Mở đầu

Mối lo ngại trong đế chế “Hatter Industries”

Trang sử từ Chicago

Thượng nghị sĩ thứ 101

Nhà Trắng

***

Có những bí mật không cho phép được tiết lộ… Hỡi ôi, đôi khi lương tâm con người đặt lên anh một gánh nặng tràn đầy kinh hãi đến nỗi chỉ có thể trút bỏ nó xuống mồ. Cho nên bản chất của mọi tội ác vẫn là điều bí mật.

EDGAR POE

Vào sáng sớm, chuông gọi cửa vang lê n trong căn hộ của tôi ở

Moskva. Trong nhà, ngoài tôi ra, không có ai cả. Tôi bực dọc đứng dậy rời bàn viết và tiến ra mở cửa.

ở đầu cầu thang, trong bóng tối lờ mờ của buổi sớm ảm đạm là một phụ nữ với cái túi xách to bằng da màu đen trong tay. Khuôn mặt gầy

gò, má hóp sâu và đôi mắt u uẩn như đã khóc nhiều. Người phụ nữ lạ khoác chiếc bành tô ngắn với đai thắt bằng da, cổ áo và cổ tay cũng

làm bằng thứ da mềm màu đen. Bà đi đôi ủng cao đến đầu gối, ống

rất hẹp, bằng da thuộc. Một đám mây đặc vô hình của loại nước hoa

ngoại nào đó bao quanh bà.

– Bà hỏi ai? – tôi hỏi.

– Chào ông. Ông hẳn là không nhận ra tôi?

Bà nói tiếng Nga với một chút giọng lơ lớ, phải tinh ý lắm mới nhận ra. Bà không xướng họ, cũng chẳng gọi tên tôi. Tôi nhìn vị khách buổi sớm này và vắt óc để nhớ xem tôi đã từng gặp bà ở đâu và vào lúc nào.

– Ông không nhận ra tôi cũng dễ hiểu thôi, – người phụ nữ vận đồ

đen nói, – chúng ta đã gặp nhau kể cũng đã hơn mười năm rồi. Và cũng chẳng phải chỉ tại thời gian…

Chúng tôi vào phòng ngoài. Tôi đỡ lấy chiếc áo bành tô của bà và đẩy cửa vào căn phòng to, rộng, sáng sủa.

– Xin mời bà vào!

Tôi nhìn kỹ bà khách dưới ánh sáng tự nhiên ban ngày và cảm thấy có lẽ mình đang dần dần đoán ra. Chẳng lẽ đó lại là Velga Rudolfovna, mẹ của anh bạn quen người Mỹ của tôi là Serge? Tôi đã gặp anh ở nơi xa lắc xa lơ đối với Moskva, ở Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Nhưng vào hồi đó Velga Rudolfovna, đang độ xuân sắc, hoạt bát, căng đầy nhựa sống. Hồi ấy bước đi của bà còn uyển chuyển, duyên dáng, trang phục của bà còn trắng và mỏng lướt như của cô dâu. Bây giờ bà

bị cùm trong bộ đồ đen.

Nỗi bất hạnh nào đã giáng xuống người đàn bà Mỹ vốn hạnh phúc kia? Bà để tang ai đó?

Bà ngồi khuỵu xuống mép đi văng, kéo cái gạt tàn lại phía mình,

rồi rút bao thuốc lá ra, bà hút và đi văng nhả khói thật sâu như những tay sành nghiện vẫn làm.

– Ông nhớ rồi chứ?…

– Vâng, thưa bà Velga Rudolfovna! Rất hân hạnh được gặp bà. Số phận nào run rủi bà ở chính ngay Moskva này? Bà không có ý định đến đây, bà vẫn nói thế cơ mà.

– Vâng, tôi vẫn nói thế. Nhưng kể từ hồi đó đã biết bao nhiêu thay đổi. Tôi còn lại có một mình. Tôi mất hết người thân rồi.

– Chồng bà đã mất?

– Thằng Serge nhà tôi không còn nữa. Người ta giết nó rồi.

– Khi nào vậy? Ai giết?

– FBI(1) đâm bất lực trong những trường hợp như thế. Hung thủ

cho đến giờ vẫn chưa tìm ra. Cái nước Mỹ đáng nguyền rủa của

Hoover(2) ! Tôi sẽ không trở về đấy nữa.

– Đầu đuôi chuyện ấy ra sao, thưa bà? ở đâu ạ?

– ở Niagara Falls. Ông còn nhớ cái thành phố nhỏ ấy?

– Tôi còn nhớ lắm chứ! Serge yêu thác Niagara lắm mà.

– Vâng, nó yêu lắm. Trong chuyến đi Niagara cuối cùng, nó có đến chỗ tôi và để lại những ghi chép của nó.

Bà nhấc cái túi to màu đen đang nằm trên sàn, dưới chân mình, lấy ra quyển vở dày và chìa cho tôi.

– Đấy! Ông đọc đi, rồi ông sẽ rõ tất cả.

Tôi cầm lấy quyển vở. Tôi có cảm giác nó nặng như cục chì.

– Serge bảo tôi chuyển cho ông nhật ký của nó, nếu như có chuyện

gì xảy ra với nó.

– Anh ấy đã thấy trước được cái chết của mình?

– Nó lúc nào cũng ở trong vòng nguy hiểm. Công việc của nó như thế. Tôi nhận được tin ngay sau khi nó chết. Có kẻ gọi điện cho tôi và bảo: “Con trai bà đã nhảy xuống vực Niagara”. Cái giả thuyết dối trá

đó được báo chí và cảnh sát vơ lấy. Serge yêu đời, nó không thể tự tử được. Người ta đã giết nó. Giọng của kẻ gọi điện cho tôi run run vì một nỗi vui sướng khó kìm. Không hiểu vì sao mà tôi chưa mất trí. Tôi chạy ra khỏi nhà, nhảy lên ôtô và phóng đi. Có đến cả trăm lần tôi suýt kẹt chết người. Cả trăm lần tôi có thể bị tan xác. Cảnh sát giao thông đuổi theo tôi. Thế mà tôi đã kịp đến! Người ta đã lôi Serge lên khỏi vực, nhưng chưa dám đem đi. Nó nằm ngay gần thang máy của tháp. Trên người nó còn đôi giầy rách nát, cái quần cũ, cái áo khoác

da thuộc, những miếng vá ở khuỷu tay và cái áo sơ mi trắng có cravat kiểu Nga, chính cái mà ông đã tặng nó khi đến thăm gia đình tôi. Ông còn nhớ chứ?

Velga Rudolfovna hút sang điếu thuốc mới. Nhưng bà quẳng nó ngay lập tức và khóc òa lên.

Sau một lúc, đã hơi bình tâm lại, bà lấy từ túi xách ra chiếc phong

bì to, hẹp:

– Cái này dính liền với ghi chép của nó đấy.

Bà lại khóc. Rồi lau nước mắt, bằng một giọng nhỏ nhẹ, chậm rãi khi dịch ra tiếng Nga, bà đọc bức thư cuối cùng của con trai, có lẽ nó được viết ra vài giờ trước khi chết:

“Mẹ thân yêu ơi, người bạn duy nhất của con! Con viết phòng trường hợp bất trắc, nếu có tai ương gì xảy ra với con. Tính mệnh con đang ngàn cân treo sợi tóc. Con có thể bị trừng phạt vì muốn kể cho mọi người nghe sự thật về Hatter và bè đảng của lão ta.

Ngay với mẹ, con cũng chưa nói gì về ý định của mình. Con không thể làm khác được. Tha lỗi cho con nhé, mẹ thân yêu. Chuốc lấy lo âu

và mạo hiểm, con đã chơi trò đi săn nguy hiểm và đã quay về với

“mảng da đầu” của ông Bạc tỉ trong tay. Mảng da đầu của Hatter là những ghi chép của con về những trò kinh doanh bí mật của lão ta, về những món tiền đẫm máu và bẩn thỉu, về những cái vòi thấy được và không thấy được vươn từ lão ta đến Nhà Trắng, Capitol(1) , Lầu Năm góc.

Những ghi chép này hình thành theo những dấu vết còn nóng hổi của các sự kiện, phần lớn là theo những cảm tưởng trực tiếp. Con chưa có dịp chọn lựa một cách bình thản những sự kiện thiết yếu nhất. Giá như con có thêm dù chỉ một tháng nữa, con sẽ sắp xếp lại,

bổ sung cuốn sách bằng những tài liệu sau chót, vạch mặt đến tận

cùng bọn chó chết hút máu người khác không tanh ở Lầu Năm góc. Hỡi ôi! Con thấp thỏm từng khoảnh khắc, khi mà bọn giết người được phái đến sẽ giật bút khỏi tay con.

Con đã quen với ý nghĩ rằng có thể phải đem đời mình ra trả giá cho dự định vạch bộ mặt thật của những kẻ quyền thế của thế gian này. Sự lựa chọn được làm có ý thức. Con không sợ chết. Con chỉ sợ một điều: Không thực hiện được ý tưởng của mình. Mẹ ơi, giúp con nhé! Mẹ hãy gìn giữ bản thảo này. Bằng mọi giá. Hãy chuyển nó cho… Mẹ cũng biết là cho ai rồi… Cho những người có thể đăng được nó.

Mẹ hãy nói với những người bạn của mẹ con mình là con đã cố nói

rất ít về mình, nhất la sau những phát súng ở Dallas, bởi vì con không viết tiểu sử bản thân mình. Nhân vật chính của cuốn sách là

lối sống Mỹ, sự tôn sùng đồng tiền, tôn sùng bạo lực và lăng mạ con người, sự tôn sùng thói nô lệ vừa được ngụy trang lẫn công khai, và

tôn sùng sự chém giết vì đồng tiền.

Velga Rudolfovna im lặng hồi lâu để lấy lại sức, bà lại hút thuốc và tiếp tục đọc:

– Con viết nốt dòng này dưới ánh sáng của một ngày mới bắt đầu. Con ngồi bên cửa sổ và xem những bông tuyết to hạt của lễ Giáng sinh đang rắc xuống và làm trắng dần thảm cỏ xanh, bụi cây xén và mặt đường nhựa đen. Ông già Noel(1) được làm bằng vải vụn gác lối

ra vào đã bạc trắng và nghiêm nghị ra. Cây cối bất động. Không có

bóng người. Không có một dấu vết nào trên tuyết mới. Một chú chim

đã chuyền cành, tỉa tót bộ lông sặc sỡ và líu lo điệu hót vui tươi. Thế

gian quả là đẹp trong giây phút bừng tỉnh. Con càng cảm thấy sâu sắc hơn bao giờ hết tuổi xuân của mình. Con muốn nghe tiếng gầm của Niagara. Con muốn đón mặt trời mọc ở đâu đó trên núi Đá tảng. Con muốn bước dọc những cồn cát Nevada. Con muốn cưỡi con Mustang(2) phi suốt nước Mỹ, từ Chicago đến Los Angeles. Nhưng hơn hết nữa, con muốn cảm thấy mình là một con người chân chính, không thuộc quyền của cả Lầu Năm góc, cả ông Bạc tỉ, cả bọn tay chân của lão ta. Làm kẻ bợ đợ cho những hòm tiền quả không thể nào chịu nổi. Thà vung gươm với kẻ thù, còn hơn đợi đòn đánh hậu đểu cáng của hắn.

Trên con đường trắng từ phía thành phố, đã hiện ra chiếc ôtô đầu tiên. Để lại sau mình vết đen, nó lăn bánh thẳng tới căn nhà của con

và dừng lại. Cửa trước của chiếc Mercury mở toang ra, một người vạm

vỡ, cao to trong chiếc áo da cổ lông nhảy xuống đất phủ đầy tuyết. Hắn là ai? Nhân viên Cục điều tra liên bang? Tên côn đồ trong đội tàng hình “Phụng sự thánh thần” của Batistini? Hay là kẻ đặc biệt tâm phúc của Mark trán to?

Thôi, có lẽ là hết. Con nhét bản thảo và lá thư cho mẹ vào chỗ bí mật.

Mọi sự q

qua rồi! Người áo da kia hoá ra là người đưa điện báo đêm.

Anh đem đến bức điện cấp tốc của mẹ chúc mừng con ngày lễ Giáng

sinh.

Cám ơn mẹ yêu quý. Trong lòng con thanh thản quá. Con cất bức điện vào túi gần nơi tim, và lên đường đến chỗ mẹ đón lễ Giáng sinh,

rồi sau đó đến thác nước. Ôi, nếu con hoàn thành nổi việc này!

Để đề phòng mọi sự, một lần nữa xin vĩnh biệt mẹ! Mẹ hãy sống thật lâu, thật lâu vào nhé. Chúc cho đời mẹ không còn phải thấy cảnh chém giết ở đất nước ta, ở Việt Nam và trên toàn thế giới. Mong sao cho những Tổng thống xa lạ với dân chúng, dù là hiện diện hay tàng hình sẽ không lọt vào Nhà Trắng nữa. Mong sao những chính phủ do dân và vì dân ở nước ta được thiết lập.”

Serge của mẹ. Niagara Falls. Sáng 25 tháng Chạp 1963.

“tuyệt mật”

Thế là tôi đã quyết: sẽ lên đường săn đuổi mảng da đầu của ngài Tỉ phú. Trong tay tôi không phải là khẩu súng săn có thước ngắm, cũng không phải khẩu súng tự động Brao- ninh, mà là một ngòi bút bình thường. Tôi có ý định viết mọi sự thật mà tôi nắm bắt được.

Chẳng cần kể lể dài dòng, do những nguyên nhân nào mà tôi đi đến quyết định này và làm điều đó khó khăn đến mức nào. Tôi không viết bảng xưng tội. Nhân vật chính của bản thảo này không phải là

tác giả của nó, mà là lối sống khét tiếng của chúng ta.

Trước tiên có vài lời dẫn giải về Serge Brooks.

Tôi sinh ra ở New York khoảng ba mươi năm trước. Được đặt tên

là Serge để tỏ lòng yêu kính ông nội tôi, người gốc Pháp. Bố mất khi

tôi còn nhỏ. Mẹ tôi là người di cư từ Latvia, đã tái giá và cư ngụ ở vùng lân cận thác Niagara, trong nhà của John Brooks, một nhà kinh doanh lớn. Tôi lớn lên ở đó. Đã tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Harvard.

Có bằng cử nhân văn chương. Chưa vợ. Trong giới làm ăn ở nước Mỹ,

tôi là người nổi tiếng và là tác giả của các tác phẩm bán chạy nhất: “Thời thơ ấu và thanh xuân của một tỉ phú tương lai”, “Nhà kinh doanh Harold Hatter”. Sách hợp khẩu vị kẻ đặt hàng, nên hắn đã mời

tôi về làm việc với tư cách là “ngòi bút riêng”, Tổng biên tập báo Texas

Sun (Mặt trời Texas).

Đám kinh doanh coi tôi là người của giới mình. Các văn sĩ và ký

g iả độc lập có tài thì khinh bỉ, gọi tôi là bầy tôi trung của đế chế

Hatter. Bọn bất tài và cầu danh lợi thì ghen tị với thành tích của tôi.

Cả hai loại người đó đều không hiểu tôi thật sự.

*

Như thường lệ, ngày làm việc của tôi bắt đầu không phải ở tòa

soạn Texas Sun, nơi mà tôi đáng lẽ phải có mặt trên cương vị Tổng biên tập, mà ở nơi an toạ riêng của một trong những dinh cơ của Hatter: ở Dallas, Washington, New York, bãi biển Miami, ở Niagara Falls hay trên đảo Lodge Palmos.

Mỗi buổi sáng, lão Bạc tỉ cho gọi tôi vào: lão muốn nghe tin tức mới, đọc cho tôi viết những thư từ giao dịch quan trọng nhất, theo quan điểm của lão ta, vào lúc đầu óc còn sảng khoái, mạn đàm những vấn đề hóc búa v.v…

Chúng tôi hiếm khi ngồi lâu một chỗ. Trong năm nhất là những khi thời tiết thay đổi đột ngột, chúng tôi lại chuyển đến ở những nơi

có khí hậu ấm áp ôn hòa hay tương đối mát mẻ. Hiện giờ ở Texas đang đẹp trời, nên chúng tôi sống ở Dallas.

Cái ngày, khi tôi quyết định bắt đầu cuốn sách của mình, còn in mãi trong tôi. Thường thì tôi tránh tự ý thò mặt ra trước cặp mắt Hatter, tức là những khi không có lời mời đặc biệt. Đúng tám giờ sáng hay muộn hơn một tí, khi tôi đã kịp liếc qua các tờ báo lớn buổi sáng, phân loại tin tức thế giới ra loại đặc biệt quan trọng và quan trọng vừa vừa, thì trong phòng tôi vang lên tiếng chuông điện thoại và Hatter gọi tôi lên tầng hai, nơi lão sống cô đơn một mình, và là nơi có những cửa sổ chấn song và cửa lên bằng những tấm vật liệu đạn xuyên không thủng.

Tin hôm nay quan trọng đến nỗi tôi dám vi phạm cái trật tự quy cũ

từ lâu và không đợi được gọi, tôi lao lên cầu thang với xấp báo số ra đặc biệt trong tay. Tôi chắc rằng sự đột nhập của tôi sẽ chẳng gây cho Hatter, sau khi lão biết chuyện, một sự cáu kỉnh hay ngạc nhiên nào.

Sự việc diễn ra đúng như vậy.

Dù đêm qua Hatter không ngon giấc, dù lão có khó ở đi chăng nũa,

dù có những lo toan đè nặng lên lão, dù lão có vội vã công việc đến thế

nào đi nữa, lão cũng không bao giờ quên lãng thái độ cư xử đối với tôi. Lúc nào lão cũng tỏ rõ sự chú ý, và chào hỏi một cách đôn hậu. Đã có thời, bằng cách đó lão đã chinh phục được tôi. Lúc này đây: lão bước ra đón tôi, chìa tay và mỉm cười:

– Chào tôn ông.

Tôi chẳng nhớ kể từ khi nào và tại sao lão lại gọi tôi như vậy. Dĩ nhiên tôi chẳng là tôn ông tôn iếc gì cả.

– Nào, có chuyện gì vậy.

Lão thường bắt đầu ngày làm việc với tôi bằng những lời như thế. Nhưng hôm nay, trong lời nói của lão, tôi cảm thấy có cái gì đó khác thường mang tính trọng thể mà hôm qua không thấy có và có thể ngày mai sẽ không gặp. Vẻ mặt lão thật đặc biệt. Còn giọng nói cất lên một cách hân hoan. “Lão biết hết rồi” – Tôi nghĩ và bắt tay vào nhiệm vụ của mình mà nỗi hưng phấn đã chìm đi rõ rệt. Tôi thông báo một cách hết sức vắn tắt những gì mà ở các báo New York Time (Thời báo New York), Washington Post (Bưu điện Washington) và các

báo khác phải chiếm đến vài trang.

– ở Sài Gòn, – tôi nói, – đã xảy ra đảo chính. Một hội đồng tướng lĩnh đã chiếm quyền lực. Tổng thống Diệm và giám đốc mật vụ Nhu bị bọn lính mang súng tự động giết chết khi định chạy trốn khỏi dinh Tổng thống đang bị bao vây.

Lão nghe tôi nói và gật đầu:

– Vâng, thưa tôn ông, tôi đã biết mọi chuyện từ vài giờ trước. Bạn

bè tôi ở Langley(1) đã gọi điện cho tôi. Tôi đã có thì giờ nghiền ngẫm

sự kiện này. Nên anh đừng ngạc nhiên trước sự bình thản của tôi.

Đâu chỉ là bình thản! Hatter, tay chơi poker máu mê, biết che dấu một cách tài tình những tình cảm và ý nghĩ của mình ngay cả đối với những kẻ thân cận, vậy mà cũng không kìm được nữa. Cả người lão toát lên sự vui sướng, lão cười hết cỡ và hỏi:

– Nào, thế báo chí của ta bình luận những sự kiện ở Việt Nam ra sao?

– Nhiều kiểu lắm. Washington Post chẳng ngại ngùng gì, gọi cố độc

tài là kẻ đứng đầu triều đại nhà Diệm, là kẻ độc đoán đã thối nát đến

xương tuỷ và đưa đất nước đến vực thẳm, và cho rằng bây giờ đã đến giai đoạn hồi sinh của nước cộng hoà. New York Time cũng giữ một

quan điểm tương tự, nhưng có rào thêm: dù sao Diệm cũng đã làm

không ít việc hữu ích cho Tổ quốc mình và cho chúng ta, những người

Mỹ. Suốt những năm dài, ông đã là người bạn chung thủy của chúng

ta. Và vẫn sẽ là người bạn, nếu như…

– Đến đây thì ông ta đã mất bay đi rồi, – Hatter ngắt lời tôi. – Còn

g ì nữa?

– Chicago sun (Mặt trời Chicago), với vẻ chỉ trích rõ rệt, lộ liễu nói bóng gió đến chuyện Washington có dính líu trực tiếp đến những gì xảy ra ở Sài Gòn. Và tờ báo nói ngay rằng, với việc sụp đổ của chế độ

gia đìn h trị Diệm và cái chết của ông ta, một pha chiến tranh mới đang mở màn ở Việt Nam: sự leo thang chiến tranh có quân đội Mỹ đông đảo trợ giúp. Đoạn cuối bài báo khẳng định: cuộc đảo chính ở Sài Gòn chỉ làm béo những kẻ sản xuất vũ khí cho lục quân Mỹ.

– Báo nói thẳng ra thế à?

– Vâng, đây ông xem.

Hatter đọc tờ báo, quẳng nó đi và cười khẩy.

– Những anh hàng thịt Chicago đang ghen tị với ta đấy mà.

– Sao mà không ghen tị cho được! – Tôi nói và báo cáo tiếp. – Tờ Globe (Địa cầu) Boston thì thận trọng: chẳng chửi cũng chẳng thương Diệm. Còn đây New York Herold Tribune (Diễn đàn thông tin New York) dành cho sự kiện Sài Gòn không chỉ bản tin tràng giang đại hải, mà còn có cả tiểu phẩm có minh họa nhan đề là “Nó đã được thực hiện như thế nào?”. Đây, ông ngẫm xem. Vẽ cả hình Kennedy.

Hatter nhìn tờ báo và phá lên cười:

– Không lẽ ông ta lại đáng sợ đến thế kia? Không giống. Không hề giống chút nào.

– Dẫu sao ông hãy đọc bài tiểu phẩm cái đã, ông Harold. Người viết

là kẻ biết rõ ngọn nguồn sự việc.

– Thế cơ à? Hay thật! Hừ, thằng đểu, nó cũng biết điều nọ điều kia đấy. Nhưng do đâu nhỉ? Ai đưa tin cho hắn? Làm sao hắn lại đánh hơi

được là ta có nhúng tay vào sự kiện này? Về cuộc gặp gỡ của tôi với

Phó Tổng thống Johnson sau khi ông đi Sài Gòn về, chỉ có ba người biết: anh, Mark và Arthur. Ai nhỉ?

– Có thể, ai trong số người của Johnson. Hay chính là Johnson.

– Không khác được. Thôi được. Tiểu phẩm là tiểu phẩm. Chẳng ai nghiêm túc tiếp nhận nó. Còn gì nữa?

– Trên các trang báo Philadelphia Inquirer (Người điều tra Philadelphia) thì có mấy nhận xét và tấm ảnh kê về cuộc sống phóng đãng của hai anh em kẻ bị giết, Tông thống và giám đốc mật vụ, về cách bài trí của dinh Tổng thống bị các lực lượng nổi dậy ném bom, về những thứ rượu cất giữ trong hầm rượu, những thứ quần áo trong

trong tủ

và lũ họ hàng thân thích nắm quyền.

– Những chuyện vớ vẩn đó tôi không quan tâm.

– Thế còn bài phỏng vấn người đẹp em dâu Diệm?

– Hừ, mụ ấy lảm nhảm những gì?

– Mụ ta cam đoan rằng biết chính xác kẻ nào, vì sao và theo lệnh ai

đã tiến hành đảo chính và giết Tổng thống. Mụ dọa sẽ vạch trần ra.

Hatter phẩy tay khinh bỉ:

– Cứ cho mụ ta cục tác. Mụ chả biết gì đâu. Hết rồi chứ?

– Vâng, chủ yếu là hết rồi. Còn lại là những tiểu dị thôi. Hatter tiến lại gần, đặt tay lên vai tôi:

– Thế nào, còn cái gì in trong lòng anh, hở tôn ông?

– Trong lòng tôi?

Đội ơn Chúa, khi tiếp xúc với Hatter, tôi còn chưa mất khả năng

đỏ mặt và lúng túng. Sếp của tôi nhận thấy điều đó và thỏa mãn cười

ngất:

– Nào, thổ lộ những tâm tư thầm kín ra đi, mỹ nương!

– Cái đó không hứng thú đâu, ông Hatter ạ.

– Sao lại không? Anh dù sao cũng là “ngòi bút riêng” của tôi mà.

– Vâng, là “ngòi bút” không hơn. Tôi ghi chủ yếu những gì ông đọc cho.

– ấy, ấy, đừng có giả vờ ngây ngô nữa. Anh vẫn thường sắp xếp lại

lời tôi theo ý mình. Và thành ra đơn giản và rõ ràng hơn. Nào, nói đi.

– Không, Hatter ạ, không đâu. Tôi đâu dám liều thi thố với ông. Tốt hơn là ông hãy nhìn vào lòng tôi và đọc ra những gì viết ở đó.

Lão lại phá lên cười với vẻ mãn nguyện rõ rệt:

– Cũng không đến nỗi ngốc. Chà, thưa tôn ông, cả tôn ông, cả những người khác đều không thể đọc được những gì in trong lòng tôi.

Cả tôi cũng thế. Có cái tôi nhìn thấy rõ, còn có cái thì phủ lớp mù dày đặc. Tôi chỉ có thể nói cho anh lúc này là tôi đặt nhiều hy vọng ở hội

đồng quân sự thay Diệm. Người của tôi đã tiếp xúc với họ. Vốn đã được đưa vào guồng quay. Ta sẽ đợi lái. Hãy khắc vào tâm khảm như

thế, tôn ông ạ. Nào, bây giờ thì cầm lấy bút ghi đi.

Hatter gõ gót giầy như ngựa gõ móng, sải bước dọc phòng từ cửa sổ này đến cửa sổ khác và tuôn ra bức thư cho người bạn và đồng hương

tốt nhất của lão. Kết quả của việc đọc của lão và việc ghi của tôi là thế

này:

“Tâm trí tôi luôn hướng về ông ngay khi nhận được mẩu tin mong mỏi từ lâu của bạn bè. Đã hoàn thành! Mọi cái diễn ra đúng như Ông muốn, như Ông đoán trước. Tôi còn nhớ kỹ câu chuyện dài của chúng

ta sau khi Ông từ đó trở về. Tôi khâm phục tầm nhìn xa, trí tuệ, sự hiểu biết của Ông về những gì cần phải làm vào chính những giờ khắc lịch sử này cho chính phủ ta và cho nước ta, nước hùng mạnh nhất, kiên quyết nhất, giàu có nhất và là nước duy nhất trên thế giới có khả năng bảo vệ nền dân chủ nói chung và lối sống của chúng ta nói riêng.

Nhân dịp vui sướng này, tôi gửi đến Ông những lời chúc mừng chân thành nhất, lòng yêu mến keo sơn và sự kính trọng sâu sắc của tôi. Tôi tin, hỡi bạn thân mến, rằng Ông từ nay về sau cũng “cứ thế

mà giữ”. Tôi gắn những hy vọng lớn lao với hoạt động hàng ngày của

Ông.

Ôm hôn Ông và chúc sức khoẻ”.

Hatter theo thói quen giữ bí mật, không hề nêu tên người bạn mình lấy một lần. Lão cũng chẳng để lộ cái gì cụ thể trong thư, chúc mừng bạn vì lý do gì và khâm phục cái gì. Nhưng kẻ đồng hương bạn lão, tất nhiên là sẽ hiểu cả.

*

Vào cuối buổi làm việc, khi tôi đã sắp rời tòa soạn, thì một người có khuôn mặt hẹp và cái mũi sắc tựa như dao bước vào phòng làm việc của tôi. Anh ta khép chặt cửa và tựa lưng vào nó, nhìn chằm chằm vào tôi bằng cặp mắt buồn bã và thông minh của một con chó không nhà. Anh ta hỏi, giọng khàn khàn, giận dữ:

– Ông là Brooks? Chủ bút tờ Texas Sun?

Tôi vội đi ăn, có thể thanh thản rũ bỏ vị khách bất ngờ này. Nhưng dẫu sao tôi đã không làm điều đó. Tôi im lặng, gật đầu và chỉ cho anh

ta chiếc ghế bành. Anh ta vận comple bằng phlanel xám sẫm, sơ mi trắng có cravat, trông rất chỉnh tề, vậy mà sao tôi vẫn có cảm tưởng

lùi xùi như chú gà chọi sắp lao vào cuộc đấu. Vai trò của chú gà kia dĩ nhiên là phần tôi.

Kinh nghiệm biên tập của tôi không nhiều, chỉ mới hai năm, tuy vậy qua thời gian ngắn đó, tôi đã học được cách phân loại ngay từ cái nhìn đầu tiên khách của Texas Sun ra các loại nguy hiểm và an toàn, chán ngấy và thú vị. Tay mặt hẹp, lùi xùi này, khỏi phải bàn, có vẻ gì

đó nguy hiểm. Trông hao hao như kẻ mất trí.

– Quả thế, thưa ông, tôi là Brooks, còn ông…?

Tôi ngồi xuống sau bàn, để tay lên nút tín hiệu báo động, và sốt ruột đợi hắn lao bổ vào tôi.

Hắn ngồi xuống ghế, lấy khăn to lau khuôn mặt đỏ húp lên và nói:

– Xin phép tự giới thiệu, thưa ông Brooks. Tôi là Robert Thomson,

thành viên ủy ban chống chiến tranh Việt Nam.

– Xin lỗi, ông vừa nói gì vậy?

– Robert Thomson.

– Không, cái ấy tôi hiểu. Ông nói là thành viên ủy ban…

– Vâng, thành viên ủy ban New York chống chiến tranh Việt Nam.

– ái chà! Hóa ra lại có cả cái ủy ban như thế nữa kia.

– Vâng, nó mới thành lập. Bởi bàn tay tôi, ông hãy nhớ vậy.

– Tôi đã hiểu rồi. Hân hạnh được làm quen với ông, ông Thomson. Vậy thì, cái gì đã dẫn ông đến tòa báo chúng tôi?

– Trước khi trình bày ngọn ngành sự việc, tôi thấy cần thông báo cho ông biết điều sau đây.

Trên đầu gối anh ta là chiếc va li nhỏ, hẹp và phẳng bằng da cá sâu non, có khóa tử tế cùng hàng chữ bạc tên của chủ nhân. Ông Thomson giữ nó nâng niu cứ như nó chứa chất đầy kim cương.

– Ông sẽ được biết, ông Brooks ạ, – giọng ông ta kéo dài ra cứ làm như tôi phản đối ông ta, vị khách lạ lùng nói tiếp, – rằng phần tôi có

đủ đôla để ngồi ăn không cả đời tôi, cả đời con tôi. Tôi có bất động sản

ở New York và Los Angeles. Đã tốt nghiệp Harvard. Phó chủ tịch một

hãng. Đã chiến đấu ở Việt Nam. Đã làm việc ở Lầu Năm góc trong ban nghiên cứu và ban liên lạc với dư luận công chúng. Chưa bao giờ

bị truy cứu trách nhiệm bởi ủy ban điều tra các hoạt động chống Mỹ.

Sĩ quan dự bị. Đã được thưởng huy chương “Trái tim rực đỏ”.

Tôi làm cử chỉ dang tay và mỉm cười – chẳng còn làm cách nào khác được.

– Thật quá nhiều ưu điểm đối với một người Mỹ, thưa ông.

– Xin lỗi, nhưng tôi phải nói tất cả điều đó cho ông hay.

– Tại sao lại phải? Không có những lời mào ấy, tôi cũng vẫn nghe

ông nói cơ mà.

– Tôi không tin điều đó ngay cả bây giờ, sau những lời tốt đẹp của ông.

– Thử tin xem. Cái gì đã đưa ông đến chỗ chúng tôi? Ông đã viết bài báo, truyện ngắn hay phóng sự nào đó?

– Không! – Thomson nói và nhẹ nhàng vuốt ve những gai trên lớp da cá s ấu non.

– Ông muốn bác bỏ một bài báo đã xúc phạm đến danh dự của ông?

– Không. Tôi muốn thông báo, ai là kẻ đã tiến hành đảo chính ở

Việt Nam, và ai đã giết Tổng thống Diệm và một số điều khác nữa.

– ái chà! Không hơn không kém. Thế chính mắt ông đã trông thấy cảnh giết Tổng thống Diệm?

– Không, nhưng tôi…

– Ông đã ở Sài Gòn thời gian ấy?

– Không, nhưng…

– Xin lỗi, thế thì do đâu ông có thể biết ai đã tiến hành đảo chính và ai đã giết Diệm?

– Tôi biết. Do đâu thì không quan trọng. ảnh sao các tài liệu tuyệt mật của Nhà Trắng, Lầu Năm góc và Bộ Ngoại giao đã lọt vào tay tôi. Những tài liệu này dọi ánh sáng tỏ tường vào những công việc đen tối của chúng ta ở Việt Nam.

Anh ta lấy từ túi quần bí mật ra một chiếc chìa khóa nhỏ, đút vào

ổ khóa của chiếc vali đắt tiền của mình, vặn hai lần, mở vali rồi rút ra một tập dầy những ảnh sao; lấy cái trên cùng, anh ta chìa nó cho tôi

va nói:

– Tài liệu này đã được mười năm rồi. Nó được làm tại Nhà Trắng dưới thời chính phủ Truman. Nó chứng tỏ rằng, trên thực tế chính

phủ Truman đã ép nhà cầm quyền Pháp thời đó mở cuộc chiến tranh

ở Đông Dương! Tiền Mỹ với máu Pháp và Việt Nam. Tám mươi phần trăm tất cả các chi tiêu quân sự của Pháp ở Việt Nam là do chính phủ Mỹ đài thọ.

Tôi chưa kịp làm quen kỹ với tấm ảnh, thì anh ta đã chìa ra tấm thứ hai.

– Còn tài liệu này chứng tỏ rằng cả người kế tục Truman, Tổng thống thứ ba mươi ba của Hoa Kỳ, Eisenhower, cũng rắp tâm lật đổ chế độ cộng sản ở Bắc Việt Nam. Khi không làm được điều đó, ông ta

đã tìm mọi cách phá hiệp định Geneva về Việt Nam, ký vào năm một ngàn chín trăm năm mươi tư. Ông xem đi. Không, không, đây không phải là chuyện hư cấu. Và Tổng thống hiện nay, Kennedy, đã lại đi theo vết các tiền bối của mình. Ông có biết Kennedy đã nói gì với Eisenhower khi tiếp quản Phòng bầu dục không? “Cần bao nhiêu thời gian để ném một sư đoàn Mỹ từ Hoa Kỳ sang Việt Nam?”. Đây, lại một tài liệu nữa, sinh ra dưới thời Kennedy. Bản ghi nhớ về các vấn

đề an ninh quốc gia. Bản này xuất hiện nhờ công tác của nhóm tác

chiến về Việt Nam, được lập ra theo lệnh của Tổng thống. Trong đó có đoạn như sau. Ông nghe đây!… Một: phái nhân viên tình báo vào Bắc Việt Nam. Hai: phái nhân viên tình báo “bổ sung” vào Bắc Việt Nam bằng đường không do các đội bay dân dụng làm thuê theo hợp đồng. Ba: cho các đơn vị biệt kích Nam Việt Nam xâm

nhập Đông Nam Lào

để phát hiện và tấn công các căn cứ và mạng lưới giao thông của cộng

sản. Bốn: lập mạng lưới kháng chiến, các cơ sở và các nhóm bí mật nhằm hoạt động phá hoại và gây rối trên lãnh thổ Bắc Việt Nam. Năm: rải truyền đơn từ máy bay xuống Bắc Việt Nam.

Tổng thống Kennedy ngày mười một tháng năm, năm một nghìn chín trăm sáu mươi mốt đã hoàn toàn tán thành chương trình do nhóm tác chiến về Việt Nam lập ra và bản ghi nhớ đã trở thành chương trình hành động của Lầu Năm góc. Ông xem đi!… Vài tháng sau, vào tháng mười cùng năm, Kennedy ra chỉ thị bổ sung mới cho Lầu Năm góc tổ chức các hoạt động du kích, sử dụng các lực lượng đồng minh của Mỹ trong trường hợp cần thiết để cắt ngang đường tiếp

tế của cộng sản ở Sê- pôn (Lào). Khi đó Kennedy đã lệnh cho Bộ Ngoại

giao chuẩn bị ra Sách trắng, trong đó trách nhiệm xâm lược Nam Việt

Nam sẽ đặt lên Bắc Việt Nam.

Tướng Taylor thời gian này đang thực hiện sứ mạng đặc biệt ở Sài Gòn. Ông ta gửi về bức điện cho Nhà Trắng và Lầu Năm góc. Đây là bản sao của nó: “Quan điểm của tôi là chúng ta nên cử nhóm tác chiến sang để đảm bảo cho sự có mặt quân sự của Mỹ ở Việt Nam, ngõ hầu xua tan mối nghi ngờ của Tổng thống Ngô Đình Diệm ở sự sẵn sàng đứng về phía ông của chúng ta trong trường hợp đối địch quân sự với Việt Cộng hoặc Việt Minh”.

Taylor khuyên Tổng thống gửi sang Việt Nam những đạo quân Mỹ lớn, ngụy trang là nhóm chiến thuật cung cấp vật chất, kỹ thuật để giúp đỡ chế độ Diệm. Thêm vào con số nghìn đầu tiên của cái gọi là các cố vấn Mỹ rải ra trong quân đội Nam Việt Nam, phải thêm, theo ý Taylor, vài nghìn nữa. Đây này, lại một bức điện của Taylor gửi từ Philippine tháng mười cùng năm và có dòng chõ: “Dành riêng cho Tổng thống”. Trong đó Taylor đòi gửi ngay sang Nam Việt Nam tám nghìn lính Mỹ. Khi ấy, hai năm trước đây, Kennedy chưa gửi lục quân sang Sài Gòn như Taylor đề đạt. Nhưng bây giờ, sau hai năm, ở Việt Nam đã có tới mười sáu nghìn cố vấn. Sang năm, con số đó sẽ còn tăng lên. Sự việc đang tiến tới một cuộc can thiệp lớn. Tổng thống Kennedy ráo riết chuẩn bị cho cuộc xâm nhập công khai vào Việt

Nam.

Mới đây, vào tháng hai năm ngoái, khi phát biểu tại một cuộc họp báo có tiếng vang, đề cập đến vấn đề Việt Nam và sứ mạng của tướng Taylor, Tổng thống Kennedy đã nói những lời sau đây: Tổng thống Ngô Đình Diệm yêu cầu viện trợ thêm… Chúng ta đã tăng thêm viện trợ. Chúng ta đang thực hiện sự giúp đỡ về vật chất kỹ thuật, giúp về vận tải và huấn luyện Người Mỹ đang tham gia vào những nỗ lực này…”

Dối trá, dối trá thô bạo và không thể tha thứ được! “Diệm yêu cầu!…”. Có lẽ, cầu xin chưa đủ nước mắt, cúi mình và thề thốt trung thành với chúng ta chưa đạt yêu cầu. Có lẽ, đến Diệm cũng chưa hiểu rằng ông ta với người Mỹ không cùng đường. Cho nên mới trở nên

không vừa ý Nhà Trắng và Lầu Năm góc. Này, này, còn những tài

liệu mới nữa, đặc trưng cho chính phủ yêu hòa bình của chúng ta.

Và ông Thomson đẩy ra góc bàn cả đống bức ảnh có dòng chữ “Dành riêng cho Tổng thống”, “Cho chính Mac Namara”, “Chỉ cho Bộ trưởng Ngoại giao”, “Tuyệt mật”.

Trong số tài liệu ấy, tôi quan tâm nhất tới ghi chép của trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao Hillsman gửi cho ông chủ của mình, trong đó có nói phải tiến hành đảo chính ở Sài Gòn và gạt bỏ Tổng thống Nam Việt Nam Ngô Đình Diệm khét tiếng. Đây là cốt lõi quan trọng của nó… “Nếu Diệm có bước tiến chính trị tại phía Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ví dụ như mở cuộc thương lượng về trung lập hoá, thậm chí nếu

chỉ xuất hiện tin đồn về cuộc thương lượng như thế hay nguy cơ gián tiếp về khả năng ấy, Hoa Kỳ phải:

… Hướng các tướng lãnh thực hiện cho ra trò cuộc đảo chính… Nếu Diệm đề nghị với Tổng thống Pháp De Gaulle ủng hộ việc trung lập hoá Việt Nam, Mỹ phải:

… Công khai chỉ ra rằng Việt Nam không thể trung lập hoá có hiệu quả, chừng nào cộng sản còn chưa mất quyền kiểm soát Bắc Việt Nam… Khi mà cuộc đảo chính chống Diệm ở Nam Việt Nam bắt đầu được đem ra thực hiện, chúng ta có thể lấy cớ nhân dân Việt Nam hiển nhiên bác bỏ sự liên hiệp giữa Diệm và Cộng sản… Để ngăn ngừa các lực lượng quân đội trung thành với Diệm đóng ở ngoài Sài Gòn ủng hộ Diệm, chúng ta phải sẵn sàng dập tắt liên lạc vô tuyến với các đơn vị này, đồng thời cho phá các cầu cần thiết để cản trợ sự tiến quân của các đơn vị này… Nếu cần, chúng ta phải gửi sang Việt Nam quân đội Mỹ để bảo đảm thắng lợi cho phe đảo chính”. Tôi lướt mắt qua ghi chép của Hillsman cho đến hết, nghĩ ngợi một chút rồi hỏi:

– Ông Thomson, ông cho biết Bộ trưởng Ngoại giao đã phản ứng thế nào trước đề nghị không úp mở này của người trợ lý thân cận của mình?

– Ông ta tán thành hết.

– Có bằng chứng chứ?

– Có. Đây này.

Tôi lại được biết một tài liệu nữa – bản sao ghi chép báo cáo của viên trùm ngành ngoại giao. Dean Rusk không muốn khó nhọc thêm

và chỉ chép lại gần như đúng từng bản luận văn hiếu chiến của cấp dưới và gửi đến Nhà Trắng dưới chữ ký của chính mình.

Tôi mong muốn kẻ tiết lộ này cho tôi xem và nói càng nhiều càng tốt, nên không hà tiện câu hỏi, đôi khi còn cảm thấy mình ngây ngô nếu xét về phía mình là chủ bút Texas Sun. – Thế thái độ của Tổng thống đối với cuộc đảo chính cung đình đã vạch ra là như thế nào? –

tôi hỏi.

Thomson nhanh chóng và rõ ràng trả lời câu hỏi này:

– Mùa hè năm nay ở Nhà Trắng và ở Đại sứ quán tại Sài Gòn đã thảo luận một vấn đề phức tạp đến đau đầu: chúng ta phải dựa vào ai

ở Việt Nam trong tương lai, vào số tay sai cũ là triều Diệm hay các tướng lĩnh mới đang bất mãn với tên hoàng đế không vương miện của

mình. Cuộc tranh luận diễn ra rất lâu và sôi nổi. Cuối cùng Tổng thống Kennedy và các tờ- rớt(1) trí tuệ của ông ta đi đến kết luận là

Diệm không có khả năng và cũng không muốn tiến hành những cải cách tự do trong nước, rằng hắn là kẻ theo đạo Thiên chúa căm thù

tín đồ đạo Phật đến mức bệnh lý, rằng phải xem Diệm và em hắn, trùm mật vụ Nhu như những kẻ độc đoán thối nát, những kẻ đàn áp

một cách dã man tín đồ đạo Phật và các đối thủ chính trị của mình và cực kỳ nguy hiểm cho Hoa Kỳ. Phải gạt bỏ anh em hắn. Tài liệu đây,

mời ông xem.

Tôi đọc tờ giấy, còn anh ta thì vẫn giảng giải tiếp cho tôi:

– Hai ngày trước khi đảo chính, phụ tá về an ninh quốc gia cho

Tổng thống Mark George Bandy chỉ thị chặt chẽ lần cuối cùng cho đại

sứ Lodge: “Nếu một cuộc đảo chính có sự lãnh đạo vững vàng nổ ra,

thì lợi ích của chính phủ Mỹ đòi hỏi nó phải thành công”(2). Ông thấy

đấy, nhà cầm quyền của chúng ta thẳng thắn làm sao. Không cần một cái lá nho nào cả.

Tôi đọc đi đọc lại từng tài liệu. Thú vị thật! Tư liệu tuyệt vời cho

các nhà viết tiểu thuyết. Tôi lên tiếng:

– Chà. Có nghĩa là, đích thân Kennedy chuẩn y âm mưu đảo chính?

– Vâng.

– Thế còn “Đấng bề trên thiêng liêng”(1) của Tổng thống Diệm?

– Cũng đồng ý loại bỏ Diệm. Diệm đã biết quá nhiều bí mật của Mỹ. Không thể để hắn sống được. Nhưng trong tài liệu không nói đến điểm này. Điều đó là dĩ nhiên. Cái đó là phải ý tại ngôn ngoại.

Người cuối cùng nói chuyện qua điện thoại với Diệm vào đêm thảm họa của Diệm là đại sứ ta ở Sài Gòn. Tổng thống Diệm đã gọi điện cho Cabot Lodge trực tiếp từ dinh của hắn ngày mùng một tháng mười một vào hồi bốn giờ ba mươi sáng. Tôi đã kiếm được bản tốc ký của cuộc nói chuyện này.

– Bản tốc ký?! Của một câu chuyện diễn ra ngày mùng một tháng mười một ở cách xa chúng ta tít tắp?! Ông Thomson ạ, ông làm việc hết sức nhanh nhạy đấy. Theo tôi hiểu, ông phải có bạn bè trong biệt thự của ông đại sứ nhà ta và trong dinh của Diệm. Thành thật! Cho

tôi dòm qua xem nào.

Tôi ghi lại nội dung bản tốc ký chính xác cho đến từng dấu phảy, theo bản sao của Thomson.

Diệm: Một vài đơn vị đã nổi loạn. Tôi muốn biết lập trường của

Hoa Kỳ.

Lodge: Tôi coi mình chưa được thông tin đầy đủ để có thể trả lời câu hỏi của ông. Tôi nghe có tiếng súng, nhưng chưa được biết tường tận về các sự kiện. Ngoài ra, cho phép tôi ghi nhận rằng bây giờ ở Washington là 4 giờ 30 đêm và vị tất chính phủ Mỹ đã có thể hình thành một quan điểm nào đó về những cái đang xảy ra.

Diệm: Nhưng ch ắc ông cũng phải có một khái niệm chung nào đó chứ! Rốt cuộc, tôi là nguyên thủ quốc gia. Tôi đã cố gắng thực hiện nghĩa vụ của mình. Và bây giờ tôi muốn hành động theo sự sai khiến

của nghĩa vụ và của ý nghĩ lành mạnh. Nghĩa vụ đối với tôi là cái cốt

yếu nhất.

Lodge: Ông tất nhiên là đã làm tròn nghĩa vụ của mình, như tôi đã nói với ông sáng nay, tôi khâm phục sự dũng cảm của ông và những gì ông đã làm cho Tổ quốc mình. Không ai có thể tước bỏ những công lao này của ông.

ông.

Tôi lo lắng cho an ninh của bản thân ông. Như người ta đã báo cho tôi, những người lãnh đạo cuộc nổi dậy đề xuất cho ông và em ông lối thoát an toàn ra nước ngoài, nếu các ông từ bỏ quyền lực. Ông có nghe

nói đến điều đó không?

Diệm: Không (sau giây lát yên lặng). Ông có biết số điện thoại của tôi không?

Lodge: Có. Nếu tôi có thể giúp ích gì cho việc bảo đảm an ninh cho ông thì xin ông cứ gọi điện cho tôi.

Diệm: Tôi đang cố vãn hồi trật tự…(1)

Khi tôi đã đọc xong bản sao tốc ký và trả nó cho Thomson, thì anh

ta nói:

– Sau câu chuyện điện thoại này, không một người Mỹ nào nhìn thấy Diệm và nói chuyện với hắn. Hôm sau người ta tìm thấy hắn bên nắp cống thoát nước. Hắn đã chết.

– Ông có biết hắn bị giết trong tình huống nào không?

– Có. Sau khi nói chuyện với Lodge, tất nhiên, hắn hiểu là đã bị người Mỹ phản bội và quyết định cùng với em hắn chạy trốn. Bọn họ chuồn ra khỏi dinh Tổng thống đang bị bao vây bằng lối bí mật dưới đất, nối với hệ thống tiêu nước. Khi lên khỏi nắp cống thì anh em hắn

bị tóm. Bọn lính mang súng tự động xỉa hàng tràn đạn vào anh em hắn. Hiển nhiên là nếu như không có lệnh thì bọn lính đã để cho chúng sống. – Anh ta cầm lấy bản sao và đọc: – “Tôi lo lắng cho an ninh của bản thân ông. Như người ta đã báo cho tôi, những người lãnh đạo cuộc nổi dậy đề xuất cho ông và em ông lối thoát an toàn ra nước ngoài, nếu các ông từ bỏ quyền lực. Ông có nghe nói đến điều đó

không?”. Diệm đã nghĩ và nói: “Không”. Hắn không muốn chấp nhận

tối hậu thư của đại sứ. Không muốn từ bỏ quyền lực nhận được từ người Mỹ. Không muốn dung hòa với việc chúng ta đã phản bội và bán rẻ hắn.

– Chà! – tôi nói, – một Tổng thống thủ tiêu một Tổng thống. Lớn thủ tiêu bé. Kennedy liều lĩnh thật. Gì thì gì, chứ thế là ông ta đã gạt bỏ một nhà lãnh đạo cứng cổ của một quốc gia bè bạn, người đồng minh của mình. Ông ta đã tạo nên một tiền lệ nguy hiểm. Đã xảy ra một lần, thì cứ liệu đấy, người ta cũng có thể xử sự với ông ta đúng như thế.

