói lời gì để an ủi Thúy Hoa. Nhưng anh biết bây giờ có nói gì cũng vô ích mà thôi. Cả hai cùng ngồi lặng im nhìn ra biển xa mịt mùng.

Sóng biển vẫn vỗ ầm ập vào khe đá. Giữa đảo xa thăm thẳm không nhìn thấy đất liền, sóng biển là người bạn tri âm của họ.

Ngẫu hứng, Bửu Sơn kẻ vội dòng nhạc lên bãi cát. Lời hát của anh là tiếng lòng ngậm ngùi, thổn thức nỗi cô đơn của người ly xứ. Sóng biển là tiếng hát nức nở, nghẹn ngào hoài vọng cố hương.

Cả hai đã lắng nghe được nỗi lòng của nhau. Và đó cũng là nỗi lòng của tất cả những người đang sống kiếp đọa đày trên hoang đảo.

Trải qua mấy cuộc phỏng vấn, Bửu Sơn vẫn không có tên trong danh sách những người rời đảo vào đất liền. Bửu Sơn đã mất hết niềm tin và nghị lực của mình.

Thúy Hoa vẫn động viên anh:

– Anh vẫn còn cơ hội mà. Đừng vội nản lòng.

Bửu Sơn thở dài:

– Tôi đã chờ đợi quá lâu rồi. Tôi không còn đếm được thời gian và không còn cảm nhận được những mùa xuân đi và đến nữa.

– Tôi nghe nói chỉ còn phỏng vấn một lần cuối nữa thôi. Sau đó những người còn lại sẽ được đưa trở về Việt Nam.

Bửu Sơn như hoảng loạn:

– Không! Tôi chưa thể về được.

– Anh không muốn về quê hương sao?

– Tôi sẽ về nhưng không phải là bây giờ. Tôi không thể về khi tôi chưa có sự nghiệp trong tay. Tôi không thể về với tấm thân tàn tạ và hai bàn tay trắng.

– Anh muốn sang Mỹ định cư lắm hay sao?

– Đã bước đi ai lại muốn quay trở lại khi ước nguyện chưa thành?

– Tôi nghĩ anh nên nói thật về nhân thân của mình. Nghe nói bên ấy người ta rất trọng vọng giới nhạc sĩ và nghệ sĩ. Họ muốn dùng người Việt hoạt động trên lãnh vực văn hoá để tác động đến tâm lý của người Việt.

Bửu Sơn tư lự:

– Như thế mình có bị họ lợi dụng hay không?

– Lợi dụng hay không thì qua bên đó mình sẽ tính sau. Bây giờ mình chỉ cần đạt được mục đích thôi.

– Thúy Hoa! Cô có cùng đi với tôi hay không?

Thúy Hoa im lặng. Bửu Sơn thuyết phục cô:

– Thúy Hoa! Tôi biết cô đang sống cho lý tưởng nhân đạo của mình. Nhưng đây là chuyến cuối cùng rồi, những người còn lại sẽ được trả về Việt Nam. Cô ở lại đây cũng chẳng làm gì.

Suy nghĩ một lúc, Thúy Hoa gật đầu:

– Tôi sẽ nghe lời anh. Chúng ta cùng đi.

Như thêm sức mạnh vì có được đồng minh, Bửu Sơn hồ hởi:

– Thúy Hoa! Chúng ta cùng đi nhé.

Thúy Hoa gật đầu:

– Chúng ta lại bắt đầu thêm một cuộc lưu vong. Không biết là mình sẽ đến được nơi Thánh địa hay lại là một địa ngục của trần gian.

– Chân cứ bước đi rồi nơi mình đến ra sao thì sao? Cứ phó mặc cho định mệnh.

Bây giờ cả hai chỉ biết chờ ở định mệnh mà thôi, ngày mai còn ở phía trước.

Có mấy ai biết được mà liệu lường.

Bửu Sơn bước chân trên đường phố Oa-sing-tơn bằng sự ngỡ ngàng thất vọng. Cuộc hành trình từ Việt Nam sang Mỹ kéo dài suốt năm năm. Năm năm qua anh đã nếm tất cả những cay đắng, xót xa. Bây giờ đã đến đích. Bửu Sơn muốn tìm cái hương vị ngọt ngào của miền đất khách. Nhưng anh đã hoàn toàn thất vọng. Ở đây ngọt ngào đâu không thấy. Anh chỉ tìm ra chất đắng, chất chua là hương vị tối cao của cuộc sống hiện tại.

Thúy Hoa được nhận vào làm việc ở một trại điều dưỡng. Chia tay nhau, Thúy Hoa bùi ngùi:

– Mong rằng anh sẽ tìm được hạnh phúc trong lý tưởng của mình.

– Thúy Hoa! Mong Hoa cũng thế. Hãy quên tất cả đi để bước một bước sống mới cho cuộc đời mình.

Thúy Hoa dặn dò:

– Anh nhớ giữ gìn sức khỏe nghe.

– Em cũng vậy Thúy Hoa.