– Vâng, có thể, – ông Thomson đồng ý. – Đã được chứng minh từ lâu rằng kẻ nào vung gươm lên đầu tiên kẻ đó sẽ chết. Cũng đã được chứng minh rằng chính sách đối ngoại là sự tiếp tục của chính sách

đối nội. Kennedy hoặc là quên điều đó, hoặc là cố ý coi thường chân lý lâu đời này. Ông ta chắc là cho rằng ở nước Mỹ chúng ta không thể có đảo chính.

– Có thể có! Giết Tổng thống trong điều kiện chúng ta cũng ngang với đảo chính.

Những lời cuối cùng của tôi làm Thomson hoạt bát lên rõ rệt. Anh

ta nhìn tôi không còn độc ác như trước nữa. Trong chốc lát, vô hình quan điểm của tôi đã trở thành đồng quan điểm với anh ta. Nhận ra điều đó, tôi tỉnh ngộ ra và nói:

– Ông Thomson, tôi đâm phát sợ cho bản thân. Tôi biết về chính phủ của mình nhiều quá, nhiều đến quá mức cho phép đối với một người Mỹ tốt. Tướng Taylor hễ tiện dịp lại khẳng định rằng một công dân Mỹ chỉ phải biết những gì khả dĩ cho phép anh ta là một công dân

tốt mà thôi. Còn ông… ông đã làm tôi trở thành một công dân xấu.

– Làm sao ông lại còn đùa lúc này nhỉ?

– Đâu phải chuyện đùa với tôi, ông Thomson. Tôi đã biết những bí mật đáng lẽ không có quyền được biết.

– Nếu ông không muốn nói chuyện nghiêm túc…

Tôi cẩn thận xếp các tấm ảnh lại và đẩy nó về phía Thomson:

– Ông không sợ mất đầu khi tiết lộ bí mật quốc gia ư? Ông sẽ bị buộc tội làm phương hại đến lợi ích an ninh quốc gia. Xin lỗi. Tôi buộc phải nói với ông điều đó với tất cả sự nghiêm túc mà tôi có.

Lời nói của tôi không có tác động gì đối với Thomson. Anh ta vẫn giữ vẻ tự tin khiêu khích trước kia.

– ở tất cả các nước văn minh,- anh ta nói, – chính quyền truy cứu trách nhiệm hình sự đối với kẻ nào biết có tội ác đã gây ra mà không trình báo chỗ cần trình báo. Tôi không muốn vị phạm luật pháp, không muốn là a tòng cho bọn tội phạm và vì thế, tôi báo là chính quyền hiện nay ở Nhà Trắng và Lầu Năm góc đã và đang thực hiện một tội ác lớn nhất thế kỷ – chuẩn bị cuộc chiến tranh lớn ở Việt Nam. Bằng điều đó, tôi giật bỏ uy tín thổi phồng xây trên sự dối trá và gian xảo của chính phủ và tăng cường an ninh chân chính cho đất nước. Những lời này tôi sẵn sàng phát biểu trước tòa án cao nhất. Vì cái đó

tôi sẵn sàng ngồi tù năm mười năm.

Lúc này tôi chẳng còn thì giờ đâu nghiên cứu tiểu sử và thế giới nội tâm của nhà kinh doanh Thomson kia. Những sự việc ở Nhà Trắng, Lầu Năm góc đối với tôi còn ngàn lần quan trọng hơn. Thất đức ư? Tất nhiên rồi. Nhưng hoàn cảnh sống là thế.

Bằng câu hỏi thận trọng, tôi dứt ông Thomson ra khỏi những bộc bạch bản thân và chuyển sang điều tôi quan tâm hơn cả:

– Dĩ nhiên là ông biết rằng không chỉ Nhà Trắng mà hầu như cả thượng và hạ nghị viện đều kiên quyết không để mặc cho Cộng sản đẩy lùi chúng ta ở Đông Nam á?

– Thượng và hạ nghị viện không thống nhất trong vấn đề này, nhân dân Mỹ cũng thế. Nhiều người cũng nghĩ như tôi nghĩ.

– Nhiều là khái niệm co giãn lắm. Chỉ có đa số mới là lực lượng quyết định.

– Hiện nay có lẽ đa số chưa hoàn toàn hình dung được chúng ta sẽ chui vào ngõ cụt như thế nào, nếu chúng ta gây cuộc chiến tranh lớn ở

Đông Dương. Cuộc chiến của người Pháp với người Việt Nam đã cho

thấy là không thể thẳng nổi họ. Họ có mục đích, họ biết họ chiê n đấu

vì cái gì. Họ bảo vệ mảnh đất của họ. Chúng ta không quen đánh

nhau với du kích trên cánh đồng lúa, trong rừng sâu. Chúng ta đã quen với nước cam, bít tết, trứng, cà phê với motel(1), ti vi, với xe Ford, Cadillac, Chrysler.

– Chúng ta có pháo đài bay, tên lửa mang đầu đạn hạt nhân, chúng ta có kinh nghiệm chiến tranh ở Triều Tiên.

– Chính kinh nghiệm Triều Tiên chứng tỏ chúng ta sẽ không đạt được thắng lợi.

Trong khi nói chuyện với tôi, anh ta lo lắng liếc nhìn vách ngăn bằng kính của phòng làm việc của tôi, sợ như có ai quấy rầy chúng tôi.

– Đừng lo, ông Thomson ạ, không ai vào đây, chừng nào chúng ta chưa kết thúc câu chuyện. Ông gốc gác ở đâu nhỉ?

– Tôi sinh ra ở Boston. Bắt đầu đi học và tốt nghiệp cũng ở Boston. Rồi làm việc ở Boston. Tổ tiên tôi đã đổ bộ lên sau chuyến đi dài ngày trên tàu “May Flower”(2).

– Tôi đã nghĩ ông đúng là con cháu của những người Mỹ đầu tiên, dân gốc. Thật là lạ, ông lại không thích Tổng thống đồng hương của mình.

– Tôi thích ông ta chừng nào ông ta chưa lập ra những đạo quân đao phủ kia và chưa trở thành lãnh tụ tinh thần của bọn chúng.

– Ông muốn nói đến bọn mũ nồi xanh?

– Vâng, mũ nồi xanh ngày nay đối với nhiều dân tộc đã trở thành đồng nghĩa với sơ mi nâu và đồng phục đen(1).

– ồ, không, ông Thomson, Kennedy đã đánh nhau với bọn phát xít. Ông ta thì gần đỏ hơn là nâu hay đen.

– Nếu có đỏ thì tại màu đo ở vịnh Con Lợn, Cu Ba, ở rừng sâu và đồng ruộng Việt Nam.

– Nhưng chính người Mỹ đã coi Kennedy là người Dân chủ(2),

người tạo lập hòa bình và sáng tạo ra kỷ nguyên “những ranh giới mới”.

Thomson hừm một tiếng khinh bỉ.

– Thức lâu mới biết đêm dài. Bắt đầu thì là dân chủ, kết thúc thì… Lạy trời, người ta đừng bầu ông ta lên làm Tổng thống thêm nhiệm kỳ nữa. Ông ta sẽ đi vào lịch sử với tư cách là kẻ gây ra cuộc chiến tranh lớn ở Đông Dương. Ông ta đã chuẩn bị mọi thứ cho việc đó. Ông cứ

nghiên cứu tài liệu này đi, rồi ông sẽ thấy quả đúng như vậy.

Tôi lại phải ngạc nhiên lần nữa.

– Lạ thật. Có lẽ ông quên rằng đối thủ của Kennedy trong cuộc bầu

cử sắp tới là tay cộng hòa cực hữu Barry.

– Không, tôi không quên.

– Thế thì tại sao lại muốn cho Kennedy thất bại? Chả lẽ ông nghĩ rằng Barry khá hơn John? Chính John công khai ủng hộ việc ném bom thành thị, cầu cống, kho tàng Bắc Việt Nam. Ông ta ủng hộ việc gửi đội quân một triệu lính Mỹ sang Đông Dương. ủng hộ việc áp dụng vũ khí hạt nhân nếu cần. Ông ta chống hòa đàm với Liên Xô.

Ông ta chống người da đen. Chống tự do truyền thống của nước Mỹ.

– Cử tri sẽ gạt bỏ John. Và Kennedy sẽ trở thành Tổng thống nhiệm kỳ thứ hai. Tiếc thật.

– Sao lại tiếc thật? Kennedy xét trên quan điểm của ông, mà xin lỗi ông, tôi không chia quan điểm ấy, thì dẫu sao vẫn tốt hơn Barry.

– Vâng, hẳn là tốt hơn rồi. Nhưng tốt hơn, như vẫn thường nói, là kẻ thù của cái tốt.

– Hay thật, thế ông muốn thấy ai là chủ Nhà Trắng trong những năm tới?

– Tôi không biết. Tôi đã thấy những gì chúng ta đang làm ở Việt Nam và mất lòng tin cả vào đảng con voi lẫn đảng con lừa(1). Ông Brooks, nghe nói ông đã ở Việt Nam.

– Vâng. Năm nay tôi có ở đó.

– Thế lương tâm của ông không thức tỉnh ư? Ông không hiểu rằng chúng ta sẽ lâm vào ngõ cụt trong cuộc chiến này? Ông không rùng mình trước những gì đang diễn ra ở đó

đó ư? Thành phố bị tàn phá. Đồng ruộng bị bỏ ngập. Rừng rú bị chất độc huỷ hoại. Tất cả những sinh vật dọc các con sông chiến lược bị tiêu diệt. Hàng trăm nghìn người không

có nhà cửa. Chúng ta đã gieo vào lòng dân tộc châu á lòng hận thù đối

với người Mỹ đến hàng thế kỷ.

Tôi có thể nói gì với anh ta? Nói sự thật ư? Tôi không có quyền. Đồng ý với đề nghị của anh ta? Không được phép. Chỉ cần tôi đem những tài liệu này đưa in thì lập tức Hatter và FBI sẽ biết ngay. Chúng sẽ không khi nào được in ra. Chỉ có đưa đầu vào thòng lọng mà thôi. Từ giã cõi đời lúc này hãy còn sớm lắm. Đây cũng không phải là

cái đáng để tôi phải hy sinh thân mình. Làm gì bây giờ? Dương đông kích tây như những tay chơi poker vẫn làm? Chả còn cách nào khác. Với lại cũng không loại trừ khả năng con người cởi mở trong từng lời nói này cũng là một tay chơi bài và đang thực hiện ý đồ của kẻ nào đó. Ban quản trị an ninh nội bộ của Công ty “Hatter Industries” đôi khi vẫn thử những nhân viên của mình bằng phương pháp khác thường như vậy. Phải dội một gáo nước lạnh lên cái đầu nóng của ông thành

viên ủy ban kia mới được. Tôi mỉm cười nhìn anh ta và nói:

– Ông Thomson, theo tôi hiểu, ông làm việc cho Công ty “General

Motor”.

Khuôn mặt anh ta hồng đỏ lên.

– Vâng, tôi làm, nhưng… như tôi còn nhớ thì tôi chưa kịp nói với ông điều đó. Làm sao ông biết được?

– Đoán xem ông tranh đấu kịch liệt như thế nào cho quyền lợi của

ai cũng chẳng khó khăn lắm.

– Ông muốn nói…

– Vâng, tôi sẽ nói điều mà ông tảng lờ từ nãy đến giờ. “General Motor” là một công ty có thê lực nhất nước. Nó đứng đầu năm trăm hãng lớn nhất. Nhưng mà, trời ạ, chỉ có hai, cả thảy hai phần trăm

của số tiền hàng chục tỉ đôla đến tay sử dụng của Lầu Năm góc là

phần của “General Motor”. Công ty của ông cũng không kiếm chác được nhiều lắm trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Tôi xin thông cảm. – Anh ta, thật ngạc nhiên cho tôi, cũng mỉm cười.

– Ông lầm rồi, ông Brooks ạ. Công ty “General Motor” không uỷ quyền cho tôi chuyển những tài liệu này cho ông. Đó là tự tôi.

– Một mình ông? Hừm!… Chẳng có điều kỳ diệu đến thế đâu. Tôi vẫn giữ ý kiến mình. Ông đại diện cho quyền lợi của một công ty không kiếm chác được gì thông qua chiến tranh.

– Tôi đại diện cho quyền lợi của riêng tôi. Quyền lợi của một người căm thù chiến tranh. Đó là quyền lợi của tất cả mọi người khao khát sống trong hòa bình.

– Cứ cho là như thế. Thế nhưng cũng phải làm cho rõ thêm. Ông Thomson, ông đại diện cho quyền lợi không phải của mọi người nói chung, mà của một nhóm người nhất định. Tôi nghĩ, tim ông hướng về không những chỉ “General Motor”, mà còn hướng về “Ford Motor”, “Standard Oil”, “Chrysler”, “General Electric” và về những ai kiếm đôla trong sản xuất dân dụng, những ai hùn vốn vào nền kinh tế của

cái gọi là các nước phát triển và kém phát triển mà không dùng đến

đại bác, tên lửa, máy bay ném bom và napan. Ông ủng hộ những kẻ mà cuộc chiến tranh Đông Dương có nguy cơ làm phá sản. Cho đến một lúc nào đó, ông và bạn bè của các ông vẫn còn ủng hộ và khuyến khích Lầu Năm góc trong các kế hoạch xâm lược của họ, bởi vì cho rằng quan điểm dựa trên thế mạnh, nó dọn đường cho đồng đôla của

các ông, cho sự kinh doanh của các ông. Còn bây giờ thì…

Thomson không để tôi nói hết. Thịnh nộ phẩy tay, anh ta nói to một cách giận dữ:

– Ông đơn giản hóa vấn đề một cách quái dị. Xin cam đoan với ông

là tự tôi làm việc đó. Cũng không phải một mình tôi. Hàng triệu người

cũng nghĩ như tôi.

– Vâng, họ nghĩ thế, nhưng hành động cách khác. Họ không với tay đến được các tài liệu tuyệt mật. Trong tay họ không có máy sao của

hãng “Xerox”, có khả năng làm sinh sôi số giấy tờ của Nhà Trắng và

Lầu Năm góc. Họ lép một bề trước Hoover và thuộc hạ của ông ta. Chứ không như ông. Nếu quả thật chỉ có một mình ông, ông Thomson

– nhà kinh doanh ạ, thì người ta đã tóm cổ ông từ lâu và nhốt vào xà lim bê tông của nhà tù liên bang rồi. Xin lỗi ông, tôi đã vạch trần cái

lò xo cơ chế động cơ của ông. Tôi buộc phải làm điều đó chỉ cốt để ông không coi tôi là anh ngốc.

– Tôi trân trọng sự cởi mở của ông, Brooks ạ, nhưng tôi cam đoan

là ông nhầm. Tôi không bàn bạc những kế hoạch này với ai cả. Ông đã

hạ phẩm cách của tôi.

Vị khách nói những lời đó với vẻ chân thật nóng nảy rất quyến rũ, nhưng không lừa được tôi đâu. Tôi biết những tay chơi poker nghi binh khéo léo tự nhiên đến như thế nào.

– Cũng có thế như thế. Nhưng điều đó chỉ có nghĩa là sự căm thù chiến tranh của riêng ông lại trùng hợp lạ lùng với quyền lợi của các giới tư bản độc quy ền không phục vụ Lầu Năm góc. Còn ông, chính bản thân ông cũng không ngờ, đã trở thành một kẻ lobbyist(1) mù quáng. Tuy vậy, tôi không tin vào giả thuyết ấy. Ông quả là năng nổ, kiên trì, thông minh khiến người ta chưa thể liệt vào loại công cụ mù quáng.

Tôi chờ ông khách sẽ tiếp tục giữ lý lẽ của mình. Nhưng tôi đã lầm. Anh ta nói giọng làm lành không ngờ:

– Ông nói đúng, ông Brooks ạ. Không và sẽ không thể có những

người độc lập tuyệt đối. Ngay cả khi không biết về sự tồn tại của nhau, họ vẫn tác động lẫn nhau ở đâu đó. Tóm lại, tôi chấp nhận quan điểm của ông, tuy rằng, tôi nhắc lại, tôi không phải là lobbyist lóp biếc

gì cả. Chẳng qua tôi đi tìm cái nhóm nào của các nhà kinh doanh

quyền thế mà có thể hiểu ra ngay bây giờ, trên ngưỡng cửa của cuộc

leo thang chiến tranh lớn rằng chúng ta sẽ không thấy thắng lợi ở

Đông Dương. Càng chui sâu vào bãi lầy Việt Nam thì càng khó rút chân ra.

– Nếu như ông nói thật lòng, Thomson ạ, thì ông đi tìm đồng minh

không đúng chỗ rồi. Khi đến đây, ông chưa biết rõ tờ báo chúng tôi

phục vụ giới độc giả nào. Cho phép tôi giúp ông. Texas Sun ủng hộ và khuyến khích tất cả những gì phục vụ cho sự thịnh vượng của bang

trẻ nhất, giầu nhất và có triển vọng nhất đất nước bang Texas này. Chúng tôi không có nhiệm vụ phải giúp đỡ các đối thủ của mình là các

bang già nua ở Đông bắc. Ngược lại, chúng tôi tranh đấu theo sức lực

và khả năng của mình sao cho Boston, Chicago, New York không còn

đóng vai trò chúa tể trong sinh hoạt của đất nước.

– Vâng, tôi thừa biết điều đó.

– Mà ông vẫn hy sinh vào sự ủng hộ của chúng tôi? Lạ thật.

– Không có gì lạ cả. Ông, cũng như tôi và bạn bè của tôi chẳng lấy làm hân hoan gì cho lắm đối với những gì mà Kennedy chủ Nhà Trắng đang làm. Giữa chúng ta có thể có sự liên minh. Dù là không lâu bền, nhưng hai bên cùng có lợi.

– Vâng, nhưng chúng ta bất mãn với Kennedy theo những cách khác nhau. Chúng tôi, những người Texas không thích ông ta vì ông

ta cứ liếc con mắt nghi ngờ về phía Texas. Còn ông không thích

Kennedy bởi vì ông ta chưa rõ rệt và kiên quyết quay lưng lại với

Texas và người Texas.

Tôi không nói gì độc đáo. Tôi chỉ nói những gì mà người Texas số một Harold Hatter sẽ nói nếu ở vào địa vị tôi.

Ông Thomson không cho phép bản thân cứ đối đáp bằng cái giọng bộc trực quá mức đến thế. Ông ta đứng phắt dậy, ra ý bảo rằng ông ta

đã chán ngấy cuộc tranh luận vô bổ dai dẳng này. Lúc này, khi ông ta đứng, lại rõ ra cái dáng cao, mảnh mai và sắc nhọn của ông ta. Ông ta

bực tức nhìn tôi hỏi:

– Ông từ chối không đăng những tài liệu này phải không?

– ấy, sao lại thế, ông Thomson. Ông chưa hiểu ý tôi. Có tay ký giả lịch thiệp nào lại bỏ lỡ một miếng mồi giật gân như thế được.

– Nghĩa là ông cho đăng?

– Nếu chúng tôi đăng tất cả cái đó, thì số báo ấn hành của chúng

tôi sẽ tăng lên thêm ba – bốn trăm nghìn bản. Nếu được!

– Nghĩa là, ông còn chưa quyết định?

– Vâng, ông Thomson, tôi còn chưa quyết. Tôi phải suy nghĩ đã. Ông có thể để các bản sao lại không? Hy vọng rằng ông còn có những bản khác.

– Ông cứ việc. Sau ba ngày nữa tôi sẽ đến.

– Chào ông Thomson. Chúc ông mọi sự như ý. Cảm ơn sự tin cậy của ông đối với Texas Sun.

– Ông đừng tưởng nhầm, Brooks ạ. Ai đăng sự thật về chiến tranh

Việt Nam đối với tôi thì cũng thế thôi.

Tống tiễn Thomson rồi, tôi ngốn ngấu xem xét các giấy tờ quốc gia hết tờ này đến tờ khác. Chà chà, ở đâu ra mà nhiều thế này! Tuyệt thật! Thế là, chẳng mất tí công nào, chẳng tốn tí đôla nào mà tôi đã thành chủ nhân tạm thời của số tài liệu tuyệt mật kia. Và quả thực

tôi định làm gì với chúng? Nhòm chúng để mà đoán: tồn tại hay không tồn tại? Không đời nào. Chẳng có gì phải nghĩ ngợi cả. Mọi cái

đối với tôi đã rõ ngay từ phút đầu trò truyện với Thomson.

Ra khỏi tòa soạn, sau khi đã hoãn bữa ăn, tôi bê thẳng đến dinh thự ngoại ô của Hatter. Tôi phóng với tốc độ qua mức quy định, những

lo đụng phải cảnh sát. Ông Bạc tỉ

không hài lòng những khi tôi hay ai

đó trong đám thân cận thông báo một cách muộn màng những tin tức quan trọng. Lão cần phải biết ngay lập tức những gì diễn ra trong đế chế của mình. Tôi tới nơi mà không hề xảy ra tai nạn gì.

Hatter chỉ vừa mới ăn xong bữa ăn đạm bạc cố hữu của mình: xúp nghiền và miếng thịt nạc luộc, và sắp sửa đi nghỉ. Sự xuất hiện bất ngờ của tôi làm lão ngạc nhiên:

– Có chuyện gì phải không, hả tôn ông?

– Vâng.

Tôi kể rành rọt về sự ghé thăm của ông Thomson, tôi đặt lên bàn

những bản sao giật gân.

Tôi chờ sự chú ý mãnh liệt đến báo cáo của tôi, nhưng lão ta nhìn

tôi bằng cặp mắt sâu, lạnh như băng và trên bộ mặt to, dài như mặt ngựa của lão ta không hiện lên sự ngạc nhiên nào. Lão chỉ chăm chú nghe mà thôi. Và tôi, người đã biết ông Bạc tỉ đâu chỉ một năm, cũng không thể phỏng đoán xem lão nghĩ gì, lão định rút lấy lợi lộc gì từ các tài liệu giật gân kia. Lão không bộc bạch hết mọi thứ đối với cả “ngòi bút riêng” của mình. Chỉ thẳng hoặc lão cho tôi nhòm vào tâm địa của lão. Hé mở một thoáng thôi, dù rằng nói chung, lão tin cẩn

tôi.

Bạn có biết thế nào la một tay chơi poker thực thụ và vô địch chưa?

Đó là một tay đánh bài lọc lõi trong đầu, ăn thua và xảo quyệt, được

tôi luyện qua những keo thắng và keo bại, quen liều lĩnh đồng thời lại

đủ thận trọng, có một trí nhớ đáo để và một linh cảm quỷ quái, nhìn

thấy đối thủ của mình, biết đọc một cách chuẩn xác những ý nghĩ của người khác ngay cả khi người đó muốn che giấu.

Tôi chưa gặp tay đánh poker nào tài hơn ông chủ của tôi: Harold Hatter. Sẽ co lúc tôi kể tỉ mỉ, lão ta chơi thế nào và tại sao luôn lột được túi của những tay bài bạc có kinh nghiệm nhất, sành sỏi nhất trong trò chơi. Bây giờ lão rất hiếm khi cầm đến quân bài, chỉ vào những lúc hưng phấn về công việc. Nhưng cái đó chẳng quan trọng gì hết. Lão đã là một tay poker và vẫn là tay poker. Lão vẫn thường xuyên lao vào trò poker không có quân bài, đó là nhằm duy trì và làm sinh sôi số tư bản kếch xù của mình. Bất kỳ một nhà kinh doanh nào trong một ý nghĩ nào đó cũng là một tay poker không bao giờ tiệt nọc, một bậc thầy biết kết hợp và vắt kỹ những đồng loại gần xa của mình. Tay lão ta nắm thành nắm đấm, quen đặt trên mép cái bàn ăn bóng loáng và cũng không biểu lộ cái gì, ngoài sự điềm tĩnh oai nghiêm và một sức mạnh kìm giữ.

Tôi đã buộc nói và lại im bặt khá là lúng túng. Không có lẽ lão ta thờ ơ với những tin tức này? Không phải lần đầu tiên tôi thấy ông Bạc

tỉ như thế, ấy vậy mà cho đến giờ vẫn chưa thể quen được cái cách

giải quyết các công việc quan trọng của lão.

Lão còn không nói không rằng đến hai phút mà nhìn tôi. Rồi hỏi

một cách đanh giọng:

– Hết rồi hả?

– Ông còn thấy ít sao, ông Harold? – tôi nói và nhìn sang tập bản sao. – Trong tay ông có những chủ bài thế kia.

Lão cười gằn, cặp mắt băng giá mới hơi ấm lên.

– Anh tin rằng giấy tờ này xác thực đấy chứ?

– Vâng. Tôi biết nét chữ của Bộ trưởng Ngoại giao. Còn cái tài liệu

có chữ ký của Tổng thống này cũng không nghi ngờ được. Đấy ông

xem!

Lão ta cầm lấy bản sao nằm phía trên, xem xét một lúc lâu. Lão quẳng xuống và nói:

– Đúng, chính tay John Kennedy!

Rồi cặp mắt lão lại băng giá và sâu kín như bưng.

– Thế chúng ta sẽ làm gì với chỗ tài liệu này? Lời khuyên của anh thế nào?

Tôi nhún vai và không nói gì. Lão không cần đến lời khuyên của tôi. Tự lão quyết định cả. Còn phải làm gì thì tôi cũng chưa biết.

– Tôi hỏi là chúng ta sẽ làm gì với chỗ tài liệu này?

Lúc này tôi không có quyền lảng tránh nữa. Ông Bạc tỉ kéo tôi về đây không phải để tôi ngồi im. Tôi nhìn thẳng vào bộ mặt ngựa của

lão và nói với tất cả sự thẳng thắn mà tôi có được:

– Ông muốn quá nhiều ở tôi đấy, ông Harold ạ. Nếu như tôi đoán những ý nghĩ và dự định của ông thì từ hai năm nay tôi đã trở thành tay poker vô địch và thành tỉ phú rồi.

Lão p hì cười và không quên vỗ vai tôi:

– Đúng! Thông minh thật! Đến Thượng đế ngài cũng không đoán

được tôi sẽ làm gì khi có trong tay những con bài thế kia. Chúng ta may khủng khiếp. Chúng ta có thể giật đồ một nhà băng kếch xù, nếu… nếu như chúng ta chơi chính xác đến cuối ván bài.

Lão cầm lấy tập bức ảnh sấy bóng và trơn, xóc xóc rồi toẽ xòa thành hình rẻ quạt trên bàn và nhìn vào đó mỉm cười.

– át! Lại át! Lại con nữa: Lại con nữa! Còn đây … – Lão dí tay vào bị vong lục do Kennedy ký – đây là con phăng. Năm con át. Một bộ thượng thặng. Ước mơ của người chơi poker. Kẻ thù của ta cũng không thể ngờ được một vận may đến thế nào vừa ùa đến với ta. ấy,

giờ thì cứ liệu đấy, ông Tổng thống ạ!

Đến tận lúc này tôi vẫn chưa hiểu Hatter định làm trò gì.

Lão nhảy phắt lên và đi nhanh đến máy điện thoại. Cái máy trắng

nối dây cáp với tòa nhà chọc trời đại bản doanh của đế chế “Hatter Industries”. Nâng ống nói lên và với giọng kẻ cả, vui vẻ khi sắp vồ được thắng lợi, lão nói:

– Bolte, đến ngay chỗ tôi!

Bolte? Có lẽ, màn mây mù đang tan dần. Arthur Bolte là một luật

gia khéo léo, phụ tá lâu năm của ông Bạc tỉ, người được uỷ toàn quyền

trong những vụ việc đặc biệt quan trọng. Anh ta nắm trong tay tất cả mối dây nối công việc kinh doanh của Hatter với Nhà Trắng, với Capitol với các chính phủ nước ngoài và với tất cả các lãnh địa hải ngoại của lão. Khi nào Bolte xuất hiện trước Hatter, thì tất cả những người còn lại, dù là thân cận nhất, lui ra ngay lập tức. Trong số đó cả “ngòi bút riêng” của lão. Tôi đứng dậy:

– Xin phép được cáo lui, ông Harold?

– Anh đi đâu? Cứ ngồi đấy!

– Tôi còn chưa kịp ăn.

– Anh sẽ ăn ở đây. Tôi muốn anh có mặt khi tôi bàn chuyện với

Bolte.

Tôi ăn trong vòng 15 phút. Bolte cần chừng ấy thời gian để phi từ

trung tâm Dallas ra vành đai xanh, đến nơi ở của những nhà kinh doanh phú quý nhất thành phố.

Nếu bạn không biết Bolte thì có gặp hắn ở ngoài phố xá của Dallas, New York hay Washington, bạn sẽ không bao giờ xếp hắn vào hạng người xuất sắc trong tờ- rớt trí tuệ của Hatter. Hắn ta ăn mặc xuềnh xoàng như một tay quản lý thời nay, trong bộ comple màu tro bằng

vải phianen, áo sơ mi trắng quàng cravat xám, đi giầy cao cổ đen. Đầu trắng như bồ công anh, còn mặt đỏ như người Anh điên. Răng trắng cực kỳ, đều tăm tắp, còn trên môi là nụ cười màu mè, ông Bolte chỉ

cười chân thành với một người là Hatter.

*

Hatter vơ số bản sao các tài liệu quốc gia trên bàn, giơ cao trên đầu rồi lại ném đánh phịch xuống bàn:

– Đọc đi, Arthur, rồi mà kinh ngạc!

Arthur chỉ cần bằng nửa số thời gian so với tôi để nghiên cứu chỗ

tài liệu. Anh ta lướt mắt qua chúng rồi ngẩng đầu hướng con mắt dò hỏi về phía sếp:

– Nào, anh sẽ nói gì nào, Arthur?

– Thật chấn động. Làm sao ông kiếm ra thế? Ông phải trả bao nhiêu?

– Tôi? Có đến chục triệu cũng không tiếc, nói mạn phép ông.

cả.

– Này, thế mà tôi với Brooks bỗng dưng lấy được, chẳng mất xu nào

– Làm gì có chuyện ấy. Kể cho anh ta nghe đi, tôn ông .

Tôi kể vắn tắt cho Bolte về chuyện làm sao mà số tài liệu này lại vào tay tôi.

– Chúng ta sẽ đăng chúng trên báo Texas Sun – Hatter nói. – Vào

thời điểm thuận tiện cho chúng ta. Còn hiện giờ… hiện giờ tôi trao món này cho anh, Arthur ạ. Hãy chụp lại các bản sao này cho đủ số lượng ta cần. Rồi anh hãy lấy một bản và đem đến Nhà Trắng. Đến gặp ai nào? Dĩ nhiên là không phải gặp chính Kennedy. Trước tiên hãy thử nói chuyện với một phụ tá của ông ta, Bandy cũng được. Hay

là với O’Donnell. Cũng có thể hàn huyên với O’Brien. Chọn ai cũng

được. Sau đó, sẽ chuyển sang ông em của Tổng thống. Và chỉ ở giai đoạn chót, nếu cần, mới mặc cả với Tổng thống.

Bolte khổ sở nhăn trán, cố hiểu sứ mạng của mình mà vẫn chưa hiểu ra.

– Tôi phải nói cái gì với những người của Kennedy? – anh ta hỏi.

– Nói chuyện thời tiết. Chuyện bóng đá. Chuyện Jackie(1). Cứ ba hoa chuyện gì cũng được. Sau đó hãy mơ cặp ra, đặt lên bàn đống thư mục này và bảo rằng Texas Sun sắp đăng tất cả số tư liệu hiện có kèm theo lời bình luận. Tôi đã tưởng tượng ra khuôn mặt của những anh chàng Ai Len(2) ấy như thế nào rồi. – Hatter cười ha hả.

Tôi với Bolte không thấy buồn cười. Chúng tôi gặng ra cười. Hatter lau nước mắt và dặn dò tiếp viên đại diện toàn quyền của mình.

– Rồi sau, nếu như người ta chưa giết anh ngay, Arthur ạ, thì anh hãy trình bày cho O’Donnell hoặc ai đó những điều kiện để những tư liệu có sức mạnh đáng sợ này khỏi bung ra, tức là khỏi xuất hiện trên trang báo chúng ta. Những điều kiện này như sau.

Và nhanh như thể đã chuẩn bị sẵn từ lâu lắm rồi, Hatter bắt đầu áp đặt ý mình cho Nhà Trắng:

– Một là, phải chôn ngay dư luận mà êkíp Kennedy đang chuẩn bị

về việc bãi bỏ sự giảm thuế dầu lửa.

Thứ

lửa.

Thứ hai. Hãng “Hatter Industries” phải chiếm vị trí xứng đáng trong đội ngũ những người giao hàng quân sự cho Lầu Năm góc.

Thứ ba. Máy bay “Tiên tri” của chúng ta đã bị các tướng lĩnh không quân đỏng đảnh bác bỏ, phải được chấp nhận cho việc vũ trang.

Thứ tư. Cuộc chiến tranh ngầm ở Việt Nam dần dần phải trở

thành công khai.

Thứ năm. Chúng tôi còn muốn đứa con cưng của Tổng thống, lực lượng đặc biệt đang diện mũ nồi xanh, đánh tan du kích Việt Cộng bằng vũ khí do các nhà máy chúng tôi sản xuất.

… Thứ bảy… Thôi, giai đoạn đầu thế cũng đủ rồi. Còn thêm mắm muối gì khi trình bày là việc của anh. Sáu điều kiện cũng đủ rồi. Anh hiểu tôi chưa, Arthur?

– Thế thưa ông Harold, ông suy nghĩ đã lâu về chiến dịch này?

– Cần bao nhiêu thì lâu bấy nhiêu.

– Tôi sợ rằng ông đã có ít thì giờ quá.

– Anh băn khoăn cái gì?

– Không phải băn khoăn, mà là lo ngại.

– Gì vậy?

– Cái hành động mà ông nghĩ ra đến chính ông cũng không thể tự thực hiện được, ông Harold ạ. Ông sẽ không chịu đựng nổi đâu. Ông có không ít ke thù ở Boston, Cleveland, Chicago, New York. Sau khi chúng

ta tố cáo sự việc ra thì từ khắp mọi phía chúng nó sẽ vào hùa chống lại

ta. Và chúng ta sẽ mất hẳn về lâu dài mọi đơn đặt hàng của Lầu Năm

góc. Không bao giờ lại đi chặt cành cây mà anh đang ngồi. Những kẻ mà chúng ta chỉ tay day trán sẽ tìm cách trị chúng ta mạnh nhất.

– Arthur ạ, anh lúc nào cũng thông minh, nhìn xa, cẩn thận, biết lường trước, anh trải rơm ở những nơi dù chỉ có chút xíu nguy cơ bị vấp. Quả như câu danh bất hư truyền. Nhưng lần này… lần này anh chưa hiểu hết nước đi của tôi. Vấn đề là tôi không đời nào lại công bố những tài liệu này. Tôi chỉ muốn một điều: với chỗ giấy má này, sẽ giành lại của Nhà Trắng những vị trí của mình. Tôi không hề thích thú gì, xin nhắc lại, không hề, với cuộc chiến tranh ngầm ở Việt Nam mà Kennedy khởi xướng, bị thủ tiêu hay dù chỉ bị dập bớt chút ít. Nếu

nói thẳng thừng ra thì tôi rất vừa lòng với tất cả những gì Nhà Trắng

định làm ở Việt Nam. Tôi chỉ không thích mỗi một điều là người ta

chèn ép tôi với tư cách là người cung cấp vũ khí và nhiên liệu. Tôi nhắc với anh và cả với tôi nữa: những vùng ven biển Nam Việt Nam nhiều dầu lửa khủng khiếp. Hãy còn ít kẻ biết điều đó. Nhưng tôi đã tiêu nhiều tiền vào việc thăm dò lòng đất Việt Nam. Nếu chúng ta thắng ở Đông Nam á, thì trong nhiều năm nữa chúng ta sẽ là cường quốc giầu lửa số 1. Và cũng không chỉ có dầu lửa. ở Việt Nam còn có cao su, thiếc, chì, những quặng quý. Nhưng cái chính là dầu lửa. Một đại dương dầu lửa(1). Tôi hy vọng rằng bây giờ thì anh đã hiểu tôi,

Arthur ạ.

– Vâng, tôi đã hiểu, thưa ông Harold. Nhưng dẫu sao tôi vẫn có những ý kiến phản đối xác đáng. Khi Nhà Trắng hay biết những dự định của chúng ta, tức là những hy vọng của chúng ta vào những tài liệu này, êkíp Kennedy sẽ soi mói chúng ta và cuối cùng sẽ giáng một đòn chí tử. Ông có thể cầm chắc rằng Kennedy và êkíp của ông ta sẽ đoán ngay ra là làm ầm ĩ về những tài liệu tuyệt mật kia vào lúc này

là không có lợi cho “Hatter Industries” và chúng ta sẽ không bao giờ

đi xa đến mức để cho các tài liệu kia trở thành sở hữu của dân chúng. Không được coi đối phương ngu ngốc hơn mình.

– Có lẽ đúng đấy. Thật thế, một đối thủ như Kennedy không thể cho là ngốc được. Thế anh có đề nghị gì?

– Không bao giờ đi công bố những bí mật này. Cứ để tài liệu nằm trong két sắt cho đến một lúc nào đó. Có thể sẽ có lúc nào đó chúng ta

sẽ cho chúng vào guồng quay. Chúng ta sẽ giành giật chỗ đứng của mình trên đời này mà không dùng đến những biện pháp cực đoan và

nguy hiểm. Cuộc chiến tranh ngầm ở Việt Nam sớm hay muộn rồi cũng sẽ thành ra công khai, khi đó thì đơn đặt hàng của Lầu Năm góc

sẽ dồn dập ùn lên chúng ta. Nhất định phải ùn lên.

Những kẻ giảo hoạt đốn mạt nhất cũng có lúc chân thật. Hatter đấm mạnh xuống bàn và rít lên khâm phục:

– Chà, thế mới là có đầu óc chứ, Arthur! Máy điều khiển học cũng không theo kịp. Chả lẽ anh lại không chơi poker bao giờ hay sao? Bắt đầu sang năm tôi sẽ tăng lương anh thêm một trăm nghìn đôla. Nhưng anh bạn thân mến ơi, tôi vẫn không chịu lùi bước đâu, bởi vì

tôi có nước đi dự trữ vô phương chống đỡ. Hãy nghe và hành động đi.

Anh hãy sao những tài liệu này. Một bản cho tôi. Bản thứ hai thì cứ cất giữ trong két sắt của tòa soạn báo Texas Sun. Nguyên bản phải

trả lại cho chủ nó. Bản thứ ba là cho anh. Anh sẽ long trọng trao nó cho Nhà Trắng. Và nhân đó hãy làm một lời tuyên bố miệng: đại loại,

kẻ thù chung của chúng tôi với các anh đã quẳng cho chúng tôi cái thứ giả mạo này, chúng định phá mối quan hệ tốt đẹp của chúng tôi

với chính phủ và Lầu Năm góc. Nhưng chúng tôi đã đoán ra mưu đồ của chúng và coi việc báo cho bạn bè biết những âm mưu xảo quyệt

của những kẻ đứng đằng sau ông Thomson là nghĩa vụ của mình. Kennedy cùng êkíp của ông ta dĩ nhiên sẽ không tin rằng chúng ta

làm điều đó vô tình hãn hữu đâu. Nhưng chả có hề chi. Họ sẽ hiểu cái chính: chúng ta không định làm căng mối quan hệ với Nhà Trắng vào

lúc này và họ sẽ đáp lễ chúng ta.

Bolte vỗ nhẹ tay:

– Hoan hô ông Harold! Bây giờ ông đã đi một nước đi cừ khôi. Bậc thầy vĩ đại của sự lật lọng Nicolo Machiavelli(1) đã để lại cho những

kẻ kế thừa mình, bọn quyền thế của thế gian này lời di huấn sau đây:

“… Đức vua phải luôn sẵn sàng quay đầu về bất cứ hướng nào, xét theo chiều gió và chiều dao động của may mắn, và… không né khỏi cái thiện, nếu có thể được, nhưng biết dấn thân vào cái ác, nếu nó cần thiết…”.

Cái thiện đối với Hatter và hạng người như lão là không thể có được, còn cái ác thì co luôn luôn hàng ngày, trong từng việc làm là điều cần thiết.

Những sự kiện tiếp theo đã chứng tỏ rằng tên chơi poker số 1 của thế giới đã không xòe ngửa hết các con bài của mình. Lão ta không bao giờ cởi mở hết lòng ngay cả đối với những người mà lão tin cậy không điều kiện, những người không tiếc sức lực và tài năng giúp cho

lão làm sinh sôi nảy nở số tài sản của mình, bản thân lão không cho phép ai biết mọi điều mà lão biết.

Lão chỉ mơ cho tôi với Bolte biết một phần nhỏ và không phải phần chính của những kế hoạch thâm hiểm của mình đối với Nhà Trắng.

*

Ba ngày sau tôi gặp lại, và đây là lần cuối cùng tôi gặp ông

Thomson. Cuộc nói chuyện ngắn ngủi và nghiêm túc. Tôi trả lại anh

ta đầy đủ các bản sao và tuyên bố là tiếc thay, do những nguyên nhân

không phụ thuộc vào chúng tôi mà chúng tôi không thể đăng những

tài liệu mật. Anh ta vừa đứng, vừa nghe tôi nói. Mặt anh ta trắng, c on

mắt thì buồn cũng như trong lần gặp đầu tiên.

– Tôi đã biết mà, – anh nói. – Không phải lúc. Quả chưa thật chín. Thôi vậy, tôi sẽ đợi lúc tốt đẹp. – Và không chìa tay vĩnh biệt, anh quay thẳng ra cửa.

Vài ngày sau nữa tôi đọc thấy trong báo “Giov” Boston rằng Thomson, giáo sư trường Đại học Tổng hợp Harvard, cộng tác viên của trung tâm nghiên cứu các quan hệ quốc tế, đã bị những kẻ lạ mặt giết ngay trên giường của mình, và căn hộ của ông đã bị cướp sạch trơn. Hung thủ và bọn cướp trong những trường hợp như vậy đều không tìm được.

Và tôi cũng không biết kẻ nào đã thủ tiêu Thomson. Đối với cả FBI, cả CIA, cả Nhà Trắng, và với cả đế chế “Hatter Industries”, anh đều nguy hiểm như nhau. Có thể bọn này hoặc bọn kia, hoặc bọn thứ

ba, hoặc bọn thứ tư đã giết anh.

MỐI LO NGẠI TRONG ĐẾ CHẾ

“HATTER INDUSTRIES”

Những quyền lợi làm ăn tối quan trọng đã thúc Hatter và những cộng sự chính của lão rời Thomson thân thương và nhào lên thủ đô. Chúng tôi đến đây chiều hôm qua bằng một chiếc chuyên cơ. Mark và Arthur, cánh tay phải và tay trái của Hatter từ sân bay vội vã lao thẳng đi làm những công việc cần kíp của mình. Còn tôi với ông chủ

thì về nhà của lão, nằm ở ngoại vi thủ đô, bên bờ Potomac. Bên kia

sông, ở cái vùng trũng Địa ngục cũ, hiện lên màu xám của cái khối năm cánh đồ sộ Lầu Năm góc, bao bởi mạn đường, những thảm cỏ, cây cối và nơi đỗ cho hàng nghìn ôtô. Hatter xưa kia đã từng khoan khoái ngắm nghía đứa con cưng của mình. Giá như tòa nhà chứa được

ba mươi nghìn người này, tức là nhiều gấp ba lần tòa nhà chọc trời Empire State building(1) nổi tiếng thế giới mà không đứng lẻ một mình, giá như cơ quan quân sự đã không vươn tay chiếm giữ hết vùng đất bao quanh Lầu Năm góc, thì Hatter chắc chắn đã dọn đến ở cạnh

nó.

Một trong những công ty xây dựng có vốn kiểm soát của Hatter đã xây Lầu Năm góc. Biệt thự riêng của Hatter trên bờ sông Potomac được xây toàn bằng tiền kiếm được do cung cấp hàng quân sự. ở đó vào

các dịp dạ hội long trọng, hầu hết các Bộ trưởng Quốc phòng, hải quân, không quân đến vui thú. Khách của Hatter thời ấy là những viên tướng, đô đốc, bộ trưởng, nghị sĩ có tên tuổi nhất. Nhưng bây giơ một số kẻ có thế lực ở Washington, những kẻ quyền sinh quyền sát về chính trị đã dần dần quên đường đến đây. Dinh cơ thủ đô của lão tỉ phú Texas đã mất vẻ lộng lẫy và quyến rũ trước kia. Thời thế thay đổi

thì nhà cửa, đồ đạc và hướng chảy của tiền cũng thay đổi. Bây giờ những đơn đặt hàng quân sự chủ yếu là đôla không chảy đến với Hatter, mà từ Hatter chảy đi. Chính nó là nguyên nhân của chuyến đi khẩn cấp đến Washington lúc này…

Từ cửa sổ nhà ăn, nơi tôi với Hatter đang sắp ăn tối, Lầu Năm góc,

được chiếu sáng từ phía dưới bởi những đèn pha, trông rất rõ. Mọi cửa

sổ đều tối, mà trong phòng của ông chủ Lầu Năm góc vẫn sáng. Ông

ta bận việc gì vào lúc này? Nghiền ngẫm công việc gì? Tình báo của Hatter báo cáo mới đây là bộ trưởng thường thường, chủ yếu là buổi tối, gặp gỡ với người bạn cũ Charles Thornton, nhà kinh doanh Los Angeles, chủ toàn quyền của công ty “Latton Industries”, chủ yếu sản xuất đồ điện tử quân sự. Mới mười năm trước đây, Latton, chủ một nhà máy nhỏ, đúng hơn là xưởng máy, chế tạo hàng điện tử với số lượng cỏn con. Thornton đã mua lại xí nghiệp của người kĩ sư tài ba Latton và trong thời gian ngắn nhất, nhờ có Lầu Năm góc và sự khôn khéo có được ở bộ không quân và ở hãng “Hugh Air Craft”, ông ta đã làm nên và nắm công ty bạc tỉ “Latton Industries”, cung cấp cho Lầu Năm góc những loại vũ khí mới nhất – kĩ thuật điện tử.

Đã từng có thời Bộ trưởng Quốc phòng ngồi chiễm chệ trong phòng cho đến sáng, tiếp chuyện với Harold Hatter. Viên bộ trưởng mới bây

giờ tiếp chuyện với các bạn bè của mình: Thornton, Propster v.v…..

Lầu Năm góc! Tòa nhà lớn nhất thế giới hình năm cạnh chia ra thành các khu vực, có sân bên trong, có hàng nghìn con mắt bằng kính chĩa ra mọi phía. Có sáu nghìn phòng. Năm vành đai hành lang

dài hai mươi tám ki lô mét. Có cả chục nghìn, nếu không phải nhiều

hơn, két bọc sắt chịu lửa với những lần khóa cẩn mật, những hầm niêm phong. Nhiều nghìn tấn giấy tờ có dòng chữ “Mật”, “Tối mật”, “Chỉ dành cho Bộ trưởng Quốc phòng và Tổng thống”, “Dành riêng cho các thành viên của Hội đồng an ninh quốc gia”. Lầu Năm góc là một công ty quân sự giàu có nhất thế giới, vạch kế hoạch chiến tranh trên đất người. Trong lòng nó tất cả những gì tinh tuý nhất mà gần mười triệu công nhận, chủ trại, kĩ sư, bác học nước ta làm ra đều bị đốt trụi. Năm này qua năm khác, nó ngày càng đòi hỏi thiêm nhiều tiền, ngày càng huỷ hoại người Mĩ bằng việc bắt họ làm công việc dã tràng. Con quái vật một lỗ mũi phun ra những núi vàng, lỗ kia phun ra đại bác, xe tăng, máy bay, bom đan, napan, tên lửa và xác người, xác người, xác người. Văn phòng ăn cướp to nhất thế gới. Và là xí nghiệp gieo chết chóc.

Vào cái thời ông chủ của tôi còn là người cung hàng chủ yếu của

Lầu Năm góc, tôi thường đi dạo dọc những hành lang rộng rãi của nó mà hai chiếc “vi lít” đi lọt. Tôi đã vào cả nơi tôn nghiêm sùng kính nhất – 3- E- 880(1). Kí hiệu ấy như sau: tầng ba, hành lang E, tên của Eisenhower, phòng 880. Trên tường xám bên cạnh cửa đen có tấm bảng chữ lấp lánh mạ vàng: “Bộ trưởng Quốc phòng”. Phòng 880 là cả những dãy phòng: phòng làm việc, phòng ngủ, phòng ăn, quán ba, phòng tắm, phòng dành cho thư kí và thang máy riêng chỉ dành cho

bộ trưởng. Tấm thảm dày và đắt tiền phủ sàn phòng làm việc thênh

thang. Từ những cửa sổ của nó, có thể ngắm hình bóng tòa nhà Capitol, đài kỉ niệm Washington và Nhà Trắng. Đồ đạc bày biện ở đây thuộc loại tân tiến nhất. Từ cái bàn làm việc mà ở đó trước kia tướng Pershing, chỉ huy lực lượng viễn chinh Mĩ ở Pháp năm 1918, đã ngồi làm việc. Các bộ trưởng đến rồi lại ra đi, còn cái bàn Pershing thì vẫn nằm ở đó. Bây giờ chễm chệ tại đó là McNamara, quản lí trưởng cũ của hãng độc quyền khác. Và sau McNamara trong các căn phòng của

3- E- 880 sẽ là một kẻ kinh doanh tương tự. Theo truyền thống lâu đời,

đứng đầu Lầu Năm góc không phải là một viên tướng, mà là một kẻ dân sự gắn chặt với các giới công nghiệp và tài phiệt. Về hình thức thì ông ta do Tổng thống bổ nhiệm, còn trên thực tế thì ông ta đại diện cho quyền lợi của nhóm có thế lực mà Tổng thống dựa vào. Lầu Năm góc nắm những vị trí then chốt của kinh tế đất nước và tác động đến

chính sách đối nội và đối ngoại của nước Mĩ.

Tôi cũng chẳng để hở bí mật quốc gia quan trọng nào cả. Trong lời

từ biệt nhân dân ngày 17 tháng Giêng năm 1961 trước khi rời Nhà

Trắng và trao dây cương điều khiển cho John Kennedy, Eike(1) đã nói

về nguy cơ nghiêm trọng của tổ hợp công nghiệp quân sự đang phình

to. Là viên tướng cụ, cựu tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang, cựu Tổng thống biết rõ tiền được Lầu Năm góc sử dụng như thế nào và vào đâu. Ông ta nói từng lời sau đây: “Chúng ta phải tránh ảnh hưởng thái quá mà tổ hợp công nghiệp quân sự tác động một cách cố ý hay vô tình lên các cơ quan chính phủ”. Tất nhiên, ông ta không chỉ nhắc đến Lầu Năm góc và hơn một trăm hãng cung cấp phương tiện chiến tranh, mà còn cả 2.700 căn cứ quân sự ở nước ngoài, nằm rải

rác khắp thế giới.

Eisenhower cả đời toàn tâm toàn ý phục vụ nước Mỹ, thể hiện lợi

ích của giới quân sự, từng là đồng minh của các vua đại bác, vua xe tăng, máy bay. Vào lúc cuộc đời xế chiều, về yên nghỉ, ông ta bỗng nói thật lòng đến mức tuyên bố liên minh của Lầu Năm góc với những kẻ cung hàng của nó là “lực lượng xảo quyệt và nguy hiểm, hiện ra lộ liễu trong thành phố Mĩ, trong từng cơ quan lập pháp, trong từng công sở của chính phủ liên bang”.

Trên tầng ba của Lầu Năm góc, ở hành lang E, hành lang mang tên Eisenhower, trên tường có gắn tấm băng kỉ niệm ghi lại thông điệp từ biệt của Tổng thống thứ ba mươi tám của Hoa Kỳ. Tôi đã đọc

nó. Nhưng không tìm thấy một lời nào đã được trích dẫn trên đây.

Trong diễn văn của Tổng thống, người ta đã cắt bỏ những gì gieo rắc ngờ vực xuống Lầu Năm góc và liên minh của nó với các nhà công nghiệp quân sự.

Từ xa, tôi nhìn qua sông Potomac và nhìn vào tòa nhà năm cạnh khổng lồ u ám. Nơi đáng sợ đối với những ai đã hay sẽ trở thành người lính, đặc biệt đối với tôi. Mỗi lần nhìn thấy nó, tim tôi lại thắt

lại vì một linh cảm nào đó. Điều đó có cơ sở. Nếu đội canh gác đặc biệt nghi vấn việc tôi định kể về tổ hợp công nghiệp quân sự tất cả những

gì tôi biết thì tôi không thoát khỏi cái chết.

Phải hành động sa o cho người ta không ngờ tôi chừng nào tôi chưa viết xong quyển sách. Tôi nghĩ điều đó có thể thực hiện được. Dưới cái

ô của Hatter, trong danh vị “ngòi bút riêng” của ông Bạc tỉ, tôi sẽ an

toàn tuyệt đối.

Hatter đi vào phòng ăn: tôi nghe thấy những bước đi nặng nề như ngựa thồ của lão. Tôi cũng không quay lại. Tôi tiếp tục nhìn Lầu Năm góc dưới ánh đèn chiếu sáng. Ông Bạc tỉ tiến lại bên cạnh và cũng hướng cái nhìn về phía sông Potomac và xa hơn – vê phía tòa pháo đài năm góc. Khoảng hai- ba phút ông ta vẫn yên lặng. Rồi ông ta cười khẩy và phán một cách cay độc.

– Một cái đu, kẻ nào trong túi có một triệu bạc đều cố sức nhảy lên

nó, đu đưa, kiếm chác. Một cái đu không dừng bao giờ. Nó làm chóng mặt những kẻ đang phất. Nó làm gãy sườn những kẻ rù rờ. Nó đẩy xuống nghề bị gậy những kẻ mãi trố mắt nhìn. Nó nghiền ra cám

những kẻ không mặc áo giáp. Lầu- Năm- Góc! Bục danh dự của những

kẻ chiến thắng. Cái máng ăn của tướng lĩnh. Cái mộ tập thể của bọn lính. Cái thùng không đáy chở những người đóng thuế… Cái nhà thổ của những kẻ quyền cao chức trọng… Thế nào, tôn ông, tôi đã đoán ra

ý nghĩ của anh rồi chứ?

– Không, ông Harold ạ, ông không đoán ra.

– Thế anh nghĩ gì lúc nhìn về phía đó?

– Trong một vài lời thì không nói hết được. Tôi đang nghĩ là trong

cái miếu đường chiến tranh kia có hơn ba mươi nghìn giáo sĩ tài ba,

giàu kinh nghiệm, sáng suốt, có tổ chức và khôn ngoan đang làm việc. Và ông phải thắng họ.

Hatter hừm một tiếng khinh bỉ và không muốn nghe tôi nói nữa:

– Tài ba gì lũ ấy?! Sáng suốt gì? Tính tổ chức tổ chiếc gì đâu?! Có một chuyện ngụ ngôn hay về cái miếu đường ấy và các giáo sĩ của nó.

Rồi lão vừa cười vừa kể câu chuyện tiếu lâm cũ rất phổ biến, một trong hàng nghìn chuyện:

– Đối phương không đến nỗi ngu ngốc mà đi ném bom Lầu Năm góc. Làm thế c hỉ tổ chấm dứt sự hỗn độn ngự trị ở đấy.

– Ông rất không cẩn thận, – tôi mỉm cười. – Ai mà biết được, bây

giờ không khéo có cái micro định hướng nào đó của Lầu Năm góc chĩa vào đây.

– Thì cứ mặc nó chĩa. Tôi chẳng sợ ai cả. Những người khác không

có quyền n

nói thế, nhưng tôi có thể cho phép mình nói thật. Hơn ai hết,

tôi chăm lo sao cho xuất hiện “con bò thần”, mà lúc này Thornton, Propster và bọn cánh hậu của chính quyền hiện nay của Nhà Trắng đang hút bú.

Lão dừng lời và nhìn tôi như muốn mời thổ lộ tâm sự. Trong những

lúc như thế, theo quy củ trật tự có từ lâu, tôi phải tiếp chuyện, hoặc phức tạp hóa nó như thế nào đó, hoặc hướng sang chiều khác. Mỗi lần hành động tôi đều căn cứ vào hoàn cảnh, vào cái mà ông chủ muốn

nghe. Ai cũng biết những kẻ quyền thế của thế gian này muốn cho

người nói chuyện đoán ý nghĩ và mong muốn của chúng. Tôi nói:

– Hỡi ôi, Lầu Năm góc đã quên mất ai đã đẻ ra nó và định phá cả người mẹ đẻ ra nó.

– Nó sẽ gẫy răng, – Hatter quay lưng về phía Potomac và Lầu Năm góc, bẻ ngón tay răng rắc. – Ta không nói chuyện đó nữa. Để đến sáng mai. Nào ta đi ăn thôi.

Buổi sáng vào giờ giấc thường lệ, Hatter gọi tôi đến qua điện thoại nội bộ. Khi vào phòng ngủ của lão,tôi nhận thấy cái cửa sổ lớn hướng

ra sông Potomac và Lầu Năm góc được che bằng cái rèm nặng nề màu sẫm. Người bố không muốn nhìn thấy đứa con của mình. Lão đang

giận dữ. Phòng ngủ vắng không. Cửa vào buồng tắm mở toang. ở đó

Harold Hatter đang đứng trước gương, mặc bộ pyjama màu xanh đã

cũ kĩ và đang cắt tóc cho mình. Lão làm việc đó bằng cái kéo thợ may bình thường chẳng có lấy tí gì gọi là tài nghệ cắt tóc. Chẳng qua lão đưa kéo xoẹt những cụm tóc màu hung như lông cừu đang rũ xuống

và quẳng nó vào sọt. Cái đầu to của lão đầy những bậc thang.

Không đẹp ư? Có hề chi, xuôi hết. Hatter đã đạt đến cái địa vị có thể cho phép lão không quá săn sóc đến sự trang điểm và diện mạo của mình. Lão đã quen với việc người ta tiếp đón lão không theo trang phục. Lão tự cắt tóc không phải vì tiếc vài ba đôla. Không. Lão không thể đi ra hiệu cắt tóc, ngồi vào cái ghế nào đó mà trước đó hàng nghìn người đã từng ngồi và kiên nhẫn đợi đến lượt anh thợ nào đó húi đầu cho. Ngoài ra, lão không thể cho phép mình ngồi không cả giờ đồng

hồ. Thì giờ của Hatter là vô giá. Thu nhập hàng năm của đế chế của

lão là hơn một trăm triệu đôla. Ba triệu một ngày đêm. Một trăm hai mươi lăm nghìn một giờ.

Một lần, vào thời kì tôi mới cộng tác với Hatter khi bắt gặp lão cầm kéo đứng trước gương, để trả lời cho cái nhìn thắc mắc của tôi, lão đã nói thế này:

– Mỗi phút ngồi không của tôi làm thu nhập hụt đi cỡ nghìn đôla. Anh thử tính xem, một giờ đồng hồ, ngồi ở hiệu cắt tóc sẽ tốn kém cho

tôi bao nhiêu. Nào, tính ra chưa? ấy đấy! Bây giờ thì anh sẽ không

mạo muội cho tôi là đồ keo bẩn.

Lão nói câu này với nụ cười nửa đùa nửa thật, dường như muốn giễu chính mình, nhưng theo tôi, lão còn cách rất xa cái điều mà lão vừa nói ra.

Không, tuyệt nhiên Hatter không hà tiện. Tôi đã vài lần có dịp trao những ngân phiếu có số tiền rất lớn cho viên tướng cũ Worke và thượng nghị sĩ Goldwater, các thủ lĩnh những phái cực hữu. Đến hàng trăm nghìn đôla, Hatter cũng không tiếc để duy trì hoạt động của các

tổ chức đồng minh chính trị của mình. Lão không tiếc bạc triệu cho thắng lợi của bọn họ trong các cuộc bầu cử, điều đó tôi biết.

Bộ mặt một con người được tạo nên từ tất cả những gì người đó làm, người đó nói hàng ngày. Đôi khi cả những chuyện gọi là vặt vãnh cũng vẽ lên chân dung chính xác của con người.

Lão thả kéo xuống, cẩu thả rũ những món tóc hung thẫm khỏi vai và rời gương.

– Thế là xong. Đầu nhẹ đi đến hai pao(1) ấy. Suy nghĩ cũng sáng suốt hơn.

Lão đưa mặt sang tôi:

– Thế nào, ta ăn sáng chứ, tôn ông?

Người đầy tớ nhà Hatter đã thuộc những món ông chủ, những người thân cận và khách khứa vẫn dùng.

Tôi được dọn cho món trứng Lacock, giăm bông Đan Mạch, bơ, xa lát, rau, bánh mì xốp, cà phê. Khẩu phần sáng của ông chủ giản dị hơn: cốc nước cam, mẩu bánh mì đen, pho mát không tươi, táo tàu, một quả táo. Tôi biết Hatter lắm, lão không bao giờ vi phạm chế độ ăn uống nghiêm ngặt.

Chúng tôi ăn sáng và sốt ruột ngóng ra phía cửa. Chúng tôi chờ đợi các đại sứ đặc mệnh của mình được phái đi khắp các ngả của Washington từ chiều qua. Công việc của ông chủ phức tạp thêm ra,

đòi hỏi phải thêm dầu bôi trơn. Người và tiền của Hatter được tung ra

tranh đấu với các hãng thù địch, với Lầu Năm góc, Capitol, Nhà Trắng. Nhưng kẻ thù cũng xung trận với những lực lượng không nhỏ. Cược đặt rất lớn từ cả hai phía. Tôi biết Hatter là một trong những kẻ làm ăn khôn khéo nhất, nhưng không chắc rằng lão sẽ thắng. Lần này lão đụng độ với những kẻ không kém cạnh gì lão. Hôm nay, sau một hoặc hai g iờ nữa, nhiều cái sẽ sáng tỏ.

Ngay sau bữa ăn, Hatter lấy ra cỗ bài mới tinh bóng láng, sồn sột bóc ra.

– Nào, tôn ông, ta chơi chứ?

Tôi không thích bài bạc. Nhưng làm gì được bây giờ? Tôi nhún vai, mỉm cười:

– Chơi poker?

– Còn chơi gì vào đây nữa! Chỉ có poker là trò chơi thực sự.

Đã hai mươi năm nay, Harold Hatter, theo lời thừa nhận của lão, không hề chơi bài, dù kể cả ở các câu lạc bộ sự vụ lẫn ở các casino(1). Chỉ khi ở nhà với tôi, lão mới cầm đến quân bài. Và cũng chỉ trong những trường hợp hãn hữu. Như khi chờ đợi những tin tức lành, dữ; khi suy ngẫm về nước đi của kẻ thù trong ngàn vạn nước đi. Trong lúc chơi, theo lời lão, lão cảm thấy mình thông minh hơn, ác hiểm hơn,

nhìn xa hơn, suy tính nhanh hơn.

Tôi hẳn sẽ không kể về poker, nếu như cái say mê lâu đời của Hatter đối với trò chơi này không rọi thêm ánh sáng vào cá tính, những hành động của lão và thái độ đối với Tổng thống hiện nay.

Nhấp nước bọt ngón tay, lão xóc cỗ bài bóng láng một cách tài nghệ thành mặt cắt mà không nhắc bài khỏi bàn, hệt như người hồ lì vẫn làm, rồi ném lên đặt cược mười đôla, nháy mắt và cười như một đứa

trẻ vớ được đồ chơi yêu thích.

Thật hiếm, rất hiếm khi tôi thấy Hatter cười:

– Nào, tôn ông, ta bắt đầu thôi!

Tôi cũng ném mười đôla lên đặt cược.

Poker đối với một con mắt không am hiểu là một trò chơi tầm thường, không đòi hỏi trí óc nhiều, không đòi hỏi sự khôn ngoan, khéo léo. Cứ ném những quân bài vô dụng xuống và lựa lấy bộ mạnh nhất. Chính sự khôn ngoan lọc lõi là ở đấy. Còn lại là chuyện may rủi.

Tôi đã nghĩ như thế trước khi nhìn thấy Hatter chơi bài. Bây giờ thì tôi đã biết rằng poker là trò chơi tài tình nhất thế giới.

Dù có đấu với Hatter bao nhiêu đi nữa, tôi vẫn không thể hiểu

lúc nào thì lão chơi thật với bộ bài đẹp trên tay còn lúc nào thì nghi

binh. Vẻ mặt, giọng nói, cái nhìn không hề làm lộ ra ý nghĩ và xúc cảm thực của lão. Lão vẫn kín như bưng dù là lấy được bốn con K

với con Phăng hay là chỉ có ba mụ Q tội nợ. Chính ở đó ẩn giấu bí quyết thắng lợi của lão. Tôi có cơ sở để cho rằng Hatter ngồi lên

hàng kinh doanh loại bự chính là nhờ ở những thành công lớn lao trong nghề chơi bài. Dĩ nhiên, trong quyển tiểu sử về lão mà tôi viết

ba năm trước, không có lấy một lời nào về những nhận định tư ơng

tự. Lúc ấy Hatter ra dáng con người của thời đại anh hùng của

nghề kinh doanh. Dòng dõi chi dưới của một gia đình đông đúc, con trai một điền chủ bang Illinois, là một thanh niên phóng túng, thích phiếu lưu, lão đã bỏ nhà từ thời trẻ, lang thang khắp đất nước. Làm bần nông, thợ đốn củi. Thả bè gỗ. Đắp đường. Và cuối cùng, sau khi dành dụm được ít tiền, lão lên đường đến Texas tìm dầu lửa. Anh chàng kinh doanh mới vào nghề khoan được cái lỗ khoan may mắn trong đời và tìm ra vỉa dầu lửa giàu nhất. Dường như là nhà kinh doanh Hatter, tỉ phú tương lai, đã sinh ra như thế.

Kẻ có hàng tỉ đôla trong tay thật khó mà cảm thấy mình bằng vai phải lứa với người khác. Hatter không thể và không muốn quên, lão là một con người khác thường, đứng trên mọi người, là người số một trong số những kẻ đầu đàn. Lão nói năng chậm rãi, oai vệ, không lo người ta ngắt lời. Lão đã quen được người khác kính cẩn lắng nghe, kèm với nhận thức hèn kém của họ so với lão. Lão tin chắc rằng hễ mở mồm ra là lão lại phán ra chân lí dưới dạng thuần tuý nhất. Lão lãnh đạm một cách chân thành và kiên định với vấn đề ăn mặc của lão. Luôn luôn ra ý cho mọi người hiều rằng tiền của lão là vô địch. Thật

là lạ cho một người ở địa vị như lão, lão không bao giờ lai vãng các

giải trí viện ở Las Vegas, không lôi về tư dinh của mình lũ gái đẹp đắt tiền, không tổ chức các cuộc vui, vũ hội sang trọng, xa xỉ như những trùm tư bản khác. Không hút thuốc. Không xài whisky, brandi, bia. Lão thường đi ngủ sớm. Dậy trước khi mặt trời mọc. Làm việc suốt ngày.

Năm năm sống kề với Hatter, hàng ngày tiếp xúc với lão, nhưng chưa lần nào tôi thấy lão thật sự vui với đời. Lúc nào lão cũng trầm ngâm suy tư. Lo

Lo nghĩ cái gì đó. Nhìn đăm đăm vào đâu đó, vào cái gì

đó. Lão sợ những phiền toái, những cú giáng, sự rình mò, phản bội nào đó. Trạng thái thường xuyên của lão là cảnh giác đề phòng muôn thuở. Sự cảnh giác của một mãnh thú khôn ngoan luôn sẵn sàng đánh

lui sự tấn công bất ngờ của đồng loại. Chỉ khi chơi poker với tôi thì lão

mới cảm thấy vui vẻ ít nhiều.

Lão thường nói ít và dè lời, chỉ trong những trường hợp bất đắc dĩ, khi mà cái nhìn, cử động, cái gật đầu, nắm tay chặt ngón trỏ, lông mày rướn, cái mồm méo đi, cái hèm hay cái tặc lưỡi không thể thay thế cho lời nói được. Đôi khi lão thả lỏng cho cái lưỡi, dường như để bù cho những ngày im lặng, và đâm ra gần như là lắm lời, có lúc rơi vào khoác lác. Kẻ khoác lác hay quên sự cẩn trọng, hay hé mở những điểm yếu.

Lão chỉ đọc những giấy tờ sự vụ, Kinh Thánh và một vài tờ báo. Nhưng được cái có khả năng nghe và xem nhiều tiếng liền các chương trình của các đài phát thanh và vô tuyến thuộc quyền lão. Những kẻ chủ nhiệm thừa biết nhu cầu và sở thích của sếp họ và không đưa lên làn sóng điện những gì khả dĩ gây nên cơn giận dữ của lão hay chí ít

là sự không hài lòng. Trong công ty của Hatter quyền làm tiền được

ban cho tất cả nhân viên của lão, nhưng làm đại chính trị thì lão không giao thác cho ai. Tự lão làm lấy.

Hai mươi năm trước, lão mất vợ trong những tình huống bí ẩn. Từ

đó, lão goá vợ. Con trai và hai con gái ngay sau khi mẹ chết vào ở

trường cao đẳng nội trú kín và sau khi tốt nghiệp đều ở riêng. Hatter

nói đến con cái với sự khinh thị như là nói đến những kẻ thừa kế phá

gia chi tử. Lão chỉ còn thương mỗi đứa con trai cả Barry Mark bệnh

tâm thần. Cạnh dinh thự chính ở Texas, lão xây cho đứa con ba mươi

tuổi một căn nhà điều trị, thuê một đội đầy tớ, chỉ huy một đoàn thanh nữ yêu kiều. Cưu mang Barry làm lão tốn một phần tư triệu đôla hàng năm.

Vài nét phác qua như thế tạm thời là đủ. Tôi sẽ còn phải vẽ nhiều nữa chân dung ông Bạc tỉ. Lão làm mẫu vẽ cho tôi ngày lại ngày mà không ngờ. Nếu không bị rơi vào vó lũ thám tử đặc biệt canh giữ Hatter và những bí mật của lão, thì tôi sẽ viết câu chuyện xác thực về lịch sử thành đạt của Harold Hatter – “Success Story”(1).

Trở lại chuyện poker.

Trong tay tôi là năm quân bài. Ba con át, con bảy và con chín. Mở đầu thế là không tồi. Tôi quẳng hai con bài lẻ xuống và lấy lên được con át rô và con phăng. Thành một bộ tuyệt vời. Ước mơ của một người chơi poker. Không còn gì tốt hơn nữa.

Hatter chỉ đổi một con bài. Lão hi vọng được bộ suốt? Hay là lão đã có carê(2) rồi?

– Nghĩ lâu quá đấy, tôn ông ạ, – Hatter cắt ngang dòng suy nghĩ

của tôi. Lão chăm chú nhìn tôi và cười bằng đôi mắt trong như nước đá.

Lâu thế kia ư? Thế mà tôi cứ tưởng… Tôi ném lên bàn tờ hai mươi đôla:

– Tôi chơi đấy.

Hoặc giả cử động của tôi vội vã, quá táo tợn, hoặc giả trên mặt tôi phản ánh sự tin chắc được cuộc, hoặc giả Hatter đã nhìn thấu qua quân bài của tôi, tôi không rõ, nhưng lão không để cho tôi cuốn lão vào cuộc. Lão lắc đầu, nói “Pass”(3). Tôi hàng ngay để khỏi bị thua nhiều. Tôi không kìm được, nhòm vào bộ bài của lão. Một bộ tuyệt đẹp. Carê!

?????

(1) TiỊng Anh: truyÔn thµnh ®¹t.- N.D.

– Sao lại thế, ông Harold? Sao ông không chịu chơi?

– Thứ nhất là một người chơi poker thực thụ không cho phép mình có hành động bất lịch sự như thế; nhòm bài người khác sau khi người đó nói “Pass”. Chỉ nội hành động như vào thời khai phá Miền Tây cũng đủ để ăn roi đầu bọc chì rồi. Có khi đến chỗ vung súng lục ra. Thứ hai là, tôi chơi để làm gì khi đã hiểu là anh sẽ đánh cho đến kì thắng với quân bài chúa tể của mình.

– Ông làm thế nào hiểu được điều ấy?

– Tôi vẫn luôn nói với anh, tôi là tay chơi poker cự phách nhất thế giới mà lại.

Tôi không thể không lợi dụng dịp này mà hỏi:

– Xin ông nói thử, nếu không có gì bí mật, tay chơi poker cự phách nhất thế giới là thế nào?

Trước đây, khi chơi poker với Hatter, tôi đã thận trọng thử hỏi những câu tương tự, nhưng lão luôn nói giỡn. Lúc này đây, tuy tôi không tỏ chút năn nỉ nào và cũng không hi vọng được trả lời thì lão bỗng nhiên nhân nhượng. Tại sao? Cơn cởi mở chăng? Mong muốn khoác lác không cưỡng được? Dù với lí do nào đi nữa, nhưng bức màn

đã từ lâu che giấu những năm trai trẻ của nhà tỉ phú, đã mở ra trước

tôi.

Tay xóc bài và mắt nhìn qua cửa sổ sang Lầu Năm góc, lão nói:

– Được, đã thế thì tôi sẽ kể anh nghe tôi trở thành tay poker cự phách nhất thế giới ra sao. Cái đó rất đơn giản nếu như trong anh có thiên tư. Mọi cái có thể học được, chứ poker thì không. Nếu anh không phải là tay poker thiên bâm, sớm hay muộn anh cũng thua bạc, dù anh có lắm tiền như quốc vương Saudi Arabia hay lão Onassis(1) người Hy Lạp.

Hatter dừng lại giây lát, độ lượng nhìn tôi ra ý bảo bây giờ tôi có thể nói được rồi. Tôi hỏi:

– Một tay poker thiên bẩm phải có những tài năng gì?

– Tôi sẽ giải thích ngay bây giờ. Anh hãy hình dung là quanh bàn

có năm vị giàu có đang chơi poker. Tôi chia bài. Nhìn đây!

Hatter bằng động tác uyển chuyển của nhà ảo thuật rải bộ bài trên bàn sao cho các quân bài nằm ngửa mặt lên và xếp lớp nhau. Trong tích tắc, lão thu cỗ bài lên bằng tay áo sơ mi và cười khẩy.

– Thế là xong trò chơi. Trò chơi này tôi làm chủ! Tôi biết chính xác

đối phương đó có những con bài nào. Bọn họ không tránh khỏi thua.

Tôi đã tính hết, lường hết. Tôi được võ trang, còn bọn họ chỉ có tay không. Nào, ta kiểm tra xem.

Hatter đẩy cỗ bài về phía tôi:

– Trên cùng là con át nhép. Dưới nó là Q pích. Tiếp theo là tám cơ. Sau nữa là Q rô. Rồi át cơ. K pích. Q nhép. Mười rô. Tám pích. Cứ thế

mà tiếp. Dưới cùng là hai con J đỏ, con phăng và K rô.

Tất cả đều đúng.

– Làm cách nào ông biết được?

– Khi tôi chơi poker, tôi dựa vào trí nhớ máy ảnh của mình. Tôi có thể lướt qua các con bài rồi sau gọi tên lần lượt trong cỗ bài không hề nhầm lẫn. Chơi poker phải nhớ quân bài người ta đi, đã đành rồi. Còn

cái này cũng quan trọng. Đa số người chơi xóc bài cẩu thả nên quân

bài thường giữ nguyên thứ tự.

Khi đã tuôn lời, Hatter không thể dừng lại được nữa. Lão nói suốt lượt:

– Tôi thấy mình chơi poker cừ gần như từ khi còn trong bọc tã. Anh không tin chăng? Tôi nói thật đấy. Tôi còn chưa biết đọc biết viết, khó khăn lắm mới gạo được mấy chữ “Thưa Đức cha của chúng con”, mà

đã chơi poker rồi. Không phải được chăng hay chớ đâu nhé: thắng cả các anh ruột là những người đã chơi poker đến nghiện ngập. Cả đến

bố tôi, người chơi cự phách của bang Illinois, cũng bị đo ván. Và tôi vét sạch của hết láng giềng này đến láng giềng khác. Tôi đạt được

điều đó cũng không vất vả gì lắm. Cái khiếu bẩm sinh, nhìn, nghe mọi thứ xung quanh, không bỏ sót cái gì quan trọng, cần thiết rất được

việc. Và mọi cái không sót cái gì, cho đến những chi tiết nhỏ, tôi đều

ghi nhớ. Tôi không phóng đại và vỗ ngực khen mình thiên tài đâu. Đầu tiên khi thắng, chính tôi cũng ngạc nhiên, không hiểu tại sao mình lại trúng như thế!

– Thế lần được món tiền to đầu tiên ấy, ông hãy còn nhớ?

– Sao lại không! Tôi nhớ rất rõ dù là đã hơn ba mươi năm. Những

sự kiện như thế, anh bạn thân mến ơi, quên thế nào được. Chà tuổi

trẻ! Ta sẵn lòng trả giá nhiều để lấy lại nó!… Tôi khai thác gỗ ở Pecos Valley và ở New Mexico. Trại chúng tôi nằm cạnh nhánh đường sắt, còn nhánh thứ hai cách chỗ chúng tôi hai dặm dẫn đến nơi người Mexico làm việc. Buổi chiều, tôi thường đến đó chơi cúp can. Đó là một trò chơi thông minh. Phải chơi bằng cỗ bài Tây Ban Nha có bốn mươi quân, không có các quân tám, chín và mười. Một chiều ấm áp, chúng tôi ngồi ngoài trời và tôi chia bài lên cái giỏ đựng đồ vải lộn ngược. Thình lình tôi bắt đầu thắng, và thắng to. Mọi người trong trại

đổ xô đến nhóm chúng tôi. Máu hăng trùm lên mọi người, ai cũng lôi

ra số tiền cất giữ được. Tôi ăn suôn sẻ hết ván này đến ván khác.

Chúng tôi chơi đến tối khi mà tất cả số tiền của bọn Mexico chui vào túi tôi.

Buổi chiều hôm đó, tôi được bốn nghìn đôla. Tôi giấu tiền sâu trong túi, nhã nhặn tạm biệt đám người Mexico và đi bộ ra về dọc theo đường sắt. Khi đi được quãng đường vừa tầm súng, tôi nhảy phốc sang bên, lăn xuống nền đường và lẩn vào rừng. Tôi tin chắc rằng nếu

cứ tiếp tục đi theo dẫy tà vẹt mà chưa hút tầm mắt những kẻ thua bạc thì không còn sống để thấy món tiền được cuộc nữa. Tôi chạy vòng vèo qua rừng, đi đường quành xa và tảng sáng mới về đến trại. Tôi đủ

trí khôn để không hở cho ai hay chuyện hôm trước. Vào buổi trưa,

cũng không hé răng với người nào, tôi lên tàu

hỏa và đi nơi khác. Tiền luôn bên người tôi.

Đầy khâm phục và lễ độ, tôi hỏi thẳng:

– Bốn nghìn ấy là nền tảng cho của cải của ông bấy giờ?

– Không. Tôi còn nhiều năm tay trắng. Tôi phiêu bạt khắp các ổ bạc ở California, Bắc và Nam Dacota. Làm những cú con con. Lảng

vảng ở các sòng bạc. Hợp tác với các tay anh chị hành nghề bí mật ở

Canada. Tôi sống cũng không đến nỗi tồi, có tiền và đợi dịp may lớn. Người ta biết tôi ở khắp các sòng bạc miền Nam. Chính tại miền Nam,

giờ phất của tôi đã đến. Vào một ngày kia, số phận run rủi tôi gặp lão chủ giếng khoan dầu. Đó là ở bang Arizona, trong sòng bạc có cái tên

nhiều hứa hẹn “Eldorado”(1). Đối thủ của tôi đấu dữ lắm. Hắn cũng biết mọi bí quyết poker không kém tôi. Chúng tôi chơi ở thế cân bằng.

Nhưng tôi đã gặp may. Tôi ăn của hắn hết cả số tiền mặt, tất cả số ngân phiếu. Không có dấu hiệu gì cho thấy sẽ có bước ngoặt trong

cuộc chơi. Đáng lẽ kẻ bị thua phải dừng lại. Nhưng ai lại bỏ cuộc vào giữa lúc quyết liệt nhất? Một tay poker thực thụ phải chơi cho đến

thất bại hoàn toàn hay đến thắng lợi hoàn toàn. Đối thủ của tôi ném vào canh bạc cái quý nhất mà hắn có – giếng dầu sản lượng cao. Tôi

được cuộc. Ngày hôm ấy “Thêm một công ty dầu lửa đã ra đời như thế đấy”, – tôi nghĩ bụng. Tôi không thổ lộ lấy một lời. Ngồi yên, tôi đợi

Hatter quyền năng dốc tiếp bầu tâm sự.

Cả sau keo thắng như vậy – lão poker nói tiếp trong mớ kí ức ngọt ngào đang xâm chiếm lão – tôi vẫn chưa đặt nền cho cái bây giờ gọi là “Hatter Industries”. Cái đó là chuyện mãi về sau. Quả thực, tôi đã có căn nhà sang, có gia đình, tiền bạc, đã mua vết cái lô có dầu ở Texas, nhưng chưa có được ảnh hưởng và người ta chỉ biết tôi trong phạm vi bang này. Nhiều kẻ hạng át của Texas còn chế giễu tôi. Cũng không phải là không có lí. Hồi ấy tôi hãy còn rất thô kệch. Còn xốc nổi lắm. Nghĩ thế nào là làm thế ấy. Trời xui khiến thế nào thì tôi dịch quân cờ thế ấy. Không hề nghĩ trước tới hai nước đi. Chỉ dựa vào cơn hứng, vào cảm tính, vào trực quan, vào sự may mắn.

Hatter nhìn đồng hồ, cười mỉm, khoan khoái nhấm nháp những gì sắp nói ra với tôi, rồi như sợ không nói hết trong khuôn khổ thì giờ cho phép, lão nói một thôi một hồi:

– Lúc ấy tôi đã mua những khu đất ở gần Leiker village. Mấy năm

đã trôi qua sau lễ cưới của tôi, và chúng tôi đã có con. Một hôm bà vợ

bảo tôi đưa con gái đến New Orleans: phải cắt amiđan cho nó. Thế là

tôi đi. Sau khi để con gái ở bệnh viện, tôi tạt vào một câu lạc bộ ở

trong khách sạn “Grunwald”.Bây giờ người ta gọi là khách sạn

Rosevelt.

Tôi mua trăm đôla phiếu ghi điểm để chơi. Tôi định làm giảm

xương giãn cốt một chút trước bữa ăn. Đến bữa ăn trong túi tôi đã có

700 đôla được bạc. Buổi chiều tôi lại đến câu lạc bộ và lại ngồi vào

chơi. Bước vào phòng, nơi đang diễn ra canh bạc, tôi phát hiện ra những đấu thủ sừng sờ nước ta đang ngồi đó, những bậc thầy có tiếng

về poker. Nhưng tôi có một lợi thế: tôi biết họ ở khắp các sòng bạc của nước Mỹ, người ta đều biết họ! Mà họ không biết tôi. Tất cả những gì

họ biết về tôi chỉ có thế này: tôi là chủ đồn điền ở đồng bằng

Mississippi, mà những anh chủ đồn điền, những anh tỉnh lẻ đù đờ và

những cậu chàng ngô nghê đều không phải là đối thủ đáng gờm đối với họ.

Hôm đó rời câu lạc bộ vào quá nửa đêm. Trong túi tôi xủng xỉnh mười nghìn rưởi đôla. Chính vào cái buổi tô i ấy tôi đã vỡ lẽ, là đấu thủ poker cự phách nhất thế giới.

– Thế rồi sau thế nào?… Ông, theo tôi hiểu, bắt đầu làm ăn lớn?

Hatter gật đầu. Trong cái hố sâu sáng rực hai đốm mắt nhỏ, mà thường ngày đùng đục. Cái mặt dài nghêu xương xẩu ấm hẳn và hơi hồng lên. Lão tỉ phú không ngượng với quá khứ của mình. Trái lại, lão thích nó.

– Từ đó trở đi tôi không bao giờ bị thua. Khi đã bỏ túi một triệu, tôi thôi lai vãng đến các sòng bạc.

– Sao vậy? Ông là tay chơi poker vĩ đại nhất thế giới cơ mà?

– Tôi đã thành ngoáo ộp đối với những đấu thủ nhiều tiền. Tôi chẳng có ai mà chơi nữa. Bọn người không có khả năng chơi lớn, thì

tôi không thèm. Tôi chuyển sang kinh doanh thuần tuý.

Lịch sử làm giàu tiếp theo của Hatter thì tôi đã rõ. Lão kiếm những bạc triệu không lâu so với các dòng họ Rokefeller, Ford. Kennedy, v.v… Khoảng ba mươi năm nay, lão đi vòng vèo có tính toán theo những ngõ ngách chông gai của nghề kinh doanh của người Mỹ. Lão đã qua được những trở ngại nghiêm trọng nhất. Thâu góp được những bạc triệu đầu tiên. Lão không vội vã công bố điều đó từ đỉnh tòa Empire State building. Lão vẫn thu mình trong bóng tối, bên những nhà doanh thương hạng trung. Lão không xây cung điện cho

mình. Lão không tậu những lâu đài cổ bên Anh và không dỡ chúng ra

chở về qua đại dương. Lão không đi những xe hơi lộng lẫy, làm theo đơn đặt hàng đặc biệt. Lão mặc áo len thô, cổ trễ, đi giầy đã cũ kĩ, mặc quần nhung bông, sùi lên ở đầu gối.

Hatter xuất hiện trên đỉnh Ô- lim- pơ(1) tiền bạc của nước Mỹ bất ngờ đối với cả những nhà tài phiệt và công nghiệp lão luyện, am tường. Lão leo lên đây khi đã không sợ ai. Không sợ cái gì nữa. Vào

lúc sức lực dồi dào nhất, có hàng trăm triệu trong tay, về mọi khía cạnh lão không còn chỗ yếu nào.

Các ông vua tiền tệ có nòi buộc phải xích chật lại để nhường một trong những chỗ số một cho một kẻ chơi trội, không dòng dõi, không gia thế. Bọn họ căm tức, nhưng phải chịu. Có những dấu hiệu cho thấy sự kiên nhẫn của bọn họ đã cạn. Chuyến đi bí mật của chúng tôi lên Washington lần này là do cú đấm choáng váng mà những kẻ thù của Hatter đã giáng xuống công ty của lão.

Chúng tôi chơi đã được một lúc, nhanh nhẹn và say sưa trong yên ắng, im lặng, đặt cược, cầm lên và hạ xuống những quân bài thừa, nghi binh và hé mở khi cần những bộ ăn được. Tôi chơi cẩn thận và may mắn vẫn rất hiếm khi ngoảnh mặt cười với tôi. Trí nhớ tài tình như máy ảnh của Hatter làm việc không chê được.

Bỗng lão lặng đi với cỗ bài trong tay, căng tai lắng nghe. Lập tức

tôi cảm thấy ngay có luồng không khí mới sau lưng – ai đó mở cửa không một tiếng động và nhẹ nhàng đi vào. Qua vẻ mặt đấu thủ của tôi, tôi hiểu là viên đại sứ chính yếu đã về. Trán to, tức Mark Hasson. Chỉ có hắn được quyền đột nhập vào phòng riêng của Hatter mà không cần cho gọi, không phải gõ cửa bất kì lúc nào cả ngày hay đêm.

Tôi không thích Mark. Tôi sợ. Tôi đoán hắn ghét tôi. Tôi tin chắc rằng con người này chỉ rình dịp và đợi cớ để tóm lấy cổ tôi. Tôi lấy hết sức gắng giấu thái độ thật của mình với hắn. Trong mọi trường hợp,

tôi đều biểu thị thiện ý cao nhất của mình với hắn.

Tôi quay nhanh người lại. Vâng, chính là hắn ta. Chủ tịch ban quản đốc công ty “Hatter Industries”. Cao. Đĩnh đạc. Lưỡng quyền to. Hói. Trán to. Cặp mắt bò đực lồi dưới hàng lông mày chổi xể.

– Hello, Mark!

Tôi mỉm cười với hắn. Nhưng hắn chỉ cau mày gật đầu với tôi và thả người đánh phịch xuống cái đi văng thấp. Hắn rút cái tẩu đen nặng tổ bố ra và châm lửa.

Mark Hasson bận đồ dân sự: comple bằng vải phlanel màu tro, sơ

mi trắng, cravat bướm màu sẫm, ủng đen bóng. Tuy nhiên, kể từ phút giây hắn bước vào, trong phòng sực mùi đồ lính ướt, da lính, thuốc lá lính. Khi hắn ngồi xuống, tôi có cảm giác như thắt lưng đeo đạn dược đang rít lên.

Phần lớn cuộc đời mình, Mark vận bộ đồ quân nhân. Nhưng hắn chưa bao giờ là quân nhân theo cái nghĩa hẹp của từ này, tức là sĩ quan trong đội ngũ. Hắn chưa từng chỉ huy lấy một đơn vị nhỏ nhất. Sau khi tốt nghiệp West Point(1), hắn vào đội quân đặc nhiệm chuyển

về công tác mật, phòng giấy, có tính chất nghiên cứu. Rời cơ quan CIA

sau khi thay sếp. Bây giờ hắn phục vụ cho đế chế Hatter và thay mặt

lão điều hành các nhà máy lớn, các cơ sở dầu lửa, các nhà băng, xí nghiệp, đài phát thanh, đường sắt huyết mạch, các hãng hàng không, hạm đội chở dầu, v.v… và v.v… ở đoạn khác, tôi sẽ đầy đủ hơn về tay quản lí kì lạ đối với cả giới kinh doanh nước Mỹ này.

– Sao? – Hatter hầm hừ lên tiếng, không cao giọng tay vẫn xóc bài. Mark ngậm cái tẩu đã cháy hết, có thể quẳng đi từ lâu được rồi và

không trả lời ngay.

– Sao! – Hatter sốt ruột nhắc lại, vẫn không cao giọng.

Mark Trán to rít òng ọc, ồm ộp cái tẩu, nhìn sang tôi không rời mắt, im lặng, khinh thị ra mặt.

Tôi đứng dậy, đi ra cửa.

– Ngồi xuống đi, Serge. – giọng Hatter vẫn nhẹ nhàng, đôn hậu, không bực dọc, cũng không có tính chất mệnh lệnh.

Tôi dừng lại dáng lưỡng lự:

– Nhưng… tôi cảm thấy hình như…

– Đó là anh cảm thấy hình như, – Hatter ngắt lời và oai vệ nhìn

viên chủ tịch hãng của mình. – Có thể thế không, Mark?

Tay này im lặng nhún vai, bỏ tẩu đi và thong thả r

rành rọt, bằng giọng của kẻ cấp dưới trả lời cấp trên, hắn nói:

– tùy ở ông, thưa ông Harold.

Hatter nhanh nhẹn đẩy cho tôi số tiền mà tôi được, rồi chuyển ngay cái chính sang Mark.

– Sao, có tin tức gì mới?

– Chẳng có gì tốt đẹp cả. Thất bại hoàn toàn.

Mặt Hatter không động đậy. Mắt vẫn bình thản. Tay chơi poker tự chủ một cách hoàn hảo.

– Tôi cũng đã nghĩ thế, – lão nói. Những ngón tay lão gõ gõ trên mép bàn bóng lộn. – Cứ kể đi!

– ủy ban của Lầu Năm góc chống việc kí giao kèo với chúng ta. Propster sẽ nhận được đơn đặt hàng chế tạo máy bay “Tiên tri”.

– Sẽ nhận được hay đã nhận được rồi?

– Đa số các tướng lĩnh đã bỏ phiếu cho Propster.

– Cái đa số ấy ở đâu ra? Mới ba ngày trước, một nửa số thành viên

ủy ban còn đứng về phía chúng ta cơ mà. Propster đã kéo về phía

mình những kẻ hứa ủng hộ ta?

– Quả có như vậy?

– Có chuyện gì vậy. Mark? Anh không hào phóng với một vài viên tướng hay sao?

– Tôi không hà tiện, nhưng Lầu Năm góc vẫn ưa Propster hơn.

– Nói mông lung quá. Lầu Năm góc nó to, chia thành các khu vực. Trong mỗi khu vực từ “A” đến “E”, như anh cũng biết rõ, đều có bạn

bè trung thành của chúng ta. Cụ thể là ai bỏ cho Propster?

– Tôi muốn nói dãy phòng của các ông chủ.

– Ai mới được chứ?

– Trước tiên là Lord Patrick.

– Hắn biện luận thế nào cho quyết định của mình?

– Hắn nói xí nghiệp của Propster thực hiện đơn đặt hàng rẻ hơn, nhanh hơn và tin cậy hơn.

Hatter cúi sát xuống bàn, bằng vài nét chì phác thảo lão vẽ nhanh trên giấy hình “Tiên tri” – máy bay tiêm kích oanh tạc đang được nhắc đến. Máy bay trông giống con cá mập: thân dài và hẹp có vây nhọn, mõm hung ác vươn ra, hơi khoằm xuống.

– Anh đã tính chưa, Mark, cái chiến dịch bị tiêu tan này làm chúng

ta tốn phí mất bao nhiêu?

– Tôi không vội tính hao lỗ. Ta còn hai – ba đòn phản kích hay. Ông phải nói chuyện với Bộ trưởng Quốc phòng. Nói rõ hơn thiệt, bảo chúng ta sẽ làm “Tiên tri” rẻ hơn, tin cậy hơn. Cứ hứa, rồi sau sẽ rõ. Ông phải gặp bộ trưởng càng sớm càng tốt.

– Vô vọng thôi. Tuy lão bộ trưởng ngồi ở chái nhà phía nam, nhưng

lúc nào lão cũng nhìn lên hướng Đông bắc: lên các nhà của Dearborn(1),

lên Chicago(2), các lồ luyện thép của Gary(3), vốn tư bản của Cliveland,

Boston(4). Cựu quản lí các nhà máy công ty Ford cựu chủ tịch quỹ Ford không thể hiểu được quyền lợi của người Texas.

– Hãy giải thích cởi mở thẳng thắn với ông ta, ông ta sẽ không dám tuyên chiến với ta đâu.

– Đã tuyên chiến rồi đấy. Anh thử nhìn danh sách chủ thầu cho

Lầu Năm góc xem nào. Texas ở đâu. Người ta dồn chúng ta xuống vị

trí thứ mười một. Còn ai đứng trước? Những kẻ mà Nhà Trắng và Lầu Năm góc đỡ đầu. – “General Dynamics”, “Lockheed”, “Boeing”, “General Electric” v.v.. Texas hùng mạnh nhất, giàu có nhất, đang thịnh vượng với dầu lửa của nó, với Houston(5) với trung tâm vũ trụ

lại ở vị trí thứ mười một! Đó là cuộc chiến tranh thật sự nhất của Lầu

Năm góc và Nhà Trắng chống lại Texas.

– Ông cứ thế mà nói với ông ta. Tôi cho rằng ông ta sẽ không dám nhận lời thách thức của người Texas.

– Tôi sẽ không đến gặp ông ta. Quá là vinh dự.

– Ông muốn mất những bạc triệu sao?

– Tôi muốn giáng trả một đòn.

– Ông đã nghĩ ra kế gì?

– Phải. Công ty “Phụng sự thánh thần” và chủ tịch của nó Batistini lần này sẽ phục vụ ta đắc lực. Có điều là hơi đắt.

– Không sao, mọi chi phí ta sẽ lại bù bằng lãi ngay ấy mà.

- Vâng, Batistini là người được việc, – trán to nói và lại tắc họng ngay. Hắn nhìn chằm chằm vào tôi bằng đôi mắt bò đực, như muốn hỏi: làm sao mà ngươi lại lọt được vào đây?

Bất đắc từ từ dĩ quay mặt đi, hắn hỏi:

– Thế ông định làm gì, thưa ông Harold?

Hatter không trả lời ngay. Lão đứng dậy. Đi suốt căn phòng. Lão dừng bên cửa sổ và nhìn một lúc lâu cái khối khổng lồ năm góc lọt thỏm dưới thung lũng xanh ven sông.

– Đã là chiến tranh thì mọi phương tiện đều tốt cả. Hình như, một thống tướng đã nói thế khi bắt đầu cuộc chiến tranh khó khăn nhất

đã làm tên tuổi ông trở thành bất tử. Chúng ta sẽ theo gương các nhà buôn vĩ đại thời cổ – Lão đi nhanh đến phía Trán to, tóm lấy cái khuy

trên của chiếc áo vét phlanel của hắn, ấn nó, như ấn nút báo hiệu, mỗi lúc một sâu vào ngực Mark, lão nhấn từng câu ra lệnh ngắn: –

Batistini phải thành đồng minh của chúng ta. Nó muốn bao nhiêu thì cho nó bấy nhiêu. “Tiên tri” phải được làm tại các nhà máy của ta.

Hôm nay chỉ ngần ấy, tướng quân ạ! Hãy hành động đi! Tôi sẽ ở

Niagara. Ba ngày chắc đủ cho anh?

– Tại sao ông lại không gặp chính Batistini nhỉ, thưa ông Harold? –

Hatter phá lên cười.

– Nói chuyện với thằng lùn ấy? Nắm cái tay nhớp nháp của hắn? Cười với đồ ngợm ấy? Nghe cái giọng ái nam ái nữ ấy? Xin kiếu! Tiền

tôi quẳng ra cho hắn là đủ rồi. Cộng với cú điện thoại nữa kia mà.

Mark Trán to cắn cặp môi dày, muốn nói điều gì, song lại thôi. Câu chuyện đến đây lẽ ra kết thúc, nếu không có sự xuất hiện của Arthur Bolte, mới được anh thợ cạo tỉa tót cho cái đầu theo kiểu Clark Gable(1) thời kì sau. Thường khi đến gặp ông chủ. Arthur phóng hết công suất nụ cười mãnh liệt của mình, tình yêu và lòng trung thành

với con người giàu nhất, mạnh nhất trên đời, niềm tin không lung lay

của anh ta rằng “Hatter Industries” là hãng lớn nhất, có ảnh hưởng nhất, thịnh vượng nhất thế giới, bây giờ đây bộ mặt Arthur trắng bệch, hoang mang.

Anh ta chỉ vừa mới bước qua ngưỡng cửa đi vào thì Hatter đã lại với lấy quân bài, bắt đầu xóc.

– Có chuyện gì thế?

Arthur kiệt sức nhào xuống ghế bành, lấy khăn lau khuôn mặt ướt như mới đi mưa về.

– Nhà Trắng kiên quyết thực hiện ý định của mình, giáng vào các nhà công nghiệp dầu lửa: bãi bỏ đạo luật về giảm giá thuế. Một dự luật đang được chuẩn bị(2).

– Thật quái dị! Bốn mươi năm nay đạo luật này phục vụ chúng ta, thế mà bây giờ… Anh nghe thấy chưa, Mark? Tình hình đã phức tạp thêm. Ngày mai anh phải gặp người mà chúng ta cần. Tôi sẽ gọi điện cho hắn. Serge sẽ cùng đi với anh?

– Thêm người cùng đi làm gì?

– Cần phải thế, – lão ôm tôi và Trán to rồi đẩy nhẹ ra phía cả. – Chúc các bạn may mắn!

*

Tôi gặp Mark, theo hẹn ở phía nam Houston, gần trạm tiếp xăng:

tôi đến đấy bằng xe buýt, còn hắn đi xe Cadillac sự vụ màu đen. Chúng tôi bảo anh nhân viên mặc đồng phục rót cho xe chúng tôi nhiên liệu đầy đến tận cổ bình xăng để mà, như lời chúng tôi nói, có

thể đi một mạch đến bờ Đại Tây Dương, đến tận Orleans.

– OK! Đủ cho các ông đến New Orleans rồi quay về ấy chứ! – anh chàng da đen cười, lấy khăn giấy ẩm lau kính ôtô.

Chúng tôi trả tiền, đeo kính đen lên và phóng dọc kênh đại dương trên xa lộ ngược chiều với mặt trời chói chang trên đ ỉnh đầu. Thực ra chúng tôi phải đi về hướng khác cơ, – lên miền bắc Texas.