– Tạm biệt anh!

Bửu Sơn tìm đến hội nghệ sĩ trong cộng đồng người Việt, anh mong tìm chút niềm vui trong âm nhạc. Nhưng rồi anh cũng hoàn toàn thất vọng. Dòng nhạc dân gian, đậm nét trữ tình đầy chất thơ ca lãng mạn của anh không được giới trẻ hoan nghênh. Họ chỉ thích những giai điệu quay cuồng sôi động, lôi cuốn mà thôi.

Nguồn cảm hứng trong anh bị dập tắt. Bửu Sơn lao vào các hoạt động xã hội để tìm sự bình yên trong tâm hồn mình. Bửu Sơn sống như một người đã lỡ đà.

Anh tự thu bóng của mình để sống.

Nắm bắt nhịp sống của xã hội, Bửu Sơn nhanh chóng hòa nhập vào trào lưu mới. Anh bắt đầu làm việc. Bửu Sơn xin được một chân đánh đàn ở một vũ trường.

– Anh mới vào đàn ở đây à?

Một ca-ve lai Tàu bước lại gần anh hỏi. Bửu Sơn gật đầu chào hỏi lại:

– Em phục vụ ở đây lâu chưa?

– Lâu thì không lâu, mau thì không mau.

Giọng phớt lờ của cô gái làm Bửu Sơn để ý:

– Thế là sao hả?

– Thời gian không quan trọng. Chỉ làm cho hết ngày tháng thôi. Cuộc sống về đêm mà. Chúng ta đến với nhịp sống khác thường, gia cảnh không ai giống ai. Nhưng có điều rất chung là ai cũng vì cuộc sống cả.

Bửu Sơn không nói gì. Bởi anh đã hiểu và thấm thía sâu xa cuộc sống này.

Không khí của vũ trường như một vũ trụ mù sương. Với khói thuốc quyện ảo ảnh của đèn màu, tiếng kèn, tiếng nhạc.

Khác với Thúy Hoa, người con gái này làm anh xúc động bởi cùng cảnh ngộ với nhau. Cô phục vụ cho khách nhảy, anh thì tạo âm thanh. Cả hai cùng là người đem sức lực của mình dành cho khách mua vui thôi.

– Em tên gì.

– Dạ Hương!

Dạ Hương có gương mặt trái xoan đầy đặn. Mái tóc dài đen mượt mềm mại xõa xuống bờ vai. Trái tim Bửu Sơn chợt nhói đau. Hình ảnh Cẩm Tiên hiện lên trong anh. Trái tim anh dường như muốn nghẹt thở, ruột đau thắt từng cơn.

– Anh ơi! Anh làm sao vậy?

– Không! Anh không có sao cả. Anh không sao ...

– Anh nhớ nhà hả?

Bửu Sơn nhắm mắt lại để kiềm chế sự xúc động trong lòng mình. Câu hỏi của cô gái càng xoáy vào lòng anh một nỗi đau. Hiểu được nỗi niềm của kẻ sống ly hương, Dạ Hương an ủi:

– Chúng ta ai cũng thế. Ai cũng mang nặng nỗi thương tâm của kẻ rời quê hương sống kiếp lưu vong. Nhưng chúng ta vẫn phải giấu kín niềm đau ấy. Trốn cái lạnh rét buốt của thịt da, trốn cái vắng đến đìu hiu để sống. Sống để chờ một ngày được hồi cố quốc.

Bửu Sơn nhìn Dạ Hương. Một người con gái đầy tự tin, có những suy nghĩ riêng đầy bản lĩnh trong cuộc sống. Bửu Sơn thầm nghĩ:

– Người ta là con gái mà người ta còn có thể can đảm đứng lên trong cuộc sống. Còn mình thân là nam nhi đại trượng phu, chẳng lẽ lại ủy mị, thường tình thua con gái hay sao?

– Anh nghĩ gì vậy?

Bửu Sơn mỉm cười trả lời Dạ Hương:

– Anh nghĩ mình phải sống thế nào để không phải cúi đầu tủi nhục với chính mình. Không phải sống hoài sống phí một kiếp người.

Họ như một đôi bạn thân, quý mến nhau, trân trọng nhau trong tình cảm và trong công việc. Nhưng họ chỉ dừng lại ở đó thôi. Trong anh, Cẩm Tiên mãi vẫn là hơi thở là cuộc sống. Anh sẽ về quê hương để tìm lại cuộc sống và hơi thở của chính mình.

– Cẩm Tiên ơi! Anh sẽ về! Anh sẽ về với em với quê hương mình.

Ông Bửu Sơn nói một mình như một lời tạ tội:

– Cẩm Tiên ơi! Hãy tha lỗi cho anh. Lời hẹn ấy anh đã không thực hiện được. Anh phải sống lưu vong trên đất khách suốt một thời thanh xuân. Đến khi trở về đây được thì sương đã điểm trắng mái đầu. Anh đã về nhưng lại không dám đến để tìm em. Anh đang đứng đây trên mặt nước Đông Hồ ngày nào mà đợi em. Em hãy đến đây đi Cẩm Tiên.