ít ai gọi anh bạn đồng hành của tôi theo đúng tên họ, hắn thường được biết dưới cái tên Mark Trán to, hay gọn hơn, – Mark. Hắn điều hành Bạc tỉ và cả một đội quân nhân viên, nhưng qua hình dáng bên ngoài thì không khác mấy một tay quản lí trung bình ta thường gặp đây đó. Hắn cố ý giản dị. Bây giờ cái này đang mốt và được các ông chủ tán thưởng. Một tay kinh doanh điển hình trong comple xám bằng vải phlanel, được ca tụng trong tiểu thuyết nổi tiếng của Slow Wilson. Trên bộ mặt ra vẻ cởi mở, thông minh, siêu nghị lực kia tỏa sáng một nụ cười hào hiệp mời chào không tắt, luôn thường trực đối

với tất cả mọi người. Tôi biết Trán to như thế cho đến ngày hôm nay.

Mark lái xe. Tôi ngồi cạnh và hút thuốc. Trong giây lát, hắn rời cái nhìn không lấy gì làm hoan hỉ khỏi mặt đường bê tông bê tông, xiên chéo sang tôi một cách nghi ngờ và nghiêm nghị hỏi:

– Anh mò đến tận chỗ hẹn gặp một cách bình yên đấy chứ?

– Có lẽ thế.

Hắn không thích câu trả lời thiếu quả quyết của tôi, và hắn còn nhìn tôi u ám hơn. Trán to thay đổi đến mức không nhận ra. Không còn nụ cười mời chào, đôn hậu, vui vẻ thường trực trên mặt hắn nữa. Cái mặt nạ chán ngấy đã bị vứt bỏ. Tham mưu trưởng của Hatter hiện ra trước mắt tôi đúng như chân tướng của mình. Hắn ác độc, hách dịch kiêu ngạo hỏi:

– Nghĩa là, anh không dám bảo đảm là không kéo theo mình một cái đuôi nào đấy?

Tôi bất giác quay lại phía sau, nhìn dòng ôtô hàng ba vô tận.

– Làm sao biết được ai vô tình, ai chủ ý bám đuôi mình?

– Tôi muốn biết có ai theo dõi anh khi lên x e buýt đi gặp tôi không?

– Tôi không phát hiện thấy ai.

– Tốt lắm! Tôi cũng không bị theo dõi.

– Chúng ta làm ra vẻ đi New Orleans, trong khi lẽ ra phải đến

Ford Worth để làm gì?

– Để phòng xa, – Mark làu bàu.

– Thưa ông, ông sợ địch thủ của ta ở hãng “General Dynamics” sao? Hắn quay phắt lại phía tô

tôi, ngạo mạn nói:

– Không. Chẳng qua tôi quen làm công việc của mình cho tốt, với

dự trữ sức bền cao. Đã đến lúc anh phải hiểu điều đó, Brooks ạ!

– Hình như tôi đã làm ông mất vui, thưa ông? Xin lỗi, tôi đâu muốn thế.

Mark Trán to im lặng đầy ngụ ý, cắn lớp môi dày, rồi hỏi:

– Anh đã khi nào trông thấy lão quỷ sứ ấy chưa… Giovanni

Batistini ấy mà?

– Không, thưa ông. Nhưng tôi nghe nhiều về hắn ta.

– Thế hả, thế anh đến gặp lão với tâm trạng thế nào?

– Tò mò xem con người bé nhỏ mà người ta thêu dệt lắm huyền thoại.

– Chỉ có thế thôi?

– Còn gì nữa? Bạc triệu của Batistini không làm tôi ngạc nhiên. Harold Hatter còn nhiều đôla hơn lão… hơn lão quỷ sứ này.

– Giovanni Batistini là tỉ phú loại đặc biệt. Có một gia hệ khác thường. Với anh, tư cách một nhà văn thì nhân vật này, tôi cho là phải làm anh ngạc nhiên.

– Để xem đã!

– Một nhà văn mất khả năng biết ngạc nhiên thì cũng mất luôn sự mắn viết. Anh không lo điều đó à? Anh định bỏ nghề sao?

– Thưa ông, ông đã trả về cho tôi khả năng biết ngạc nhiên… Tôi không ngờ là ông lại thẩm vấn tôi đến mức ấy.

Hắn không hề lúng túng trước sự công kích của tôi.

– Anh nói xem, Serge, tại sao Harold lại tin cậy giao cho anh tiến hành thương lượng bí mật với Giovanni Batistini

– Người tiến hành thương lượng là ông, thưa ông.

– Cái ấy tôi lại càng không hiểu. Tại sao tôi với Giovanni lại phải có thêm người thứ ba?

– Thưa ông, Harold Hatter đã cử tôi đi chuyến này. Ông quên rồi sao?

Thậm chí lúc này tôi cũng không cho phép mình được thiếu lễ độ:

– Vì sao ông lại ghét tôi vậy. Ông Mark? Tôi có làm điều gì xấu với ông đâu?

Hắn im lặng, chăm chú nhìn xuống đường, vào dòng ôtô xuôi ngược. Khuôn mặt hắn khó đăm đăm. Trên trán hằn rõ những nếp nhăn. Cặp môi dày mím lại.

– Ông nói đi, vì sao?

Hắn yên lặng một chút nữa rồi nói:

– Chắc là vì bản năng tự vệ. Không hiểu sao tôi thấy ngài ngại khi trông thấy anh. Tín hiệu nội tâm nổi còi báo động.

Hắn loay hoay lúc lâu với điếu thuốc: vặt bỏ đầu bẹt, vân vê, ngửi hít, châm lửa. Sau khi hút cho đã, hắn quay luôn lại phía tôi:

– Anh hãy thành thực trả lời một câu hỏi của tôi, rồi có thể tôi sẽ thay đổi thái độ đối với anh.

– Tôi sẵn lòng trả lời đến một trăm câu hỏi của ông.

– Tại sao Harold lại tin cậy anh trong mối liên hệ với Giovanni?

– Tôi không biết, thưa ông. Tôi chỉ có thể đoán ra thôi.

– Nào!

– Tôi đã nhiều lần chứng minh cho ông ấy lòng chung thuỷ của mình. Bây giờ ông ấy chứng minh điều đó với tôi.

– Nực cười chưa! Harold không phải chứng minh cho ai cái gì hết.

– Không đúng, thưa ông. Harold muốn cho cấp dưới phục vụ ông ấy

có ý thức, toàn tâm toàn ý.

– Cái trò khôn ranh của anh không đáng một xu gì. Đừng có lừa qua mắt tôi. Anh xin xỏ đi chuyến này để dò xét tôi.

– Thưa ông, ông nhầm đấy. Harold tin cậy ông không điều kiện. Tôi không thể dò xét ông, bởi vì tôi thán phục nghị lực và khả năng của ông.

Hắn cười khẩy:

– ồ, nghe bùi tai quá! Người ta đã định nép vào ngực tôi để chờ cơ hội thuận tiện là chìa vòi ra đốt tôi phải không?

– Tôi làm thế để làm gì?

– Đơn giản thế thôi, phòng bất trắc.

– Tôi không thấy ý nghĩa.

– Thế loài bọ cạp nó bị chi phối bởi ý nghĩa gì mà vẫn giết nhau?

– Đội ơn Chúa, tôi là người.

– Trong mỗi chúng ta đều có một con bọ cạp náu mình. Thôi được, triết lí đủ rồi! Đây là những điều kiện của tôi đối với anh. Từ nay anh không được ló mặt trong phạm vi những lợi ích của tôi, động chạm đến công việc của tôi.

– Đồng ý, – tôi nói.

– Bất kì ở đâu, bao giờ anh cũng không được thảo luận những hành động của tôi, ngay cả trong trường hợp Harold đòi hỏi ở anh.

– Được. Tôi sẽ im lặng, dù người ta có đổ thiếc nóng chảy vào mồm hay cù vào nách tôi.

Trán to gõ nắm tay vào tay lái:

– Đừng có nhe răng ra thế, đồ nhãi ạ! Tôi đang nói nghiêm chỉnh với anh.

– Xin lỗi ông. Tôi quên là ông không thích đùa.

– Tôi không thích những thằng ba hoa.

*

Khi trao qua đổi lại những lời lẽ lịch duyệt đại loại như trên, chúng tôi đã đi về phía nam được khoảng hai mươi dặm. Xa xa, trong sương mờ oi bức hiện ra cái lỗ đường hầm lớn của chiếc cầu bê tông bắc qua xa lộ.

– Đã đến lúc đổi hướng đi! – Mark Trán to lầu bầu.

Hắn giảm tốc độ và cẩn thận phanh dần lại. Những chiếc xe đằng sau, phả vào chúng tôi luồng gió nóng thảo nguyên, vút qua chiếc Cadillac. Mark bật cần quay phải và rời con đường chính Houston – New Orleans.

Chúng tôi làm một vòng lượn vọt lên cây cầu vừa mới ở trên đầu chúng tôi rồi quay lại, hướng về Houston.

Mười lăm phút sau, chúng tôi đã lặn vào đường hầm mát lạnh, đào chui dưới con kênh nước sâu Hu- xtơ – Đại Tây Dương. Ngang qua thao trường, nơi thử các con tàu vũ trụ lên mặt trăng. Xuyên qua thành phố từ nam lên bắc. Bên con đường nhỏ ngoại ô êm ả trong trạm đỗ xe

có trả tiền với cái chắn đường tự động, chúng tôi để chiếc Cadillac lại, ngồi vào chiếc Saveson xuềnh xoàng cho thuê, và thong dong đi lên

hướng bắc trên xa lộ Houston – Ford Worth, trải dài trên đất đen

vùng thảo nguyên Texas. Thảo nguyên trước kia. Bây giờ, nhìn đi đâu cũng chỉ thấy các tháp dầu, các bể chứa khổng lồ lóng lánh ánh bạc và các cột điện cao áp. Miền Tây cao bồi(1) thuần tuý, hoang dã xưa kia

đã trở thành bang công nghiệp giàu có nhất nước, thành kho vũ khí

mới. Chỉ có California có thể đọ được với Texas. Hãng của Harold Hatter và hãng “General Dynamics” đã đưa lên dây chuyền lớn việc sản xuất máy bay ném bom, máy bay tiêm kích, máy bay vận tải chuyên tuyến, xe tăng, đại bác, tên lửa, lựu đạn, bom thường và bom nguyên tử, vũ khí tự động và napan.

Chuyến đi của chúng tôi có quan hệ trực tiếp đến các quyền lợi đối địch nhau của các công ty đang cạnh tranh. Chúng tôi đi vào dinh luỹ của những kẻ thù không đội trời chung của Hatter, một trong nh ững thái ấp của “General Dynamics”, vào thành phố Ford Worth. Cuộc đi thăm của chúng tôi tốn kém cho Hatter vài triệu đôla, địch thủ của

lão còn tốn gấp nhiều lần. Hiện giờ chỉ có một mình Giovanni

Batistini là thu lãi.

Con đường tương đối ngắn mà chúng tôi kéo ra đi mất cả ngày.

Đi được khoảng mười tám dặm, chúng tôi dừng lại ở motel “Carilira

tuyệt vời” vui vẻ, có bể bơi và bãi tắm. Chúng tôi khoan khoái nằm dưới lều bạt màu da cam. Tắm thỏa thích. Nghỉ ngơi chán chê. Chỉ khi mặt trời sắp lặn, bóng vạn vật ngã dài trên mặt đất, chúng tôi mới đi tiếp trên mảnh đất bình nguyên vĩ đại.

Mark Trán to dù đã chén món thịt dầm mềm và nghỉ xả hơi khá lâu, vẫn chăm chú im lặng, mắt khó đăm đăm và thường ném cái nhìn lên cái gương phản chiếu xem có kẻ nào bám đuôi không và bám cách nào?

– Ông vẫn còn sợ ư, thưa ông?

Trong câu hỏi của tôi, sự tôn trọng và lễ độ có pha với vẻ mỉa mai.

– Vâng. Tôi không thích chiếc mustang xám, cái đang lao theo chúng ta từ chỗ đỗ xe của motel.

– Ông kì thật! Trong xe ấy là đôi vợ chồng mới cưới hết sức đáng

yêu đang đi du lịch. Họ chẳng dính dáng gì đến ta cả.

– Vợ chồng mới cưới cũng nhiều loại. Chính tôi cũng nhiều lần đóng thành những thanh niên đáng yêu như thế đi bám đuôi và lấy được nhiều tin tức quý giá. Cái đôi bồ câu này tôi cảm thấy như đóng giả

ấy.

Tôi nhìn vào cái gương đang phản chiếu xa lộ chạy về phía sau và dòng xe đủ các màu chạy đằng sau.

– Thế nào?

– Chẳng có gì đặc biệt. Họ cười. Tán dóc. Hôn nhau.

– Nhưng tại sao họ lại không vượt chúng ta dù chúng ta đi chẳng nhanh gì cho lắm?

Hắn nhả hơi, phanh dần lại. Chiếc mustang xám vượt lên bên trái. Đôi vợ chồng trẻ lấp lánh cười, vẫy chúng tôi rồi tan biến vào dòng xe hơi.

Chúng tôi đứng bên lề đường mười phút, cho qua đến cả nghìn chiếc xe và đi tiếp.

– Bây giờ thì mọi cái đều ok.

Mark yên lòng cho đến tận Ford Worth. Chúng tôi vào thành phố,

cắt ngang nó, lại ra ngoại ô, từ đường chính ngoặt vào con đường địa phương ở bên sườn, rồi cô quạnh một mình lăn bánh tới đích. Địch đã

ở gần. Ngang qua một vài trang trại. Xuyên một đồng cỏ xanh bát ngát không có bóng người, bóng chim, bóng súc vật và dừng lại bên cái

hào sâu rộng đầy nước và hoa, trước cái cầu nhấc hẹp.

– Việc gì đấy, các vị? – một giọng the thé được tăng âm qua loa vang lên.

Mark nói vào khoảng không.

– Chúng tôi từ Washington, đến săn bắn trong khu các ông.

– Thế có mang súng theo người không? – kẻ canh gác vô hình lại

hỏi.

– Sẽ kiếm ra, – Mark trả lời. – Chỉ quên chó thôi.

– Không sao. Chó thì chúng tôi có.

Sau những lời này, chiếc cầu sắt từ từ hạ xuống không một tiếng động.

Qua cầu rồi, chúng tôi lọt lên đảo. Không thấy có người. Những chú chim bạo dạn. Những dây c

cây trong Kinh Thánh. Thảm cỏ với lũ công. Mark lái thận trọng, chầm chậm. Hắn đỗ xe lại, những nhường đường cho lũ hươu. Những chú hươu này chầm chậm, lừ lừ như không nhận thấy xe chúng tôi, gõ móng lên nền bê tông rồi lẩn vào chỗ rừng thưa.

Chúng tôi tiến sát đến cổng lúc đèn có ren, có trang hoàng những chú thiên nga bằng thép không gỉ. Một thám tử đứng bên lề đường. Anh ta trưng chiếc chevrolet rẻ tiền, không phải dành cho những nhân vật quan trọng.

Chúng tôi đi dọc qua dãy sân quần vợt, dọc bãi đánh golf(1) dọc sân bóng đá, qua bể bơi bằng đá hoa to có chòi nhảy, nước nhuộm màu xanh thắm. ở đây cũng chẳng có ai. Có lẽ ông chủ không thích kẻ nào khác ngoài hắn ra sử dụng cái thiên đường của mình.

Quanh tòa lâu đài, nơi dây leo trường xuân quấn từ sát đất lên đến mái kiểu gô- tích cũng chẳng thấy có người. Cửa sổ chăng chấn song.

Những bức tượng nhạt nhẽo được tô son hoa mĩ, tạc hình anh chị

em và người thân của Giovanni Batistini, xếp hàng hai bên lối đi. Hình chính ông chủ được nặn bằng kích thước thật trên con ngựa trắng. Lâu đài trước kia thuộc một huân tước người Anh đã đứng hàng trăm năm trên núi non xứ Scottland. Hai mươi năm trước, vào

lúc trước chiến tranh, nó đã được Giovanni tậu, được tháo dỡ, chuyển qua đại dương và ở đây lại được lắp ráp lại.

Sống trong lâu đài quý tộc Ăng- lê là một công dân Mỹ, giàu kếch xù, cầm đầu mafia(2) bí mật “Cosa Nostra” – “Sự nghiệp chúng ta”,

chủ tịch công ty hợp pháp “Phụng sự thánh thần” có đăng kí đúng mọi

thủ tục, phân nhánh khắp Texas. Hắn còn được biết đến dưới cái tên Thợ giày. Biệt hiệu đó gắn với hắn từ thời hắn còn là một kẻ hèn mọn trong thế giới của bọn tội phạm. Cả cảnh sát, cả các chủ nhà băng, các nhà công nghiệp lẫn những người Mỹ bình thường, khi gọi hắn là Thợ giày đã không đặt vào từ ấy cái ý nghĩa lăng mạ ban đầu nữa. Trong miệng họ nó vang lên hoàn toàn lễ độ, hoàn toàn tôn kính cũng như Rocky đối với Tếc- pheo- lơ, đích đối với Richard Nixon và Bobby đối với Robert Kennedy. ở nước Mỹ, người ta thích thay tên họ bằng biệt hiệu hay tên gọi tắt. Các kí giả trong các ghi chép của mình thường gọi Tổng thống đương kim một cách đơn giản là JFK(1).

Thợ giày, nhà kinh doanh hợp pháp và bất hợp pháp, được hưởng

tự do và mọi thứ sung sướng của đời như những người Mỹ khác. Tại

sao hắn không ngồi tù? Bạn thấy chưa, cả FBI, cả Bộ Tư pháp, cả các quan chức nhà nước không ai có thể chứng minh rằng Giovanni Batistini đã làm điều gì phạm pháp đáng kết án. Mọi người đều nghe nói rằng hắn là tên tội phạm lớn, nhưng những chứng cớ vạch rõ hoạt động bí mật đẫm máu của hắn thì không người nào có thể đưa ra. Mọi người đều nói rằng, trong lãnh địa của hắn có một nhà thiêu xác nhỏ,

ở đó thiêu xác những người bị nhân viên của “Cosa Nostra” giết. Tuy nhiên, chưa ai được chứng kiến tận mắt xem nó được thực hiện như thế nào và vào lúc nào. Không bị bắt quả tang thì không phải là ăn trộm. Với lại không chỉ có thế mà thôi. Lối sống của chúng ta trao quyền bất khả xâm phạm cho những kẻ nào có thể trả nhiều tiền. Ông Batistini có cái đặc quyền ấy. Hắn có Bạc tỉ và hàng nghìn thuộc hạ, nhân viên các công ty của hắn, biết cách giết đối thủ mà không bị

trừng phạt.

Chúng tôi đến làm khách một kẻ như thế, với sứ mạng bí mật mà

Hatter trao cho.

Đón chúng tôi ở tiền sảnh không phải anh đầy tớ hay anh quản gia, mà là đích thân Giovanni Batistini. Đó là một con người khô không khốc, giọng khẽ khàng, nhỏ như cậu thiếu niên. Hắn mặc áo vét đen bằng lụa và sơ mi trắng. Ngón tay đầy những nhẫn kim cương. Khuôn mặt chai sạm nắng gió và được phủ một lớp rám nắng còn mới, có lẽ là lớp rám Xixilia. Mắt to quá khổ so với khuôn mặt, có

ánh lửa. Đầu phủ tóc bạc cứng và rậm.

Sếp hung hãn của mafia hung hãn trước mặt anh đấy! Ta hãy xem cái lõi của hắn như thế nào.

Sau những lời chào hỏi thông thường, ông chủ lâu đài dẫn chúng

tôi lên tầng hai vào phòng làm việc của hắn, – căn buồng thênh thang

làm bằng gỗ đen, có bàn giấy màu đen, ghế bành da màu đen, thảm dày màu đen dưới sàn, khung cửa sổ màu đen.

Mark hạ người xuống ghế, châm điếu thuốc, nhìn chủ nhà một cách có ngụ ý bằng cặp mắt bò đực lồi.

– Giovanni, ông đã sẵn sàng nói chuyện chưa?

– Rồi. Từ hôm qua kia, từ cái phút tôi được báo qua dây nói.

– Thế thì hay lắm. Ta sẽ không bỏ phí thì giờ. Harold uỷ quyền cho chúng tôi tiến hành cho đến cùng chiến dịch “Tiên tri”. Vấn đề này, và

chỉ có vấn đề này sẽ được thảo luận bây giờ.

Batistini gật đầu.

– Lũ cá mập hãng “General Dynamics”, như ông biết đấy. – Mark Trán to vào đề, – đã chà đạp mọi tiêu chuẩn trong quan hệ giữa các nhà kinh doanh đứng đắn, đã tranh mất của chúng tôi đơn đặt hàng của Lầu Năm góc đối với máy bay oanh tạc nhiều tính năng “Tiên tri”. Điều đó xảy ra đúng vào lúc chúng tôi đã chuẩn bị đầy đủ để sản xuất

nó và đã chi phí rất lớn.

Giovanni lại chầm chậm, im lặng gật đầu. Hai cánh tay ngắn của hắn khoanh trên bụng.

– Thật rõ như ban ngày, – Mark tiếp tục, – là chúng tôi có quyền hành động trả đũa bất kì kiểu nào. Chúng tôi bắt đầu cuộc chiến tranh lớn chống họ. Và chúng tôi đã chọn ông làm đồng minh của mình, Giovanni thân mến ạ.

Lão chủ bé nhỏ của lâu đài to lớn, cười nhã nhặn và nói cái giọng yếu ớt của mình:

– Ông làm tôi ngạc nhiên đấy, Mark ạ. Tôi là đồng minh của ông!

Thường thường người ta chạy đến nhờ tôi trong trường hợp vạn bất đắc dĩ. Ông là tướng cũ, biết hết đường ra lối vào ở Lầu Năm góc, có một lô bạn bè trong tất cả các phòng, ban. Ông đã làm việc ở CIA. Đã

và vẫn là người cánh hẩu ở FBI. Chả lẽ không có tôi, ông chịu chết

hay sao?

Trán to mặt trắng bệch ra. Hắn hút thuốc và im lặng một cách khinh bỉ.

Thợ giày ngắm nghía chỗ kim cương trên tay, cười khẩy và nói:

– Tôi hiểu! Ông đã ấn hết các nút, đã xong mọi đòn bẫy, – mà chưa ăn thua gì.

Trán to dịch điếu thuốc từ mép này sang mép kia:

– Giovanni, ông đừng có làm cao. Không cần làm thế chúng tôi cũng vẫn sẵn sàng trả hậu hĩ.

– Vâng, Mark thân yêu của tôi ạ, cuộc chiến tranh này tốn kém cho các ông đấy.

Hai chủ tịch công ty chẳng thèm để ý gì đến tôi, vì họ biết vai trò khiêm tốn của tôi trong cuộc thương lượng.

– Theo chỗ tôi biết thì các ông có người ở các nhà máy của “General

Dynamics”, – Mark nói.

– Vâng. Có cả tham gia thiết kế “Tiên tri”. Cái máy bay tốt hết chỗ nói.

– Không thể không có nhược điểm trong máy bay. Nhất định phải

có! – Mark đặt bàn tay thô của mình lên bàn tay trẻ con đầy những kim cương của tên trùm. – Ông hãy tìm xem! Chúng tôi sẽ trả cho từng phát hiện.

Giovanni lại ngắm nửa tá nhẫn kim cương tuyệt mĩ của mình và hỏi:

– Trả thế nào?

– Chiếc máy bay sản xuất hàng loạt giá bao nhiêu theo thiết kế?

– Gần ba triệu đôla. Hai triệu tám.

– Giá máy bay phải được tăng ít ra là thêm một triệu nữa, và ông cũng thu được ngần ấy tiền.

– Được lắm!

– Tốc độ thiết kế của máy bay là bao nhiêu?

– Một nghìn sáu trăm năm mươi dặm, – Giovanni trả lời, như thể đã chờ sẵn câu hỏi này.

– Ông hãy rút xuống dù chỉ một phần tư. Chúng tôi sẽ trả một nghìn đôla cho mỗi dặm được giảm, và ông sẽ kiếm thêm được bốn năm trăm nghìn đôla. Nhưng mà chưa hết. Độ cao bay của nó là bao nhiêu?

– Hai mươi lăm nghìn foot(1).

– Phải giảm xuống mười lăm nghìn. Mười nghìn foot đầu tiên chúng tôi sẽ trả nửa triệu đôla. Còn sau đó, cứ mỗi một nghìn foot, chúng tôi sẽ trả một trăm nghìn đôla.

Giovanni rút từ túi trong áo vét ra quyển sổ con và ghi chép tất cả những gì Mark nói.

– Trọng lượng máy bay bao nhiêu?

– Bảy mươi tấn

– Ông hãy hạ nó xuống. Chúng tôi sẽ trả cho từng dặm một.

– Sẽ hạ!

– Máy bay tới mục tiêu ra sao?

– Tốc độ và tính cơ động được đảm bảo.

– Chỗ này cũng phải góp một tay. Làm sao cho khi ném bom, nó

chỉ lượn vòng dưới sự yểm trợ của các máy bay tiêm kích. Chúng tôi

sẽ trả gộp lại là hai trăm nghìn.

– Tôi đồng ý! Chà chà! Chiến dịch này ngốn của các ông ra trò đấy! Các ông định bù lỗ thế nào nhỉ?

– Đó lại là việc riêng của chúng tôi, ông Giovanni!

– Không, Mark ạ, không chỉ của các ông. Tôi phải biết, Harold có thể kiếm được bao nhiêu khi hợp tác với tôi.

– Chuyện kiếm chác hãy còn xa. Hiện giờ chỉ thấy có thua với lỗ. Vấn đề thu nhập ta sẽ bàn sau, khi mà “Tiên tri” cất cánh bay. Độ ba năm nữa.

– Lúc ấy thì muộn quá.

– Không bao giờ muộn, Giovanni ạ, khi ta bàn lợi ích chung chỗ anh em với nhau.

– Không, tôi muốn bảo vệ lợi ích riêng của mình từ bây giờ cơ. Thế chắc chắn hơn. Các nhà máy của Hatter, theo tôi biết, có phương án thiết kế riêng của mình loại máy

máy bay ném bom nhiều tính năng “Tiên tri”. Các ông định ngay bây giờ, chỉ đợi cái máy bay của địch thủ các ông bị thất bại ê chề sau khi thử hàng loạt là đưa cái đồ án thiết kế hoàn hảo hơn của mình ra. Nó sẽ được chấp nhận. Và các ông nhận được đơn đặt hàng cho cả nghìn chiếc. Các ông hốt bạc tỉ, còn tôi… Tóm lại, Mark thân mến ơi, tôi muốn có phần lãi của mình với mỗi cái máy bay bán được của các ông.

– Tôi xin nhắc lại với Giovanni thân mến rằng, chia lãi bây giờ hãy còn quá sớm.

– Có hề chi, tôi sống có phải chỉ với một ngày hôm nay đâu. Vậy nhé, tôi sẽ được một phần ba thu nhập? Nếu các ông không đồng ý, thì chúng ta chia tay nhau.

Mark Trán to nghiện thuốc sực nhớ ra điếu thuốc đã tắt. Hắn quẳng nó vào cái gạt tàn, lấy ra điếu khác. Hắn trầm ngâm hút, chăm chú nhìn vào cái đầu thuốc nóng đỏ, không nói gì cả.

– Tôi hiểu, Mark ạ. Ông không có toàn quyền thay mặt cho Hatter.

Biết làm sao được, ông hãy về kể lại cho ông ấy cuộc nói chuyện của

chúng ta và xin ý kiến. Nếu những điều kiện của tôi chấp nhận được thì hãy báo cho tôi biết.

Trán to ném điếu thuốc, cương nghị ngẩng đầu lên:

– Không, ông Giovanni, tôi nói hết nhẽ với ông đây: ông đòi hỏi quá nhiều.

– Không quá cái phần hợp pháp của mình. Chỉ bằng một phần ba những gì mà “Hatter Industries” kiếm được.

– Số tiền ấy rất không chắc chắn có được.

– Ông khéo đùa dai, Mark ạ. Xin cứ việc! Còn tôi sẽ nói thẳng ra với ông.

– Lẽ nào tôi dám đùa dai với một người bạn cũ tốt nhất? Tôi đến với ông với tấm lòng mở ngỏ. Lời nói đứng đắn và chân thực.

– Thôi đừng làm bộ nữa, ông Mark. Tôi biết cả rồi.

– Sao? Ông biết cái gì?

– Tôi biết rằng người bạn lớn từ Texas của các ông, Phó Tổng thống Lin đơn Johnson, mới đây đã sang Sài Gòn với sứ mạng bí mật của Nhà Trắng. Ông ấy đòi Tổng thống Ngô Đình Diệm mời các sư đoàn Mỹ vào nước này để cứu chế độ khỏi sụp đổ. Diệm mọi khi vẫn ngoan ngoãn,lần này lại bướng bỉnh. Ông thấy không, hắn đã vỡ mộng ở những người bạn giàu có và là những người bảo hộ mạnh mẽ của mình, hắn đã chán đánh nhau và đổ máu người Việt cho lợi ích của Mỹ. Hắn mơ tưởng một nước Việt Nam trung lập. Hắn định thỉnh nghị với De Gaulle ủng hộ lập trường trung lập của hắn. Có những nghi vấn cho rằng hắn không chống lại việc đàm phán với cộng sản.

Mark sốt ruột ngọ nguậy trong ghế bành, không nén được và ngắt lời ông chủ lâu đài:

– Giovanni thân mến, những gì mà ông nói thì hay đấy, nhưng nó

có liên quan gì đến chúng ta? Lúc này chúng ta đang bàn chuyện gần

gũi và thiết thực với chúng ta, chứ đâu phải chuyện Việt Nam xa xôi.

– Tôi nói vừa vặn đúng vào chuyện gần gũi và thiết thực nhất đối

với tôi và ông đấy chứ. Tôi xin tiếp tục. Thế là Diệm, Tổng thống Nam

Việt Nam, đã được tay chúng ta bệ lên ngai, bỗng sực nhớ ra mình là

kẻ cai trị chân chính của đất nước và vì thế trở thành nguy hiểm cho

chúng ta. Chúng ta đã hất hắn khỏi vị trí cao sang, rồi giết hắn. Và

chúng ta đặt viên tướng này nọ vào chỗ này. Tôi không nhớ họ tên bọn chúng. Đừng có nhăn mặt, ông Mark, bây giờ tôi sẽ trình bày cái cốt yếu cho ông nghe. Những viên tướng này, cũng có khi là những nguyên soái hoặc nguyên soái tương lai đồng ý mời quân Mỹ vào nước này. Bọn chúng đồng ý chiến đấu, vì lợi ích của Mỹ đến người lính Việt Nam cuối cùng. Bọn chúng lấy học thuyết Lindon Johnson đem

vũ trang cho mình. “Tư tưởng trung lập hóa ra là tư tưởng bỉ ổi. Phải đập nát nó ở bất cứ nơi nào nó định ngóc cái đầu ghê tởm của nó dậy”. Hình như nó được diễn đạt như vậy. Johnson không chỉ mang cái học thuyết ấy từ Việt Nam về. Ông ta đem từ đó về cả một kế hoạch đồ sộ nhằm tiêu diệt các binh đoàn du kích Việt Cộng và đánh bại “sự xâm lược từ miền Bắc và đệ trình cho Tổng thống Kennedy xem xét. Nhà Trắng đã phê chuẩn về cơ bản. Ông thấy đấy, cái đó có liên quan trực tiếp đến các ông, đến Hatter và doanh nghiệp của ông ta, đến đề tài câu chuyện hôm nay. Trực tiếp đấy nhé. Không quanh quẹo tí nào. Thẳng một cách không tưởng? Kế hoạch của Johnson bình định Việt Nam đến việc phái sang Đông Dương hàng vạn, hàng vạn chàng trai của chúng ta, hàng đoàn đại bác, xe tăng, xe bọc thép, tàu chiến, máy bay. Chỉ nay mai cuộc chiến tranh lớn sẽ bắt đầu ở Việt Nam. Một cuộc chiến tranh mà không có thứ máy bay tiêm kích – oanh tạc “Tiên tri” tuyệt vời của các ông thì không xong… Đấy, tôi đã nói xong cái đoạn tình tứ lạc đề của mình rồi.

Và hắn vui vẻ nháy mắt với Trán to, vỗ vai lão này rồi cười ha hả. Tên cầm đầu công ty vẫn quen làm người khác bẽ mặt, giờ đây lúng túng im tịt.

– Tôi phục các ông lắm, – Giovanni tiếp tục. – Cuộc chiến tranh lớn còn đang được vạch kế hoạch, mà các ông đã sẵn có máy bay tối tân nhất. “Tiên Tri”! Cái tên ý nghĩa lắm. Quả thật, đó là máy bay của những thắng lợi tương lai. Cái có triển vọng đem lại những lời lãi lớn cho công ty “Hatter Industries”.

Thằng lùn lại nháy mắt lần nữa với Trán to:

– Tôi thật khờ nếu không biết lợi dụng dịp này mà dành ít phần cho mình. Bây giờ tôi chắc ông đã hiểu rạch ròi là tôi không thể,

không có quyền bỏ lỡ cơ hội may mắn này. Xin nhường lời cho ông,

ông Mark.

Trán to tư lự thêm một lúc nữa:

– Thôi được, tôi sẽ báo cáo cho ông chủ về tối hậu thư của ông, –

cuối cùng hắn nói.

– Đây không phải là tối hậu thư. Chuyện làm ăn bình thường. Harold chắc phải biết tôi.

– Ông ấy biết! Ông ấy đã nói trước là ông sẽ đòi một phần lãi.

– Harold của ông thông minh lắm. Thật dễ chịu khi giao dịch với những bạn hàng thông minh. Tôi cho rằng ông ấy không quên khoản tiền tạm ứng.

– Vâng. Séc trả tiền cho ông tôi đang giữ. Đây!…

nó.

Mark đặt lên bàn tờ giấy dài gập làm đôi. Giovanni chăm chú xem

Trong khi các ông chủ đang thỏa thuận với nhau, tôi ngồi trong góc

phòng hút thuốc liên tục và nghĩ ngợi.

Giá như cái xã hội được gọi là cởi mở của chúng ta biết được bọn trùm kinh doanh lớn làm ăn như thế nào! Những người Mỹ bình thường không có khái niệm nào về những kẻ đại loại như Thợ giày và Trán to, về cảnh tượng bọn chúng nói năng một cách thông thạo, thản nhiên những cái khó tin nhất mà không hề ngượng ngùng, không bọc

lớp hương thơm nào lên những bí mật bẩn thỉu, thô bạo. Chúng đã

quen xỉa bạc tỉ, cắt xén các dư luận, lái đường lối đối ngoại và đối nội sang hướng bất ngờ nhất.

– Thỏa thuận thế nhé! – Mark cựa quậy không yên trong ghế bành, nhìn tôi ra ý chuẩn bị ra về.

– Chỉ có thế thôi à? Không còn đơn đặt hàng nào nữa à? – Giovanni ngạc nhiên hỏi, có vẻ ngao ngán.

– Ông thấy còn ít ư? – Mark cũng tỏ ra ngạc nhiên và ngao ngán.

– Không sao, vừa rồi! Nhưng tôi còn có thể đề xuất với ông cái này.

– Cái gì thế?

– Chúng tôi phục hồi hoạt động của bọn tàng hình phát đạt hồi những năm ba mươi.

– Bọn tàng hình?

– Vâng. Nếu các ông khẩn cấp muốn gạt một con tốt nào đó khỏi vướng chân con tường, thì xin mời, cứ đặt đơn, chúng tôi sẽ thực hiện cẩn thận, đúng vào thời hạn đã thỏa thuận. Tiền trả theo bảng giá. Rất rẻ, nếu xét đến tính chất công việc. Làm một kí giả thù nghịch biến đi chỉ tốn có một nghìn đôla. Cái đầu một nhà kinh doanh thông thường giá năm nghìn. Chủ tịch thì mười nghìn. Hạ nghị sĩ từ ba mươi đến năm mươi. Thượng nghị sĩ thì chúng tôi lấy một trăm nghìn.

Trán to cười khùng khục trong cổ, lấy tay lau cái đầu hói bóng, nhìn sang tôi rồi mỉm cười và nói:

– Tại sao thượng nghĩ sĩ lại cao giá hơn nhà kinh doanh? Không công bằng.

– Thượng nghị sĩ trong nước chỉ một trăm, mà nhà kinh doanh thì hàng nhiều nghìn. Có điều nhà kinh doanh cũng có nhiều loại. Tay triệu phú thì chúng tôi lấy đắt hơn. tùy từng người!

– Rõ rồi! Về nguyên tắc, như thế là có thể khử bất kì người nào.

– Không. Nếu đó là thành viên khối anh em của chúng tôi và lọt vào Nhà Trắng, dĩ nhiên là người đó sẽ bất khả xâm phạm.

– Ra thế! Ông hi vọng lọt vào Nhà Trắng?

– Sao lại không? ít ra thì bây giơ chúng tôi cũng gần đích hơn thời

Al Capone(1). Giờ chúng tôi có nhiều đôla hơn, có nhiều những người quả cảm hơn, có kĩ thuật và tính tổ chức cao hơn. Ba bốn mươi năm trước, công ty chúng tôi chủ yếu chuyên về hăm dọa, tống tiền, tiêu thụ ma tuý, hớt phần ngọn số thu nhập của các ổ bạc và ít lưu tâm đến đại kinh doanh hợp pháp. Bây giờ chúng tôi đã trở thành chủ xí

nghiệp, chủ nhà máy, chủ nhà băng, có cổ phần ở các hãng đáng kính,

chúng tôi hợp tác bình đẳng với những người như ông, bạn Mark thân mến của tôi ạ.

Giovanni cười, lại nháy mắt thân thiện với khách và vươn người về phía lão này.

Mark đăm chiêu, chăm chú nhìn tên Gangster(2).

– Cơn bộc trực của ông làm tôi ngạc nhiên, ông Giovanni

Giovanni. Trước kia ông kín tiếng hơn. Cái đó làm tôi thích hơn.

– Bây giờ chúng tôi cũng vẫn giữ mồm giữ miệng. Nhưng có chi phải giấu khi giao dịch với ông?

– Ông có thấy không, Giovanni…

– Tôi biết! Ông muốn nói là chúng ta không cùng một giuộc, tuy cùng kéo chung cỗ xe. Ông muốn giữ cái sắc màu kinh doanh thuần tuý của mình.

Trên mặt Trán to bừng lên sự phản đối. Hắn cười gằn và không rời mắt khỏi kẻ đối thoại, hắn nói:

– Tôi muốn cái hoàn toàn khác cơ, Giovanni ạ. Đấy, tôi nghe ông nói rồi nghĩ, tại sao trong bảng giá của ông không có Tổng thống?

Thằng lùn nhìn chỗ kim cương của mình và đáp:

– Công việc ấy thực hiện theo đơn đặt hàng đặc biệt, cho nên cũng

đòi hỏi tiền thù lao đặc biệt. Hãy nhớ điều ấy, Mark ạ, khi ông nảy ra

ý nghĩ gạt bỏ một Tổng thống ở Na - ca- ra- goa, Cô- xta Ri- ca, Philippine hoăc ở đâu đó.

– Cánh tay ông dài đấy, Giovanni ạ. Ngày xưa nó còn ngắn hơn nhiều kia.

– Chúng tôi đã lớn lên, Mark thân mến ạ, lớn cả về bề sâu lẫn bề rộng.

– Nghĩa là, ông có thể khử bất kì Tổng thống nào của bất kì nước

nào?

– Về nguyên tắc là như vậy. Nước càng lớn thì tiền đặt càng cao.

Rồi chúng không nói đến đề tài đó nữa. Chúng nhìn nhau đầy ngụ

ý trong im lặng. Một màn kịch câm lí thú. Lúc này, cái máy ghi âm bí

mật của tôi vô tác dụng. Tiếc thật!

Rồi đến bữa ăn tối với những cái chạm cốc và những lời cam đoan thề thốt và tình thân hữu vĩnh cửu. Giovanni bé nhỏ uống ít mà đã say nhiều. Trán to uống nhiều, hết cốc này đến cốc khác mà vẫn tỉnh. Chúng đứng dậy khi trời đã tối. Chúng tôi trìu mến từ biệt vị chủ tịch công ty “Phung sự thánh thần” và ra về.

Sau khi chúng tôi đã bình yên đi vòng qua Ford Worth theo những con đường đất bên sườn và đã ra đến xa lộ lớn, Mark cất tiếng, sực nhớ ra tôi:

– Anh nghĩ gì vậy, Serge?

– Tôi chẳng nghĩ gì cả. Tôi ngủ thiu thiu…

– Cái đồ văn sĩ thiết bì! Díu mắt lại sau cuộc gặp gỡ như thế!

– Thưa ông, ông chưa đánh giá hết cái sức mạnh ám thị của tôi. Không trông thấy gì! Không nghe thấy gì! Không nhớ gì! Không biết

gì! Không đoán cái gì!

– Được lắm. Anh thông minh đấy, Serge. Hãy lặp lại những từ ấy thường xuyên hơn. Lặp ra tiếng và lặp thầm. Anh hợp với cái vai thuộc lòng như thế. Trong trường hợp nhỡ xảy ra việc điều tra những hoạt động phi pháp của “Hatter Industries”.

– Đội ơn Chúa, cái đó sẽ không bao giờ xảy ra.

– Không phải tạ ơn Chúa, mà tạ ơn tôi đây này. Chừng nào tôi còn

là quản trị trưởng của “Hatter Industries”, thì sẽ không có điều tra

điều triếc gì hết.

Trán to dúi nắm tay lông lá của mình dưới mũi tôi:

– Nó đây này, ủy ban điều tra và toàn bộ FBI.

Tôi coi việc nghi ngờ câu nói cuối cùng của Hasson là nghĩa vụ. Tôi làm điều đó cố gắng trong khuôn khổ lễ độ:

– Cả đến FBI cơ mà! Nhưng nó dưới quyền Trưởng công tố và Bộ trưởng Tư pháp Robert Kennedy.

– Thế thì đã sao?

– Mà Robert Kennedy đâu có nuôi mối cảm tình đặc biệt nào đối với

“Hatter Industries”.

– Đúng!

– Thế ông làm sao dàn xếp được với FBI, một khi có Robert?…

– Tôi đã dàn xếp với ông chủ thực tế và không thay đổi của FBI, Hoover dưới mọi thời Tổng thống vẫn làm không phải cái mà các vị giám hộ hình thức của ông ta muốn, mà là cái lợi ích nước Mỹ đòi hỏi. Tức là chúng ta – những người điều hành kinh doanh của nước Mỹ. –

Và hắn cười ha hả. Hài lòng với sự vô liêm sỉ của mình. Kẻ mặc bộ đồ

xám, viên tướng cũ, người của FBI hôm qua đang say sưa với quyền hành thâu tóm được. Tên thủ quân hôm nay của ngành công nghiệp quân sự, nhân vật chủ chốt trong bầu đoàn những kẻ quyền thế của thế gian này, che mờ những triệu phú kiểu cũ. Qua bàn tay của Trán

to, ông Bạc tỉ tha hồ ngồi mát ăn bát vàng, đôla.

Chúng tôi trở về Houston, đổi chiếc Chevrolet xuềnh xoàng sang chiếc Cadillac lộng lẫy và ai về nhà nấy: Trán to về dinh thự riêng trị giá cỡ ba trăm nghìn đôla, tôi thì về căn nhà xa lạ của Hatter mà tôi ở không mất tiền. Ngày hôm sau, tôi bay chuyến đầu tiên đi đi- tơ- roi,

rồi từ đó tới Niagara Falls, tới thác Niagara.

*

Tuy đã muộn và thường quen đi ngủ sớm, Harold Hatter sau khi nhận được điện, vẫn chờ tôi trong phòng làm việc của mình.

– Thế nào? – lão hỏi khi tôi vừa bước vào phòng.

– Có lẽ mọi việc đâu vào đấy rồi. Ông có muốn nghe giọng lão Thợ

giày Thánh thần không?

– Mở lên!

Harold Hatter chỉ việc nghe băng ghi cuộc thương lượng của Mark

Trán to và Giovanni Batistini, còn tôi lúc đó nhìn ngắm lão kĩ càng.

Ông Bạc tỉ là một nhân vật cực kì khó gần, không chỉ đối với những loại trần tục lèm nhèm, mà còn đối với các nhà kinh doanh

có thế lực và các kí giả nổi tiếng. Nhiều người biết lão nhưng thường cũng chỉ là “văn kì thanh bất hiếu kỳ hình”. Mọi công việc

lão đều làm thông qua bộ tham mưu, đứng đầu là Mark Trán to, thông qua những người tin cậy và các luật gia hay qua dây nói. Lão

không ló mặt ở phố Wall(1), trong các cuộc tiếp khách ở Nhà Trắng, cũng không ở nơi nào khác dành cho tầng lớp trên. Không một

phóng viên nhiếp ảnh láu lỉnh nào tìm được đường tiếp cận lão. Tấm ảnh cuối cùng của lão được in ra cách đây vài năm. Còn bây

giờ, mùa thu năm 1963, trông lão ra sao?

Lão cao, vai rộng, tay dài, gây gò, xương xương. Cái đầu to phủ lớp

tóc cứng màu hung đốm bạc. Tai thòi lòi như lá cờ con. Mặt như mặt ngựa, nặng nề, dài, môi dưới dầy chìa ra. Dưới đáy hai hốc mắt ngựa

tôi tối, nhấp nháy cặp mắt thông minh, sắc, thấu đáo. Răng to phủ một lớp mỏng màu vàng.

Sự hao hao giống mõm ngựa của bộ mặt Hatter vào khoảng năm năm trước, đã khích tôi vẽ một bức biếm họa đùa. Trên tờ giấy to, tôi vẽ cuộc đua ngựa vượt chướng ngại bằng bút chì màu. Phía trước một tá ngựa đua dũng mãnh là một chú ngựa trai tráng bờm vàng, được rắc đầy đôla vàng. Đôla vàng bay ra từ dưới vó. Thay cho mắt và răng là những đồng đôla sáng loáng. Chướng ngại mà chú ngựa đua vượt qua hết cái này đến cái khác cũng là đôla. Đống tiền con đề chữ “một nghìn”, đống to “một triệu”, đống đồ sộ “một tỉ”. Quay lại nhìn các đối thủ tụt hậu, con ngựa chiến thắng nhe răng bằng vàng và nháy mắt cũng bằng vàng. Harold Hatter tình cờ trông thấy bức tranh táo tợn của tôi và thích thú cười ha hả. Cái tác phẩm nghiệp dư của tôi làm lão thích đến

nỗi lão đem treo nó trong căn nhà Niagara của mình, ở trên lò sưởi.

Trước khi đi ngủ, Harold Hatter đã vào bồn tắm, và từ người lão

tỏa ra mùi rượu thuốc tùng bách. Lão mặc chiếc pyjama mỏng xanh thẫm có bộ cúc xà cừ to và áo choàng trắng tinh bằng len Angora(1). Con chó lông xù Bax nằm dưới chân lão. Năm máy điện thoại khác màu đặt dưới tay phải của lão trên bệ đặc biệt bằng kính dày và thép không gỉ. Máy trắng nối thẳng với phố Wall, với thị trường chứng khoán. Qua máy xanh lá cây, lão có thể gọi cho London, Brooksxen, Paris, Amsterdam, Hong Kong, Tom Avip, Pocait(2), Aden(3) Teheran vào bất kì phút nào. Mây đen nối với bản doanh của đế chế súng ống

và dầu lửa của lão. Lão sử dụng máy đỏ, được bọc chống nghe trộm, trong những trường hợp phải thông qua các biện pháp gìn giữ lợi ích sống còn của công ty hoặc an ninh cá nhân. Máy đen được nối vào mạng chung, nhưng số của nó chỉ có hai người thân cận của Hatter biết: Mark Trán to và tôi. Năm máy điện thoại chủ yếu để cho chính Hatter dùng. Đã thành lệ, lão và chỉ có mình lão gọi những người cần cho lão. Người ta chỉ gọi cho lão khi có những việc khẩn cấp nhất. Quy

củ trong đế chế làm như vậy, không ai dám vi phạm.

Harold im lặng, với vẻ mặt kín đáo, căng tai nghe câu chuyện được tái hiện lại giữa Mark và Giovanni. Con Bax cũng dóng tai lên,

và như hiểu câu chuyện liên quan đến hàng trăm triệu đôla. Con chó mới được tắm rửa. Bộ lông lụa dài, được chải kĩ lưỡng hãy còn âm

ẩm. Mắt nó được lau rửa bằng loại dung dịch đặc biệt, đang sáng lên. Cái cổ dề mềm bằng ni lông, có những tấm thẻ bằng vàng và cái

vòng cổ dầy bằng vàng. Móng được cắt gọt. Một con chó sung sướng nhất thế giới. Được săn sóc tại các mĩ viện đặc biệt cho chó. Được

chăm nom bởi một bà bảo mẫu cho chó tại gia. Ngủ trên đệm lông. Đêm ngày nó làm bạn với con người khó gần đối với toàn nước Mỹ.

Bất cứ lúc nào, nó cũng có thể liếm tay lão.

Cuộn băng quay đã đến cuối. Tôi ấn nút, tắt máy ghi âm. Con Bax ngáp, liếm mép rồi lại nằm dưới chân thần tượng của nó.

– Chà chà!.. – Hatter gầm gừ khoan khoái. – Thật vậy, mọi việc đâu vào đấy cả. Lần này Thợ giày hóa ra dễ tính và linh họat. Cừ lắm!

– Lão gật đầu với cái máy ghi âm, cười khẩy: – Những anh bạn không

đội trời chung của ta ở “General Dynamics” hẳn không tiếc một cái gì

để đoạt được cuộn băng này đây.

Lời lão nói mang tính chất câu hỏi rõ ràng,

ràng, nhưng tôi lặng im. Tôi

làm như không hiểu lời ám chỉ.

– Harold, chả lẽ ông lại đồng ý với những điều kiện nô dịch của hắn?

– Sao lại nô dịch?

– Còn không nữa! Hắn đòi một phần ba lợi nhuận.