– Bửu Sơn! Có phải là anh đã về đó không?

Một giọng nói quen thuộc mà bao năm tháng vẫn còn như ngày ấy vang lên.

Bửu Sơn quay lại. Trước mặt ông một thiếu phụ với đôi mắt rưng rưng ngấn lệ.

Đôi mắt tinh anh ngày nào giờ đã nhuốm một màu vàng như mặt nước chiều thu. Mái tóc dài óng ả ngày nay cũng nhuốm bạc với thời gian.

Ông bàng hoàng gọi:

– Cẩm Tiên! Đúng là em rồi!

Bà Tiên cũng xúc động. Bà không ngờ sau hai mươi lăm năm xa cách bà còn được gặp lại ông.

Giọng bà Tiên nghe xót xa:

– Tôi đã không còn là một Cẩm Tiên của ngày nào. Thời son sắt đã đi qua.

Tôi chỉ là một chiếc lá sắp rơi xuống theo cơn gió của một buổi chiều cuối thu.

Cẩm Tiên đã đem hết tuổi thanh xuân của mình để chờ đợi một người, một người đi không có một lời từ giã.

Nghe bà Tiên nói, mắt ông Bửu Sơn lóng lánh niềm vui:

– Cẩm Tiên! Em nói thế có nghĩa là bao năm nay em vẫn còn chờ đợi anh phải không?

Bà Tiên lắc đầu:

– Không phải!

Ông Bửu Sơn cúi đầu:

– Khi trở về đây anh đã liệu tình huống này rồi. Anh đã sẵn sàng chấp nhận nỗi đau mất em. Cẩm Tiên! Anh không trách em đâu.

Bà Cẩm Tiên im lặng không nói gì ...

– Anh làm sao mà có thể trách em được. Bởi vì khi xưa anh đã làm kẻ phụ phàng bỏ em mà ra đi. Thì giờ đây anh phải chấp nhận làm kẻ đau thương đứng bên lề đường nhìn hạnh phúc của em.

– Anh nói cái gì mà lạ vậy? Cái gì mà đứng bên lề đường nhìn hạnh phúc của em chứ?

– Chứ em đã có gia đình rồi thì anh biết làm sao?

– Ai bảo với anh là em có chồng rồi hả?

– Không lẽ em không chờ đợi anh mà không có chồng?

– Em bảo là không chờ đợi anh lúc nào hả?

– Thì em mới nói là không phải.

– Không phải là một mình em chờ đợi anh mà là có một người cùng chờ đợi anh.

Bửu Sơn ngạc nhiên:

– Ai? Ai biết anh mà chờ đợi hả?

– Là con của chúng ta.

– Con của chúng ta?

Bà Tiên gật đầu:

– Phải! Có một con người đã cùng em chờ đợi anh suốt hai mươi lăm năm rồi. Đó là con của chúng ta đó.

Ông Bửu Sơn lắc nhẹ vai bà Cẩm Tiên:

– Em nói sao? Chúng ta có con à?

– Phải! Em mang thai nó lúc anh ra đi. Và em đã mang nặng niềm đau đó cho đến bây giờ để chờ đợi anh về.

– Con của chúng ta? Tôi có con sao? Tôi đã được làm cha mà tôi không hay biết. Tôi thật là một người cha tồi tệ mà, không biết là khi gặp tôi nó sẽ nghĩ như thế nào? Nó có thông cảm cho sự vô tình của tôi không?

Rồi ông quay sang bà Cẩm Tiên:

– Con của chúng ta, nó là trai hay gái hả?

– Là con trai.

Ông Bửu Sơn mừng rỡ:

– Là con trai. Con của tôi là con trai. Tôi thật là hạnh phúc mà tôi không biết.

Nó đang ở đâu Cẩm Tiên, anh muốn gặp nó.

– Nó không ở nhà.

– Nó đi đâu? Tại sao em không quản lý con để nó đi lang thang không có ở nhà chứ?

– Anh nói cái gì mà lang thang chứ?

– Vậy nó đi đâu? Em nói nhanh đi Cẩm Tiên?

– Nó đã tốt nghiệp đại học Hàng hải. Hiện nó đang là thủy thủ trên chuyến tàu viễn dương.

– Sao em lại chọn cho con mình cái nghề lênh đênh đó?

– Em có chọn đâu. Đó là do lý tưởng của nó. Chắc nó giống anh không thích ở nhà mà chỉ thích phiêu lưu thôi.

Ông Bửu Sơn nhìn bà âu yếm:

– Cẩm Tiên! Chua chát với anh chi vậy Cẩm Tiên?

Bà Cẩm Tiên nói như trách:

– Chỉ một lời nói thôi đâu có nghĩa lý gì so với hai mươi lăm năm em cô đơn vò võ một bóng mà chờ đợi anh.