– Anh tính kém lắm, Serge. Thu nhập của hắn ít hơn của tôi. Thử xét xem một đằng một phần ba, một đằng hai phần ba.

– Nhưng ông là nhà kinh doanh hợp pháp, còn hắn… Hatter phẩy tay, ngắt lời tôi.

– Nếu tôi cứ bo bo đi găng trắng kiếm tiền, tránh tiếp xúc với

những tên Thợ giày các loại, thì đã không gom góp nổi lấy một nghìn đôla, chứ đừng nói đến hàng triệu.

Quan điểm vô cùng ngắn gọn và trắng trợn của ông Bạc tỉ về làm ăn và về toàn bộ lối sống Mỹ của chúng ta là như vậy.

ở Nhà Trắng, ở Bộ Ngoại giao, ở Lầu Năm góc nhiều ông chủ không khá gì hơn Hatter, Trán to và Thợ giày. Bạn hãy hình dung các viên tướng của Lầu Năm góc vạch chiến tranh chống Việt Nam nói với nhau những gì. Chúng thành thạo chuẩn bị cho việc chém giết hàng vạn, hàng triệu người. Nhiên liệu và súng ống của Hatter, máy bay và tên lửa của “General Dynamics”, “Lockheed, “Boeing” nhằm làm cho máu đổ thành biển ở Đông Dương, ở Trung Đông, ở châu Âu – ở khắp nơi nào có sự đe dọa đối với lợi nhuận của các vị tỉ phú.

– Nào, đã đến giờ đi ngủ, tôn ông.

Hatter đặt tay lên vai tôi, đẩy nhẹ ra phía cửa.

*

Tôi ngồi trong căn phòng dành cho mình trong biệt thự, hút hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác, nhìn vào đống đầu mẩu, nghĩ và

viết… Viết và nghĩ… Tôi biết nhiều bí mật của Hatter, nhưng cái bí

mật nhất trong tất cả các bí mật, tôi vẫn chưa được nhòm vào.

Một đêm đã qua. Nơi cửa sổ đang rạng. Niagara đang đổ ào ào, sủi bọt, trắng xoá. Đâu đó trong bờ bụi công viên, lũ chim đang thử giọng. Trước ban mai, bầu trời trong trẻo, không gợn mây, như ở Arizona. Khi xưa, lúc bắt đầu phục vụ cho Hatter, tôi cũng có một tâm hồn trong trẻo, êm lặng như thế kia. Tôi đã tin như nhiều người tin rằng những nhà kinh doanh kiểu Hatter là những anh hùng dân tộc, là động cơ và đôi cánh của nền kinh tế năng động của chúng ta, nguồn thịnh vượng chính của nước Mỹ. Tôi đã ca tụng lão trong những cuốn sách đầu tay. Tôi nhận tiền của Hatter không hề day dứt lương tâm

và tiêu chúng như những món làm ăn chính đáng của mình.

Tôi có thể viết hàng chục trang về trạng thái tinh thần của mình do chuyến đi gặp Giovanni Batistini. Nhưng tôi không muốn làm điều đó. Tôi sẽ chỉ kể những gì đã trông thấy, đã nghe thấy, đã chứng kiến khi sống giữa những kẻ nắm vận mệnh nước Mỹ và sẽ ít viết nhất về những xúc cảm của mình. Bi kịch của một người bị lừa dối và tự lừa

dối mình là đề tài của một cuốn sách khác mà tôi nhất định sẽ viết nếu còn sống.

TRANG SỬ TỪ CHICAGO

ở nước ta không có chuyện hoạt động của công ty này lại không phản hoạt động tương ứng của một công ty khác. Thành công và thất bại sớm hay muộn ở đâu đó, vào lúc nào đó sẽ đổi chỗ cho nhau. Sự cạnh tranh khốc liệt của mọi kẻ chống lại mọi kẻ, của tất cả chống lại

tất cả là quy luật của lối sống Mỹ, cho nên một điều hoàn toàn tự

nhiên là trên quỹ đạo của ông Hatter và ông Batistini mau chóng xuất hiện thêm một vệ tinh phóng lên bí mật nữa.

Chuyện xảy ra như thế này.

Tôi bay đến Washington chạy việc cho Hatter. Suốt buổi sáng cho đến tận bữa ăn trưa, tôi ở trên đồi Capitol.

Sau mười hai giờ, tôi vào quán “Cà phê Tổng thống”. Đã đến giờ ăn trưa.

Tôi ra khỏi miếu đường của ngành lập pháp, theo cầu thang thênh thang đi xuống, cắt ngang quảng trường, đi qua một khu phố cổ thời George Washington và lọt vào bóng cây dày đặc. Tôi dừng lại giây lát, thở hít sâu trước khi vào quán cà phê. Thật là một ngày oi bức trái với mùa thu.

Tôi đứng trong bóng tối, lấy khăn tay lau khuôn mặt nhễ nhại và phe phẩy số báo buổi sáng dày cộp New York Time.

– Người Texas té ra cùng khổ vì khí hậu Washington.

Tôi quay lại. Cách tôi hai bước là một người cao, rắn chắc, có khuôn mặt không đi vào trí nhớ. Cả quần áo lẫn cung cách không có

gì đáng để ý. Bộ comple không đắt tiền màu xám, cravat giản dị

không màu, cái mũ rẻ tiền. Một người Mỹ bình thường như tôi nghĩ khi thoạt nhìn. Tôi không định đáp lại anh chàng lạ mặt và im lặng đi

vào quán cà phê. Nhưng con người không đáng để ý này không cho tôi

đi. Anh ta chặn đường. Nói một cách oai vệ:

– Thưa ông, ông không có quyền bỏ qua câu chuyện với tôi. Ai biết được, có lẽ số phận đã an bài cho chúng ta gặp nhau cũng nên. Nào ta cùng đi ăn và sẽ nói chuyện.

Tôi quay ngoắt khỏi thằng cha quấy rầy mà “số phận đã run rủi cho tôi” và nói nghiêm nghị:

– Xin lỗi, tôi thích ăn một thân một mình.

– Vì trường hợp thế này mà ông sẽ phải thay đổi thói quen.

– Trường hợp thế nào?

– Lúc ăn tôi sẽ nói. Xin ông đừng xua tôi. Đó là vì lợi ích của ông. Câu chuyện ta nói sẽ tác động thuận lợi đến mười năm trước mắt của

đời ông.

– Có chuyện gì vậy? Rõ ràng là ông coi tôi không đúng với thực chất của tôi?

– Ông khỏi lo, tôi không nhầm đầu. Ông là chủ bút của tờ báo đáng trọng, có thế lực và rất có tài Texas Sun? Serge Brooks?

– Vâng. Tôi có vinh dự đang được nói chuyện với ai đây?

– Ngay bây giờ ông sẽ biết mọi sự thôi mà. Hãy kiên nhẫn lấy một phút. Ngoài cương vị biên tập, ông còn giữ cương vị mà ít ai biết là cố vấn bí mật của con người may mắn trong thời đại chúng ta Harold Hatter.

Tôi đã đoán ra là mình phải chạm trán phải kẻ nào. Cả ở tòa soạn,

cả ở văn phòng của Hatter, tôi đã nhiều lần gặp những thằng cha như thế, những kẻ phát minh ra phương pháp làm giàu mới nhất, những

kẻ thiết kế ra các thứ tàu bay, tàu bò, những lão lang băm và bói toán, những thằng sính dự án viển vông, những tên hăm dọa làm liều

mà không được sự uỷ quyền của bọn đầu sỏ các xanh đi- ca tống tiền. Thật rõ ràng, đây lại là một kẻ tiểu tốt. Bọn gangster và tay chân của

chúng thuộc loại có máu mặt chưa từng bao giờ bâu vào chính Hatter

hay các cộng sự thân cận của lão. Chỉ có đồ thộn mới dám có những

hành động ngây ngô như vậy. Vả lại, cũng có thể, cảm tính đang đánh lừa tôi, cũng có thể kẻ đối thoại khó ưa này không phải là tên hăm dọa rẻ tiền, một gã lông bông trong bộ quần áo chỉnh tề, mà là một kẻ chạy việc cấp cao ở nghị viện và cũng như tôi, một kẻ thân tín của một ông vua máy bay, vua điều khiển hay vua dầu hỏa nào đó.

– Tôi rất sung sướng được gặp ông, thưa ông, – kẻ lạ mặt tiếp tục nói. – Suốt một thời gian dài, tôi theo dõi ông từ xa và đã nghiên cứu

kĩ tính cách ông. Tôi khâm phục ông. Ông đã đạt tới một cách nhanh

nhẹn, khéo léo, tốn ít năng lượng và thì giờ nhất cái mà những kẻ khác cả đời không đạt được. Và thì gì…

Tôi sốt ruột ngắt kẻ hâm mộ lắm lời của mình:

– Chuyện gì vậy? Ông cần gì ở tôi? Ông là ai?

Kẻ lạ mặt rút từ túi trong ra tấm danh thiếp và chìa cho tôi. Tôi cầm mẩu giấy dày trắng bóng và không tin vào mắt mình nữa. Hóa ra

là, số phận đã dẫn dắt tôi gặp một kẻ rất có thế lực. Cửa của mọi nhà băng của nước Mỹ, của Bộ Ngoại giao, của Lầu Năm góc và Nhà Trắng

rộng mở trước người này. Ông Frank Bill là một luật gia lớn, chủ hãng luật “Bill và Craft”, mà khách hàng chủ yếu là các nhà công nghiệp và

tài phiệt Chicago và vùng chung quanh. ông Frank Bill không từ cả việc bảo vệ lợi ích cho các bọn gangster lớn. Đặc biệt gã nổi tiếng vì đã

không cho FBI đưa lên ghế điện Sam Giancan, ông chu tối cao của

Syndicat “Cosa Nostra”, ông vua không vương miện của các tỉ phú Mỹ

đen tối. Sam Giancan chỉ bị một năm tù. Các vị quan tòa kết án hắn không phải vì những hành động “lục lâm” của hắn, mà vì tội hắn không chịu khai báo những bí mật của Syndicat của hắn. Người ta đồn rằng, trạng sư Frank Bill nhận được khoản tiền thù lao ba trăm nghìn đôla của người khách hàng kia. Phần lớn gia sản của mình, Frank Bill kiếm được khi bảo vệ lợi ích của những kẻ như Sam Giancan.

ở Mỹ người ta coi trọng những kẻ biết kiếm đôla và thường không

lên án các phương pháp đạt đến đích. Mọi phương tiện đều tốt nếu nó

dẫn đến mục đích. Phần lớn nước Mỹ biết rõ, đường vào Nhà Trắng của Tổng thống hiện nay được trải bằng những tiền gì, nhưng ít ai vì thế mà coi khinh ông ta.

Tôi nhìn người đối thoại không giấu vẻ thích thú.

– Rất vui lòng ăn trưa với ông, ông Bill, – tôi nói, ngả mũ và gật đầu

về phía tiệm cà phê. – Xin mời!

Chúng tôi bước vào căn nhà mát mẻ, tôi tới và ngồi vào sâu phía trong gian phòng vắng vẻ, bên cái bàn kê sát cửa sổ. Các cô gái mũ ren trắng, im lặng và khẽ khàng bày đồ ăn cho chúng tôi rồi lui vào. Người đối thoại của tôi không cất lên một lời nào khi chưa xơi xong. Rót cho mình cà phê, hớp ngụm đầu tiên rồi bắt đầu hút thuốc, xong

xong đâu đó gã nhẹ nhàng ngả người ra ghế, lấy tay xua làn khói rồi nói rất nghiêm trang, thậm chí có vẻ trang trọng:

– Thưa ông, một người trong số khách hàng của tôi mà tôi không được quyền nói tên, trao cho tôi việc đề xuất với ông một đề nghị rất

có lợi.

Gã ngừng lời, có lẽ chờ đợi câu hỏi của tôi, nhưng tôi chẳng hỏi cái

gì cả, chỉ im lặng. Những năm gần đây, khi tôi đã là chỗ quen biết của

Hatter, tôi đã nhiều lần tiến hành các cuộc thương lượng mở đầu cũng

kì lạ không kém gì câu chuyện hôm nay với ông Bill. Tôi, người thân

cận của Hatter, ke tâm phúc đặc biệt của lão đã nhiều lần được các trạng sư, chủ các hãng luật, chủ tịch các công ty, các thượng nghị sĩ,

hạ nghị sĩ, các chủ nhà băng, các tướng ba sao của Lầu Năm góc và các quan chức chính phủ đủ các cấp đề nghị, mời chào. Tôi đã quen

không hấp tấp, không bác bỏ mà cũng không chấp nhận ngay cả các

đề nghị quyến rũ nhất lẫn những cái bất lợi rõ ràng. Còn thiếu đê

nghị gì người ta không ngỏ ra với tôi! Tôi cho rằng, ông Bill không thể làm tôi ngạc nhiên được.

Ông trạng sư danh tiếng ném bỏ điếu thuốc hút dở vào gạt tàn, tì khuỷu tay vào cái bàn đá hoa rải khăn to bằng giấy có hình tất cả các Tổng thống Mỹ, từ người đầu tiên, George Washington đến người cuối cùng, Kennedy giờ còn đang mạnh khỏe với nụ cười hết cỡ được phóng

to gấp ba lần các Tổng thống khác và được bố trí ở giữa các vị tiền bối của mình.

– Thưa ông, suất ông hết bao nhiêu đôla? – Bill hỏi.

Tôi nhún vai, ra ý rằng những nhà kinh doanh có lòng tự trọng

thường không trả lời những câu hỏi như thế.

Gã cười vẻ có lỗi, muốn được tha thứ cho sự ngây thơ như thế.

– Tôi vô tình được biết rằng tương lai sắp tới của ông ít được bảo đảm dù ông có địa vị cao. Người bạn và là người bảo hộ ông không hiểu sao lại không tỏ ra quan tâm đến mặt này của sự tồn tại của ông. Thật bất công đối với một người tài năng như ông. Tiền lương mà ông vẫn nhận, thật chưa xứng với ông.

– Xin lỗi, nhưng…

– Xin ông đừng phẫn nộ. Hãy chú ý nghe tôi. Trong túi tôi có cái ngân phiếu trả tiền cho người mang. Một trăm nghìn đôla! Tôi được giao việc trao nó cho ông.

Trạng sư Bill thò tay vào túi trong áo vét, lấy ra một phong bì dầy

để ngỏ có nhãn hiệu của miếu vàng lớn nhất Hoa Kỳ “Bank of America”(1). Gã đặt cái mồi xuống bàn, lấy khăn rải bàn có hình các Tổng thống che lên.

Nhìn thẳng vào mắt Bill, tôi nói:

– Sao ông lại vung tiền đến thế? Tôi phải làm gì?

– Khách hàng của tôi chờ đợi ở ông sự giúp đỡ cỏn con… Tôi đề nghị

ta ra ngoài kia. Ta sẽ ngồi vào ô tô của tôi và bon khắp ngoại vi

Washington. Ông không phản đối chứ?

Gã đẩy về phía tôi phong bì có dấu “Bank of America”, nhưng tôi không cầm. Bill cười khẩy và đút tấm ngân phiếu vào túi.

Chúng tôi đi ra phố đến chỗ đỗ xe. Xe hơi của ông Bill, hóa ra chẳng lấy gì làm sang trọng. Chiếc chevrolet cũ kĩ, mờ đục, màu xám

xịt với cái mũi mom móp. Bây giờ đang có mốt các anh giầu đi những cái xe tập tàng như thế.

Chiếc chevrolet chạy cũng không đến nỗi nào. Chúng tôi đi ngang qua Lầu Năm góc, ngồi trong xe ngắm bức tượng tuyệt mĩ “Lính thuỷ đánh bộ cắm cờ trên đảo Iwo Jima(1) và lăn bánh trên đất với Ginea.

Bill lái thoải mái. Con đường rặt những ôtô mà không hề ngăn cản

việc gã hút thuốc và nói chuyện. Gã nói:

– Tôi biết, khi trời bắt đầu xấu đi thì các ông sẽ lên đường đi du lịch xa. Các ông sẽ giải trí ba bốn ngày ở Anh. Một tuần ở Paris. Mười ngày ở Italia. Cũng bấy nhiêu ngày ở Riviera(2). Các ông định nghỉ đông tại quần đảo Canari(3). Các ông đã có kế hoạch như vậy. Nhưng

nó sẽ không bao giờ thực hiện được. Các ông sẽ không đặt chân lên

quần đảo được. ở Xixilia khi các ông đang xem các lâu đài cổ, thì thình lình giữa ban ngày, ông Hatter sẽ biến mất. Bọn cướp Xixilia sẽ bắt

cóc ông ta.

Nói xong những lời ấy, Bill rút ra phong bì có tấm ngân phiếu một trăm nghìn đôla rồi đặt nó lên chỗ ngồi.

Tôi im lặng một lúc lâu, thích thú ngắm nhìn khuôn mặt Bill không hề có dấu nhận dạng gì đặc biệt. Gã chịu được cái nhìn của tôi mà không phải cố gắng chút nào. Tôi không vội đồng ý, cũng không

vội từ chối. Tôi trầm ngâm tuy hiểu rằng, lúc này hoàn toàn không phải là lúc có thể im lặng như vậy. ở Mỹ thời buổi này, tôi nghĩ, và không chỉ có ở Mỹ, ở khắp châu Âu và trên toàn thế giới, những tội ác táo tợn nhất, giật gân nhất, đẫm máu nhất bây giờ ít ai làm sửng sốt. Chúng đã trở thành chuyện cơm bữa, thành một nghề kinh doanh nguy hiểm, bị cấm kị, nhưng vì thế lại hấp dẫn và lời lãi hơn. Tội ác tăng nhanh hơn ngành chế tạo máy bay hay điện tử. Bọn tội phạm, cũng như bọn tư bản độc quyền, hợp nhất thành những Syndicat, chia phạm vi ảnh hưởng không chỉ trong nước mình, mà còn trên khắp thế giới. Chính cái đó – mức tăng khủng kiếp của tội phạm và tính tổ chức của nó trên phạm vi thế giới đã làm nảy sinh ra cảnh sát hình sự quốc

tế: Interpol(1). Tồn tại một khối “Thị trường chung” độc đáo của tội

phạm. Nước Pháp đào tạo cho toàn châu Âu và thế giới bọn đột kích nhà băng táo gan, khéo léo và thường thì không thể bị tóm. Tất cả những kẻ bẻ khóa hoặc đốt các két sắt của các cửa hàng kim hoàn ở Milan, Turin, Florenxia, Oloner, Brooksxen, Paris, Lisbon và Maldrid, tất cả những kẻ tấn công các két bí mật đặt trong bánh xe ôtô, có kim cương và các loại đá quý khác, tất cả những kẻ hốt bạc triệu của các nhà băng Tây Đức, Hà Lan, Luxemburg và Thụy Sĩ, – cũng xuất thân từ nước Pháp. Bọn tội phạm hình sự Anh nổi tiếng

trong thế giới tội ác với những cuộc đột kích cỡ lớn các phương tiện

vận tải chở tiền. Chỉ một cuộc tấn công xe lửa bưu phẩm Glassgo – London, chúng đã chiếm được ba mươi ba bị da, chứa đầy séc chưa đăng kí trị giá hai triệu rưởi xéc- linh. Các phóng viên ca tụng đến ngút trời tội ác đó, gọi nó là “Vụ cướp của thế kỉ”. Xixilia nổi tiếng với bọn cướp và các mafia của mình. Nhưng ít người biết rằng bọn tội phạm Xixilia còn khéo léo làm giả các giấy tờ, phiếu trả tiền và các loại giấy bạc trên quy mô lớn không chỉ đối với Italia, mà còn đối với nhiều nước châu Âu. Người Florenxia được coi là những kẻ làm tiền

giả tài giỏi nhất, có thói quen nghề nghiệp hàng thế kỉ.

Phục vụ cho những nhu cầu hàng ngày của mình, bọn tội phạm

Anh, sử dụng những thành tựu mới nhất của hóa học và điện tử học,

đã tạo ra những máy móc vạn năng có thể làm ra thẻ căn cước, giấy

chứng nhận, thể ra vào, giấy khen, bằng tốt nghiệp đại học, cổ phiếu chứng khoán bằng bất cứ thứ tiếng nào với độ chính xác lạ thường. Cũng tại Anh, các chuyên gia được đào tạo ở Pháp, nhờ những phương pháp kĩ thuật gia công kim loại mới nhất, cực kì cẩn thận, không hề làm hư hại một tí giấy má nào, có thể mở tung cái bụng thép của các két nhà băng.

Các phòng thí nghiệm bí mật ở Pháp chê biến lại và tinh luyện hầu hết các loại nguyên liệu ma tuý. Thế giới tội ác Italia ùn ùn chở thuốc phiện, cần sa sang thị trường Bắc Mỹ. Nước Pháp là tấm gương kinh điển đối với bọn tội phạm nhiều nước. Các bar, hộp đêm, tửu quán có trình diễn thoát y vũ, các khách sạn đặc biệt của Paris, Marcei và Le Harver là trường hoạt động của các Syndicat lầu xanh và của đội quân gái giang hồ của chúng. Hàng năm chúng kiếm được hàng chục

tỉ Franc. Trung tâm của các giải trí viện nước Mỹ Las Vegas là cái

mẫu nho nhỏ đối với toàn thế giới tội phạm chủ yếu ở ổ đánh bạc của mình – những con bò sữa của các Syndicat ăn cướp. Bọn gangster nhận được phần thu nhập của mình trích trong số lợi nhuận của các chủ sòng bạc.

Cảnh sát tất cả các nước chẳng thể nào huênh hoang về những thành tích trong cuộc đấu tranh với các bọn tội phạm hình sự quốc gia; chưa nói đến bọn lưu động người nước ngoài. Các công ty ngày càng ít trông cậy vào cảnh sát.Việc canh giữ các nhà băng, các xí

nghiệp công nghiệp, các hãng bảo hiểm, các cửa hàng bách hoá, các

cửa hàng bầy bán đồ kim hoàn, người ta đều sẵn lòng giao phó cho các hãng tư nhân chuyên đối phó với bọn tội phạm lớn. Kĩ nghệ mới này,

kĩ nghệ canh giữ tư bản tư nhân đang cạnh tranh rất có kết quả với các cơ quan nhà nước như Cục điều tra liên bang Mỹ và Scottland

Yard(1). ở Mỹ, công ty “Vakenhat” thuộc tư nhân đang phát. Phục vụ cho hãng trinh thám này là năm nghìn thám tử đã được đào luyện

trong lòng FBI. Không chỉ có các triệu phú và tỉ phú Florida và

California, mà nhiều chúa tiền tệ của New York, Buffalo, Boston cùng

cậy nhờ vào công ty “Vakenhat”. Sếp của tôi, Hatter cũng ở dưới sự che chở của công ty trinh thám tư nhân đầy quyền năng này. Cái đó làm lão tốn đâu chỉ cỡ trăm nghìn đôla. ủy ban về năng lượng nguyên

t

nguyên

tử của Mỹ trả cho “Vakenhat” ba triệu đôla một năm để gìn giữ lợi ích

của mình. ở tất cả các nước châu Âu, Nam Mỹ và châu á, những công

ty tư nhân, sao chép lại kiểu “Vakenhat” được thành lập. Thế nhưng,

bất chấp việc cả một đạo quân khổng lồ của các thám tử tư nhân và nhà nước được tung ra mặt trận đấu tranh chống tội phạm, lại được trang bị kĩ thuật nghiệp vụ tân tiến nhất, nhiều hãng bảo hiểm, do đã mất lòng tin ở khả năng của cảnh sát công và tư, đã bí mật và công khai tiếp xúc với lũ ăn cướp, hăm dọa, tống tiền, lấy trộm đồ quý. Không hiếm khi trên báo xuất hiện các cáo thị mà mươi mười lăm năm trước không có chỗ trên trang báo. Sự đầu hàng công khai của

các chủ nhà băng, các chủ hiệu kim hoàn được in bằng những dòng

chữ đập vào mắt người đọc: “Chúng tôi sẽ trả thưởng cao cho bất kì người nào hoàn lại cho chúng tôi số của đã mất. Chúng tôi sẽ không

đòi hỏi. Chấp nhận mọi điều kiện”.

Tôi thường phải giao dịch với các ông chủ quyền thế của công ty “Vakenhat”. Qua chúng, tôi được biết là nhiều tên đầu sỏ của các Syndicat nhà nghề sống trên địa vị hợp pháp và hoàn toàn yên ổn, bởi

vì chính bọn chúng không tham gia gây tội ác và không giơ mình chịu báng trước cảnh sát. Bản kê khai tòa án của chúng lí tưởng về mọi mặt. Chúng không có mối liên hệ nào trông thấy được với bọn tội phạm có tên trong danh sách. Chúng chỉ huy lâu la một cách bí mật, không thấy được, qua những kẻ khác cũng ẩn giấu sau bức bình phong trang trọng của sự tôn kính. ở Anh chẳng hạn, Charles Richardson rất phát đạt, chủ của những triệu Xtéc- linh, các lãnh địa

lớn và lâu đài cổ trước kia thuộc một huân tước Anh nổi tiếng. Vợ

Charles Richardson là khách hàng thường xuyên của các cửa hàng kim hoàn lộng lẫy nhất nước Anh. Mụ ta có một bộ sưu tập vô kể đồ trang sức quý giá.

Còn giàu hơn, nổi tiếng hơn Richardson là tên đầu sỏ của bọn gangster Mỹ mà tôi đã nói đến: Sam Giancan ở Chicago. Hàng nghìn tạp chí và nhật báo đăng ảnh hắn, nhưng đối với cảnh sát, hắn vẫn đàng hoàng: hắn được bọc bằng bản kê khai sạch sẽ, bằng tiếng tăm của một ông chủ lớn và bằng hàng trăm triệu đôla. Cả Giovanni Batistini cũng an toàn như thế.

Nào ai biết, nhờ đâu con người lịch duyệt đang ngồi cạnh tôi đây, được phủ bằng cái tên của một trạng sư danh tiếng, chủ hàng luật, cũng là tên đầu sỏ của một Syndicat hùng mạnh nào đó. Tôi sẽ chẳng ngạc nhiên tí nào nếu phát hiện ra điều đó.

Tôi cắt đứt sự im lặng quá lâu của mình bằng một nụ cười hoàn toàn vô tư lự và bằng câu nói:

– Vậy là, việc mưu sát ông Hatter đã được chuẩn bị kĩ lưỡng? Bill gật mạnh đầu.

– Vâng, tôi dám chắc với ông như vậy. Chúng tôi đã tính đến kinh

nghiệm cay đắng và ngọt bùi của tất cả các vị đi trước chúng tôi. Chúng tôi đã lôi cuốn vào công việc này các chuyên gia tên tuổi nhất trong lĩnh vực này.

– Và bây giờ mọi cái tiêu ra mây khói?

– Sao lại ra mây khói, thưa ông?

– Bởi vì ông đã lỡ trớn nói về vụ mưu sát trước khi nó diễn ra.

– Trong kế hoạch của chúng tôi có việc thông báo cho ông biết về chiến dịch đang được chuẩn bị.

– Và ông tin rằng tôi sẽ không để hở các bí mật của các ông, mà trở thành đồng loã của các ông.

– Vâng, thưa ông. Nghĩa là, không. Chúng tôi không chỉ tin ở sự

sẵn sàng giúp đỡ chúng tôi của ông mà còn ở sức mạnh và kinh nghiệm của chúng tôi, ở khả năng trừng trị những kẻ bẻm mép.

– Bill, lần này sức mạnh và kinh nghiệm sẽ không giúp được gì cho các ông. Ngay hôm nay, Hatter sẽ biết nội dung câu chuyện này.

Bill chậm rãi, trầm ngâm lắc đầu. Mặt gã trở nên buồn, còn giọng nói thì đường bệ, âu yếm như của một người cha.

– Không, thưa ông, ông sẽ không phụ lòng tin cao quý của chúng tôi đối với ông. Không được phụ. Nếu không…

– Tôi phải đền cái đội nón?

– Vâng, thưa ông. Tiếc thật, nhưng chúng tôi sẽ buộc lòng phải thế

để tự vệ. Các khách hàng của tôi có một biên chế đặc biệt gồm những người thực hiện các bản án được cấp trên chuẩn y.

– Tôi biết. Tôi có nghe. Có thấy. Và càng ngạc nhiên với những gì ông nghĩ. Một chiến dịch xoàng xĩnh, rẻ tiền, cầm chắc thất bại. Tôi không thèm bỏ một đồng xu gỉ lên ván bài của các ông. Chỉ cần Hatter biết kế hoạch của các ông, ông ấy sẽ báo ngay lập tức cho Bộ trưởng

Tư pháp Robert Kennedy, giám đốc FBI Hoover. Toàn bộ cảnh sát liên bang và địa phương, toàn thể nhân viên cục điều tra sẽ được báo động. Các thám tử của công ty “Vakenhat” trăm tai nghìn mắt sẽ bao bọc Hatter bằng hàng rào ba lớp, sẽ bảo đảm sự bất khả xâm phạm.

Trong khi tôi nói, Bill ung dung cười và từ từ, với vẻ quan trọng, nghiêng đầu, khi thì sang bên trái, khi thì sang bên phải.

– Không, thưa ông, ông sẽ không nói gì với sếp của ông về cuộc mạn đàm của chúng tôi. Tôi tin ở trí óc sáng suốt của ông.

– Tốt lắm, cứ cho là như thế. Và ông định dành cho tôi cái vị trí nào trong cái công cuộc này?

– Thưa ông, rút cuộc ông đã nói theo phong cách làm ăn. Chúng tôi

sẽ bắt cóc cả ông. Chúng tôi không muốn để cho ông Hatter cô quạnh,

phải biệt li với người phụ tá sáng suốt nhất của mình. Chúng tôi sẽ

bắt cóc các ông, như tôi đã nói ở Xixilia: Cái đó diễn ra mau lẹ, êm

thấm. Những thám tử nổi danh của công ty “Vakenhat”, sẽ không kịp

trở tay. Vài giờ sau các ông được đưa đến một nơi bí mật, và các ông sẽ

ở đó đến khi nào đồng ý xin chuộc.

– Bill, ông chả biết gì về tính cách Hatter. Ông ấy không bao giờ, không đời nào, kể cả dưới họng súng ngắn, chịu đồng ý trả lấy một đôla để được tha.

– Vâng, đúng rồi, Hatter là một người ngang ngạnh. Có lẽ ngang ngạnh nhất nước Mỹ. Thêm vào đó, ông ta quả là tự ái và kiêu hãnh đáng mặt con người giầu có số một thế giới. Hatter sẽ không bao giờ chịu chuộc mình, nếu như ông ta phải độc lập quyết định số phận của mình. Chúng tôi đã tính đến điều đó, cho nên sẽ giữ cả ông cùng với Hatter. Chúng tôi cho rằng ông sẽ trình xếp lời khuyên tốt và khôn ngoan.

– Tức là tôi bắt ông ấy chìa ví ra và vãi cho các ông vài triệu? Thế các ông định tiền chuộc là bao nhiêu? Cái đó có phải giữ bí mật không, ông Bill?

– Không, ông ạ. Tôi không định giấu ông điều gì. Chúng tôi dự tính mười triệu. Không phải thẩm vấn gì cả. Mười triệu đối với ông Hatter

là chuyện vặt, là phần tí teo trong số vốn của ông ta.

Tôi cười khẩy và nhìn tơ ngân phiếu nằm giữa tôi và viên trạng sư.

– Bill này, nếu tôi không nghe lầm thì ông có ý kiến tốt về tôi.

– Ông không nghe lầm. Đúng, tôi coi ông là con người xuất sắc sẽ còn tiến rất xa trên con đường của mình. Đến cái đích của mình.

– Thế tại sao ông lại đánh giá công tôi rẻ thế kia? Một trăm nghìn đôla. Mười triệu đôla, còn đằng này một trăm nghìn.

– Để tạm ứng, thưa ông, thì đấy là số tiền rất không nhỏ. Trong tương lai, tôi tin rằng công lao của ông sẽ được trả gấp hai, gấp ba lần bây giờ.

– ồ, ông tính đến chuyện hợp tác cả trong tương lai?

– Sao lại không? Với những người như ông thì người ta thỏa thuận

nghiêm túc và lâu dài hoặc không thỏa thuận gì hết. Nhưng thôi, nói chuyện quá xa làm gì. Chúng ta sẽ làm việc ngày hôm nay. Ông có hỏi

gì không, thưa ông?

– Có chứ! Ông Bill, hình như ông đánh giá quá cao khả năng các khách hàng của ông và không coi ra gì dịch vụ bí mật của hãng “Pinkerton” và sức lực các thám tử của công ty “Vakenhat”. Ông có hay rằng hai hãng này cho đến giờ vẫn đảm bảo an ninh có kết quả cho nhiều chủ nhà băng và nhà công nghiệp, trong đó có Hatter?

– Vâng, tôi có hay, – Bill thản nhiên gật đầu. – Dịch vụ bí mật của Pinkerton đã ghi lại không ít thắng lợi to tát qua một trăm năm tồn tại. Nhưng chưa có thắng lợi nào đối với hãng của các khách hàng của

tôi và sẽ chẳng có đâu. Còn câu hỏi nào nữa không, thưa ông?

– Ông có biết rằng dịch vụ bí mật của Penkerton và công ty “Vakenhat” áp dụng những thành tựu mới nhất của kĩ thuật hiện đại? Ông hãy im đã. Hãy trả lời ngay các câu hỏi… Ông có biết rằng ngày nay hầu như không có tội ác nào mà các hãng nói trên không thể phanh phui hay ngăn ngừa? Ông có biết rằng các thám tử hiện đại hoàn toàn không giống với Sherlock Holmen(1), rằng chủ yếu đó là những bác học xuất chúng, những trí thức bậc cao như ở trung tâm nguyên tử hay trung tâm chinh phục vũ trụ?… Nào, xin ông hãy trả

lời cho.

– Vâng, thưa ông, tôi biết. Chúng tôi cũng áp dụng máy tính, kĩ thuật điện tử, hóa học và vật lí. Các khách hàng của tôi cũng có trung tâm của mình, cũng có bác học của mình. Ông thấy đấy, chúng tôi cũng không làm theo kiểu cổ như thời Sherlock Holmen. Chúng tôi được tổ chức tốt hơn nhiều các dịch vụ bí mật hàng thế kỉ na

nay của Pinkerton. Chúng tôi có nhiều trí thức hơn công ty “Vakenhat”. Người của chúng tôi tài giỏi hơn các bác học của Pinkerton. Họ hiện đại hơn,

kĩ thuật hơn, xin cam đoan với ông. Tất cả các chiến dịch của chúng tôi, không loại trừ cái nào, hoàn toàn được cơ khí hoá. ở bất kì chô nào của nước Mỹ, ở bất kì chỗ nào của quả địa cầu, chúng tôi cũng có trong tay điện thoại, điện báo, tê lê típ và các kênh liên lạc đặc biệt. Chúng tôi có những sân bay và máy bay có khả năng bay qua đại

dương ở bất kì hướng nào. Nếu cần, chúng tôi sẽ sử dụng đến tàu thuỷ

bất kì trọng tải nào, có thể đi vòng quanh thế giới. Chúng tôi có những thuyền buồm gắn động cơ máy bay. Chúng tôi có những ôtô tốt nhất thế giới, làm theo đơn đặt hàng đặc biệt. Các kế hoạch của chúng

tôi được vạch thảo ở một trung tâm duy nhất, ở Bộ tổng tham mưu

của chúng tôi. Phục vụ ở chỗ chúng tôi có những người nắm vững mọi ngoại ngữ. Hãng của các khách hàng của tôi có vốn quay vòng là vài tỉ đôla.

– Tôi tin vào sự bề thế của hãng các ông, ông Bill ạ. Nhưng có một điều làm tôi băn khoăn và ngạc nhiên.

– Điều gì thế, thưa ông?

– Tôi băn hoăn về sự tủn mủn của các khách hàng của ông. Một hãng có hàng tỉ bạc quay vòng, được trang bị kĩ thuật tối tân nhất, lại

mê mệt với cái nghề kinh doanh của thuở trăm năm về trước. Bắt cóc

để tống tiền là trò nghiệp dư rẻ tiền, trò đem đại bác hạng nặng ra

bắn chim sẻ, nó là chuyện của những ngày đã lùi xa. Thời nay làm trò

ấy chỉ có bọn ăn cướp lãng mạn, những sinh viên tài tử mưu toan

dung hòa việc đến trường nghe giảng với việc cướp bóc. Bất kì một kẻ gangster tự trọng nào cũng coi cái trò bắt có tống tiền là hạ đẳng.

Bill bật cười.

– Ông biết rất rõ cả phần mặt tối không được soi tỏ này của hành tinh chúng ta. Vâng, điều đó đúng. Bắt cóc tống tiền là phương pháp moi đôla đã cũ. Nhưng, mọi quy tắc đều có ngoại lệ. Sự bắt cóc thông thường là trái với các khách hàng của tôi. Nhưng họ không từ chối sự bắt cóc khác thường. Ông có biết Francesco Palacini là ai không?

– Có, tôi có nghe. Một nhà kinh doanh lớn, kĩ sư, nhà thiết kế người

Italia.

– Thêm nữa là đẹp trai, kiêu hãnh và ngang ngạnh. Dám chạy ngang đường “Cosa Nostra”. Hắn sống ở miền bắc Italia. Trong cái vi

la bao bọc bởi bức tường bất khả xâm phạm của điện tử và thám tử. Nhưng không có gì cứu được tỉ phú Francesco Palacini. Hắn bị bắt

cóc. Cái đó được tiến hành giỏi đến mức bọn bắt cóc của mọi thời và

mọi dân tộc đều không dám mơ tới. Đến James Boad(1) cũng đã phải

ghen tị. Trong chiến dịch này, sử dụng đến cả máy bay phản lực, xe đua “Pherary” và nhiều thứ khác chỉ gặp trong những phim viễn tưởng. Tuy ngài Palacini có ngoan cố hết sức, ngài vẫn phải chuộc hai mươi bốn triệu lia. Đương nhiên là cảnh sát Italia bất lực trong việc đối phó với những kẻ bắt cóc Palacini. Cảnh sát luôn bị hố khi trạm trán với Syndicat của khách hàng của tôi. Cảnh sát Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Italia bó tay như thường lệ trước một công ty có bạc tỉ. Bọn họ

chỉ nuốt trôi những chú cá con: bọn đột kích, bọn buôn người và ma

tuý, bọn làm tiền giả v.v… Chưa có một trường hợp nào, các nhân viên của Pinkerton khám phá ra lấy một vụ lớn nào của khách hàng của tôi. Ông thấy đấy, thưa ông, tôi hoàn toàn thẳng thắn với ông.

– Không hoàn toàn. Ông chưa nói điều chủ yếu nhất.

– Điều gì vậy?

– Ông biết rõ là Hatter đánh giá cao tôi. Hiển nhiên ông cũng biết

là làm việc và kết bạn với Hatter đem đến cho tôi sự sảng khoái lớn như thế nào.

– Vâng, tôi biết.

– Thế thì tại sao ông lại nghĩ là tôi đổi ông Hatter hoàn toàn có thực, hoàn toàn tin cậy lấy những vị khách hàng nào đó không hình dáng, không khuôn mặt, không đến cả tên tuổi của ông?

– Tôi sẵn sàng trả lời câu hỏi này. Ông Hatter đánh giá ông cao, nhưng trả thấp, không đúng khả năng của ông. Ông lĩnh cả thẩy có mười lăm nghìn đôla một năm. Cho đến giờ ông cũng chưa được hứa thêm khoản nào. Làm việc với ông Hatter, ông se không bảo đảm được tương lai của mình. Tôi muốn nói tương lai của một nhà kinh doanh lớn, độc lập. Còn tôi, được các khách hàng uỷ thác, bảo đảm cho ông ban đầu một món tiền hàng năm không dưới một triệu đôla. Sau từ ba đến năm năm, ông sẽ có số cổ phiếu vàng và sẽ thành một trong những người góp cổ phần có thế lực nhất của “Bank of America” hay một nhà băng khác. Tóm lại, thưa ông, tôi đề nghị với ông sự hợp tác

lâu dài, cực kì có lợi cho cả ông, cho cả chúng tôi.

– Mọi cái đều hấp dẫn, ông Bill ạ, nếu như không có một vấn đề.

– Tôi biết ông muốn nhắc đến cái gì rồi. Tính pháp lí của hành động, trách nhiệm trước các cấp tòa án và đại loại như thế. Đó là chuyện vặt, thưa ông. Tất cả những gì ông đã làm cho đến giờ vì lợi

ích của ông Hatter ở ngoài hành lang nghị viện, ở các công sở New

York, Philadelphia, San Francisco, London, Paris, Maldrid chẳng khác tí gì với những cái ông sẽ làm cho các khách hàng của tôi. Kinh doanh là kinh doanh. Những bạc tỉ của người bảo hộ của ông kiếm được cũng bằng những phương thức hệt như phương thức các khách hàng của tôi sử dụng. Trong thế giới kinh doanh, ai biết kiếm đôla, ai

có can đảm vượt mọi trở ngại, bước qua cái gọi là ngưỡng cửa luân lí,

chừng nào anh còn thu được lợi nhuận khổng lồ, chừng nào còn chưa sẩy chân, chưa cho phép kẻ cạnh tranh hay kẻ ghen tị tóm đúng tay hoặc lừa vào bẫy. – Bill chạm nhẹ vào tay tôi. – Tôi tiêu phí nhiều lời thật. ông biết rõ, những điều này.

– Vâng, tôi biết. Cho nên tôi mới hết sức coi trọng từng lời nói của ông.

– Thế thì tốt lắm, Serge! Chắc là ông không bực mình vì tôi gọi ông như thế? Không kìm được. Tôi vui sướng vì chúng ta đã thỏa thuận được với nhau.

– Chúng ta còn chưa thỏa thuận điều gì cả.

– Chúng ta sẽ thỏa thuận! Nhất quyết sẽ thỏa thuận.

– Tôi không tin như vậy. Tôi còn suy tính đâu ch ỉ một hai lần, có nên thả con săn sắt mà tôi nắm trong tay, để bắt con cá rô còn vùng vẫy ngoài xa kia không. Ông hình dung sự hợp tác của chúng ta ra sao, Bill?

– Chuyện ấy chúng ta sẽ bàn sau, khi nào xong cái việc chung đầu tiên của chúng ta.

– Không, tôi muốn biết thêm đôi điều ngay bây giờ. Nhiệm vụ của

tôi sẽ là gì? Tôi sẽ làm việc dưới cái vỏ nào và ở đâu, nếu tôi chấp nhận đề nghị của ông?

– Rồi sau, Serge, rồi ông sẽ biết tất cả. Tôi chỉ co thể nói một điều

với ông lúc này: ông sẽ có cái vỏ chắc chắn nhất. Cũng hệt như bây giờ. Ông không phải thay đổi gì cả: nguyên chỗ làm việc, nguyên những gắn bó, nguyên những thói quen thường ngày.

– Ông muốn nói là…

– Vâng! Ông hiểu tôi từ nửa lời nói; ông vẫn phục vụ cho ông Hatter, vẫn giúp đỡ ông ấy mọi việc như trước kia và củng cố ảnh hưởng của mình. Đôi lúc ông sẽ báo chúng tôi biết một vài giao kèo và các biện pháp tài chính của ông Hatter. Chỉ một vài cái mà chúng tôi quan tâm đến. Chỉ có vậy thôi. Mỗi công lao của ông tùy vào mức độ, quỹ giá sẽ được trả ngay bằng séc hoặc tiền mặt, tùy ông muốn. Tôi khuyên ông nên lấy tiền mặt. Chẳng phải đóng thuế gì cả. Có thể cả lẫn khỏi sự giám sát về tài chính và bỏ tiền vào nhà băng Thụy Sĩ qua

tài khoản mã hoá. Hãy tính khả năng ấy.

Bill nhìn đồng hồ.

– Nào thôi, Serge, thì giờ của chúng ta đã hết. Sau năm phút nữa

tôi phải gặp thượng nghị sĩ Đ. Phải thúc một dự luật về nhà đánh bạc

và các khu vực dầu lửa cũ đã cằn.

– Khách hàng của ông quan tâm đến cả dầu lửa?

– Khách hàng của tôi quan tâm đến mọi thứ đem lại lợi nhuận nhanh chóng và nhiều. – Bill nhìn vào mắt tôi một cách trìu mến và

oai nghiêm nói. – Hãy quyết định đi, Serge!

Tôi lặng im và nghĩ ngợi.

– Serge, sao ông lại thiếu quả quyết lắm vậy? Tôi ngạc nhiên đấy. Những người có bản lĩnh như ông thường không biết do dự. Ông làm sao thế?

– Tôi nghĩ, Bill ạ.

– Không cần! Chúng ta đã suy nghĩ hết mọi cái trong khả năng sức

lực của con người, cho đến những chi tiết nhỏ nhất. Tôi đã biết ông sẽ

là ai và là cái gì sau ba, bốn năm nữa.

– Nhìn về tương lai của mình thì cũng thú! Nào, hãy vén màn lên!

– Đến cuối những năm sáu mươi, ông sẽ là một trong những người phú quý của nước Mỹ, đứng đầu một nhà băng có thế lực nào đó hay là chủ tịch một Consorcion thực hiện các đơn đặt hàng của Lầu Năm góc.

– Thế thôi à?… Hãy nhớ là bây giờ, khi hợp tác với Hatter, tôi đã trông đợi vài tài khoản ngân hàng đàng hoàng, vào cái ghế chủ tịch của một trong những công ty của sếp tôi. Thê đấy, Bill ạ. Trong đề nghị của ông có ít điều lôi cuốn tôi đấy.

– Tôi có thể thêm.

– Bao nhiêu?

– Cái đó còn tùy thuộc ở ông. Ông càng giúp chúng tôi nhiều thì chúng tôi càng hào hiệp với ông.

ông.

– Đấy không phải là cách nói làm ăn với nhau. Cụ thể, Bill ạ, tôi

sẽ được cái gì và khi nào được, nếu đến với các ông. Ông có sẵn sàng trả lời câu hỏi rõ ràng này không?

Bộ mặt trạng sư Chicago ngời lên sung sướng. Gã khoái trá nhìn tôi và mỉm cười thân thiện.

– Tôi đã đánh giá rất cao bộ óc của ông mà vẫn không đánh giá hết. Hóa ra ông là người còn to tát hơn tôi tưởng.

– Ông lại lẩn tránh trả lời trực tiếp. Tôi nhắc lại, tôi muốn biết chính xác, tôi sẽ được cái gì và khi nào được, nếu…

– Serge, nói thẳng ra là tôi bị dồn vào chân tường. Tôi không tính đến nước đi cương quyết như thế từ phía ông khi định thương lượng

với ông. Tôi còn phải bàn bạc với các khách hàng của mình. Thôi, ta quay về Washington nhé. Buổi chiều ta sẽ gặp nhau ở thượng nghị

viện. Ông khỏi lo, tôi sẽ tự tìm thấy ông.

Chúng tôi đi đến chỗ ngoặt gần nhất, rẽ sang phải làm một vòng lượn hình lá phong quay trở ra đường lớn. Vài phút sau, chúng tôi đã

ở ngoại ô Washington. Tôi ra khỏi xe, còn Bill lại đi tiếp. Vị tất đã có

người theo dõi. Để đề phòng xa, tôi rẽ vào cửa hàng cạnh đấy và đứng

chọn rất lâu cái cravat mùa hè. Bỏ cái túi bọc cravat vào túi, tôi bước

ra phố, gọi một xe taxi đi ngang qua rồi bình yên về đến đồi capitol và

ở đó cho đến hết ngày làm việc.

Bill! Frank Bill! Chủ văn phòng luật ở Chicago Bill và Craft. Tôi hỏi lai lịch gã ở một văn phòng rất thạo tin đã cộng tác lâu với Hatter. Tôi biết thêm được ít nhiều, còn thì nhiều cái vẫn còn mờ mịt như đêm đen. Bill là một khối băng: trên mặt nước chỉ có một phần nhỏ nhoi của tảng băng, thân nó ẩn khỏi con mắt người đời. Có những nghi vấn cho rằng gã bảo vệ cho lợi ích của nhà kinh doanh có thế lực của Chicago Henry Crown, chỉ số cổ phần khống chế các hãng đường

sắt “Chicago và Thái Bình Dương”, “Nam Thái Bình Dương”, đồng

thời là sếp sòng chính của đế chế khách sạn Hilton. Trong những năm năm mươi, chính Henry Crown này đã hớt tay trên của giới làm ăn Malhattan và giành quyền sở hữu hoàn toàn tòa nhà Empire building nổi tiếng, niềm tự hào trường cửu của New York và toàn thể nước Mỹ. Sau khi đã nắm trong tay vài năm và đã chơi chán món đồ chơi đắt tiền, lão bán lại và kiếm được năm mươi triệu đôla. Cũng lúc đó dinh luỹ công nghiệp quân sự “General Dynamics”, một niềm tự hào khác của giới kinh doanh Hoa Kỳ lại rơi vào tay lão. Trở thành người chủ toàn quyền của nó, Crown nghiễm nhiên bước lên hàng đầu của các trùm tư bản. Tất cả các con, các bạn, đồng đảng, bọn cánh hẩu và các quản trị viên trung thành của lão đều được chỗ ấm thân. Hãng “General Dynamics” bắt đầu chế tạo các hệ vũ khí tối tân, các tàu ngầm nguyên tử, các máy bay tiêm kích và máy bay ném bom siêu âm, và tên lửa. Nói một cách trắng trợn là nó chèn ép nhiều kẻ cung hàng cho Lầu Năm góc và chiếm vị trí dẫn đầu. Cũng chính Henry Crown là một trong những chủ tướng của cái gọi là “ủy ban phát triển kinh tế”, tên gọi đúng hơn là “Hội đồng các thầu”. Hơn một trăm nhà kinh doanh có thế lực nhất của miền Trung Tây có chân trong đó. “General Dynamics” bằng cách này hay cách khác hợp tác với các hãng lớn “Thirn Robert và công ty”, “Mongomery World”, “Swift”, “Anna”, “International Harvardston”, với các nhà máy luyện kim quan trọng nhất “Inlandsteel”, nhà băng “Continental Illinois” mà giám đốc của nó là người trùng họ với Tổng thống: David Kennedy. Chính lão Kennedy người Chicago này cầm đầu “Hội đồng các thần”, “General Dynamics” hùng mạnh nhất tiếp xúc cả với công ty công

nghiệp quân sự không kém hùng mạnh của miền Trung Tây

“Motorola”. Chủ tịch của nó Robert Goldwin cùng với Henry Crown cố gắng không tranh chấp nhau. Bọn chúng coi các chủ nhà băng và chủ công nghiệp của New York , Viễn Tây và Tây Nam là kẻ thù chủ yếu của đế chế do bọn chúng cầm đầu, một đế chế có số vốn được đánh giá vào khoảng năm mươi tỉ đôla. Vì thế, hai bọn này quyết đấu chọi sống mái với nhau. ấy thế nhưng đôi khi nếu thấy có lợi, các kẻ tử thù lại

kí hòa ước tạm thời, nhường nhau chút đỉnh.