– Cẩm Tiên! Em đã cho anh một hạnh phúc thật bất ngờ. Anh không biết phải làm gì để đáp tạ tấm chân tình và sự hy sinh cao cả của em. Anh chỉ mong được vì em và vì con mà sống hết quãng đời còn lại.

– Anh không đi nữa sao?

– Anh biết mình đã sai lầm khi bước chân ra đi. Hãy cho anh một cơ hội sửa chữa sai lầm của mình.

Bà Cẩm Tiên lo lắng:

– Em thì lúc nào cũng yêu thương, cũng sẵn lòng tha thứ cho anh tất cả.

Nhưng ...

Ông Bửu Sơn hồi hộp:

– Sao hả em?

– Không biết Đông Hồ sẽ nghĩ gì, không biết nó có chấp nhận sự hiện diện của anh hay không?

– Nó tên là Đông Hồ à?

– Em đã đặt tên nó là Đông Hồ để mãi nhớ về anh.

– Anh tin rằng nó sẽ hiểu và tha thứ cho anh.

– Anh đang ở đâu?

– Anh đang ở nhà một người quen ở gần đây.

– Tạm thời anh hãy ở đó. Đợi Đông Hồ về, em sẽ giải thích cho nó hiểu.

– Anh sẽ chờ em. Chờ được gặp mặt con của chúng ta.

– Em hiểu nỗi lòng của anh. Cũng như em, em chờ đợi phút trùng phùng này lâu lắm rồi.

– Cẩm Tiên! Anh đã làm cho em đau khổ suốt một thời thanh xuân. Anh xin được đền bù lại cho em những mất mát, đau thương đã đi qua.

– Bửu Sơn! Em vô cùng hạnh phúc khi được sống chung với anh và con.

Bà Cẩm Tiên nép đầu vào ngực ông. Ông Bửu Sơn siết chặt vòng tay ôm lấy người vợ mà trong quá khứ ông đã vô tình bỏ quên họ.

Cơn gió chiều nhẹ lắt lay làm xao động mặt nước Đông Hồ:

– Mẹ!

Cả hai rời nhau khi nghe tiếng Đông Hồ bàng hoàng gọi. Đông Hồ lao đến bên mẹ:

– Mẹ! Tại sao mẹ lại làm như thế hả?

Bà Cẩm Tiên kêu lên:

– Đông Hồ! Con nghe mẹ nói! Con đừng có hiểu lầm mẹ ....

– Mẹ ơi! Con cũng muốn đây là sự hiểu lầm. Nhưng con không thể nào làm được khi chính mắt con thấy mẹ đã để cho một người đàn ông xa lạ ôm mẹ trong tay.

– Đông Hồ! Con ...

Ông Bửu Sơn tha thiết gọi. Đông Hồ tức giận nói:

– Ông im đi! Ông không có tư cách gọi tên tôi. Tôi oán ghét ông lắm. Ông đã làm mất đi hình tượng cao quý đẹp đẽ của mẹ tôi trong lòng tôi. Tôi ghét ông lắm. Tôi ghét ông lắm.

Bà Cẩm Tiên nói trong nước mắt:

– Đông Hồ! Con không được xúc phạm đến người đàn ông này.

– Tại sao? Tại sao con phải giữ lễ độ với một người đã phá đi danh tiết của mẹ chứ? Tại vì ông ta mà mẹ đã đánh mất đi đức độ và tiết hạnh của mình.

– Đông Hồ! Con không được xúc phạm mẹ con. Bởi vì mẹ con là một người hiền, cao cả. Đã hy sinh cả thời thanh xuân của mình để nuôi dạy con thành nhân.

– Tôi lúc nào cũng khắc cốt ghi tâm điều này. Tôi nguyện sẽ hết lòng chăm sóc, lo lắng, cho mẹ tôi lúc tuổi già. Nhưng tuyệt đối tôi không chấp nhận chuyện mẹ tôi phản bội vong linh của cha tôi.

Ông Bửu Sơn mỉm cười:

– Con thương cha con lắm sao?

Đông Hồ có vẻ tự hào:

– Cha tôi là một nhạc sĩ, dù cha tôi đã chết. Từ bé thơ tôi chưa bao giờ gặp mặt cha. Nhưng tôi luôn yêu kính và tôn thờ người.

Nước mắt của Bửu Sơn rơi rơi:

– Ta hạnh phúc quá. Ta hạnh phúc vì mình có một người chí hiếu như con.

Đông Hồ ngạc nhiên:

– Ông! Ông nói thế là sao?

Ông Bửu Sơn dang rộng vòng tay:

– Đông Hồ! Cha là cha của con đây, cha về đây để tìm lại mẹ con của con.

Con hãy đến với cha đi Đông Hồ.

Đông Hồ sau phút ngỡ ngàng cũng lấy lại bình tĩnh:

– Không! Ông không phải là cha của tôi. Cha của tôi đã chết rồi.

– Không! Cha vẫn còn sống. Ngày xưa vì một phút nông nổi, tuổi trẻ có những suy nghĩ lệch lạc về cuộc sống. Ba đã bỏ quê hương ra đi. Nhưng ba không hề biết có sự hiện diện của con.