Kẻ ẩn dưới vẻ ngoài tầm thường, không có gì đặc sắc, có cái tên Frank Bill, người bạn mới của tôi là thế đấy… một tên lobbyst Chicago. Hắn là một nhân vật cỡ bự, điều ấy không còn nghi ngờ gì nữa. Một kẻ vô danh tiểu tốt thì không đời nào các lão nhà giàu Chicago lại cho vào “ủy ban an ninh Mỹ”, nơi có tám viên tướng về hưu, sáu đô đốc và chính “người cha” của quả bom khinh khí của Mỹ Edwar Taylor. Các thành viên của ủy ban này, theo chính sự thừa nhận của chủ tịch của nó là Robert Goldwin, động viên thúc đẩy nền kinh doanh Mỹ trong điều kiện chiến tranh lạnh đang tiếp tục. Ra thế đấy. Không hơn không kém. Hòa bình đối với Robert Goldwin và đồng nghiệp của lão là điều cực kì nguy hiểm. Thương lượng vấn đề cùng tồn tại với cộng sản là không thể có được. Chúng truyền bá “chính sách cứng rắn”, tức là chiến tranh ngăn ngừa và đòn hạt nhân trước tiên, coi đó là phương tiện duy nhất vĩnh viễn chấm dứt chủ nghĩa cộng sản. Cũng chẳng khó đoán là đằng sau những lời rêu rao này, chứa đựng lợi ích riêng tư sâu sắc của các nhà kinh doanh miền Trung Tây: mở rộng không ngừng vũ khí mới, bứt khỏi bọn cạnh tranh từ New York, Texas, California, gây ảnh hưởng ngày càng mạnh đối với Lầu Năm góc, Capitol và Nhà Trắng. Mười năm trước, năm 1952, bọn Chicago suýt nữa thì nhét được tay chân của mình, thượng nghị sĩ Tap vào Nhà Trắng. Vào phút cuối cùng, giới kinh doanh California và New York, tạm thời hợp nhất nỗ lực trong cuộc đấu tranh với kẻ thù chung, đã chặn ngang đường đi của Tap.

Trạng sư Bill là một trong những người lãnh đạo của bộ tham mưu dọn đường cho thượng nghị sĩ Tắp vào dinh Tổng thống. Nhưng không thành. Vốn tư bản của New York và California lần này hóa ra quay vòng tốt hơn. Biết đâu tiền của của Chicago sau mười lăm – hai mươi năm nữa lại không chiến thắng. Càng ngày chúng càng hùng hậu và

xâm nhập vào những lãnh địa trước kia bất khả xâm phạm của tư

bản già nước Mỹ và tiến ra vũ đài quốc tế. Bill còn nổi tiếng vì cung cấp cho tờ báo chính của các tỉ phú miền Trung Tây, tờ báo có số lượng ấn bản lớn, có ảnh hưởng trong thế giới của kẻ mạnh và kẻ giàu “Chicago Tribune” (“Diễn đàn Chi- ca- go”), những bài báo đầy những ý định tốt đẹp nhằm chống “bọn phá hoại” lối sống Mỹ: các công đoàn, phong trào công nhân, những người cộng sản và những ai có cảm tình

với họ. Các chủ nhà băng phố Wall, các nhà công nghiệp New York cũng được nếm mùi của Bill. Gã không tiếc các gam màu khi vẽ nên “cái ách của bè lũ miền Đông”. Bây giờ lại định giở trò cả với đế chế Texas “Hatter Industries”. Tôi vừa phải giúp Bill, vừa phải giúp Hatter, vừa không quên phần của mình. Nhiệm vụ đó quả hóc búa thật.

Buổi chiều diễn ra cuộc gặp gỡ thứ hai của tôi với trạng sư Chicago. Gã tìm tôi trong văn phòng của thượng nghị sĩ Đ. Gã đợi tôi kết thúc câu chuyện và kéo tôi ra phố. Chúng tôi ngồi vào chiếc Chevrolet cũ kĩ và bon trên những con đường liên bang và con đường thuộc địa phận Columbia(1) xung quanh Washington. Lần này câu chuyện trở nên hết sức rạnh ròi. Trạng sư Chicago lau lỉnh nói:

– Tôi đã báo cáo về cuộc nói chuyện với ông cho các khách hàng. Họ chuyển lời xin lỗi ông và mong ông bỏ qua. Thái độ của họ, như họ đã

uỷ quyền cho tôi truyền lại, xuất phát không phải từ việc họ đánh giá thấp ông mà chỉ là từ do sự thận trọng.

– Hay là có thể do sợ phải tiết lộ quy mô thật sự của những mưu đồ của mình, do không muốn cho tôi tham dự vào?

– Cũng có thể như thế, – Bill cười. – Kinh doanh bao giờ chả là kinh doanh. Cứ lật ngửa quân bài thì kiếm sao được bạc tỉ, có mà không xu dính túi, chưa biết chừng lại mất cả túi lẫn quần cũng nên.

– Tôi thích cái thái độ mới này của ông, Bill ạ. Vậy thì các khách hàng của ông chia cho tôi cái gì nào?

– Chỉ nay mai ông sẽ thành chủ motel sang trọng “Chỗ nương thân của Clê- lô- pát”(1).

Tôi chìa tay cho Bill. Gã bắt lấy và bóp chặt.

– Được lắm. Tôi rất vui mừng. Bây giờ tôi có thể tin cẩn để nói với ông một bí mật nữa của các khách hàng của tôi. Đúng hơn là bí mật của người bạn của ông, rơi vào tay ch úng tôi. Chúng tôi đã tìm được những tài liệu không thể chối cãi, vạch mặt Hatter câu kết bịp bợm

với chính quyền bang Texas. Tôi muốn nói việc mua một trăm nghìn mẫu(2) đất có dầu lửa ở Texas với giá vô cùng rẻ mạt. Giá chứng khoán hợp pháp là bẩy mươi tám đôla một mẫu. Hatter được rẻ gầnmười lăm lần cả thảy có sáu đôla. Lão áp đặt cho chính quyền cái

giá ấy. Không

Không một kẻ ăn cướp nào từ trước đến giờ lại vớ bẫm như vậy. Hatter bỏ túi gần mười triệu đôla. Chúng tôi sẽ đăng những tài liệu này vào lúc thuận tiện đối với chúng tôi, nếu…

– Rõ cả rồi, Bill ạ! Cám ơn ông đã báo trước. Không còn gì quyến rũ tôi đứng về phía Hatter nữa.

Gã phá lên cười:

– Giao dịch với ông dễ chịu thật, thưa ông. Ông hiểu từ nửa lời nói. Vậy là chúng ta đã thỏa thuận. Xin chúc mừng ông.

– Và hãy chúc mừng ông nữa, Bill ạ, với thành công của chiến dịch. Phải thừa nhận rằng ông chưa bao giờ mộ được một gián điệp như tôi.

Trạng sư Chicago mà cũng có thể là đầu sỏ của một Syndicat bí mật, nói giọng van nài:

– Bạn thân mến ơi, ông hãy vứt ra khỏi đầu những từ thô thiển ấy, nào “gián điệp”, nào “mộ”.

– Quẳng được thì sướng thật, nhưng tránh đâu khỏi sự thật. Gián điệp, gián điệp chính hạng! Có cao sang, có được trả tiền nhiều, cũng vẫn là gián điệp. Nhưng có một điều an ủi tôi: Sau vài năm, khi tôi

đã bơm được từ két bạc của các khách hàng của ông sang túi tôi hai

mươi – ba mươi triệu bạc, tôi sẽ vĩnh viễn quên đi quá khứ.

Bill hài lòng với lời nói của tôi. Chắc là gã đã hoàn toàn chắc chắn rằng tôi đã qua sông đốt cầu, đã hoàn toàn thực lòng đổi chủ. Ga trao

cho tôi phong bì đựng séc. Những gì còn lại mà chúng tôi đã thỏa

thuận, gã hứa sẽ thu xếp nay mai.

*

Sau khi xong việc, tôi rời Washington và bay đi Đi- tơ- roi. Thuê một chiếc xe, tôi phóng đến lãnh địa của sếp nằm không xa thác Niagara.

Bộ mặt tôi khi vào phòng Hatter khiến lão sếp không thích tí nào. Lão sợ hãi hỏi:

– Gì thế, lại có chuyện chẳng lành à?

Tôi không nói không rằng lấy từ trong túi ra cái máy ghi âm bán dẫn nhỏ xíu. Cái máy con be tí giấu trong túi trên áo vét của tôi đã không bỏ sót một lời nào của viên trạng sư Chicago. Nó được chế tạo theo đơn đặt đặc biệt của hãng “electronic”. Một thứ không thể thiếu trong công tác bí mật. Tôi được trang bị những máy tí hon như thế. Tôi có những cái bật lửa, chỉ trong phần nhỏ của một giây đồng hồ, khi mà ngọn lửa đốt bằng hơi còn cháy, kịp chụp cả loạt ảnh. Tôi có những máy ghi âm hình cúc áo vét, có cái hình nhẫn cưới. Có máy ghi âm giấu dưới bóng đèn điện. Có máy định vị độc đáo biết nghe trộm những người thì thầm với nhau cách xa đến gần một ki lô mét. Tôi có điện đài đút vừa trong cục đường thông thường. Xe hơi của tôi có lắp máy điện đài phát, điện đài thu, cả máy ghi âm. Những thứ đó được thực hiện có sự tán thành của Hatter, bằng bàn tay của các chuyên

gia công ty “Vakenhat” và dịch vụ bí mật Pinkerton.

Hatter chăm chú nghe. Mặt lão mỗi lúc một hung dữ. Lão đập tay xuống bàn, gầm lên:

– Sao tôi lại được anh cho biết chứ không phải là các thanh tra của công ty “Vakenhat”? Bọn họ lĩnh hàng trăm nghìn đôla một năm

chỉ để bảo vệ lợi ích cho tôi cơ mà.

Tôi mỉm cười và nói:

– Ông Harold, ông xử sự với tôi như thời xưa các bạo chúa xử sự với những người truyền tin trình những tin dữ.

Hatter nhìn tôi, bỗng cặp mắt u mê lâu đến một phút, cố hiểu xem

tôi nói cái gì. Khi ý nghĩa những lời tôi nói lọt vào nhận thức của lão, lão phì cười.

– Tôi có lỗi. Xin lỗi anh. Tôi cáu với cái bọn ăn hại của các dịch vụ

bí mật.

– Thế thì ông đã cho tôi một đòn thấm thía và không công bằng.

– Tôi không hiểu.

– Cho đến giờ ông vẫn chưa có lí do gì để phàn nàn rằng công ty “Vakenhat” và dịch vụ bí mật Pinkerton làm ăn tắc trách với ông. Có phải thế không nào?

– Đúng thế. Có lẽ là thế.

– Nghĩa là họ không nhận không số tiền kia? Nghĩa là, dịch vụ bí mật vẫn ở tầm cao xứng đáng?

– Anh cứ lăm nhăm chuyện ấy để đi đến cái gì, Serge?

– Thưa ông, để đi đến kết luận là ông coi nhẹ khả năng tình báo của tôi. Khả năng ấy còn cao hơn các tài năng có bằng cấp của công ty “Vakenhat”.

Harold Hatter lại cười giòn lần nữa một cách rất dàn hòa và đôn hậu.

– Anh nói đúng. Tôi có lỗi. Xin giơ tay nhận. Tôi nợ anh đến cổ đấy. Đừng lo, tôi sẽ trả hết từng xu.

– Hatter, ông lại làm cho tôi phật ý lần thứ ba đấy. Tất cả cái đó tôi làm đâu phải vì tiền.

– Tôi biết anh xuất phát từ động cơ nào. Dù sao tôi cũng không cho phép anh coi thường tiền bạc. Anh có nghe thấy không? Tôi không cho phép. Tôi đã Mark một sai lầm nghiêm trọng khi không trả lương đủ cao cho anh. Tôi có thể phải trả giá đắt cho sai lầm đó. Tôi tuyên bố rằng anh sẽ lĩnh của tôi nhiều hơn số tiền của mà tay trạng sư đem

tới từ Chicago đã hứa với anh. Tôi sẽ sang tên hoàn toàn cho anh tờ

báo Texas Sun. Từ phút này, anh có thể coi mình là người chủ thực tế

của nó.

– Thưa ông, tôi thấy mình là chủ bút cũng tuyệt lắm rồi.

– Thôi đi, đừng có dấm dớ nữa!

– Xin tùy ông muốn.

– Tôi muốn trả hậu cho người nào làm ăn tốt. Như thế, tôi cảm thấy chắc chắn hơn. Thôi chấm dứt! Ta sẽ không tranh luận việc đó nữa. Trở lại chuyện tên Bill. Này, hãy vặn lại băng lần nữa xem nào!

Quên bẵng tôi và mọi thứ trên đời, như lão vẫn thường làm mỗi khi có chuyện động đến những lợi íc h sống còn của lão, tức là đến sự vận động không bị cản trở của những bạc triệu của lão, lão chủ tâm lắng nghe câu chuyện của tôi với Bill. Đôi lúc, lão lại nghí ngoáy cái gì

đó trong cuốn sổ ghi chép con con mà lão gọi đó là số mật mã. Sau khi

quay đến hết băng, Hatter tắt máy và nghĩ ngợi lâu đến năm phút, vừa nghĩ vừa điền vào cuốn sổ những kí hiệu tốc kí.

– Nhiều cái sáng tỏ ra, – lão nói và nhìn tôi đầy ngụ ý. – Kẻ thù của

tôi đã xông vào tấn công tôi lần nữa. Hiện giờ chúng sử dụng lực

lượng nhỏ. Có thể nói là thăm dò trước trận đấu. Và không phải ở hướng chính, theo ý tôi. Bắt cóc tôi chỉ là một hành động che mắt đối

với những thằng thộn. Kẻ thù của tôi còn có cái mục tiêu chiến lược nào đó quan trọng hơn. Chúng giấu kĩ điều đó. Chúng sẽ không chìa

con bài của mình ra ngay ngày mai hay một tháng nữa đâu. Nhiệm

vụ của chúng ta, Serge ạ, là kiên nhẫn đợi giây phút đó. Trò này sặc

mùi dầu lửa. – Thưa ông, theo tôi có lẽ chưa có cơ sở nào cho giả định của ông về chuyện dầu lửa.

– Có đấy! Cảm tính không bao giờ đánh lừa tôi. Ngoài cảm tính ra còn có một số sự kiện. Trong mấy năm lại đây, các thủ công nghiệp New York, Chicago, San Francisco, Boston, Philadelphia qua những nhân vật giả mạo muốn vươn tay đến các cơ ngơi dầu lửa của tôi ở Texas. Nhưng sẽ không có những dấu hiệu báo động bên ngoài nào hoặc có sự lo lắng nào cả. Mọi công việc chúng ta vẫn sẽ như trước kia. Tôi chấp nhận sự thách thức của kẻ thù. Sẽ đánh chúng bằng chính vũ

khí của chúng. Vũ khí này tôi trao vào tay anh đấy, Serge.

– Tôi chưa hoàn toàn hiểu ông. Cuộc bắt cóc ông đã được vạch sẵn. Chả lẽ ông lại để cho chúng thực hiện?

– Tôi còn có thì giờ để nghĩ. Tôi sẽ thông qua quyết định không chậm quá ngày mai và sẽ cho anh hay. Còn anh, Serge, anh khuyên

tôi gì nào?

– Tôi không dám mạo muội khuyên ông, ông Harold ạ. Mấy hôm trước, tôi còn cho rằng vụ bắt cóc ông là do bọn gangster bình thường định làm. Hóa ra là những tỉ phú cỡ như ông đã nhúng tay vào.

– Anh không hiểu tôi, Serge. Vụ bắt cóc do những tên gangster chính cống chuẩn bị. Nhưng được sự thông đồng của các tỉ phú, vì mục tiêu chiến lược của bọn họ.

– Tôi hoàn toàn không hiểu gì cả.

– Rồi anh sẽ hiểu, trong quá trình giao tranh. Còn bấy giờ ta hãy bàn vấn đề để mưu sát. Tôi muốn nghe ý kiến của anh. Nói xem tôi phải ngăn chặn chúng hay không nên?

– Phải ngăn chặn, – tôi nói cương quyết không chần chừ một giây.

– Tại sao? Anh không tin tưởng ở sự đúng đắn của bọn gangster chăng? Anh sợ nhỡ chúng vặn cổ tôi chăng?

– Vâng. Bọn “Cosa Nostra” thì có kể gì. Với lại, có thể xảy ra bắn nhau giữa các thám tử bảo vệ ta và bọn bắt cóc. Viên đạn lạc nó không phân biệt đâu là tỉ phú, còn đâu là tên gangster. Ông Harold ạ, tôi mong ông đừng mạo hiểm. Hãy cho Bộ trưởng Tư pháp biết về vụ mưu

sát sắp tới. Cứ để cho FBI, cứ để cho dịch vụ Pinkerton và công ty

“Vakenhat” thi hành các biện pháp.

– ấy, thế còn anh thì sao? Anh không nghĩ đến mình sao? Các khách hàng của Bill sẽ không tha thứ cho sự phản bội của anh. Tất cả những ai dám cản đường chúng, chúng sẽ gạt bỏ.

– Tôi biết tôi sẽ đi đến đâu khi kể cho ông nghe chuyện tôi với Bill.

Hatter ôm hôn tôi.

– Cảm ơn. Tôi sẽ không bao giờ quên. Tôi sẽ không để cho đầu anh dính đạn. Anh sẽ sống và trở nên phát đạt. Chúng ta sẽ lừa chúng. Hãy nghe kĩ tôi nói đây. Anh coi như không hề kể gì với tôi. Anh đã đứng sang phía bọn chúng. Đúng! Cứ việc lấy tiền của chúng bỏ túi. Hãy sống cho đã bằng tiền các đối thủ của tôi.

– Ông Harold!

– Không hề gì. Không hề gì! Tiền không bốc mùi gì đâu. Nếu như số bạc triệu đầu tiên mà tôi kiếm được thời còn trai trẻ mà tỏa mùi thì tôi,

tôi, các dinh cơ, nhà máy, khu vực dầu lửa và các nhà băng của tôi đã sặc mùi xác chết lên rồi. Thế đấy. Cứ thanh thản mà đớp. Chúng cho bao nhiêu thì lấy tất bấy nhiêu. Và lại lĩnh của tôi nữa. Cho nên anh

có thể coi mình là hội viên câu lạc bộ những con người xuất chúng của

nước Mỹ!

Lão chìa tay ra với tôi. Tôi lắc đầu.

– Không. Xưa thế nào thì tôi vẫn sẽ như thế.

– Đừng có giở ngốc ra! Anh cứ ngồi trên cái bị nhét đầy bạc triệu

thì cảm thấy ngay là mình đang ơ trên ngai thôi mà. Trước đây tôi cũng thế. Cứ giàu là tôi mạnh và thông minh thôi. Anh thử hình dung

là bỗng nhiên tôi hết nhẵn tiền. Tôi sẽ ra sao? Quyền lực, ảnh hưởng,

tài năng của tôi sẽ biến mất theo đôla. Một kẻ trị giá cỡ nghìn hoặc cỡ

hai nghìn đôla không thể nào lại thông minh, đẹp đẽ, có thế lực và tốt được, tuy rằng cha mẹ hắn có phú cho hắn trí khôn và vẻ đẹp. Ai nghèo thì thành thằng ngu. Ai không có sức kiếm bạc triệu thì phải khom lưng uốn gối trước những người biết moi nhiều tiền của đồng loại xa gần. Tóm lại, trước mỗi người chúng ta có hai con đường: đường của ông chủ cuộc đời và đường của kẻ tôi đòi. Chả lẽ cho đến

giờ anh vẫn chưa quyết định sao?

– Ông Harold, ông hiểu khác ý tôi nói. Tôi nói là công việc hợp tác

với Bill và các khách hàng của gã không vừa sức với tôi. Tôi không biết quanh queo. Tôi không có khiếu làm diễn viên.

– Đừng làm bộ nữa, Serge. Chỉ có loại diễn viên rất tài năng mới có

thể xỏ mũi tay bợm già như Bill. Anh cũng không phải làm việc lẻ loi đâu. Tôi và cả tơ - rớt trí tuệ của tôi sẽ giúp anh.

– Đành vậy! Tôi chỉ yêu cầu một điều: cho tôi hành động mà không

bị bịt mắt. Ông chắc nhớ cổng chính của trụ sở CIA có đề phương

châm gì?

– Có chứ! Hãy nhận biết sự thật và anh sẽ cảm thấy mình tự do.

– Tôi muốn biết sự thật, thưa ông!

– Anh muốn hơi nhiều đấy. Kẻ phàm tục thì không bao giờ được biết sự thật đâu. Giá như tôi biết nó… Tôi chỉ có thể nói một điều: kẻ địch muốn xỉa dao vào tôi, muốn tóm cổ tôi. Tôi cũng muốn xỉa dao vào hắn ở chỗ ngoặc gấp và đẩy hắn xuống vực. ở đâu, như thế nào và bao giờ điều đó xảy ra – tôi không biết. Ta sẽ đợi cơ hội may mắn. Và chuẩn bị cho nó. Đấy là tất cả chiến lược và chiến thuật của tôi.

– Có lẽ ông nói phải. Trong quá trình giao tranh với Bill và những ông chủ của hắn, ta sẽ vỡ nhẽ xem chúng muốn gì.

– Chúng muốn dầu lửa của tôi! Muốn những nhà máy quân sự của tôi! Muốn biết những dự định của tôi. Chúng sợ sẽ có khi tôi được, tôi

vơ hết của chúng. Mà nhất quyết tôi sẽ được và vượt chúng!

Hatter vỗ tay lên trán và cười. Lão đứng phắt dậy và nặng nề dậm chân đi quanh phòng. Ông Bac - tỉ đã nghĩ ra cái gì đó. Một cái gì đó có thể khiến đế chế các kẻ địch của lão, và cùng với nó, những kẻ cư trú ở

đó phải giật bắn mình .

– Chơi thì chơi! – Hatter reo lên. – Tôi vừa có một ý tưởng tuyệt vời.

ắt hẳn là tuyệt vời. Còn những ý tưởng nào khác có thể nảy sinh trong đầu ông Hatter, chủ hàng chục nhà máy quân sự, các khu vực chứa dầu ở Texas, Oklahoma, New Mexico, các nhà băng và đài phát thanh, cửa hàng bách hoá, khách sạn và motel ở Dallas, Houston, Austin được?

Tôi đợi Hatter nói. Lão nghĩ rồi nói:

– Đông này anh sẽ lên đường công du một chuyến xa xôi. Anh sẽ

nghỉ với tôi ở quần đảo Canari và rồi sẽ đi vào lãnh địa của đối phương của tôi. Anh sẽ sang Saudi Arabia. Sang Libanon. Sang Cô- oét. Sang bờ vịnh Péc- xích. Sang khắp nơi nào người ta đang khai thác dầu lửa. Anh có hai nhiệm vụ. Nhiệm vụ c ông khai: làm thân với các vua chúa quốc vương, nghiên cứu xem xét họ, mặc cả, đánh hơi không khí sở tại và khả năng vươn tay tới các vùng đất chứa dầu. Mọi chuyện là như vậy, để che mắt. Nhiệm vụ thật là thế này: tìm ra những người có khả năng gây nên ở Đông arabia cơn bão tố có thể phá tan cái dinh luỹ dầu lửa của Thirn hay ít nhất cũng vần cho nó hết

còn nguy hiểm, hết có khả năng cạnh tranh với tôi.

– Vâng, ý tưởng quả là tuyệt vời! Trong cái rủi lại có cái may. Làm sao mà nó không nảy ra trong đầu ông hồi trước nhỉ?

– Anh coi tôi là cái thớ gì? Nó đã nảy ra rồi! Tôi đã tiến triển rất nhiều trên hướng cần thiết rồi. Đừng ngạc nhiên, anh không biết gì

cả. Những việc như thế được làm lặng lẽ. Trán to đang thực hiện. Bây giờ ta thắng cả anh vào bộ cương.

Nghe nhắc đến Mark, tôi vô tình chau mày, nhưng lão không để ý.

– Đối thủ của tôi hút từ lòng đất arabia số dầu đủ để tưới cả quả địa cầu này. Chỉ một mình Saudi Arabia cũng đủ lĩnh được khoản trích là bẩy trăm triệu đôla một năm. Chỉ hễ có một chuyện rắc rối ở khu vực vịnh Péc- xích hay kênh Xuye là bọn chúng mất khoảng mười triệu đôla mỗi ngày. Hơn nữa, phải từ giã vị trí chúa tể trên thị trường dầu lửa quốc tế. Hãng ta nhất định sẽ lợi dụng thời thế. Dự định là như thế. Đối với tôi, nó đơn giản như hai lần hai là bốn, còn

đối với kẻ địch thì là điều vô cùng cơ mật. Bill và bọn khách hàng của hắn sợ vốn của ta lọt vào các nước arabia. Ta sẽ bằng mọi cách củng

cố mối lo sợ của chúng: ta sẽ bỏ tiền vào đó để che mắt. Trên thực tế,

ta sẽ bỏ tiền vào những quả bom nổ chậm, một ngày kia sẽ phá tung

sự bình yên của lũ chúng.

– Có thể chúng cũng đã đánh hơi thấy ít nhiều và chuẩn bị cú trả đũa?

– Hoàn toàn có thể có. Chúng cũng biết làm việc. Bill chơi với bọn

chủ các hãng chế tạo máy bay đã cướp mất của chúng ta đơn đặt hàng “Tiên tri”. Tôi nghĩ, bọn chúng đã phái Bill tới. Chúng chắc rằng tôi không đời nào cam chịu thất bại. Chúng đợi đòn đánh trả.

– Cái phương án này hợp lí hơn cả. Trong chuyến đi Washington vừa qua của tôi, một số nghị sĩ và lốp- bít bày tỏ với tôi, tức là với ông

sự thông cảm về tai họa bất ngờ ập xuống hãng ta, như lời họ nói. Rỏ

những giọt nước mắt vờ vĩnh, họ khích ta phản công. Họ hi vọng rằng

tôi sẽ hở ra một vài điều nào đó, trong cơn nóng nảy sẽ nói cho họ biết

ta định hành động như thế nào. Mấy thằng cha của “General Dynamics” mời tôi dự các cuộc cocktail(1) các buổi dạ hội. Hiện giờ, ở thủ đo, chúng có ba mươi người. Chúng lượn đi lượn lại liên tục giữa Lầu Năm góc và Capitol. Chúng giữ trong tầm ngắm toàn bộ phạm vi kinh doanh của chúng.

Hatter nhìn tranh tôi vẽ đã lâu treo trên lò sưởi, những chú ngựa đua và những chướng ngại.

– ừ, bọn chó đẻ chúng đã khéo léo vượt chúng ta rồi. Cho đến giờ tôi còn đang dụi mắt vì bị bùn bắn lên. Cái con ngựa sẫm: “General Dynamics” này có bộ vó khá lắm.

– Vấn đề không chỉ ở ngựa, mà còn ở thằng cao bồi trông ngựa. Người ta đồn chủ tịch công ty Propster là người có bộ óc thông minh nhất.

– ừ, giá lão Propster ở bên cánh ta thì ta đã chẳng bị hố với cái máy bay ném bom “Tiên tri”. Đó là sự thua thiệt lớn nhất trong đời làm ăn của tôi. Tôi sẽ không để cho kẻ nào giật nắm lông bờm tôi nữa. Kẻ nào động đến ta, ta sẽ lột da. Phải, sẽ lột da, dù đó là Propster!

– Bill làm cho lão ta hẳn? – tôi nói.

– Cả Bill, cả những đứa khác sớm muộn rồi cũng sẽ chỉ làm cho tôi. Rồi anh xem.

Hãy coi chừng, hỡi “General Dynamics”, “Lockheed” và “Boeing”! Ông Bạc tỉ không nói suông đâu. Lão sẽ không tha thứ cho những kẻ trái ý.

– Hôm nay thế là đủ, Serge ạ! Ta vù đi Niagara chứ? Đổi không khí

một cái rồi ta sẽ vẩy nước thánh cho anh.

Đức ông của tôi mới khiêm nhường làm sao! Ngài không ra lệnh, mà mời hẳn hoi.

Chúng tôi đem theo con chó nâu lông xù Bax và đi xuống sông Niagara. Con sông gầm rít, vật vã, sùng sục, sủi bọt, uốn mình giữa những tảng đá. Nó sôi réo, bạc trắng như trong cơn bão tuyết. Làm mưa bụi nhẹ, êm từ dưới phun lên trên và treo lơ lửng giữa trời đất, được mặt trời làm ánh lên.

Phía bên kia khe núi đầy bọt, bên kia dòng nước ầm ầm giận dư và những tảng đá rêu phong xám đen là Canada. Bên này là Hoa Kỳ. Cả bên kia lẫn bên này đều tuyệt diệu: sự yên lặng, tĩnh mịch, mùi thơm của cỏ héo và lá cây, cái mát mẻ trong ánh nắng của buổi sáng mùa thu không một bóng người, không khí trong suốt, vầng trăng lưỡi liềm đang tan dần trên bầu trời xanh.

– Trời ơi. Thế này cơ à? – kẻ đồng hành của tôi rền rĩ, cái đầu bạc

lắc lư. Bộ mặt ngựa của lão trở nên phấn chấn. Harold Hatter đẹp và

uy nghi trên nền Niagara trắng xoá đang sôi sục. Đôi mắt ánh lên màu xanh thắm của bầu trời. Trên đôi má ngăm ngăm ẩn thấp thoáng một màu hồng.

Trông thấy cảnh này, ai còn tin được những câu chuyện huyền hoặc rằng những nhà tỉ phu bị tiền bạc, quyền hành vô hạn làm xa lạ

với cái diệu kì chân chất của tự nhiên, với những gì làm cho cuộc sống

những người yêu lao động trở nên đẹp đẽ.

Những người phải lao động nhiều có khi chẳng có thì giờ, không đủ phương tiện để mà chiêm ngưỡng Niagara dù c

chỉ đôi lúc, chứ đừng nói đến chuyện sống ở đây hàng tuần trong cái vi la riêng vào mùa nóng nhất này. Họ thường vấp phải những vấn đề nan giải như thì giờ rỗi, tiền nong không đủ, q uyền hành và sức mạnh của kẻ giàu.

Đối với ông Hatter, những vấn đề vặt vãnh kia không tồn tại. Đã

từ lâu rồi, từ thời trở thành triệu phú, lão cảm thấy mình giải phóng

khỏi mọi người và mọi nhu cầu của người phàm tu c. Lão không phục

vụ ai ở đâu cả. Không phải bẩm báo với ai về chuyện gì. Không phải

cúi chào ai, mà chỉ nhận sự cúi chào. Là ông chủ toàn quyền đôla của mình, thì giờ của mình, mong muốn của mình, số phận của mình. Thích cái mà con tim và đôi mắt thấy ưa. Không giấu sự căm ghét của mình. Không cười khi thấy không cần cười. Không thèm nói chuyện

với ai mà theo ý lão không đáng để lão để ý. Đi và bay đến nơi nào trí

óc xui khiến. Đối với đôla của lão thì không hề có biên giới quốc gia, có

vùng cấm. Biển và đại dương, sông và hồ, núi và sa mạc của cả quả đất đều nằm trong tầm sử dụng của lão. Chiếc chuyên cơ riêng trong thời gian ngắn nhất sẽ đưa lão từ bờ Niagara đến bờ Amazona, Tamzer, Xen hay Dannup. Chiếc du thuyền lộng lẫy chạy bằng buồm hay loại hiện đại nhất với động cơ máy bay có thể bất kì lúc nào chở

lão chầm chậm ngang qua các cung điện và vi la chất chồng ở Riviera

hay lao như gió lốc trên các vịnh, phố San Francisco. Những chiếc xe hơi chúa nhất đời sẽ đưa lão đến bất cứ nơi nào mà lão muốn. Những khách sạn sang trọng nhất mở rộng cửa mến khách rước lão vào những phòng ở tốt đẹp nhất. Mùa xuân nóng bức hay mùa hè oi ả của Washington lão đem đổi lấy nhiệt độ ôn hoà, dễ chịu của Niagara. Trốn New York lạnh giá lão về Texas ấm áp. Mùa thu và tiết trời ướt

át thì lão sang Riviera. Mùa đông lão thường hay ngồi lì ở quần đảo

Canari, ở Lodge Palmos hay hiếm hơn thì ở Hawaii.

Lão ăn uống rất giản dị, nhưng để mời khách bự, lão tổ chức yến tiệc xa xỉ. Người đầu bếp mướn từ bên Pháp và lĩnh mỗi tháng một số tiền mà lương cả một đội công nhân không bằng, nấu nướng mọi thứ mà bụng lão muốn. Người hầu rượu có trong các hầm rượu đủ các loại rượu mùi, rượu ngọt, rượu vang, cô nhắc nhãn hiệu tốt nhất thế giới. Hoa quả Nam Mỹ, California không lúc nào vơi trong nhà lão. Mà nhà

lão thì không phải chỉ có một, có hai hay có ba. Có thái ấp ở Washington. Có dinh cơ kiểu Tây Ban Nha, Mouritany ở Texas, ở Houston,. Có vi la ở Riviera. Có lâu đài ở Địa Trung Hải, ở ngoại ô Lodge Palmos. Có biệt thự một tầng ở Hawaii. Có trang trại ở thảo nguyên. Có đất săn bắn với những túp lều gỗ ở miền núi Đá tảng. Có lãnh địa bao bọc bằng tường cao ba mét ở Mexico. Có chỗ nghỉ chân ở Paris. Hatter kịp lui tới mọi chô trong năm, sử dụng mọi thứ một cách thông thạo, khoái trá. Mọi lo toan về các an dưỡng đường và dinh thự

ngoại ô của mình lão giao cho các trị viên, các quản gia. Người khác

làm việc, còn lão chỉ thỉnh thoảng lại kí séc.

Tiếng sủa gắt của con Bax cắt đứt những suy nghĩ của tôi. Con chó

lao xổ vào bụi cây, từ đó vang tới tiếng kêu xé ruột. Tôi chạy vội đến tiếp sức. Một gã thám tử cao kều, mặt đỏ, cổ bự với khẩu côn trong tay ngã vật ra cỏ, còn con Bax lông xù đang đứng đè lên gã, gầm gừ hung tợn.

– Thưa ông, ông hãy đuổi con hổ của ông đi! – tay cận vệ lính mới mỉm cười ngượng nghịu. – Không thì nó ngoặm mất mũi tôi, các cô gái

sẽ không yêu tôi nữa.

– Lẽ ra anh không nên vi phạm khoảng cách đã định và đánh động lên thế, – tôi nói giọng giáo huấn cho gã đang nằm.

– Xin lỗi ông, tôi còn chưa thạo công việc. Lần khác, tôi sẽ không để…

– Chỉ huy của anh đâu?

Bụi cây bên cạnh dịch chuyển và một gã cao kều khác, mật danh

Pontiac và là chỉ huy chạy lại.

– Tôi có mặt, thưa ông.

– Tìm hiểu xem có chuyện gì ở đây.

Tôi dắt con Bax quay lại chỗ Hatter. Lão nghiêm nghị, mặt hơi biến sắc nhìn tôi hỏi:

– Cái gì đằng ấy thế?

– Một gã lính mới trong đội bảo vệ. Con Bax không thích gã.

– Bax là con chó thông minh lắm, nó đánh hơi người quen và người

lạ xa hàng dặm ấy. Bảo Pontiac ngày mai không được cho thằng lạ

mặt ấy ở đây nữa. Nào, ta đi đâu bây giờ, xuống hay lên?

– Tôi muốn nhòm qua chỗ kia, – tôi phẩy tay xuống dưới dòng chảy.

– Còn ông?

– Tôi thì thế nào cũng được.

Chúng tôi đi theo con đường mòn đá lởm chởm, mấp mô vừa phải

đã nhẵn dấu chân qua lại, lúc nào cũng trong tầm nhìn của Niagara

ầm ầm, lúc nào cũng ngập trong cái mát mẻ của nó. Bên phải là cây cối, bụi bờ, những bãi cỏ nhỏ, những đảo đen của bóng râm, của những rèm đăng ten bằng vàng lá, rộn tiếng chim. Bên trái là lòng sông bao la có đáy thoai thoải đầy đá hoa cương. Dòng nước tuy vướng nhiều chướng ngại, vẫn lao đi với tốc độ điên cuồng. Với mỗi bước đi của chúng tôi, hình như dòng chảy giận dữ kia lại càng chảy xiết hơn.

Chúng tôi im lặng đi. Tôi không muốn phá mất sự huyền diệu bằng một lời nào. Hatter những lúc như thế cũng thích ngậm miệng. Khi đi dạo, lão thích suy nghĩ, mơ màng, khẽ huýt sáo hay ngồi bên dòng nước lớn với bộ đồ câu cá. Tôi tưởng rằng hôm nay lão cũng giữ thói quen ấy, nhưng lão đã hỏi:

– Thế nào, anh bạn Bill của chúng ta ở đằng ấy sống ra sao?… Anh biết không, ngay lúc này hắn cũng không để cho tôi thanh thản.

– Cả tôi cũng thế, – tôi nói dối. (Những ý nghĩ của tôi chẳng liên quan gì đến Bill lẫn Hatter).

– Đầu tiên tôi không lo lắng lắm, mà bây giờ… tôi sợ không khéo hắn với Propster sẽ chơi xỏ ta. Cả hai đều lão luyện, không thể thử chúng được.

– Hay là ta sẽ chơi lại, hả ông? Thế sẽ yên tâm hơn.

– Ơ hay!… Tôi có phải kẻ sợ chơi với các tay poker trứ danh đâu. Ta

sẽ chơi! Serge này, hãy nhớ rằng ta sẽ là người lật quân bài sau cùng. Chúng ta phải luôn luôn tăng tiền đặt cọc. Làm ra vẻ trong tay ta có bốn quân K hay bốn quân át.

– Tôi là đấu thủ poker tồi, ông Harold ạ. Ta hãy hạ bài nhé. Ông hãy nói xem tôi có phải tham gia vào vụ bắt cóc không?

– Nhận đi! Thế nào nó cũng không xảy ra.

– Khi nào thì tôi phải nói cho Bill biết các dự tính của ông ở Trung

Đông? Tôi muốn nói phần công khai.

– Đừng nói ngay. Chỉ khi nào đã trì hoãn và thỏa thuận được giá hơn. Thôi. Đủ rồi. Giờ thì thây kệ cha lão Bill và lão Propster, ta nghỉ

cái đã. Con sông đẹp quá!

Niagara lượn một vòng cung uyển chuyển rồi uốn thẳng, phình to

và rẽ thành hai nhánh, một to và một bé hơn, cuồn cuộn đổ xuống với

tiếng gầm khủng khiếp.

Đây không phải lần đầu tiên tôi thấy thác Niagara. Mà vẫn sửng sốt. Tôi nhìn nó như nhìn một kì quan. Tôi khoái trá. Không hiểu nó

có một sức hút như thế nào, mà nhìn nó vừa đáng sợ, vừa thích thú?

Tại sao trong người cứ rạo rực muốn nhảy qua lan can sắt mà lao đầu xuống vực kia? Tôi đã đến đây bao lần mà lần nào cũng cảm thấy sự cám dỗ ấy.

Không ít người đã chết ở thác Niagara. Một vài kẻ tự tử còn được lập đài kỉ niệm. Có kẻ nhảy lặng lẽ, không chuẩn bị gì cả. Có kẻ đánh cuộc trước, báo cho báo chí về ý định của mình, gói mình kĩ càng trong thùng sắt, bọc bằng bao ni lông. Lại có kẻ tay giương dù đã nhảy

xuống đây.

Tôi nhìn trộm Hatter. Không biết lão cảm thấy thế nào? Lão tóm tay tôi, kéo khỏi sườn vực.

– Ta tránh xa cái tai ương ra. Cái chỗ ma quái thật. Lúc nào cũng như kéo xuống, như hút xuống!

Tôi bật cười.

Chúng tôi ngoặt ra con đường nhánh công viên, đi ra khoảng trống đầy ánh mặt trời, ngồi xuống ghế, thả cho mặt trời và gió ấm mặc sức hong khô bụi nước phủ trên quần áo chúng tôi.

Tôi khoan khoái nhắm mắt. Thác nước vẫn còn cuồn cuộn trong đầu. Thác nước làm mát lạnh môi. Thác nước gầm rít trong tai tôi.

Thác nước thì thầm với tôi những chuyện cổ tích và thần thoại về

người mẹ của mình – sông Niagara.

Hatter huých nhẹ tôi.

– Serge, lần sau anh đừng đi sát bên tôi men ra vực. Nhỡ tôi nhảy xuống và kéo cả anh theo. Anh hiểu chưa? Cái ý nghĩ quỷ quái thế ấy

nó cứ sinh ra, mỗi khi tôi đứng trước Niagara. Không muốn chết một mình mà muốn cả đôi.

Cái giọng nói âm âm như của gió kia từ đâu vọng về? Từ thế giới nào? Của ai?

*

Bill, như tôi đã đoán trước, tấn công tôi ngay đêm đầu tôi đến New York. Buổi sáng, trong lúc ăn sáng qua loa ở quán cà phê của khách sạn “Tiu- đo”, nơi tôi ở, gã đòi nói chuyện kĩ lưỡng.

Chúng tôi hẹn gặp nhau vào lúc ba giờ chiều trên đỉnh Empire State building. Một chỗ lí tưởng cho bọn âm mưu. Không ai nghĩ đến chuyện theo dõi chúng tôi trong đám khách du lịch sặc sỡ, nói nhiều thứ tiếng xa gần.

ở New York, và ở cả nước Mỹ, không có một danh thắng nào mòn

tã hơn cái dinh cơ doanh thương nhà nước – đế quốc bằng bê tông cốt thép, bằng nhôm và thuỷ tinh cao một trăm linh hai tầng này ở ngay chính giữa Malhattan hoa cư

cương. Mọi khách du lịch, nhất là người nước ngoài, đều đổ xô đến cái kì quan cũ thời những năm ba mươi này.

Tôi ra khỏi khách sạn trước giờ đã định một tiếng đồng hồ. Tôi đi chậm rãi, nhìn mọi phía. Giây phút hiếm có. Trong những năm gần đây, từ khi tôi lọt vào thế giới đại kinhdoanh, tôi luôn bận ngập đầu,

lúc nào cũng vội, thì giờ được phân bố theo từng giờ, từng phút.

Là một người làm nghề tự do, phong lưu, nhờ sự quen thân với Hatter mà có thể với tới mọi vật ngon của lạ và tiện nghi ở đời, tôi chịu cái hình phạt khổ sai trong công sở không có chấn song. Đã lâu,

tôi chưa đi dạo phố phường New York. Người bộ hành! Hóa ra là làm

người bộ hành cũng hết sức thú vị. Không phải luôn luôn cắm mắt xuống đường. Không phải giữ chân phải trong trạng thái căng gân thường xuyên trên bàn đạp phanh. Không phải phát bẳn lên mỗi khi đèn hiệu vàng và đỏ loé lên trước mũi. Chẳng phải lo lắng và ưu tư gì.

Cứ việc đi mặc sức. Tôi đã ra tới cái quảng trường con có vòi phun, với màu xanh cằn cỗi và những tòa nhà cao vút. Tôi nhìn quanh và hiểu rằng mình đã lọt vào cái gọi là trung tâm Rockefeller. Tôi đã đến! Mọi con đường đều dẫn đến các tỉ phú.

Các Rockefeller con, năm người con, đã dựng lên một tượng đài bằng cẩm thạch để tưởng niệm người cha, trên đó lốm đốm những lời phán truyền, giáo huấn của người đã quá cố. Một câu trong đó làm tôi xúc động bởi tính sáng suốt của nó: “Tôi tin rằng, giá trị tối cao là con người chứ không phải của cải, không phải quyền lực, không phải địa vị”.

Ra thế đấy: “Cả đời John Rockefeller gom góp của cải, tranh giành quyền lực và địa vị, cướp bóc hàng triệu người, coi rẻ con người ở nước Mỹ và trên toàn thế giới, là một chủ nhà băng và trùm tư bản dầu lửa

vô nhân đạo – thế mà lại…”!

Còn thiếu cái gì ở đất nước kì lạ này! Tôi đi sang phố 34.

Trong tiền sảnh thênh thang của Empire State building, tôi xếp vào dãy hàng rào bên quầy bán vé. Tôi mua mất một đôla cái vé cho quyền được thưởng ngoạn New York từ tầm cao ngút trời và vật kỉ niệm bằng sắt tây hẹp có kim cài. Trên nền xanh lơ của tòa nhà chọc trời phấp phới dòng chữ: “Tôi đã ở dưới mây”.

Thang máy to đưa tôi cùng với những khách thưởng ngoạn khác lên cao tít. Lại một tiền sảnh nữa. Cửa, cửa, cửa. ở khắp mọi phương. Mọi người hấp tấp đổ xô ra cửa. Tôi cũng thế. Tôi không có quyền tách mình ra. Tôi đi ra khoảnh sân. Rộng và tròn, nó uốn vòng quanh cái tháp của tòa nhà. Phía trên rào ngăn bằng đá chắc chắn, có căng tấm lưới thép cao. Lần trước khi tôi đến đây, lưới còn chưa có. Té ra là có

quá nhiều người thích kết liễu cuộc đời ngay dưới mây.

ở đây chẳng có tí mây nào. Bầu trời xanh và cách xa tôi cũng như

mặt đất. Gió mạnh hơn, lạnh hơn dưới mặt đất. Thành phố như trong lòng bàn tay. Có thể đếm được từng cái nhà chọc trời. Tháp của một số

cái vút lên trên, giống như nhũ đá lộn ngược, ở một số cái khác tháp

lại bằng phẳng, có bể bơi, vườn con, sân bóng chuyền, gara gara. Phía

chân trời trông thấy rõ đại dương. Vịnh và đảo Betlo với tượng Thần

Tự do màu xanh bẩn ở ngay cạnh. Hutson và Inster River trông từ

đây có vẻ là những con sông sạch sẽ, phong quang. Khói tàu thuỷ bốc lên nhưng không nghe thấy tiếng còi. Đập vào mắt là những cây cầu, những vòng cung thép đồ sộ bắc nối giữa hai bờ. Chung quanh và ngay ở trong thành phố cũng xanh rờn những công viên, những thảm

cỏ. Thú vị thật! Khi đi trên đường phố New York, bạn quên rằng dưới đất cũng mọc cỏ cây hoa lá. Bạn chỉ thấy rặt những đá, bê tông, kính, nhựa đường, sắt, những tờ báo có in vết giầy, những giấy má đủ màu ném ở đây đó và những đám người bị ai đó thúc đít, hối hả đi.

New York theo đường chim bay, hóa ra, là một thành phố khổng

lồ. Có cái để mà xem! Tôi bỏ qua những cảnh tượng như thế này thật

phí. Đôi khi phải leo lên đây để mà chữa cho khỏi sự kinh tởm của mình đối với cảnh nhốn nháo của thành phố.

Thích thật! Gió tươi mát thổi. Đại dương cuốn hút bằng khoảng mênh mông vô tận của mình. Bầu trời không vẩn bụi, không oi khói – một màu xanh thẳm khôn cùng. Các mỏm nhà chọc trời sáng rực lên dưới ánh mặt trời về chiều. Sức mạnh của bàn tay con người được cảm nhận ở đây một cách sâu sắc, rõ ràng, thực tế đến phi thường. Thành phố vĩ đại! Xúc cảm đến nghẹt thở. Nhưng những người tạo nên nó còn

vĩ đại hơn. Những thợ nề. Những thợ lắp ráp. Những công nhân tầng cao. Những thợ cả nghề sắt. Những thợ thủ công. Các bạn là ai? Người

ta suy tôn các bạn ra sao? Tại sao không có tượng đài nào được dựng lên để kỉ niệm các bạn?

Xung quanh tôi du khách đi đi lại lại. Họ ái chà, họ ối chao. Họ chỉ

với nhau xuống đất, reo lên bằng đủ các thứ tiếng, tiếng Anh ít hơn cả:

phố Wall! Bronei! New York Time! Trung tâm Rokefeller! Đại lộ số- năm! Số bốn hai! Công viên trung tâm! “Woldort Astoria”! Quảng trường Colombo! Nhà ga Pennsylvania! Brooklyn!

Tôi nhìn đồng hồ. Kim đang nhích đến giờ đã định. Chỉ lát nữa,

Bill sẽ xuất hiện. Gã là người Mỹ chính cống sẽ không cho phép mình cái sự xa xỉ của người châu Âu là nơi hẹn hò làm ăn muộn giờ.

Gã hiện ra bên phải tôi, phía đại dương. Gã không thấy tôi. Không muốn thấy tôi. Gã len vào đám người Nam Mỹ ồn ào, lắm lời và đang ngắm thành phố. Được rồi, ta sẽ tới! Tôi quay đi với vẻ thờ ơ.