– Nếu ngày xưa ông đã không biết thì bây giờ ông hãy coi như mình không có. Ông còn trở về đây tìm kiếm làm gì?

– Đông Hồ! Con hãy cho ba có một cơ hội chuộc lại lỗi lầm của mình. Cha xin con! Con đừng phủ nhận một thâm tình.

Đông Hồ quay sang mẹ:

– Mẹ! Mẹ nói đi. Đây không phải là cha của con. Cha của con đã chết rồi.

Bà Cẩm Tiên nghẹn ngào:

– Đông Hồ! Con đừng quá kích động, mà có những lời làm tổn thương cha con.

– Mẹ nói như vậy là ...

– Đây là cha của con. Con thường thắc mắc là tại sao cha của con chết mà mẹ không thờ di ảnh? Vì mẹ biết cha con vẫn còn sống. Và mẹ đã chờ đợi phút giây này. Con hãy đến mà nhìn nhận cha con.

Đông Hồ nhìn ông Bửu Sơn. Hình ảnh của quá khứ bỗng hiện lên trong đầu anh, một tuổi thơ cùng cực sống bên nỗi nhọc nhằn của mẹ. Đông Hồ từng mơ ước có một người cha, nhưng anh chỉ có thể chấp nhận người cha đã chết, vì chỉ có cái chết mới có thể bỏ rơi được núm ruột của mình. Còn người cha này đã nhẫn tâm bỏ rơi anh từ lúc còn trong bụng mẹ. Không! Tuyệt đối anh không thể chấp nhận được.

Đông Hồ phẫn uất kêu lên:

– Không! Ông không phải là cha của tôi!

Bà Cẩm Tiên nghẹn ngào:

– Đông Hồ! Mẹ phải nói làm sao thì con mới chịu hiểu hả?

– Mẹ! Ông ấy không xứng đáng với sự hy sinh của mẹ. Trong khi mẹ đau khổ phải một mình vượt cạn, phải một mình lặn lội thân cò nuôi con. Thì ông ta bỏ đi, ông ta một mình tự tìm cho mình một thiên đàng. Đến bây giờ ông ta trở lại tìm chúng ta để làm gì? Con không cần sự ban bố đó của ông ta.

– Đông Hồ!

Nước mắt ông Bửu Sơn rơi dài:

– Cẩm Tiên! Hãy để cho con nó nói đi em. Vì đó là nỗi uất hận của một đứa trẻ bị cha mình bỏ rơi. Và anh, anh phải hứng chịu những lời nguyền rủa của con như một hình phạt cho sai lầm của mình.

Bà Cẩm Tiên nói trong đau khổ:

– Tại sao chúng ta lại phải tự giày vò nhau như thế? Mình là những người thân của nhau mà. Đông Hồ! Con nên suy nghĩ kỹ lại đi con.

Giọt nước mắt của mẹ đã làm dịu đi nỗi uất hận trong lòng của Đông Hồ:

– Mẹ! Con xin lỗi mẹ. Con đã làm cho mẹ buồn. Nhưng chuyện này đến với con bất ngờ quá, nhất thời con chưa có chuẩn bị tâm lý để chấp nhận được. Con cần có thời gian suy nghĩ xem mình nên làm thế nào cho đúng.

Ông Bửu Sơn nhìn con trai thông cảm:

– Đông Hồ nó nói đúng đó em à. Anh sẵn sàng chấp nhận tất cả. Dù con đối xử với anh thế nào anh cũng vui. Bởi vì anh có được một đứa con. Anh đã biết được cảm giác của một người làm cha như thế nào rồi. Cảm giác ấy tuyệt vời làm sao.

Ông quay sang Đông Hồ:

– Đông Hồ! Dù con có chấp nhận cha hay không, cha xin con hãy cho cha nói một lời.

Đông Hồ lặng thinh tỏ ý sẵn sàng nghe ông nói. Ông Bửu Sơn nghèn nghẹn lời:

– Đông Hồ! Cha rất hạnh phúc và tự hào khi có một đứa con trai như con.

Đông Hồ nhìn ông. Trong mắt ông là một biển trời thăm thẳm của tình phụ tử. Anh muốn ào đến ôm chặt ông vào lòng mà nức nở gọi hai tiếng:

– Cha ơi!

Nhưng có một cái gì đó như chặn ngang lời nói, một bức tường thành nào đó ngăn lối rẽ đường, Đông Hồ cúi đầu nghe mắt mình cay cay:

– Cám ơn ông!

Đông Hồ quay lưng bỏ đi. Bà Cẩm Tiên nhìn ông Bửu Sơn rồi an ủi:

– Rồi con sẽ hiểu anh thôi.

Ông Bửu Sơn không nói lời nào dù rất đắng cay nhưng ông đã nếm được vị ngọt của tình thâm. Ông sẽ chờ, chờ ngày Đông Hồ gọi ông hai tiếng:

– Cha ơi!