Không rời mắt khỏi toàn cảnh New York, Bill lặng lẽ, như thể đang chọn một điểm ngắm đạt hơn cả, tiến lại gần tôi. Gã đứng bên cạnh không nói gì và say sưa nhìn xuống dưới. ở ông Bill mọi cái đều hết sức tự nhiên: cả cái nhìn đầy thán phục, cả vẻ mặt xúc cảm, cả tư thế căng thẳng của người thưởng ngoạn. Bậc thầy đầy kinh nghiệm của các công việc bí mật hết sức khôn khéo. Nếu có quan sát chúng tôi, không kẻ nào có thể ngờ rằng, chúng tôi quen nhau. Chúng tôi chơi trò bịt mắt bắt dê đâu có uổng? Phải, không uổng đâu. Các hãng cùng loại hình sản xuất là những kẻ cạnh tranh chí tử. Bọn họ thu địch nhau, do thám lẫn nhau. Vì sợ bị sa thải hay hồ sơ bị đưa sang

ủy ban điều tra hoạt động chống Mỹ mà bọn họ không cho phép nhân

viên công sở mình, nhà máy, xí nghiệp mình liên hệ với nhân viên các

xí nghiệp của đối phương. Bản vẽ công thức pha chế, công nghệ và kế

hoạch được giấu kĩ. Các nhà máy chế tạo máy bay, tên lửa được bao bọc hàng rào dây thép gai. Những phân xưởng đặc biệt quan trọng được ẩn dưới đất, trong đường hầm và boong ke. Từng người bị kiểm soát, theo dõi nghiêm ngặt. Những ai khả nghi và không đáng tin cậy

thì không nhận vào làm việc. Những ai bị nghi vấn liền bị phó thác cho các cơ quan dịch vụ bí mật. Những ai phá hoại nền tảng kinh doanh bị khép tội chiếu theo các điều luật tương ứng.

Bill biết rõ cái cơ chế này, nên gã áp dụng những biện pháp đề phòng. Gã tránh cho tôi khỏi bàn tay FBI, khỏi dịch vụ bí mật Pinkerton, công ty “Vakenhat”. Dĩ nhiên, tôi cũng đáp lại như thế.

Bill chẳng phải trốn ai và chẳng để làm gì, gã hành động dưới sự phù trợ của các ông chủ của gã. Chúng tôi đều cùng một giuộc. Chỉ khác nhau ở chỗ là tôi biết gã muốn gì ở tôi, còn gã thì không biết gì

cả. Tạm thời không biết. Nhiệm vụ của tôi là làm sao cho gã mò mẫm

trong bóng tối càng lâu càng tốt, làm cho gã nhìn trắng thì tưởng đen.

Tôi sẽ cố gắng! Không phải cho Hatter, mà là cho tôi. Tôi cần biết tính

nết của cả nòi kinh doanh mà Bill là đại diện.

– Thành phố đẹp đấy chứ hả? – gã hỏi tôi như một người du lịch hỏi một người du lịch.

Tôi đáp lại cũng hệt như một người hoàn toàn không quen biết gốc

từ Texas đáp trong trường hợp tương tự.

– Cũng tàm tạm. Nhưng thành phố chúng tôi, còn đẹp hơn nhiều.

– Thành phố các ông? Hay thật! Tôi nghĩ trên trái đất này chỉ có một thành phố ra trò là New York. Ông sống ở đâu?

– ở Đại Dallas.

– Thế là rõ cả rồi! – kẻ ưu ái New York cười. – Xin giơ tay. Không thể đối được với Dallas. Xin ông điếu thuốc.

Chúng tôi đứng hút thuốc. Xung quanh không có ai, nhưng chúng

tôi vẫn tiến sát đến rào chắn và làm ra vẻ ngắm nghía thành phố.

Bill gõ gót giầy xuống sàn xi măng và bỗng chốc, mặt hồng lên và thỏa mãn, gã huyênh hoang nói:

– Thưa ông, ông có biết chính cái nhà này, tôi có vinh dự thay mặt khách hàng của mình tậu đấy. Rồi chính tôi lại bán nó. Mua rẻ, bán đắt. Chênh lệch là năm mươi triệu đôla.

– Chà chà, thì ra vì thế ông mới lôi tôi đến đây! Chỗ may mắn?

– Vâng. Tôi là người kiểu cũ, mê tín, tin vào các điềm ứng. Cho đến giờ, tất cả những gì tôi trù định ở đây, trên đỉnh tòa Empire State building này, đều đem lại thành công. Tôi nghĩ rằng lần này cũng sẽ

tốt đẹp. Ông cao bồi dạo này có khỏe không?

– Khỏe. Đang nghỉ mát ở Niagara. Tôi vừa từ chỗ đó đến đây hôm nay.

– Ông ta có những kế hoạch gì? Người ta đồn ông ta định

định tót sang

Anh.

Tôi đợi giây lát, cho những du khách đeo máy ảnh đi qua hết.

– Vâng, chúng tôi đang định thế. Đó là để che mắt thôi. Từ Anh chúng tôi sẽ bay sang bờ Địa Trung Hải.

– Các ông sẽ giải trí ở Monte Carlo(1) chăng?

– Chúng tôi sẽ làm việc! Chúng tôi bay sang Saudi arabia.

– Sang đâu?

– Saudi arabia. Rồi sang Cô- oét, Libya, Sirya, Libanon, Tunisia.

– Để làm gì?

– Để chén quả chà là. Để hít hoa Địa Trung Hải.

– Xin lỗi, Serge, ông đã nói là…

Bill tròn mắt nhìn tôi. Gió làm bù xù mớ tóc dày của gã. Bộ mặt gã trở nên ngỡ ngàng.

– Tôi làm ông sửng sốt? Ông không ngờ rằng bàn tay cao bồi vươn tới sa mạc arabia?

– Tin tức của ông chính xác đấy chứ, Serge? Hoàn toàn chính xác chứ?

– Nào, ta hãy quy ước với nhau một lần chót: hoặc là ta tin nhau, hoặc là…

– Xin lỗi. Tôi chưa định thần kịp trước những gì ông nói. Thế lão cao bồi quan tâm đến Trung Đông đã lâu chưa?

– Mới đây thôi. Từ khi mất đơn đặt hàng máy bay “Tiên tri”.

– Hiểu rồi. ở Saudi arabia, ở Cô- oét và ở các nước khác đã chuẩn bị sẵn cơ sở cho chuyến đi của các ông chưa?

– Chúng tôi đã phái người đến đó.

– Khi nào?

– Trong tháng vừa qua. Thôi, Bill ạ, hôm nay thế là đủ!

– Còn một câu hỏi nữa, thưa ông! Hatter đã vĩnh viễn từ bỏ “Tiên tri”?

– Ông ta không muốn, nhưng buộc lòng phải thế.

– Thế mà chúng tôi nghe nói là ông ta vẫn còn hi vọng xoay chuyển tình thế có lợi cho mình. Ông ta vẫn dự trư những tài liệu, thiết bị và nhân lực như thể là nay mai đơn đặt hàng lại quay về với ông ta.

– Hình như ông lo lắng chuyện “Tiên tri” hơn là cát vàng arabia?

– Tôi canh giữ cho những lợi ích nhiều mặt của các khách hàng của tôi. Cái gì đối với họ cũng quan trọng: cả cát vàng arabia; cả “Tiên tri”, cả các kế hoạch của lão cao bồi. à, còn điều này nữa. Các bạn tôi yêu cầu truyền đạt lại chiến dịch Xixilia bị huỷ bỏ. Bây giờ, khi ông cộng tác với chúng tôi thì chẳng cần bắt cóc Hatter làm gì?

– Thế còn mười triệu đôla tiền chuộc thì sao?

– Tin của ông còn đáng giá hơn.

– Đúng đấy. Vậy khi nào ông định thanh toán? Đã đến lúc rồi đấy.

– Ngày mai tôi sẽ làm giấy tờ sang tên cho ông motel “Chỗ nương thân của Cleopatra”.

– Ông kể cũng sáng dạ và biết điều đấy, Frank ạ! Rồi sẽ có lúc tôi kiếm cho mình một luật gia to đầu như thế. Tôi muốn nhậu nhẹt với ông. Nhưng hỡi ôi, bây giờ thì không thể được. Tạm biệt ông.

THƯỢNG NGHỊ SĨ THỨ 101

Harold Hatter bị cảm. Vào cái hôm ấm áp gần Niagara giá lạnh. Tuy vậy, các buổi gặp gỡ về công việc vào buổi sáng của chúng tôi vẫn diễn ra vào giờ giấc thường lệ. Ông Bạc tỉ vẫn làm việc dù có sốt cao đến mấy đi nữa. Lão nửa nằm nửa ngồi trên đi văng, mặc pyjama và

áo choàng, râu ria không cạo, tóc bù xù, mắt đỏ ngầu, giọng mũi khọt

khẹt, còn tôi ngồi bên cạnh với cuốn sổ trong tay và chờ lão nói. Cứ xét theo vẻ mặt của lão, thì câu chuyện hôm nay quan trọng đây.

– Tôn ông, hôm nay chúng ta phải cân nhắc cho kĩ một chiến dịch rất đắt và tinh tế. Hãy cất giấy đi, giờ chưa cần đến.

Lão thốt ra những lời trên đây bằng giọng khàn, nhỏ, xen với tiếng

ho. Đến tôi cũng không đứng vững nữa. Thôi được, cóc cần. Tôi sẽ thoát

cúm chẳng có hề gì.

– Tôi đã nghĩ tên gội cho cái việc hay ho, nhiều hứa hẹn kia rồi “Cú xạc”! Ta sẽ bàn về Baker.

Hatter kéo gối cao lên, tựa lưng vào nó. Lão thôi chảy nước mắt cúm. Màu đỏ dưới mi mắt như biến đâu mất. Cặp mắt lão trẻ ra, trở nên trong như băng. Đấy, sức mạnh của ý chí là như thế. Ông chủ của

tôi lúc này động viên hết tinh lực trong mình ra.

– Này, anh hãy kể hết tội thằng Baker này ra, – lão ra lệnh bằng giọng nói nhỏ đang rít lên.

– Tội nào nhỉ, ông Harold? Tôi không thù hằn gì Baker. Hắn không lừa đảo tôi bao giờ, cũng chẳng cuỗm tiền. Chúng ta luôn sống tâm đầu ý hợp với hắn. Cả bây giờ cũng đang kết bạn với hắn. Thằng cha

cứng lắm. Biết giữ mồm giữ miệng.

Hatter khua cái lưỡi tưa phồng, vặn đầu vẻ chỉ trích.

– Tôi muốn nói những tội khác cơ. Những tội có thể làm hắn mất

danh hiệu thượng nghị sĩ thứ một trăm linh một. Hiểu chưa?

Tôi giơ tay lên khỏi đầu, cười.

– Hiểu rồi… Cả ngày cũng không đủ để kể hết những việc làm tội lỗi của hắn.

– Hãy kể những cái nặng cân nhất, đắt nhất ấy.

– Kể thẳng thừng? Có sao kể vậy? Không thương tiếc?

– Không cần phải lót rơm cho hắn. Mông, bẹn hắn cứng như sắt ấy. Cứ ném hắn hết đà.

– Tôi cũng không biết, bắt đầu từ đâu? Những việc làm bẩn thỉu của Baker thì nhiều lắm… Vì tiền mà hắn thu xếp được những giao kèo với Nhà nước có lợi cho các hãng chế tạo máy bay “North American Aviation”, Northrop”

Hatter gật đầu và gập ngón tay.

– Vì ăn nhiều của đút mà hắn hỗ trợ cho các công ty công nghiệp, các nhà băng, các tay lốp- bít giầu có.

– Cái thứ số học ấy tôi không vừa ý. Phải cụ thể: ở đâu, khi nào, cho ai, bao nhiêu, vì cái gì!

– Cuối mỗi tuần hắn hay đến Las Vegas để moi tiền từ các bẫy đã chăng sẵn. Hắn chung món với các nhà kinh doanh Edward Lê- vin- xơn và Clíp Johnson, chủ các nhà đánh bạc ở trong nước và ở một vài nước Mỹ La tinh. Hắn kiếm cổ phần bằng cách giúp bọn làm ăn chung moi được giấy phép mở các casino ở Cộng hòa Dominican, trên đảo Curasao.

– Thế! – Hatter gập một ngón tay nữa.

– Hắn đã mở bên bờ Đại Tây Dương thơ mộng một motel xa xỉ đến hoa mắt dành riêng cho giới thượng lưu, chủ yếu là các thượng, hạ nghị sĩ bạn hắn. Hắn xây mất một triệu hai trăm nghìn đôla. Mà lương hàng năm của hắn là mười chín nghìn đôla.

– Thế, tiếp tục! – lão gập thêm một ngón tay nữa.

– Cái phòng làm việc của Baker với cái biển khiêm tốn “F- 80”, ngay cạnh nhà mái tròn mà Lincol đã tuyên thệ, có nhiều nghị sĩ đặt chân tới… Gọi tên họ?

– Không cần. Tiếp tục!

– Baker mời khách cô nhắc, Whisky, martini, những tập toàn tờ một trăm đôla và những lời khuyên nhủ phải bỏ phiếu cho dự luật nào, bác bỏ dự luật nào.

Hatter chìa ngón tay cái.

– Còn một cái nữa là đủ.

– Cả khi tiêu khiển, một vài nghị sĩ cũng ở trong tầm kiểm soát của Baker. Cách nơi làm việc của thượng nghị viện không xa, qua một con đường, hắn đã trang bị nên một cái tổ ấm cho những kẻ thích các cảm giác mạnh dưới cái tên: “Câu lạc bộ Quorum”(1). Chỉ những người thuộc dòng tôn quý mới được vào đây: chính khách, nhà kinh doanh, tướng lĩnh, đô đốc, đại sứ, nghị sĩ, lobbyst cấp cao, các tiểu thư quý phái đắt tiền, vóc người cân đối, có bộ mặt “hoa hậu nước Mỹ năm nay”. Tiếp và bố trí khách chính là thiên thần xác thịt kiều diễm, khôn khéo Carol Taylor, thư kí riêng của Baker, vợ của một nhân viên phái bộ quân sự ở Tây Đức – ngài Romet. Cuộc hẹn hò với các thanh

nư rất tốn của khách… với lại, trong các phòng thanh vắng của “Câu

lạc bộ Quorum” người ta không tính đếm đôla. Nhưng cuộc nhảy trong bóng tối được tổ chức, thoát y vũ thì dưới ánh đèn sáng trưng. Người ta uống whisky, cô nhắc, tắm trong bồn ngập sâm banh.

– Cái món này được đấy. Hoàn toàn đủ để đưa Baker và một vài nghị sĩ ra ngồi trước những cặp mắt đáng sợ của ủy ban phụ trách các việc hành chính của hạ nghị viện. Anh sẽ chịu trách nhiệm chuẩn bị chiến dịch tinh tế này, Serge ạ. Từ ngày mai trên tờ báo của mình, anh sẽ vung lưỡi tầm sét vào Baker và lũ khách hàng của hắn. Tóm

lại, anh sẽ mở chiến dịch vạch trần tệ hối lộ trên đồi Capitol.

– Tôi à?! Vạch trần? Trên tờ báo của mình? ấy chết, ông Harold! Nếu vạch Baker, tôi buộc phải vạch cả tôi, cả ông.

– Tôi không nói hẳn là “vạch trần”. Tôi chỉ diễn đạt rất cẩn thận:

“Mở chiến dịch vạch trần”. Chỉ mở thôi! Cho những kẻ tắm sâm banh

và thúc đẩy các dự luật có lợi cho các công ty thù địch với ta hiểu là

trong tay ta có những chứng cớ nguy hiểm đối với bọn chúng. Thế thôi. Số là các vị ở “Câu lạc bộ Quorum” này đâm ra khó tính lần vừa rồi. Họ khăng khăng không chịu bác dự luật tai hại cho chúng ta bãi

bỏ việc giảm thuế cho các lòng đất đá hao cạn. Các vị quân tử trong

“Ford Motor” và “General Dynamics” đã giao kèo được phiếu của bọn kia trước chúng ta. Cái gì có lãi cho Hatter thì khuynh bại cho các đối thủ đáng kính của Hatter. Tôi không muốn làm thằng ngốc, lại còn ngồi bên cái máng vỡ. Cho nên tôi tóm cổ các vị đường bệ mà kêu lên: “Bắt lấy thằng ăn trộm!”. Phương tiện này dĩ nhiên là kẻ cướp quá, một trò không có quy tắc nào cả, nhưng biết làm gì bây giờ. Tôi đã bị dồn đến chân tường. Buộc lòng phải song phi một cú vào chỗ hiểm của

các tay tri kỉ của mình. Cái đó tôi đặt tên là một “Cú xạc”.

Diễn từ dài, nói bằng giọng thầm căng thẳng, khàn khàn đã làm Hatter mệt lử. Lão ngã người ra gối, nghỉ rất lâu, mắt nhắm và mồm mím chặt. Còn tôi lúc đó nghĩ xem có thể cho phép mình nói gì với ông Bạc tỉ.

Lão nhìn tôi. Như vậy có nghĩa là đã đến lượ

lượt tôi nói.

– Ông cho rằng, – tôi nói, – các vị trong “Câu lạc bộ Quorum” sợ bị vạch mặt và vội vã dồn phiếu cho ông?

– Tôi chắc vậy. Bọn chúng thích đớp đôla, còn đối với trò chơi mạo hiểm lớn thì không dám; chúng có hơi nhát gan.

– Ông Harold, con dao của ông có hai lưỡi. Nếu đối phương còn kiên gan, lấy được can đảm thì sự vạch trần kia lại chĩa vào ta. Tôi lo rằng nhỡ đâu ta lại đào mồ cho mình.

– Cụ thể, anh sợ cái gì và sợ ai?

– Sợ những bộ răng cá mập của bọn khách “Câu lạc bộ Quorum”.

– Chuyện vặt. Ta sẽ vô hiệu hóa chúng. Cá mập là loài không theo tập đoàn. Chỉ cần bắn trúng hay phóng xiên vào một con, khi ấy đồng

bọn nó ngửi và trông thấy máu, thì lập tức chúng sẽ lao vào con bị

thương và xâu xé thành từng mảnh.

– ấy đấy, tôi nói cái đó đấy. Nếu chúng làm ta chảy máu thì chúng

ta đi đứt. Chúng sẽ gặm ta.

– Đấy chính là yếu tố mạo hiểm của trò này. Hoặc la ta, hoặc là chúng. Ta phải làm cho Baker chảy máu. Lũ cá mập sẽ gặm hắn.

– Tôi còn một nghi ngờ, có lẽ là nghi ngờ chính. Chúng ta phải tính đến Phó Tổng thống. Baker là con nòi, là môn đệ của lão ta. Đã hai mươi năm kết bạn với nhau. Cả nước Mỹ đều biết lời nói của Phó Tổng thống: “Baker là người cuối cùng tôi đàm luận buổi chiều và là người đầu tiên tôi gặp buổi sáng”. Làm sao lão lại để cho người ta vùi dập đứa con cưng của lão!

– Đúng rồi, lão không để thế đâu. Không đời nào. Lão sẽ cứu hắn ra khỏi tai họa. Nhưng đương nhiên là phải mất tiền. Lão buộc phải ấn nút cái đa số của Đảng Dân chủ ở thượng nghị viện và gạt dự luật bãi

bỏ việc giảm thuế.

– Ông tin là lão sẽ làm thế chứ, ông Harold?

– Như tin ở chính mình vậy. Tôi biết rõ lão ta. Lão sẽ không chịu nổi chuyện bê bối trước dư luận. Nhất là lúc này, khi cuộc bầu cử đã

kề bên. Lão muốn làm Phó Tổng thống một nhiệm kì nữa.

– Thế nhỡ lão giở chứng?

– Tôi thích mạo hiểm. Mỗi bạc triệu của tôi đều kiếm được trong trò chơi mạo hiểm lớn. Đó là cái môi trường của tôi: được ăn cả, ngã về không. Không mạo hiểm thì tôi không phải là người. Hết mạo hiểm

thì cũng hết sống.

– Một câu hỏi nữa có được không, hở ông?

– Thì cứ nói. Với anh thì cái gì cũng được.

– Chả lẽ không thể thu xếp chuyện cái dự luật mà không dùng đến răng cá mập? Chả lẽ Phó Tổng thống lại không nghênh tiếp ông.

– Không được! Các vị ở “Câu lạc bộ Quorum” khó tính quá.

– Thế lão làm sao mà cứu được Baker khỏi tai họa?

– Lão buộc lòng phải ấn mọi nút, mọi đòn bẩy. Hành động dưới ảnh hưởng của một người bạn là một chuyện, còn dưới áp lực của dư luận trước sự việc bê bối thì lại là chuyện khác. Nói chung, tôi tin là chiến dịch vạch trần của anh sẽ đem lại thành quả ngay lập tức, ngay vòng đầu. Sự việc sẽ không đi đến việc vạch trần hoàn toàn. Không ai để cho nó đi đến chỗ ấy: cả các ngài đã sinh sự, cả Baker, cả Phó Tổng thống, tôi đều không muốn. Trước tiên là tôi.

– Vâng, ông đặt lên vai tôi một nhiệm vụ khó khăn. Vừa vạch trần lại vừa không vạch trần! Đi trên lưỡi dao mà không bị đứt chân. Nuốt lửa mà không bị bỏng mồm.

Hatter phá lên cười. Lần này lão thành công thật sự.

– Anh sẽ đảm đương được thôi mà. Tôi yên tâm với anh.

– Thế khi nào ông cho lệnh bắt đầu chiến dịch?

– Càng sớm càng tốt. Nghiêm túc nhé. Phi nước đại ngay. Sao cho các vị dân biểu kia không dám nghi ngờ là chúng ta nói nhảm. Hãy quật thẳng cánh vào mồm đối phương, quật hết sức, làm nó vật ra đất

và hãy dẫm lên trên. Nhưng hãy chừa cái bụng. Lục phủ ngũ tạng

phải còn nguyên. Chỉ có thế. Hôm nay thì ngần ấy đủ rồi. Hãy làm việc mình đi, tôi còn ốm. Tôi định chợp mắt một lát. Cả đêm không nhắm mắt rồi.

*

Báo Texas Sun do Hatter mua qua những người mạo tên với giá

vài chục triệu đôla và sang toàn quyền cho tôi, như nhiều người nghĩ. Ông Bạc tỉ không thèm hạ mình đến mức bảo ban tôi hàng ngày. Chỉ thỉnh thoảng lão mới huấn thị cho tôi về những vấn đề lớn nhất. Tôi được tương đối tự do. Thứ tự do của con gấu trắng không phải bị nhốt trong cái cũi sắt, mà được nhốt ngoài trời trong vườn bách thú, trong

bể có đảo đá và chuồng ngủ đông, được ngăn chung quanh bằng rào

thép. Bầu trời ở trên đầu không bị chăng chấn song. Có thể tắm thỏa

thích như khi ở giữa thiên nhiên. Có thể sưởi nắng. Nghỉ mát trong động. Không phải đi kiếm mồi, đã sẵn người mang tới. Còn ước gì nữa!

Tổng biên tập tờ Texas Sun không nhất thiết ngày nào cũng phải

có mặt ở tòa soạn và dạy các cộng tác viên của mình cái gì phải viết,

cái gì không đụng đến, cái gì in ở trang nhất, cái gì ở trang hai mươi. Mọi người ở tòa soạn đều biết, cái gì có thể làm và cái gì không được làm, đường lối nào phải theo. Cái máy đã được hiệu chỉnh từ lâu và cứ thế chạy đều đặn. Không ai trong số hai trăm cộng tác viên thoát được

ra khỏi cái khuôn khổ đã vạch sẵn bởi Tổng biên tập Serge Brooks theo chỉ thị của Hatter, nếu như anh ta có mưu toan muốn độc lập. Không được tự tiện chi hết. Đương nhiên, có thể viết mọi cái, cho đến

cả bài công kích chính sách của Nhà Trắng và khen ngợi Ca- xtơ- rô.

Nhưng chỉ những gì được trưởng ban, chủ bút chấp hành, các uỷ viên biên tập và cuối cùng là Tổng biên tập thông qua thì mới được in.

Khi tôi vắng mặt, mọi công việc thường kì và bộ máy của tòa soạn

do Mike Gordon, chủ bút chấp hành, uỷ viên biên tập, người phó thứ

nhất của tôi, chỉ đạo. Đó là một tay rất khá. Tôi lôi anh ta lên từ dưới đám kí giả lèm nhèm và nâng đỡ anh ta. Anh ta thật toàn tài: anh ta đọc những bài xã luận ngay ở chỗ sắp chữ, phỏng vấn những nhân vật cấp cao, dọn ra những bài tiểu phẩm tức cười, lanh lợi, chuyên trách mục “Kinh doanh và đời sống”, kiên quyết rút gọn xuống bốn năm lần những bài viết lê thê của các phóng viên, am hiểu sâu sắc các vấn đề

tài chính. Phẩm chất nghề nghiệp của anh ta được hỗ trợ bằng những phẩm cách tinh thần. Mike ít nói dối gấp trăm lần kẻ khác. Thích nhậu nhẹt trong đám bè bạn. Ăn nói hoạt bát. Không đặt điều này nọ. Không ngồi rình trộm. Không thù những ai dám cãi lại anh ta. Không dòm dõi Tổng biên tập, không kê kích mỗi lời nói của Tổng biên tập, mà cũng không tự tiên. Một con ngựa thồ lí tưởng, một người ruột để

ngoài da.

Có khi tôi không đến tòa soạn hàng hai ba tuần do thực hiện các nhiệm vụ đặc biệt của Mike. Vắng mặt tôi, tờ Texas Sun ra vẫn hệt như khi tôi ngồi từ sáng đến chiều ở đấy, vẫn với khuynh hướng chính

trị như thế. Người phó của tôi vẫn cảm thấy trên gáy mình bàn tay của Tổng biên tập, sở thích, ý chí của người đó, khi tôi ở bên kia đại

dương, ở Paris hay Cairo. Về phần mình, tôi lại cảm thấy cái dây

cương mà Hatter chằng vào tôi.

Gordon đã hơn năm mươi. Ba mươi năm nay anh ta làm kí giả. Phần lớn quãng đời làm báo của mình, anh ta viết những bài báo nửa

có tính cách vạch mặt chống lại các trùm kinh doanh Mỹ và in chúng

ở những tờ báo tả, có khuynh hướng tự do, nửa tự do, có ấn bản nhỏ mọn. Anh ta thông cảm với các chiến sĩ đấu tranh vì dân quyền, vì công bằng, bình đẳng. Đã tham gia các cuộc tuần hành trước Nhà Trắng. Đã là người ủng hộ việc cấm thử vũ khí hạt nhân, ủng hộ việc không tấn công Cu Ba, ủng hộ hòa bình. Đã kí bản “Kiến nghị của các

trí thức” nổi tiếng gửi Tổng thống Eisenhower.

Thế rồi anh ta rơi vào tay ủy ban điều tra. Ra khỏi đó với cái “vết chàm”. Các tờ báo có xu hướng tự do ngừng đăng bài của anh ta. Không một tòa soạn nào nhận anh ta vào làm dù chỉ với chân sửa bài. Mike phải làm ăn lối cửa sau. Anh ta viết rất tốt cho những kẻ viết tồi. Anh trở thành anh nhà báo không tòa soạn, không tên tuổi, không

bộ mặt. Một nhà báo ma. Tôi lấy anh ta vào Texas Sun giữa lúc ấy.

Bấy giờ anh ta đã khá đói ăn, đã lênh phênh và hiểu rằng cái roi cao

bồi không thể gây chấn thương được những cái gáy bọc giáp của

Rokefeller, Đuy- pơn, Hugh, Ford, Hatter, Getti và các đàn em của bọn chúng. Anh ta đã mất ý chí tranh đấu. Anh ta muốn sống và làm việc như đa số những người Mỹ, không muốn công kích lũ quyền thế ở trần gian này. Anh ta trở nên nhân nhượng, lặng lẽ, chấp hành và hết sức có kỉ luật, ngoan ngoãn. Anh ta bắt đầu làm kí giả hạng dưới ở Texas Sun. Trong vòng vài năm chầm chậm, vất vả vượt qua các cửa

ải cuối cùng nhờ sự giúp đỡ của tôi, anh ta đã trở thành ông chủ số hai của tòa soạn và là một kí giả lương cao sang nhất. Anh ta viết cẩn thận, dè chừng, thông minh và chỉ viết những gì nó vừa ý ông Bạc tỉ. Lên cương vị lãnh đạo, anh ta không cho phép mình ngơi tay. Anh cố gắng hơn những người khác. Trung thành hơn những người khác. Không bao giờ phê phán chính phủ. Không nhìn thấy những vết rạn nào trong lối sống Mỹ. Anh tránh cho xa những đoạn biểu tình, dù đó

là đoạn biểu tình chống Cu Ba và thân Mỹ nhất. Kh

Không gặp gỡ với

cánh tả, cánh tự do. Nói chung, anh ta đã hoàn toàn chuộc lại quá khứ, trở thành người Mỹ một trăm phần trăm.

Đó chính là Mike Gordon, người mà tôi trao cho tám trang đánh

máy, sửa chữa kĩ càng về Baker. Không dài thêm câu nào.

– Đem sắp chữ! – tôi nói cương quyết, vẻ sai khiến.

– Xin tuân lệnh ông.

Anh ta cầm lấy bài báo và ra khỏi phòng làm việc của tôi, phòng làm việc riêng duy nhất trong cả tòa soạn. Tất cả các cộng tác viên đều ngồi trong một phòng lớn, kê những bàn chung rất dài va những bàn cho các trưởng ban. Mọi người đều trông thấy nhau và bày ra trước con mắt cấp trên. Ai không có mặt, ai làm việc, còn ai bê trễ thì trông thấy rõ ngay. Quy cách này không phải do tôi thiết lập. Tờ New York Time vẫn còn duy trì nguyên tắc đó và kéo theo tất cả các báo ở Mỹ.

Phía trên của phòng làm việc của tôi được làm bằng kính. Thông thường nó được chăng rèm. Bây giờ nó hở. Tôi trông rõ Mike ngồi sau bàn của mình và để cả tâm trí vào việc đọc bài báo của tôi vừa đưa. Anh ta ở cách tôi khá xa, quãng ba mươi foot, nhưng tôi thấy rõ mặt anh ta, đỏ hồng lên. Kì thật, cái gì làm anh ta đỏ bừng mặt lên thế? Vui sướng vì những lời công kích một kẻ gian xảo cỡ bự chăng? Hay là

sợ cho kẻ kia, cho anh ta và cho cả tòa soạn Texas Sun.

Anh ta đọc đến hết, nghĩ ngợi, lấy tay lau cái trán to nhiều vế cả nhăn và lại đọc lại. Mike đã quen không ngạc nhiên trước mọi cái, đã bạc đầu trong làng báo, đã học được thái độ điềm tĩnh, vậy mà cũng sửng sốt. Anh ta không biết có nên tin hay không những gì đang đọc thấy.

Anh ta chạy lại chỗ tôi. Tôi nghiêm nghị đón anh ta:

– Có chuyện gì thế, Mike? Anh đã đưa bài đi sắp chữ rồi chứ?

– Chưa, thưa ông. Ông thấy không, tôi…

– Sao anh lại chậm trễ?

– Tôi cảm thấy…

– Anh cảm thấy cái gì, Mike?

– Tôi băn khoăn, thưa ông…

– Đừng có ngắc họng nữa. Cái gì làm ông băn khoăn? Nội dung? Hình thức? Sự thiếu chứng cớ? Giọng quá gay gắt?

– Xin lỗi ông, nhưng tôi phải…

– Anh nói đi, khỉ gió thật! Tôi hết kiên nhẫn rồi đấy!

Tôi mường tượng hẳn anh ta bây giờ căm ghét tôi lắm vì tiếng quát, vì sự bỏ qua những lo lắng, bối rối của anh ta. Không thể làm khác được, Mike thân mến ạ! Có thể, nhưng không được làm. Cả anh lẫn cả tòa soạn phải thấy tôi luôn luôn cương quyết, luôn luôn có ý chí, luôn luôn quyền hành trên mọi cộng tác viên. Tôi thực hiện một mệnh lệnh không văn bản của Hatter. Lão tin tôi, giữ tôi gần lão hơn

cả, nhưng vẫn theo dõi tôi không mệt mỏi, sợ tôi đâm mềm yếu, sợ tôi thả lỏng những thói tự tiện.

– Có chuyện gì?

– Thưa ông, tôi muốn nói…, bài báo không có chữ kí của ông. Thường ông không làm thế.

– Đúng, không có chữ kí. Thì đã sao? Anh muốn tôi kí bài báo phỏng?

– Vâng, thưa ông.

– Tại sao anh lại nảy ra cái mong muốn như vậy?

– Một bài báo hay thì lại càng trở nên hay hơn. Tên ông gắn thêm sức mạnh chính trị cho những ưu điểm văn học của bài báo.

– Chỉ có thế thôi. Anh không có lí do nào khác?

Anh ta im. Nghĩ ngợi. Tội nghiệp. Trong lòng anh ta như có lửa đốt! Anh ta có những lí do khác, tôi biết. Anh ta sợ dính bàn tay đã lăn dấu ở FBI vào vụ Baker. Anh ta run sợ cho cái thân xác đã lằn tím của mình. Anh ta thấy trước được sự trừng phạt vì đã cả gan công kích thượng nghị sĩ thứ một trăm linh một. Tôi hiểu anh, Mike ạ, nhưng không giúp anh gì được. Tôi không có quyền.

– Không, thưa ông, tôi không có lí do nào khác,- viên phó của tôi trả

lời. Trên khuôn mặt trắng bệch của anh ta, khuôn mặt của kẻ chịu cực hình, có những giọt mồ hôi lạnh toát đang lăn xuống.

Một lần nữa anh ta lại phải đem đánh đổi và phải phản lại bản thân, phản lại những tín điều mới mà anh ta hết sức trung thành!

– Cám ơn anh Mike, về lời khuyên của anh. Tôi buộc lòng phải khước từ nó. Tôi lấy làm tiếc. Bài báo sẽ ra không có chữ kí của tôi, xem như của tòa soạn.

– Vâng, thưa ông! Ông hãy chiếu cố viết ngay tại đây cái góc này, xem phải đăng trang nào, loại chữ nào.

Anh ta muốn lấy được dù chỉ một vết tích nào đó từ tay tôi.

– ở trang đầu. Kiểu chữ truyền cảm nhất, – tôi nói.

Mike chán nản nhìn tôi. Mọi phương tiện bảo vệ và phòng xa thế là hết. Anh ta chỉ còn một phương tiện cuối cùng: nói rằng anh ta chống

lại bài báo. Anh ta đã không nói.

– Đưa bài báo của ông vào số nào, thưa ông? – Mike hỏi và vô hình trung nhấn mạnh vào chữ “của ông”.

– Số ngày mai.

– Thế thì, phải bỏ hết những gì ta đã chuẩn bị cho trang nhất.

– Anh cứ việc bỏ.

Anh chàng Mike cẩn thận, phòng xa đã không moi được gì ở tôi. Anh ta rời phòng tôi với bộ mặt ủ rũ. Có cái gì đó làm anh ta không thích chiến dịch này, anh ta cảm thấy trong đó một sức công phá nổ chậm nguy hiểm không chỉ đối với viên thượng nghị sĩ thứ một trăm linh một, mà còn đối với cả những ai vạch mặt hắn.

Quả thực, bài báo có sức công phá nguy hiểm. Tôi không biết nó sẽ

nổ ở đâu, khi nào và bao nhiêu mảnh vụn cắm vào tôi. Tôi đặt mìn mà

có thể chính mình bị phanh thây vì nó. Tôi không nói thẳng ra với

Mike Gordon. Chắc là cả Hatter cũng không ngỏ hết nước đi trong

canh bạc lớn này. Lão cho rằng trong kinh doanh, nhất là kinh doanh

chính trị, thì chỉ có những kẻ thất cơ lỡ vận và những thằng ngốc mới bày tỏ mọi sự.

*

Bài báo chỉ vừa mới được đăng mà từ khắp nơi đã đổ lên đầu Tổng biên tập những chất vấn, phản đối, kiến nghị, những bức thư với lời lẽ hăm dọa “đưa ra trước pháp luật”, “dạy cho bài học”, “đòi có thái độ nghiêm chỉnh”, “bắt phải tôn trọng cái tên của công dân Mỹ đúng đắn, chính trực, trung thành về mọi phương diện và là một chính khách”.

Điện thoại của tôi không lúc nào ngớt réo. Các thượng nghị sĩ đáng tôn kính từ Washington hằm hằm hỏi: “Tại sao ông lại cho in một sự

vu khống? Trên cơ sở nào? Sự kiện ở đâu? Các ông không có sự kiện

nào để dẫn chứng”.

Các hạ nghị sĩ đòi phải in những lời bác bỏ tràng giang đại hải của họ đối với những lời buộc tội chống Baker.

Người ta gọi điện từ các bộ, từ ban thư kí của Phó Tổng thống. Từ

Cục điều tra liên bang. Ai cũng xôn xao.

Thế cái gì sẽ xảy ra với nước Mỹ, nếu như tôi công bố toàn bộ sự thật về Hatter và những sự việc của hắn. Không thể tưởng được đại kinh doanh ở nước ta mà lại không có Hatter khác trên một cực, Baker và đồng bọn trên cực kia. ở đó, tất cả những kẻ cuốn vào hệ thống khổng lồ của các hãng công nghiệp quân sự đều ăn hối lộ. Chủ các công ty làm ra súng ống hốt hàng trăm triệu, hàng tỉ bạc lợi nhuận. Chúng không tiếc hai trăm, ba trăm, năm trăm nghìn thí cho viên thượng nghị sĩ thứ một trăm linh một để hắn dễ dàng đưa qua ủy ban này, ủy ban nọ của Quốc hội các giao kèo quân sự. Hatter và các nhà công nghiệp quân sự khác không tiếc phần trăm số của thí cho các tướng ở Lầu Năm góc để kí những giao kèo trăm triệu bạc. Hòn

đất ném đi, hòn chí ném lại.

Baker và các nhân vật cỡ bự hơn hắn, những chân kiềng của nền đại chính trị, những cư dân thường xuyên và tạm thời của Capitol và Nhà Trắng, như những atlan(1) thần thoại, ghé vai ra đỡ cây cầu

vàng nối Lầu Năm góc và bộ máy quân sự của nó với các công ty sản

xuất vũ khí hạt nhân, tên lửa và vũ khí thường. Không thể hình dung

nổi tổ hợp công nghiệp quân sự mà không có những tướng lãnh,

những Hatter, những Baker. ở đâu có xí nghiệp gieo cái chết, ở đó có đội đưa đám. ở đâu có xác chết, ở đó có quạ đen.

Cuối cùng đến lượt Baker chĩa khẩu côn vào ngực tôi. Hắn không thèm hạ cố đến tận tòa soạn của tôi. Hắn rình rập ở tiệm ăn “Sóng tình”, nơi tôi ăn chiều. Hắn ngồi vào bàn tôi. Không chào hỏi. Chỉ khoan xoáy vào tôi bằng con mắt sắc nhọn của hắn và im lặng.

ở Texas, người ta giết nhau ở ngoài phố, trong rạp hát, trong tiệm ăn, trong nhà băng, trong bar, ở cửa hàng bách hoá, ở trường đại học. Mỗi một người Texas có thể mua theo kiểu kí gửi súng ngắn, cácbin, súng trường, tiểu liên, trung liên và thậm chí cả súng không giật. ở Texas, người ta khử nhau vì những sự mích lòng còn nhỏ gấp trăm lần cái mà tôi đã gây cho Baker khi kể về hắn cái phần nhỏ xíu trong

những gì tôi biết và những gì Hatter cho phép.

Tôi đợi phát súng, tuy nhiên vẫn nói bình thản, gần như vui vẻ:

– Xin chào! Anh không nhận ra tôi à?

– Bỏ cái trò xuẩn ấy đi! Thế này là thế nào? – hắn ném tờ báo

Texas Sun ra bàn. – Giải thích đi!

– Người ta bắt tôi làm, – tôi nói.

– Ai? Tại sao?

– Chả lẽ anh lại không biết những trò thế này! Anh làm điều gì đó,

ở đâu đó không vừa lòng các ông tối cao.

– Tôi không làm điều gì xấu cả.

– Có làm! Cứ nghĩ cho kĩ đi.

– Anh muốn nói cái gì?

– Cái mà anh muốn nói!

– Tôi không hiểu những lời nói bóng ngu ngốc của an

anh.

– Còn tôi lại không hiểu sự ngây thơ cực kì thông minh của anh.

Mặt Baker to, dài. Tai cũng to. Trán to, vát về phía trên. Đầu cắt ngắn như đầu lão Phó Tổng thống. Sao chúng giống nhau lắm vậy! Cũng một kiểu comple. Cũng một cách nói, mộc mạc kiểu Texas, có phần hơi sỗ sàng. Cũng một sự tự thỏa mãn như thế. Cũng một nghị

lực sùng sục như mạch nước phun. Cũng một sự khinh bỉ không che

đậy lắm đối với trí thức. Cũng một sự hấp tấp như sợ muộn đi đâu đó. Chẳng có gì là lạ. Baker đã nhiều năm ngắm nghía thần tượng của mình, bắt chước mọi tính nết của lão. Baker rất sung sướng khi người

ta nói với hắn là trông hắn giống thủ lĩnh phe đa số ở thượng nghị

viện.

– Đây là bàn tay của ai? – thượng nghị sĩ thứ một trăm linh một đập tay vào tờ báo. – Ai trả tiền cho anh cú này?

– Sao, anh định đem tiền ra chuộc lại đấy hẳn? Muốn kí hợp đồng hẳn? Tôi sẽ không khước từ đâu nếu có một số điều kiện.

– Anh muốn gì?

– Không đoán ra à?

– Bao nhiêu?

– Ơ hay, ông bạn?! Ông coi tôi là hạng gì?

– Anh muốn gì? Cứ nói toạc ra!

– Không muốn cái đầu anh là được rồi! Muốn sự giúp đỡ của các bạn anh ở thượng nghị viện. Không phải tôi lo cho mình đâu. Lo cho ông bạn tôi mà anh biết rõ. Lợi ích của ông ấy đang bị đe dọa. Tôi muốn nói đến cái dự luật bãi bỏ…

Hắn cắt lời tôi. Hắn nói dõng dạc:

– Một tuần nữa nguy cơ sẽ bị loại trừ. Thời hạn như thế là vừa ý chứ?

– Một tuần nữa cũng được. Nhưng không được muộn thêm ngày

nào.

– Sau đó anh sẽ chấm dứt săn tôi?

– Không chậm trễ! Ngay sau khi dự luật bãi bỏ việc giảm thuế được đình lại.

– Được rồi. Chúng tôi sẽ làm.

Câu chuyện chóng vánh này ở vào trong khoảng thời gian giữa món thứ nhất và món thứ hai đã được cái máy ghi âm bí mật của tôi ghi lại. Hatter ưa cái kiểu báo cáo như thế của thuộc hạ.

Sau bữa ăn, tôi ngồi vào ôtô và đi đến dinh cơ cua Hatter. Sau khi nghe cuộn băng, lão tỏ ra hài lòng.

– Chúng ta làm ăn khá lắm. Một công việc nhẹ nhàng, sạch sẽ. Ta

sẽ đợi phần thắng.

*

Ngày hôm sau trong cuộc họp tác chiến thường lệ vào buổi sáng, Hatter ra lệnh chấm dứt chiến dịch chống Baker và cho in thư của các nghị sĩ bác bỏ mọi lời buộc tội chống người bạn và là kẻ tòng phạm của chúng. Tôi không chút ngạc nhiên. Tôi đợi điều đó ngay từ lúc mở chiến dịch. Nhưng trong lời nói của Hatter, có những điều mà tôi chưa hoàn toàn được thích ứng trước.

– Hãy đăng lời bác bỏ kèm một chú thích ngắn, rõ ràng của tòa soạn. Nào là thật khó mà không đồng ý với các bậc đầy tôn kính, các chính khách đáng trọng. Nào là chúng tôi thành thật xin lỗi ông Baker. Biên tập viên đã in tài liệu thiếu xác thực ấy sẽ bị sa thải.

Tôi chờ Hatter ngay phút này sẽ cười cái câu đùa của mình. Nhưng không, Hatter rất nghiêm túc.

– Có lẽ anh chưa hiểu hết những gì tôi nói?

– Vâng, tôi chưa hiểu hết.

– Tôi nói là thải cái anh biên tập đã đưa tòa soạn vào chỗ sai lầm.

– Tôi biên tập tờ báo, thưa ông Harold. Tôi cho đưa ra bài báo về

Baker. Nghĩa là, phải sa thải tôi?

– Anh không kí bài báo. Nó là của tòa soạn. Ai đem nó đi sắp chữ?

– Mike Gordon.

– Thế thì cho hắn bay mẹ nó đi.

– Nhưng anh ta làm theo lệnh tôi.

– Lệnh viết à?

– Không, lệnh mồm.

– Có người làm chứng?

– Chỉ có hai người thôi.

– Thế thì hay lắm. Cứ sa thải hắn là phi tang.

– Ông Harold, thế không có cách nào khác để làm vừa ông Baker và bè lũ hắn sao?

– Chúng đòi cái đầu biên tập viên và tôi đã hứa.

– Tôi xin ông, ông Harold, hãy thương Mike. Tay này khá lắm. Mọi công việc từ, nháp đến thảo bài anh ta đều gánh. Anh ta đã làm được nhiều việc cho tờ báo ta. Và còn sẽ làm.

– Tôi đã hứa.

– Anh ta hoàn toàn không sinh kế. Nhà mua trả dần. Ôtô cũng mua chịu. Tuổi già đã ở ngay trước mắt. Nếu chúng ta tống anh ta ra khỏi tòa soạn thì từ khắp mọi phía, nhân viên các hãng cho chịu sẽ bâu lấy anh ta. Anh ta sẽ mất nhà cửa.

– Tôi lấy làm tiếc, nhưng không thể vi phạm lời hứa. Đó là chuyện danh dự.

– Ông Harold, ông có thể làm được. Ông phải làm, Baker không

đáng hưởng thái độ danh dự. Xin ông đừng bóp chết người mà ta cần.

– Serge, tôi lấy làm lạ về sự kì kèo của anh. Có chuyện gì thế? Anh say đắm… cái thằng Mike ấy? Anh thương? Anh cảm tình với những nguyên tắc của hắn?

– Đã từ lâu Mike chẳng có nguyên tắc gì hết. Nguyên tắc đã bay hơi hết rồi. Anh ta đã trở thành con ngựa dễ bảo, gắng gỏi. Sợ roi vọt

và tiếng quát. Sung sướng với thức ăn ngon. Không đá hậu và không cắn. Liếm tay những người cho ăn uống. Để cho anh ta yên, ông

Harold ạ. Nếu anh ta thành kẻ tử vì đạo thì cơn nguy hiểm cho chúng

ta hơn. Hai trăm cộng tác viên tòa soạn biết rõ anh ta trung thành với

tờ báo như thế nào, họ sẽ không đồng tình với hành động của ta. Họ

sẽ nghĩ rằng sớm hay muộn, họ sẽ cùng chung cảnh ngộ.

– Tôi cóc cần bọn họ. Bọn họ muốn nghĩ gì thì nghĩ. Tôi không sợ.

– Chúng ta phải làm việc với họ, ông Harold.

– Không phải là ta, mà bọn họ phải thích ứng với ta. Không, Serge

ạ, tôi vẫn giữ lời mình.

Mọi phương tiện được phép để thuyết phục Hatter ngang ngạnh đã cạn. Chỉ còn một phương tiện cấm nữa thôi. Sau một lúc lâu, tôi nói:

– Ông Harold, ông không còn tin tôi nữa sao?

– Anh thì dính dáng gì ở đây? Tôi sa thải Mike Gordon chứ có sa thải anh đâu. Những người như hắn thì có hàng nghìn. Không có hắn

ta cũng chẳng chết.

– Ông hãy hiểu tôi, ông Harold! Hai trăm con người mà ngay trước mắt họ, ta vô cớ trị Mike Gordon, sẽ không làm việc cho ông hết sức mình như trước kia nữa. Những kẻ mếch lòng thì rất đoàn kết và thù dai.

– Chuyện vặt! Việc ta trị Mike sẽ làm họ sợ, bắt họ phải làm việc có hiệu suất hơn, luôn phải dè chừng cái roi, dè chừng đồng nghiệp: hắn

có đi báo những lỗi lầm của mình không? Tôi đi guốc trong bụng các

anh viên chức. Bụng họ phẳng như đường đua ôtô ở Xon Xi- ti.

Chả lẽ lại không cứu được Mike khỏi tai họa hay sao? Cái chết của anh ta sẽ đè lên lương tâm tôi.

Nói gì với Hatter đây? Tác động thế nào đây? Phải có phương tiện mạnh nhất, cương quyết nhất. Nó ở đâu? Trời ơi, sao tôi lại ngu muội, bất lực thế này! Sự nhanh trí đâu mất rồi? Mánh lới xưa kia đâu cả rồi?

Và ngay lập tức khi cơn tuyệt vọng vừa qua đi, trong đầu tôi nảy

ra một ý nghĩ may mắn. Tôi nói:

– Vậy là, ông Harold, ông đã quyết định giữ lời hứa với những kẻ bảo trợ Baker?

– ừ. Và tôi sẽ giữ nó, bấp chấp mọi âm mưu của anh, – Hatter bật cười và xoa má tôi.

– Được. Cứ cho là như vậy. Thế ông làm thế để làm gì?

– Để làm gì nghĩa là thế nào?

– Chỉ để giữ lời hứa thôi ư? Không phải! Vì nguyên tắc? Không phải! Thương Baker? Không phải! Hay ông sợ? Cũng không phải nốt!

Hatter im lặng. Lão nhìn tôi chờ đợi, vẻ tò mò, và không phải là không có lo ngại. Lão cảm thấy tôi đang men tới bí mật của lão.