Tiểu Du sốt ruột nhìn ra bầu trời dần dần tối sẩm. Từ chiều đến giờ không biết bà Tiên đi đâu mà đến tối vẫn chưa thấy về. Cô lẩm bẩm:

– Quái lạ! Dì Tiên đâu có bao giờ đi đâu tối thế này! Không biết dì có chuyện gì hay không?

Và dù Tiểu Du có muốn kiếm bà thì cũng không biết kiếm ở đâu.

Tiểu Du cứ hết đi ra rồi lại đi vào. Lòng cô nôn nao, lo lắng:

– Tiểu Du!

Tiểu Du giật mình quay lại. Cô nhận ra Minh Khuê. Tiểu Du ngạc nhiên hỏi:

– Minh Khuê! Anh đi đâu giờ này hả? Anh không sợ ....

– Chúng ta đàng hoàng nói chuyện với nhau, có gì đâu mà sợ. Tiểu Du có cần phải lo lắng thái quá như vậy không?

– Nhưng bây giờ dì Tiên không có ở nhà.

– Không có ở nhà thì càng tốt. Anh muốn nói chuyện riêng với Tiểu Du thôi.

Tiểu Du nhận ra Minh Khuê đang có hơi men trong người. Nhìn trước nhìn sau vắng vẻ, Tiểu Du càng thêm lo lắng:

– Minh Khuê! Hình như anh đã uống rượu phải không?

Minh Khuê cười nhạt:

– Uống rượu thì sao chứ? Anh muốn nhờ một chút rượu để có thể nói được và làm được những gì mình muốn.

– Minh Khuê! Anh đừng làm em sợ!

– Anh đáng sợ lắm sao Tiểu Du?

– Không! Không! Ý em không phải thế.

– Tiểu Du! Em đừng biện minh để an ủi anh. Nếu anh không đáng sợ thì tại sao em lại không yêu anh hả?

– Em không biết nói thế nào. Nhưng xin anh hãy hiểu cho em.

Minh Khuê bỗng la hét:

– Anh hiểu cho em? Nhưng tại sao không ai hiểu cho anh hết? Không ai chịu hiểu cho anh hết ...

Minh Khuê bỗng gục khóc như đứa trẻ. Bức xúc trước tình cảnh của Minh Khuê, Tiểu Du bước lại gần anh an ủi:

– Minh Khuê! Anh đừng làm thế mà ...

– Tiểu Du!

Minh Khuê ôm chặt lấy Tiểu Du. Bất ngờ, Tiểu Du không thể né tránh. Cô đã bị Minh Khuê ghì thật chặt. Tiểu Du van vỉ:

– Minh Khuê! Buông em ra đi Minh Khuê. Anh đừng làm như thế mà.

Minh Khuê áp chặt đôi môi mình lên mặt Tiểu Du. Anh nói như van xin:

– Tiểu Du! Đừng bỏ anh. Hãy yêu anh đi Tiểu Du!

– Buông em ra đi! Anh đừng làm thế mà Minh Khuê.

Minh Khuê như điên cuồng trong cơn say. Tiểu Du càng run rẩy, van vỉ. Anh càng siết chặt hơn:

– Tiểu Du! Anh không buông em đâu. Bởi vì nếu anh buông em ra, anh sẽ vĩnh viễn mất em. Tiểu Du!

– Tiểu Du!

Tiểu Du đang cố vùng vẫy để thoát khỏi vòng tay thô bạo của Minh Khuê, bất chợt tiếng thét của Đông Hồ khiến Tiểu Du bàng hoàng. Minh Khuê cũng nới lỏng vòng tay mình ra. Tiểu Du lao đến bên Đông Hồ:

– Đông Hồ! Anh đừng hiểu lầm. Không phải là ...

Đông Hồ nói như thét:

– Đừng nói nữa! Có nhiều sự thật khiến tôi quá ngỡ ngàng. Tôi không biết mình phải nghe ai và tin ai nữa.

– Đông Hồ! Anh hãy nghe em giải thích đi!

– Trong giây phút này tôi không muốn nghe một lời giải thích nào cả.

Hải Như nói như khinh thị:

– Chuyện đã rành rành như thế rồi cô còn giải thích thế nào nữa chứ. Đừng nói anh Đông Hồ, chính tôi còn không ngờ cô có thể hành động như thế. Đã có người yêu rồi mà còn muốn chiếm lấy Đông Hồ nữa.

Tiểu Du ngạc nhiên:

– Hải Như! Tại sao cô cũng có mặt ở đây nữa?

– Đã làm chuyện xấu mà sợ người khác biết hay sao?

– Không! Tôi không làm điều gì trái với lương tâm và đạo đức của mình. Tôi không sợ gì ai gièm pha, dị nghị cả.

– Không sợ! Không sợ mà cứ đeo theo Đông Hồ giải thích mãi vậy?

– Vì thật sự tôi và anh Minh Khuê không có quan hệ gì cả.

– Không có quan hệ gì với nhau tại sao lại ôm nhau cứng ngắt như thế?

– Tôi ... tôi ...

– Không giải thích được phải không?

– Đủ rồi! Các người đừng nói nữa!

Minh Khuê nói như thét:

– Tại tôi! Tại tôi tất cả. Tôi đã làm hại Tiểu Du rồi.

– Anh nói sao? Anh và cô ấy kẻ đánh trống người thổi kèn. Làm sao chúng tôi có thể tin các người cho được?

Tiểu Du rưng rưng nước mắt:

– Đông Hồ! Anh có tin em không?

Đông Hồ nhìn Tiểu Du. Trong lòng anh dậy lên bao suy nghĩ:

“Có lẽ nào người con gái nhân hậu, thủy chung này lại phản bội anh”? Hình ảnh cô bé năm nào vỗ về anh trong hoàn cảnh khốn khó lại hiện lên ...

– Không! Tiểu Du! Em không thể hành động như thế được Tiểu Du. Em không thể là một kẻ một dạ hai lòng. Em không thể là một kẻ phản bội được, Tiểu Du. Nhưng ...

Đông Hồ nhớ lại hình ảnh vừa xảy ra trước mắt anh. Anh phẫn nộ:

– Tiểu Du! Anh muốn tin em lắm nhưng không thể nào được Tiểu Du ơi. Em thật là tàn nhẫn với anh.

– Không! Đông Hồ! Em ...

Đông Hồ đưa tay ngăn Tiểu Du:

– Em đừng nói nữa Tiểu Du. Hãy để anh khép chặt nỗi đau vào lòng mà chúc cho em hạnh phúc.

– Không! Đông Hồ!

Hải Như xen vào:

– Anh Đông Hồ đã nói thế thì cô đừng nói nữa. Cô đã có hạnh phúc của mình thì hãy để cho anh ấy tìm hạnh phúc cho mình.

Tiểu Du cầm tay Đông Hồ:

– Đông Hồ! Tại sao anh không chịu nghe em giải thích chứ?

Đông Hồ gỡ tay Tiểu Du:

– Tiểu Du! Hải Như nói đúng đó. Chúng ta chia tay nhau đi. Mỗi người hãy tự đi tìm lấy hạnh phúc cho chính mình.

– Đông Hồ!

Hải Như nói như khích bác:

– Cô không nghe anh ấy nói hay sao? Cô nên giữ cho mình một chút tự trọng. Cô là một nhà giáo mà, nên giữ chút tư cách cho mình.

Tiểu Du phản đối mạnh mẽ:

– Hải Như! Cô có quyền đánh giá cá nhân tôi! Cô không có quyền được xúc phạm đến danh nghĩa nhà giáo của chúng tôi.

– Cô muốn bảo vệ nhân phẩm của nhà giáo thì cô biết mình cần phải làm gì rồi.

Tiểu Du nhìn Đông Hồ:

– Đông Hồ! Anh đã nói thế thì em cũng phải chấp nhận sự chia tay này. Có thể anh nghĩ là em không còn xứng đáng với anh. Nhưng với tâm hồn em, em luôn trong sáng với tình anh.

Đông Hồ quay mặt khoát tay:

– Đừng nói nữa! Tôi không muốn nghe thêm một lời nói nào nữa cả.

– Đã thế thì em còn biết nói gì nữa.

Tiểu Du nghẹn ngào:

– Đông Hồ! Em không thể nào ở lại đây mặc dù em không muốn rời xa dì Tiên. Em đi đây! Em đi để cho anh không còn gai mắt chướng tai nữa.

Đông Hồ lặng thinh mà nghe cõi lòng mình vụn vỡ. Lòng anh cũng đau thương tột cùng. Nhưng Tiểu Du ơi! Ai khiến xui hoàn cảnh quá bi thương này.

– Vĩnh biệt anh Đông Hồ.

Tiểu Du lao mình trong màn đêm. Hải Như khẽ mỉm cười hài lòng. Minh Khuê như tỉnh hẳn cơn say. Anh lao theo Tiểu Du gọi:

– Tiểu Du! Đứng lại Tiểu Du.

Tiểu Du vẫn băng mình chạy ra bờ biển. Minh Khuê hét vào mặt Đông Hồ:

– Anh là một thằng điên, có hạnh phúc mà không biết giữ! Tiểu Du có mệnh hệ nào, tôi sẽ không tha cho anh đâu.

– Anh nói thế nghĩa là sao? Không phải anh và Tiểu Du là ...

– Là sao? Cô ấy đâu có yêu tôi. Trong cơn say, tôi hồ đồ ôm chầm lấy cô ấy mà thổ lộ tâm tình thôi.

– Anh nói thật?

– Tôi nói dối anh thì có lợi gì cho tôi hả?

Hải Như kêu lên:

– Đông Hồ! Anh đừng tin những lời của anh ta!

Minh Khuê sừng sộ với Hải Như:

– Cô quả là một kẻ xấu xa, tại sao cô cứ muốn buộc tội Tiểu Du? Hay là cô muốn lợi dụng hoàn cảnh để tạo thủ đoạn mà chiếm đoạt tình yêu hả?

Bị Minh Khuê nói đúng ngay kẽ hở của mình nhưng Hải Như vẫn cố chống chế:

– Nè! Nè! Anh không được nói xấu tôi à nghe!

– Cô không xấu thì sợ gì bị người ta nói xấu chứ?

– Tôi không có thời gian hay sức lực đâu mà cãi vã với anh.

Minh Khuê tự nhiên thấy hào hứng với cuộc đấu khẩu này:

– Nhưng tôi có, tôi có rất nhiều thời gian và sức lực để vạch mặt một kẻ vì yêu rồi không được yêu mà trở thành người hèn mọn.

– Nè! Tôi báo trước anh không được xúc phạm tôi à nghe.

Minh Khuê càng đấu càng hăng:

– Nhưng tôi cứ thích thì sao?

Nghe trong người của Minh Khuê hừng hực hơi men, Hải Như sa sầm nét mặt:

– Không ai hơi đâu mà đi cãi vã với người say.

Minh Khuê ngất ngưỡng:

– Phải! Tôi đang say và tôi có thể làm những chuyện mà khi tỉnh tôi không bao giờ dám làm cả.

– Nè! Nè! Anh đừng có làm bậy nghe.

– Tôi có làm bậy hay không thì tùy vào thái độ của cô ...

Mặc cho hai người cãi vã với nhau, Đông Hồ bỏ đi ra bờ biển. Cùng một lúc anh phải chịu đựng hai sự kiện quá bất ngờ. Tâm lý anh không chịu nổi.

Tàu vừa cập bến anh vội vã chạy về để mong gặp mẹ, gặp Tiểu Du. Những tưởng niềm hạnh phúc sẽ nhân cao khi hội ngộ với người yêu. Nào ngờ, khi gặp mẹ được biết rằng mình còn cha. Nhưng người cha ấy đã bỏ rơi mình khi còn thai nghén. Cuộc trùng phùng này cũng đâu có ý nghĩa gì.

Gặp người yêu, thì người yêu đang nằm trong tay kẻ khác, thì còn đau đớn nào hơn.

Đông Hồ ngửa mặt lên trời kêu lên:

– Ông trời ơi! Sao ông bất công với tôi như thế hả?

Tiếng kêu của anh rơi vào khoảng không. Tất cả đều im lìm như không hề nghe lời kêu oán.

Tiểu Du vừa khóc vừa chạy dọc theo bờ biển. Bây giờ cô mới thấm thía được nỗi oan tình của người thiếu phụ trong tích truyện “Thiếu phụ Nam Sương”. Có miệng mà không thốt thành lời. Có lý mà không làm sao giải được nỗi oan tình của mình.

Lòng Tiểu Du bỗng tràn ngập nỗi sợ khủng khiếp khi nghĩ mình phải như người thiếu phụ ấy. Phải vùi thân trong lòng biển cả mà vẫn không giải được nỗi oan tình.

– Không! Mình không thể chết như người thiếu phụ ấy. Mình phải tỏ rõ nỗi oan cùng với Đông Hồ. Nhưng anh đã nhất định không nghe lời mình phân giải, biết phải làm sao đây? Đông Hồ ơi! Không lẽ anh không còn tin tưởng ở tình yêu chung thủy của em sao? Tiểu Du tuyệt vọng nhìn lên bầu trời, trời không trăng, sao dày đặc lấp lánh như những hạt lửa gieo trên nền trời đen. Biển vẫn tràn ngập một màu đen thẳm, không ai có thể hiểu cho tâm tình của Tiểu Du.

Tiểu Du lại cứ chạy, chạy như điên, như không hay biết điều gì. Đột nhiên cô thấy mình đang đứng trên bờ vách đá dựng đứng ven biển. Theo bản năng, cô dừng lại rồi ngồi thụp xuống. Lòng cô trống rỗng không còn một suy tưởng, một ý nghĩ nào cả.

Tiểu Du rên rỉ một mình:

– Mặt biển ơi sao người vẫn vô tình và lặng câm như thế? Ngươi vẫn như một lỗ hổng đen ngòm. Ngươi định nuốt chửng ta có phải không?

Tiểu Du bỗng cảm thấy mình run rẩy như một cánh buồm trước gió. Trong vực thẳm trước mắt, cô mơ hồ nhận ra tiếng sóng biển vẫn đập vào vách đá.

Trong cơn cùng cực của sự tuyệt vọng, Tiểu Du bỗng nức nở gọi lên:

– Mẹ ơi!

Tiếng gọi mẹ bỗng xuyên qua đầu óc cô. Cô như nhìn thấy mẹ khóc nức nở, thấy ba quỳ gối trước xác chết của cô. Trong một giây cô đã lượng được tất cả nỗi niềm đau khổ, tuyệt vọng của ba mẹ.

– Không! Mình không thể chết được. Mình phải vượt qua nỗi đau khổ này.

Mình còn phải sống, vì mẹ, vì ba.