– Ông hi vọng rằng Baker sẽ thoát khỏi chuyện này mà vẫn sạch sẽ

và khô ráo. Ông hi vọng ở sự hợp tác có lợi nếu không phải với Baker,

thì với những kẻ bảo trợ cấp cao của hắn. Những hi vọng hão huyền,

ông Harold ạ. Ông đặt cược vào con ngựa còm. Mọi quân bài của Baker đã bị dập. Cả các thượng nghị sĩ, cả các hạ nghị sĩ, cả các chú bác tốt bụng ở Nhà Trắng cũng sẽ không giúp được hắn nữa. Hắn đã nhiễm bệnh dịch. Tôi thấy lạ là sao ông lại không hiểu điều đó! Baker

rơi vào nanh vuốt các nhà báo, đã trở thành chuyện giật gân số một. Người ta sẽ hành hắn không thương tiếc. Hành hắn và những kẻ giúp hắn tổ chức cái việc kia và cả những kẻ bảo trợ hắn bây giờ. Tôi biết là

một số tờ báo đang chuẩn bị bài chống hắn. Các nghị sĩ đối lập đang

sắp tấn công Baker ở nơi hắn đã cố thử, – trên đồi Capitol.

Hatter đổi sắc mặt. Vẻ ngang ngạnh và tự phụ biến đi đằng nào mất.

– Những tờ báo nào? Những thượng nghị sĩ nào?

– Chỉ nội nhật nay mai tôi sẽ trình ông tin tức đầy đu về vấn đề này. Đời Baker thế là tàn rồi.

– Cái đấy làm thay đổi hẳn sự việc. Sao anh lại không trình bày ngay với tôi những lí lẽ của mình?

– Tôi không nghĩ là ông đi quá xa đến thế. Tôi tưởng ông sẽ coi trọng lời khuyên của tôi.

Hatter phừng mặt lên. Lão xua tay.

– Lời khuyên với chả lời răn!… Anh lại ỷ mình rồi. Tôi coi trọng anh, nhưng ơn trời, tôi còn có cái đầu của tôi đây.

– Vâng, vâng! Ambrose Bierc(1) rất có lí khi cười các lời khuyên và các cố vấn. Ông ta nói: hỏi ý kiến nghĩa là tìm sự tán thưởng của người khác đối với quyết định đã thông qua của chính mình!

– Anh chìa cái nọc của mình ra một cách vô tác dụng đấy. Ta hãy nói năng bình tĩnh đã nào. Có lẽ tôi sẽ thua cuộc nếu đứng về phía Baker. Nhưng tôi cũng chẳng được gì nếu không thực hiện lời hứa.

– Ông được chứ lại!

– Được thế nào?

– Bao giờ ủy ban sẽ thảo luận đề nghị bỏ ưu đãi về thuế ch

cho các công ty dầu lửa?

– Ngày mai.

– Thế ông hứa bao giờ sẽ in thư của các nghị sĩ về vụ Baker?

– Trong số ra ngày mai.

– Được lắm, ta sẽ in nó vào ngày mai. Không kèm lời bình luận

nào. Chỉ nên có một chú thích ranh ma: “chúng tôi khó lòng mà không

tin các bậc đáng tôn kính trên đồi Capitol. Cứ để cho lương tâm họ

đảm bảo cho bức thư này”. Không lên án cũng không tán thành. Những kẻ bảo trợ Baker sẽ không có cơ sở nghi ngờ rằng chúng ta định gài mìn vào hoạt động của họ. Họ sẽ bình thản gạt dư luận bỏ những ưu đãi về thuế má cho các khu vực dầu lửa hao cạn của ông.

– Tôi đã hứa in lời bác bỏ và trừng phạt những kẻ có lỗi.

– Ông cứ hứa thêm lần nữa. Không ngày mai thì ngày kia. Ông hãy kéo sợi dây thun cho đến khi các tờ báo khác lên tiếng chống Baker. Lúc đó chúng ta lại cho khởi động bộ máy của mình. Ta sẽ bảo các vị trên đồi Capitol đại loại thế này: “Thưa các ngài, khi đăng lời bác bỏ của các ngài, chúng tôi đã trông cậy vào lương tâm các ngài, thế mà các ngài… Các ngài bảo vệ cho ai mới được chứ! Hãy trông kẻ mà các ngài gọi là chính trực và xứng đáng! Một kẻ ăn hối lộ! Kẻ đã bán các

bí mật quốc gia! Kẻ kiếm lời trên các giao kèo quân sự! Kẻ tổ chức nhà chứa ở giữa Washington! Kẻ có một tá nhân tình! Kẻ đã san sẻ các cô gái nhẹ dạ cho các bạn của hắn ở nghị viện? V.v… và v.v….. Ta sẽ nói

lại những gì mà các báo khác sẽ in ra.

– Anh tin rằng họ sẽ in ra chứ?

– Vâng, tôi tin. Chỉ nay mai bầy cá mập sẽ xô đến con bị thương và xé xác nó ra.

– Chà, nếu thế thì… Tôi chấp nhận kế hoạch của anh. Cứ để cho cái anh chàng này…

– Cho Mike Gordon! – tôi nhắc.

– Cứ để cho hắn làm việc. Anh bảo hắn là tay cừ hả?

– Còn rất cừ nữa là khác.

– Thế nào cũng cho tôi xem mặt hắn nhé. Hôm nay thế là xong. Đủ rồi! Anh làm tôi mệt phờ, – Hatter lấy tay vuốt thái dương và trán, duỗi tay và vươn vai làm xương kêu răng rắc. – Mệt như thể cả tuần đào đất ấy.

Ngay hôm ấy, tôi đưa bức thư của các nghị sĩ đi sắp chữ. Đồng thời

tôi chăm lo sao cho tòa soạn có một số tờ báo không ủng hộ Baker nhận được thêm những tài liệu còn chưa đăng về hoạt động bí mật của Baker ở Capitol và ở ngoài phạm vi ấy. Tôi gõ máy chữ chỉ một phần nhỏ của cái mà tôi biết.

Phó chủ tịch công đoàn ngành thợ nồi hơi Meius Borse hào phóng

tạ ơn cho Baker vì gã này đã giúp Borse xoay xở ở thủ đô được khoản

tiền vay của liên bang là hai triệu bốn trăm nghìn đôla để xây nơi ở cho các thợ nồi hơi đã già cả ở Pascagoon trên sông Mississippi. Ông chủ công đoàn đã nhượng rẻ cho Baker cổ phần hãng “Magate Garvanty Insurance Corparation of Miluoki”. Những cổ phiếu này trên thị trường chứng khoán giá ba mươi sáu nghìn đôla, nhưng lão

đã bán cho viên thư kí phe đa số của thượng nghị viện có bốn nghìn

sáu.

Các chủ sòng bạc ở Las Vegas sẽ cho Baker một phần lời lãi của chúng để đổi lấy những công lao của hắn đối với chúng ở Capitol.

Baker đã là tùy tùng và là con đỡ đầu của chính Robert Ker, “ông vua không vương miện của thượng viện”, và dưới cái ô c hắc chắn của lão, được sự dung túng của lão mà tiến hành những việc bẩn thỉu của hắn. Khi Ker đã về chầu trời, Baker trở thành thần dân của đế chế Murchison, một ông Bạc tỉ nữa, hoạt động trên lãnh thổ Texas.

Baker mua bằng tiền người khác một dinh thự đắt tiền cho cô thư

kí mĩ miều của mình là Nen- xi Ca- rôn Tai- lơ và bày biện những đồ cổ

trong đó.

Baker tạo điều kiện cho hãng của Ma- thiu Mác- lô - xki, nhà kinh doanh và đại sứ ở Ireland, kí giao kèo với chính phủ về việc xây dựng một sân vận động ở Washington trị giá hai mươi hai triệu đôla. Reynold, nhân viên bảo hiểm, kẻ tin cẩn của hãng xây dựng vừa nhận được giao kèo có lợi, đã trao cho hắn món lệ phí đầu tiên năm mươi tờ giấy bạc một trăm đôla mới tinh, bỏ trong phong bì. Cũng chính Reynold, thể theo ý nguyện của người bạn hàng cao cấp của mình, đã mua với giá 580 đôla máy ghi âm cơ học Stereo và chuyển nó đến công

sở của thủ lĩnh phe đa số thượng nghị viện dưới dạng món quà của

Baker.

Mùa hạ năm ngoái, Baker long trọng khánh thành “Đu quay”, giá

hơn một triệu đôla. Đó là tên một motel bên bờ đại dương ngay cạnh sườn Washington, cách thủ đô 140 dặm, ở thành phố Ocean City, bang Maryland. “Đu quay” theo dự tính của Baker, phải làm chóng mặt các nghị sĩ, các trùm tư bản, các đại sứ và nhân viên tình báo có thế lực. Trong các phòng thanh vắng của motel có thể thỏa thuận về một giao kèo chế tạo đại bác hoặc máy điện tử tự động, máy bay hoặc tàu ngầm kiểu mới. Có thể nhậu và nhắm bao nhiêu tùy cái dạ. Có thể tiêu khiển với gái nhảy. Có thể chung chăn gối với cô ta. Ông chủ “Đu quay” thu tiền của các nhà kinh doanh và thết các thượng và hạ nghị sĩ.

“Đu quay” đã bắt đầu đung đưa ngày 22 tháng Sáu năm 1962. Phần tinh hoa của xã hội Washington, tất cả giới quý phái, tất cả những kẻ lắm tiền và chuyên làm đại chính trị ở Capitol đã đến đây. Các nghị sĩ chúc mừng Baker có thêm một cơ ngơi mới. Các chủ nhà băng và chủ nhà máy thán phục các ổ thượng lưu ấy. Các ông chủ của các cơ quan tiết kiệm và cho vay công khai ghen tị tay triệu phú mới. Đầu sỏ các công đoàn ngạc nhiên làm sao Baker đã làm giàu nhanh đến thế. Bà đầm nổi tiếng nước Mỹ Pơ- dơ Mesta, nàng tiên vô địch của các buổi hội

hè đình đám thượng lưu đã thán phục cái gu của “Lindon con”. Phó Tổng thống Lindon Johnson, khách danh dự của “Đu quay”, ngồi chủ toạ bàn yến tiệc.

“Lindon con” đang phát đạt là hiện thân sinh động của lối sống Mỹ. Baker lọt lên đồi Capitol thuở còn nông nổi, cục mịch. Từ một cậu thiếu niên mười bốn tuổi đa có thể nặn nên một Lincoln thứ hai, một Edisson nữa, một Ford thứ ba, một Al Capone già, một kẻ ăn hối lộ

lớn hay một kẻ khoắng tiền tầm thường.

Sau khi đã soi ngắm kĩ các ông thầy của mình, các người cha đỡ đầu, các bậc đàn anh, các thủ quân của nền đại kinh doanh, Baker cũng muốn trở nên giống như họ. Các vị có chức quyền trong chính phủ đều lấy tiền mặt và hiện vật: tủ lạnh, ôtô, thảm phương đông, áo lông thuỷ thát hay lông cáo Bắc Cực. Baker ghen với các ông chủ phát đạt. Hắn ghen, cảm tạ cái trường học tốt và học, học nữa, học mãi, không tiếc thời gian và nghị lực.

Đầu tiên hắn làm thông tín viên, hắn lui tới mọi văn phòng, mọi

ngõ ngách tăm tối của thượng và hạ nghị viện. Ngày nào hắn cũng nhìn thấy các công việc quốc gia được tiến hành như thế nào: thượng nghị sĩ này căm ghét một nhóm khác, một toán hạ nghị sĩ ủng hộ cho những bạc tỉ của triều đại Rockefeller, toán khác bỏa vệ cho các đế chế dầu lửa của các ông vua California, toán thứ ba lại canh giữ cho lợi ích của đế chế Texas của Hatter, toán thứ tư giành cho được đặc quyền cho

họ nhà tỉ phú Đuy - pơn, toán thứ năm và thứ sáu đứng đằng sau các tỉ phú Paul Getti và Hô- vát Hugh. Dưới mái tròn của Capitol, người ta mua và bán các giao kèo, các dự luật. Các cương vị béo bở trong các công ty, các bộ, các ủy ban, trong ngành cảnh sát, trong tòa án tối cao. Các phiếu có lợi cho một nhóm và có hại cho nhóm khác. Các cổ phần. Các bí mật của thị trường chứng khoán. Các bí mật quốc gia. Các bí mật sản xuất. Các bí mật về đời tư của các thượng và hạ nghị sĩ. Các

kế hoạch leo thang chiến tranh của Lầu Năm góc ở Việt Nam.

Ngồi sao chiếu mệnh của Baker loé sáng từ chính cái ngày mà hắn kết số phận hắn với số phận của Lindon Johnson. Cậu bé chân loong toong mau chóng trở thành phụ tá không chính thức sắc sảo, khôn khéo của thủ lĩnh phe đa số ở Quốc hội. Đến lúc đó, Baker đã thông hiểu: một con mắt của mỗi nghị sĩ nhìn đi đâu, còn con mắt kia nhìn đi đâu, ông ta thích cái gì và ghét cái gì, ông ta cứng rắn ủng hộ ai và kịch li ệt đả phá ai mỗi khi bỏ phiếu và cả khi muốn né mình vào hành lang đầy khói thuốc. Hắn biết tất cả nghị sĩ thuộc phái tả, phái hữu, phái trung tâm và phái dao động. Hắn ghi nhớ hết những gì nghe được

ở văn phòng các thượng nghị sĩ quan trọng, ở chỗ hút thuốc, ở nhà vệ

sinh, ở quán cà phê, ở thư viện của Quốc hội. Hắn luôn luôn và ở mọi

nơi không ngừng chất chứa bão hòa các tin tức, tư liệu. Hắn nghiên

cứu tính nết, đặc điểm của các thượng nghị sĩ, các sở thích của họ. Tất

cả những gì khai thác được hắn vãi ra trước Johnson. Có một tay chân

có khiếu như thế, Johnson luôn biết chính xác các vị đảng dân chủ và cộng hòa đang giữ những lập trường nào về những vấn đề quan trọng nhất mà các nghị sĩ phải quyết định, họ định bỏ phiếu ra sao. Lão trong nháy mắt tính ngay được số phiếu “thuận” và “chống”, và nếu như chưa đủ phiếu, thì lão tác động tương xứng đến phái trung tâm đang dao động, khi thì ném ra lời đe dọa, lúc lại ném ra lời hứa hẹn;

đối với phái đối lập, khi thì “bẻ tay”

tay”, lúc lại tẩy não các vị nào hết sức

kiên gan. Hiếm khi dự luật mà Johnson muốn lại không thu đủ số

phiếu cần thiết.

Vào cuối những năm bốn mươi, Johnson quyết định nhảy từ hạ viện lên thượng viện. Và lần này lão cũng trông cậy vào sự giúp đỡ quý báu của Baker. Lão cho hắn làm thư kí chính thức của phe đảng dân chủ ở thượng viện và thả hắn ra vũ đài lớn trước bầu cử. Viên thư

kí tất bật từ bờ đại dương sang bờ đại dương, từ San Francisco đến

New York, từ Los Angeles đến Boston. Hắn gặp gỡ các ứng cử viên, các vua thép, vua than, vua dầu lửa, vua vũ khí, vua bánh mì, vua sữa, vua điện tử. Nhận những lời góp ý và tiền. Phân phát những lời góp ý và đôla. Cổ động và chi cho các chiến dịch vận động bầu cử khi

thì ở bang này, khi thì ở bang khác. Lúc đó người ta bèn gọi hắn là

“Lindon con”.

Tiền của các tỉ phú Texas và California, Baker chỉ trao cho những thượng nghị sĩ tương lai nào có thể phục vụ Hugh, Getti, Hatter. Những kẻ đã tuyển mộ được thì không bao giờ nói lên sự thật. Chỉ có Frank Moss, ứng cử viên bang Utah, người mà Baker chưa mộ được,

là nói hở sự thật. Baker đã không biết tìm chìa khóa để vào lòng ông

ta. Hắn quá vội. Không hề rao trước, hắn chìa cho Frank Moss mười

nghìn đôla để đổi lấy chữ kí ông ta dưới lời tuyên bố đã chuẩn bị sẵn: tôi, thượng nghị sĩ bang Utah, Frank Moss đáng kính, đã nghiên cứu “vấn đề giảm 27,5 phần trăm thuế đánh vào các nhà công nghiệp dầu lửa vì lòng đất hao cạn và đi đến kết luận là việc giảm này cần giữ nguyên hiệu lực”. Thượng nghị sĩ tương lai, tuy rất cần tiền chi cho chiến dịch tuyển cử, đã lấy được can đảm từ chối món hối lộ.

Năm 1955, Johnson ngoi lên hàng thủ lĩnh phe đa số ở thượng viện. “Lin đơn con” trở thành thư kí phe đa số thượng viện. Từ lúc ấy, cậu bé loong toong trước kia được gọi là “thượng nghị sĩ thứ một trăm linh một”. Hắn ta không tự hào với danh hiệu mới cho lắm. Hắn coi nó

là không chính xác. Hắn là nghị sĩ thứ hai, sau Johnson. Người ta không bầu hắn, nhưng điều đó có nghĩa lí gì. Điều quan trọng là hắn làm cái gì. Hắn nặn ra đại chính trị, đồng thời với nặn tiền. Tiền cho mình. Năm năm ngồi trên cùng một cỗ xe với Johnson, hắn đã dựng nên một cơ nghiệp vài trăm nghìn đôla và đang trên nửa đường đi đến những trăm nghìn khác.

Năm 1961 Johnson vào Nhà Trắng, Thành Phó Tổng thống. Baker

không bị lẻ loi trong cảnh không chủ. Hắn lập tức trú chân trong văn phòng thượng nghị sĩ hùng mạnh Robert. X. Ker, triệu phú từ Oklahoma, chủ của “Ker – Macgee on Industries Incorporation”. Tình giao hữu với ông chủ mới đem lại cho hắn hơn hai triệu đôla. Tay cha căng chú kiết ngày xưa gốc ở Picket, Nam Caroline đã trở thành chủ hãng luật, chủ hai motel sang trọng của công ty California “Serve –

70”, và còn, còn là chủ của những thứ khác nữa.

Cửa của bất kì bộ nào, bất kì nhà băng nào, cửa của Nhà Trắng mở toang trước Baker giàu có, rạng rỡ, đầy thế lực. Nơi nào hắn cũng là thành viên ban quản trị, người góp cổ phần, giám đốc có lợi và được mời chào. Nào ai biết hắn sẽ còn lọt vào đâu nữa, sẽ còn thăng cao đến đâu nữa, nếu như ông Bạc tỉ không nảy ra ý nghĩ kê xác hắn dưới chân để bước qua bãi lầy nguy hiểm.

Còn vài lời nữa, và tôi sẽ chấm hết vụ Baker. Hắn đã mang ơn Johnson, người bảo trợ nhiều năm, đã lưu luyến với lão đến mức đặt cho đứa con đầu lòng cái tên Lindon Ben Johnson – Baker. Chính Johnson cũng biết đáp lại. Lão từng nói về hắn bằng những lời sau đây: “Đó là một người thực sự phụng sự đất nước, và tôi coi ông ấy là một trong những người bạn tin cậy nhất, chung thuỷ nhất và am hiểu nhất”.

Cú ngã của “Lindon con”, việc hắn biến khỏi vũ đài chính trị không làm Hatter tốn kém lắm. Chiến dịch mạo hiểm “Cú xạc” đã thành công hoàn toàn.

Dự luật nguy hiểm đối với Hatter bãi bỏ việc giảm thuế cho những “vùng mỏ dầu hao cạn” đã bị tắc ở quảng đường giữa Nhà Trắng và Capitol. Bàn tay mạnh mẽ của ai đó hay một tá bàn tay hùng mạnh nào đó đã chặn ngang, giữ dự luật đó lại, không cho nó ló ra trước thượng viện để thảo luận. Nhưng Hatter không hoan hỉ. Lão biết đó

chỉ là thắng lợi tạm thời, hay đúng hơn, thắng lợi một nửa. Đối phương cho là bầu không khí chưa thuận tiện và ngừng tấn công lão,

đợi thời đợi thế. Hatter đã nói thế với Mark Trán to. Lão ra lệnh không xếp vũ khí lại mà luôn sẵn sàng giáng trả những cuộc tấn công

mới.

Tôi khôn ngoan hoãn lại một thời gian việc gặp Bill. Sau khi chúng

tôi đã cho Baker phơi áo, tôi mới thôi không tránh viên trạng sư Chicago nữa. Trong chuyến đi thủ đô thường kì của gã, tôi gọi điện đến văn phòng Washington của gã và hẹn gặp ở quán “Cà phê Tổng thống”. Frank Bill đến ngay. Ngồi vào bàn và không rời cái nhìn nghiêm khắc, dò hỏi khỏi tôi, gã chờ xem tôi nói gì. Tôi nói với gã những gì mà Hatter cho phép.

– Ông Frank, dĩ nhiên là ông lo lắng theo dõi vụ Baker. Tôi không nhầm chứ?

– Vâng, tôi đã theo dõi. Và còn tiếp tục theo dõi.

– Và ông đã thấy lạ là tại sao tôi không báo trước cho ông. Ông bạn thân mến ơi, ông lo lắng và giận hão tôi đấy. Tôi không báo là bởi vì

lợi ích các ông không hề bị đe dọa gì cả. ở tờ báo Texas Sun, tôi không

hề công kích lấy một lời nào hãng luật của Frank Bill. Tôi có cả tá những sự kiện điếng người chứng minh là các ông đã đưa qua thượng viện các dự luật có lợi cho các ông khi nào, như thế nào và mất bao nhiêu, thế nhưng… Các hãng khác thì tôi không thương đâu, nhưng hãng ông thì tôi giữ cho đấy. Tôi hi vọng rằng ông sẽ đánh giá được điều đó.

– Tôi không thích cái giọng ông, Serge ạ. Tôi không quen làm các việc theo cái thói nhẹ cân như thế.

– Tiếc thật, nhưng tôi cũng không định thích ứng với cái thói nặng cân của ông. Buộc lòng ông phải tính đến phong cách của tôi. Còn một

lời cảnh cáo nữa, Frank ạ. Tôi không chịu được cái lối bức chế từ phía ông. Tôi liên minh với ông trên cơ sở tự nguyện. Và tôi muốn hợp tác

với ông theo ý mình. Tôi rõ hơn chuyện khi nào, vào lúc nào trong tình huống nào thì chia sẻ với ông một cách an toàn ít nhiều những bí mật

của Hatter. Những điều kiện khác đối với tôi là không chấp nhận được.

Đoạn độc thoại của tôi, đúng như dự kiến, có tác động ngay lập tức. Bill nói:

– Ông phồng mang bạnh cổ vô ích đấy, Serge ạ. Tôi có định bức chế

ông cái gì đâu. Chẳng qua tôi nói thẳng cái thái độ của mình ra.

– Nghĩa là, tôi lầm tưởng. Thế thì xin lỗi ông. Ta đi uống chứ.

NHÀ TRẮNG

Đợt ấm đầu thu đã chấm dứt. Với những cơn mưa thu đầu tiên, tôi

và Hatter chuyển lên dinh cơ thủ đô của đế chế của lão trên bờ sông Potomac. Nhưng ngay cả nơi đây, chúng tôi cũng không định ở lâu. Chỉ ít ngày nữa, chúng tôi sẽ bay đến những phương trời ấm áp. Tôi

dự kiến như thế. Nhưng Hatter đã bất ngờ đổi lại kế hoạch.

*

Tám giờ sáng. Giờ mà sếp vẫn gọi tôi lên nói chuyện tay đôi. Lão thích đàm luận và giải quyết những công việc quan trọng khi đầu óc còn sáng khoái.

Tôi vội xem qua các số báo buổi sáng và liếc nhìn cái máy điện thoại nội bộ màu trắng nối thẳng với phòng ở của Hatter. Tôi đợi chuông reo. Nếu trong vòng mười phút nữa nó không van g lên thì cuộc gặp truyền thống vào buổi sáng này sẽ không diễn ra, và tôi có thể yên tâm chuẩn bị cho chuyến đi. Cuộc du ngoạn của chúng tôi đã được vạch ra rất hợp thời.

Ôi, cái cảnh nhớp nháp này, cái lạnh ẩm thấp này đã làm tôi phát ngấy. Một Washington quan cách và đơn điệu thấm đẫm lệ đơn côi của mưa trời! Chúng tôi đã ngồi ở đây quá lâu trong thời tiết xấu như thế này. Không sao, chúng tôi sẽ bù lại! Ngày mai sẽ bay đi. ở New York, chúng tôi sẽ dừng lại không lâu ở Long Ireland, sẽ làm giấy tờ ở sân bay quốc tế và sẽ thực hiện một bước nhảy khổng lồ qua Đại Tây Dương, từ một thế giới sang một thế giới khác. Chúng tôi sẽ kéo dài mùa hè trên quần đảo Canari. Đại dương ấm áp và màu xanh của bầu trời cao vút muôn năm! Rừng cọ và đồn điền chuối muôn năm!

Thế nhưng điện thoại đã réo. Ông Bạc tỉ yêu cầu tôi đến. Tôi chạy lên, Hatter không ưa sự chậm chạp, trễ nãi.

Một mình tôi c ó quyền đi vào phòng nghỉ của lão mà không phải gõ

cửa. Tôi mở toang cánh cửa nặng, hiền lành và cởi mở, đồng thời độc lập vừa phải, thân thiện như lệ đã từ lâu, tôi cười:

– Chào ông Harold! Rất mực sung sướng được thấy ông khỏe mạnh và sảng khoái.

Lão ngồi bên cái lò sưởi rực lửa, duỗi chân về phía lò. Lão gật đầu với tôi, chìa hàm răng to tướng ra:

– Chào anh. Tôi cũng vui sướng khi trông thấy anh. Này, người ta nói gì về chúng ta hôm nay?

Tôi đặt lên bàn lò sưởi những tờ báo buổi sáng chủ yếu của New

York, W

Washington, Texas, Philadelphia, Chicago.

– Báo chí lớn thông báo cho bạn đọc là ông H. vào mùa xấu trời này dọn đến gần mặt trời hơn, sang quần đào Canari. Họ kể đủ thứ về chuyện ông sẽ sống ở đâu và ra sao. Liệt kê tất cả những người đồng hành của ta, đến tận lũ chó và mèo.

– Thế họ không quên liệt kê cả ngựa à?

– Có cả ngựa.

– Giỏi! Tôi vui vì họ không lờ những chú ngựa của tôi. Thế họ còn viết gì nữa?

– Về Nhà Trắng và các cư dân của nó, về các quan hệ đặc biệt của ông với họ.

Hatter không nói, chỉ gật đầu ra hiệu tôi về phía ghế bành.

Tôi ngồi vào, lôi trong tập giấy dầy ra vài tờ báo dầy cộp và đọc to đầu đề các bài báo:

– “John Kennedy và Harold Hatter có những đường lối khác nhau”… “Chuyến đi của Tổng thống Kennedy đến Texas, quê hương của Hatter, trùng với chuyến đi của Hatter sang quần đảo Canari”… “Harold H Không thèm gặp John K của Washington”… “Tại bữa tiệc ở trung tâm thương mại của Dallas để chào mừng Tổng thống, trong số các vị làm

ăn sẽ không có mặt con người xuất chúng của bang ta và của toàn thể

nước Mỹ – Harold, Hatter”… “Con người giàu nhất địa cầu từ chối không tôn trọng và tin cậy Tổng thống của nước giàu nhất thế giới”…

Harold ra lệnh dừng lại bằng cái phẩy tay mạnh mẽ:

– Thôi đủ!

Lão rút từ túi trong áo vét ra một phong bì cộm, hẹp và dài, quay nó trong tay, mỉm cười và hỏi tôi:

– Anh nghĩ xem, cái gì ở đây?

– Số phận của tôi, – tôi nói hú họa kiểu đùa tếu.

– Đoán đúng đấy! – Hatter cười ha hả. – Đúng, trong phong bì này chính là số phận lơ n của anh. Hãy tóm lấy nó!

Tôi kiên nhẫn đợi cái “số phận lớn” của tôi lộ mặt ra.

Hatter rút từ trong phong bì ra cái giấy phép ra vào thường xuyên

Nhà Trắng và cẩu thả ném nó lên bàn.

– Ông Brooks, ông được xếp vào phái đoàn phóng viên của Phòng thông tin Nhà Trắng và sẽ đi cùng Tổng thống Hoa Kỳ trong chuyến

đi Texas của ông ta.

Qua giọng nói và vẻ mặt của sếp, tôi đã hiểu là phải phản ứng như thế nào trước đề nghị này.

Vắt chân lên nhau, tôi cười khẩy và nói:

– Tôi chẳng thấy khoái gì việc lốc nhốc theo đuôi đoàn tùy tùng của

Tổng thống. Tôi muốn vui thú với ông ở quần đảo Canari cơ.

– Không, Serge, anh sẽ bay với Tổng thống! Hãy gác chuyện đùa

cợt lại. Tôi đã sắp xếp cả rồi. Thông qua một người bạn của tôi. Tôi phải biết Tổng thống sẽ công du như thế nào.

– Xin tuân ý ông.

– Đó là ý tôi. Nhưng mà này, anh phóng viên mới toanh của Nhà

Trắng, anh hãy nói xem, anh sẽ mô tả chính sách đối ngoại và đối nội của Tổng thống ra sao trên tờ Texas Sun? Tôi muốn nhờ anh làm sáng

tỏ một sự thật quan trọng.

Tôi phải giang tay ra, cười nửa miệng:

– Ông không biết hay sao?

– Hôm qua tôi biết, còn hôm nay. Mọi cái đều trôi đi, mọi cái đều thay đổi. Xin lỗi, tôi là người trần. Là thợ rừng. Là chủ đồn điền. Chừng nào chưa bỏ đồng đôla vào túi thì tôi còn chưa coi nó là của mình. Vậy thì, anh có thái độ thế nào đối với Tổng thống?

– Ông Harold, ông một mực đòi hỏi nghiêm chỉnh ạ?

– ừ!

– Lạ thật. Thôi được. Tôi phải nói hết?

– Nói thật! Chỉ có nói thật! Không nói gì ngoài sự thật.

– Được thôi, tôi biết đâu đây… Ông căm ghét JFK ngay từ thời kì hoạt động trên cương vị Tổng thống đầu tiên của ông ta. Vì ông ta đã được bầu. Vì đã chỉ định tay chân của tập đoàn Rockefeller, chứ không phải người của ông làm Bộ trưởng Ngoại giao. Vì đã lấy viên quản lí các nhà máy Dearborn của Ford, chứ không phải Mark Trán

to làm người đứng đầu Lầu Năm góc. Vì ông ta đã tập hợp quanh mình các cố vấn không qua tôi luyện ở các nhà máy của ông, mà là các giáo sư đại học Columbia, Y - ên, Boston.

Hatter nghe, người ngã trên ghế, mắt nhắm và lão gật đầu vừa khuyến khích, vừa khinh mạn.

– Đơn đặt hàng máy bay, xe tăng, đại bác, tên lửa của Lầu Năm góc không dành cho ông trước tiên, mà cho các hãng “General Dynamics”, “Boeing”, “Lockheed”. Các lãnh đại dầu lửa bên kia đại dương của những kẻ cạnh tranh ông, được Bộ Ngoại giao, Lầu Năm góc, Nhà Trắng đỡ đầu, thì đang phất. Paul Getti và Nenson Rokefeller đang khai phá những vỉa đất mới ở Trung Đông, ở vịnh

Péc- xích, còn Hatter buộc phải cho các vỉa dầu phong phú nhất trên

đất Mỹ tạm ngừng hoạt động. Một tấn dầu lửa khai thác ở các nước arabia giá rẻ hơn ở Texas vài lần. Ông trả cho mỗi công nhân ba- bốn đôla một ngày, còn “Standard Oil” chỉ phải trả mươi – mười lăm xu.

Tôi nghỉ để lấy lại hơi, tráng cổ họng bằng nước xô- đa và hút một điều thuốc mới. Hatter mở mắt trong khoảnh khắc, âu yếm đề nghị:

– Anh cứ tiếp tục! Tôi đang chăm chú nghe anh đây.

– Ông căm ghét JFK vì ông này chưa tỏ rõ tính thượng võ trong các cuộc khủng hoảng ở Lào, Berlin và ở Caribbean. Vì ông ta đã cho lời bảo đảm không tấn công Cu Ba. Vì ông ta đã không biến cuộc chiến tranh Việt Nam thành cuộc chiến tranh của Mỹ. Vì ông ta đã chơi bời

với bọn mọi đen. Vì ông ta đã kí với Moskva hiệp ước cấm thử vũ khí hạt nhân. Vì ông ta đã vạch kế hoạch tăng thuế đối với các công ty. Vì ông ta đã cam kết cùng với Anh thảo luận hiệp ước không tấn công nhau mà Cremli đề nghị. Vì ông ta đã mưu toan áp đặt lên nước Mỹ

cái trò ranh ma của bọn Nga- cái gọi là cùng tồn tại hòa bình, nguy hiểm hết sức đối với nền kinh tế chúng ta, đối với lối sống của chúng

ta. Texas đặc biệt căm ghét hòa bình.

Hatter lại mở mắt, nhìn tôi với vẻ biết ơn.

– Đó là cái chủ yếu nhất trong những gì anh đã nói. Tiếp tục đi!

Tôi im lặng giây lát, nghĩ ngợi và chuyển từ chuyện ngày hôm qua sang ngày hôm nay:

– Đã nhiều năm quyền lợi của ông trên đồi Capitol được thủ lĩnh phe đa số ở thượng viện Robert Ker và chủ tịch hạ viện Sam Rable bảo vệ. Những bạn bè có thế lực ấy đã mất. Bây giờ ở cả thượng viện lẫn hạ viện, ông không có điểm tựa chắc chắn. John Kennedy đã mở cuộc tấn công kiên quyết vào các lợi ích cơ bản của ông. Ông ta đã soạn và sắp trình Quốc hội dự thảo cải cách thuế má, định tước của công nghiệp dầu lửa và hơi đốt của ông những ưu thế và ưu đãi mà ông có. Nếu dự thảo này trở thành luật, thì hàng năm ông mất gần hai trăm triệu đôla.

Hatter búng tay tanh tách:

– Không! Tổng thống giao chiến với tôi theo phương châm cổ nổi

tiếng: “Carthage phải bị phá huỷ”(1) Ông ta không chỉ đơn thuần muốn cướp của tôi, mà còn muốn đốn tận gốc. Để rồi xem ai thắng ai! Anh tiếp tục đi!

– Tôi còn ít cái để nói nữa thôi… Ông cho rằng, một Tổng thống chân chính chỉ có thể là người lấy cái phương châm nổi tiếng của ông “Cái gì tôt đối với Hatter thì cũng tốt đối với toàn nước Mỹ” làm phương châm của mình.

– Đúng lắm! Nói đâu ra đấy.

Lão chồm lên, cưỡi lên cái tay vịn ở ghế bành của tôi.

– Bây giờ nghe tôi nói đây này. Anh phải chứng kiến mọi chi tiết khi viên Tổng thống cứng đầu, khó bảo sẽ bị những người Texas kiêu hãnh nhổ nước bọt, nhạo báng, quất vào mặt và tiêu diệt về tinh thần. Tóm lại, tôi muốn anh viết một quyển sách có đầu đề đại loại như thế này: “Chuyến công du của Kennedy đến bờ mép của bóng đêm”.

Hatter thò tay vào túi áo, lấy ra tờ séc cứng giòn và trao cho tôi:

– Đây là tiền nhuận bút cho cái quyển sách tương lai bán chạy nhất của anh.

Tôi nhìn vào con số có sáu chữ số và lắc đầu:

– Nhiều quá!

– Tôi chưa bao giờ trả cho cái gì quá giá trị trường của nó. Thôi. Ta

trở lại chuyện các báo. Anh đã bỏ sót một thông báo quan trọng nhất. Hãy xem tờ New York Time xem. Hãy để ý đến phần ghi chú ở góc dưới bên phải của trang nhất.

Tôi cầm tập giấy dày cộp và đọc thấy những dòng sau đây:

– “Kiên quyết bác bỏ tin đồn lan truyền rộng rãi rằng Harold Hatter đi quần đảo Canari. Tin nói rằng ông H dường như sẽ không tham gia bữa tiệc mừng Tổng thống do các nhà công nghiệp Texas tổ chức cũng không đúng với sự thật. Còn lối khẳng định là ông H nuôi một ác cảm nào đó đối với JFK là mang tính chất vu khống, không

yêu nước rõ ràng. Mọi người Mỹ chân chính, trong đó có ông H đều

sùng kính một cách xứng đáng vật thiêng liêng của quốc gia – vị lãnh

tụ do dân bầu ra”.

Tôi đọc đi đọc lại vài lần cái thông báo kì quặc ấy, muốn tìm chìa khóa để hiểu nó ở trong các dòng chữ hay ngoài những dòng chữ kia. Ông Hatter ranh mãnh nhìn tôi và mỉm cười.

– Quả là trò nát óc! – tôi thốt lên ngạc nhiên. – Thế sự thật ở đâu?

– Cả ở đây và cả ở kia, còn cả nơi khác nữa, – Hatter nói, hài lòng với vẻ bối rối của tôi.

– Ông vừa đi lại vừa không đi quần đảo Canari?

– Phải.

– Ông vừa tôn trọng lại vừa căm ghét Tổng thống?

– Quả có thế.

– Tôi chẳng hiểu gì cả. Ông đã kí với Tổng thống một hòa ước bí mật?

– Tôi sẽ làm điều đo ngay, nếu nhận được một đề nghị như vậy.

– Tôi hiểu rồi!… Xếp mình vào số kẻ thù của Kennedy thì khô

không có

lợi đối với ông. Ông phải ở ngoài vòng nghi ngờ sau khi Kennedy lọt vào Texas dưới những đòn của những người ủng hộ ông.

– Bây giờ anh đã đoán ra rồi đấy! Nào, tôn ông, ta ăn sáng thôi, – ông Hatter vỗ vỗ bàn tay sắt lên má tôi để tỏ trạng thái hồ hởi của mình. – ồ, tôi không thích cái đó tí nào!

Chúng tôi im lặng ăn sáng. Nhà Hatter có đầy người hầu, nhưng không ai tới lúc này. Không có một động tĩnh gì trong vô số các căn phòng của dinh thự. Điện thoại cũng yên lặng. Những thanh củi thông đang tí tách trong lò. Con lắc của cái đồng hồ cổ đồ sộ đang êm

ả đung đưa.

Hatter đứng dậy, tiến lại lò sưởi, lấy từ mặt đá hoa một tập giấy và

đặt trước mặt tôi.

– Đây là số liệu mới nhất của viện Gallup. Cuộc thăm dò cử tri cho thấy Kennedy được đa số số phiếu tuyệt đối. Chỉ có một thiểu số không đáng kể bỏ phiếu cho Bary John. Viễn cảnh, chà chà: thêm bốn năm chiếm đóng Nhà Trắng nữa!

– Ông nói trúng quá! Chiếm đóng Nhà Trắng! – tôi nhắc lại với sự khâm phục.

Sự nịnh bợ, dù có được che đậy vụng về bằng vẻ ngoài chân thành, cũng tác dụng rất có hiệu quả. Hầu như mọi người đều khó nhìn thấy chính mình, khó biết bản chất của mình. Một kẻ tay vung hàng tỉ bạc, bằng một nét bút có thể quyết định số phận của các công ty hùng mạnh, đôi khi cả số phận của cả một nước đều chắc mẩm rằng hắn xứng đáng nhận lời khen cao nhất.

– Tôi không còn ý kiến gì nữa, tôn ông ạ. – Hatter sỗ sàng vuốt vai tôi, ra ý rằng câu chuyện đã chấm dứt và tôi phải đê lão nghĩ một mình càng nhanh càng tốt.

– Một phút nữa thôi, ông Harold, tôi sẽ cáo lui. Câu hỏi quan trọng lắm. Xét về mọi khía cạnh, tôi không được trưng bộ mặt thật của mình trước các cư dân của Nhà Trắng. Phải thế không?

– Phải. Hãy trình diện dưới cái mặt nạ thời này đang mốt là một trí thức Boston, từ lò đào tạo của trường Đại học Tổng hợp Harvard, người ủng hộ Kennedy chân thành.

– Ô hay, ông Harold! Ngay sau khi tốt nghiệp đại học, tôi đã rơi ngay vào ảnh hưởng của ông, toàn tâm toàn ý phục vụ ông và chưa

nói một lời nào cho phía tập đoàn Kennedy.

– Cái đó chẳng có nghĩa lí gì.

– Sao lai không? ở Nhà Trắng, ai chả biết tôi là chủ bút tờ Texas Sun, rất không thân thiện với Tổng thống, và là “ngòi bút riêng” của ông. Chẳng ai tin được chuyện là sau khi lọt vào nhóm báo chí của

Nhà Trắng, tôi bỗng trở thành người ủng hộ nhiệt thành của vị Tổng

thống hiện nay.

– Những lí lẽ ấy tôi cảm thấy xác đáng, không chê vào đâu được. Nhưng Hatter đã phá tan chúng.

– Phải, họ sẽ không tin, nhưng chỉ trong trường hợp cứ mỗi bước chân, trước ai anh cũng khen ngợi Kennedy. Cái ấy rẻ tiền lắm. Để muốn cho người ta tin, đầu tiên anh phải suy tôn Kennedy bằng những

cái nhìn truyền cảm và sự im lặng hùng hồn. Sau đó, khi đã quen tình hình, đã kiếm được bạn bè, anh mới bắt đầu khen ông ta bằng lời, nhưng vẫn thận trọng, ngó quanh, như thể sợ những đôi tai lạ, và chỉ trong những câu chuyện thân mạt với những người xứng đáng thì mới nói. Hãy tin chắc rằng những cảm tình bí mật ấy sẽ được người của Kennedy đánh giá xứng đáng. Dưới cái vỏ chắc chắn như thế, anh có thể táo bạo trông vào thành công. Khi thán phục Kennedy, đừng quên

đôi lúc chửi bới ông Bạc tỉ. Và đừng ngần ngại từ ngữ, tôi sẽ không lấy

đó làm giận đâu. Sự trung thành của anh là ngoài vòng nghi ngờ. Hãy dùng mọi tên chửi như: “con mèo phệ Texas”, v.v…

Hatter nháy mắt và phì cười. Không hiểu sao lão luôn nháy mắt khi nói chuyện kinh doanh của lão.

– Rõ cả rồi, ông Harold ạ. Một trò chơi hai mặt. Giống như với Bill.

– Chính thế đấy. Vả lại, trò chơi hai mặt là con ngựa quý của anh

em Kennedy. Cho đến giờ nó đã mang lại những lời lãi kếch xù cho bọn họ. Học hỏi bọn họ cũng tốt chán.

– Tôi có người thầy thông minh và thành đạt hơn. Hatter vớ lấy lời nịnh của tôi và cười ha hả.

Trong suốt thời gian nói chuyện với Hatter, thằng lùn Giovanni Batistini vẫn cứ lởn vởn trong đầu tôi cùng cái vẻ băng giá của hắn. Cái chết của một kí giả không vừa ý chỉ có một nghìn đôla! Năm nghìn cho cái đầu một nhà kinh doanh bình thường! Mười nghìn cho

cái bụng bị phanh ruột của một ông chủ bự!

Hôm sau, cuộc đời mới của tôi bắt đầu. Tôi không đến Nhà Trắng

ngay. Tôi tìm vào tiệm ăn phía Tây, nơi các cộng sự của Tổng thống

và các phóng viên phục vụ cho dinh chính của chính phủ vẫn thường

ăn sáng và ăn chiều. Tôi hi vọng sẽ thu nhận được những tin nóng sốt nhất của Nhà Trắng.

Tính toán của tôi cuối cùng đã đúng. Trong phòng ăn tiện nghi bên sườn nhà, tôi trông thấy Bobby Scott má đỏ, anh bạn đồng khóa thời đại học của tôi, tôi bèn bổ lại bàn anh ta. Robert, một nhân vật quan trọng ở Nhà Trắng, không e ngại mở rộng vòng tay hiếm hoi của mình

ra với tôi. Sau năm phút vỗ lưng vỗ vai và nói tất cả những gì mà những người bạn tốt lâu ngày không gặp nhau vẫn thường phải nói, chúng tôi ngồi đối diện với nhau và nói chuyện về đề tài nóng hổi với

cả hai chúng tôi: về chuyến đi Texas của Tổng thống. Sau khi biết tôi

đã nhập vào nhóm báo chí Nhà Trắng, Robert bừng cơn ưu ái với tôi:

– Tớ thật hết sức vui mừng, ông bạn ạ, và con đường hai ta lại giao nhau. Cậu làm thế nào mà leo tài thế?

– Thế còn cậu? – tôi vui ve hỏi nhanh. Cái kiểu chuyện này không nên gò bó nghiêm nghị.

– Tớ ấy à?… Cậu thấy không… – anh ta ngừng nói, hiểu rằng đã bị

Mark vào chính cái lưới của mình.

Tôi thấy không cần phải thương anh ta. Tôi vừa cười vừa nói:

– Robert Scott là nhân vật trọng yếu. Anh ta có hàng tỉ đôla thừa kế, có những mối liên hệ dòng dõi lâu đời.

– Cậu muốn nói là Serge Brooks lọt vào Nhà Trắng nhờ ở tài năng của chính mình, còn Robert Scott thì được ông bác giàu có cõng lên?

– Đừng bực. Cậu tuốt kiếm ra trước tiên.

– Và đâm trúng phải cái bụng của mình, – Robert thành thật cười hể hả rất to.

Anh ta uống hết cốc nước cam, ăn hết chỗ trứng với mẩu thịt lợn xông, chấm giấy chùi miệng lên môi và chuyền sang món cà phê và

bánh táo. Giờ thì có thể nói chuyện thoải mái với anh ta đây. Những

người no nê thường dễ tính và vô tư lự.

– Robert, tại sao John và Lindon lại đi chui vào cái hang bẩn thỉu, hôi thối là Texas ấy nhỉ?

Robert Scott chống khuỷu tay lên bàn, cúi người về phía tôi bắt đầu giải thích khẽ, giọng tin cậy:

– Họ sẽ dập ngọn lửa Texas có nguy cơ đốt cháy tương lai trước mắt của Tổng thống và Phó Tổng thống.

– Cậu giải thích thành thạo và hay lắm. Cứ trên tinh thần ấy mà tiếp tục!

– Tài đến đâu thì kể đến đấy, – Robert cười hăm he. – Chịu khó vào! Cậu phải là phóng viên lão luyện của Nhà Trắng.

– Tớ sẽ rất biết ơn nếu cậu đào luyện cho anh lính mới này đủ ngón nghề. Nào, tiếp đi!

– Thế này nhé. Số là hai tay dân chủ chính yếu – thống đốc Texas, người có đầu óc thủ cựu John Connelly và thượng nghị sĩ phái tự do của ban này Ran Yarborough đang cào cấu cổ họng của nhau và cả

hai đang khò khè trong cơn hấp hối.

Tôi nhún vai ra ý chẳng hiểu chuyện ra sao. Robert thương tình chàng lính mới và nói tiếp rành rọt hơn:

– Yarborough là người tâm phúc đặc biệt của Tổng thống. Connelly

là bạn của các nhà công nghiệp, các anh nhà giàu Texas. Các ông chủ thuộc đảng dân chủ đang kình địch nhau ác liệt. Các đại biểu cử tri(1) cũng theo gương họ. Họ định phế Kennedy và Johnson trong cuộc bầu

cử nếu thống đốc Connelly và thượng nghị sĩ Yarborough không cùng

làm việc trong cùng cỗ xe dân chủ. John và Lindon nhận lãnh vai trò hòa giải. Chỉ vì thế mà họ bay đi Texas. Đấy, đầu đuôi là thế. Những

cái còn lại là những chi tiết nhỏ.

– Tôi cũng không nghĩ ra là nhà kiến tạo “những ranh giới mới” lại

cất công đi làm cái chuyện vặt vãnh kia – dập cơn bão tố trong cái cốc nước.

– Lúc đầu John một mực khước từ, nhưng sau phải nhân nhượng

Lindon.

Robert nhìn tôi vừa khuyến kh ích, vừa thăm dò. Trên má anh ta

lại nổi lên một lớp màu hồng thứ hai. Mắt sáng lên phấn chấn. Anh ta

sốt ruột muốn nói nữa về phía đời riêng của các vị tai to mặt lớn và về

sự gần gũi của anh ta với họ.

– Nào, Robert, cứ giảng tiếp đi.

Và anh ta chậm rãi khua cái giọng hoạt bát của mình:

– Cử tri Texas bây giờ kinh tởm quay lưng với Johnson còn hơn là với Kennedy. Cũng lạ đấy chứ?

– ừ, cũng lạ. Chính Kennedy mới là người lạ ở Texas, còn Johns on

có trang trại ở Austin. Là cao bồi. Là dân chăn nuôi. Là thợ đi săn.

Ông ta yêu bài hành khúc “Hoa hồng vàng Texas” lắm.

– Chính vấn đề là ở chỗ đó. Người Texas không tha thứ cho Johnson của họ sự ăn không ngồi rồi. Bầu ông ta lên làm Phó Tổng thống, họ trông đợi ông ta sẽ biến Texas thành cái rốn của nước Mỹ. Lindon đã phụ lòng tin vĩ đại của những người đồng hương. Ông ta thực tế bị gạt khỏi công việc, chỉ rong ruổi đó đây với những sứ

sứ mệnh bánh vẽ. Đến các phóng viên cũng nhờn cả với ông ta. JFK và Jacqueline kiều diễm của ông ta ngày ngày ra mắt công chúng, còn Lindon thì ở trong bóng tối. Johnson, vốn mẫn cảm, tự ái, quyền hành, đang rất đau khổ.

Robert nói không thèm ngó quanh, chẳng sợ có người ngoài nghe thấy hay không.

– Mọi bí mật của chuyến đi Texas của JFK là ở đấy.

Trên khuôn mặt quá đầy đặn, má đỏ của Robert Scott hiện lên sự

tiếc rẻ rõ rệt vì đã bộc bạch nhanh quá, chưa tận hưởng được cho ra trò.

– Dallas là ai? – tôi hỏi.

– Cái gì? – Robert Scott thắc mắc nhìn tôi.

– Tớ hỏi là cậu có biết Dallas là ai không?

à?

– Dallas?… Tớ không hiểu. Cậu ngụ ý muốn nói thành phố Dallas

– Không, tớ muốn nói cái người có tên là Dallas được đặt tên cho

thành phố.

Robert Scott phải đỏ mặt lần nữa, lần này vì xấu hổ đã không biết

rõ lịch sử các thành phố. Tôi vội vàng cứu anh ta ra khỏi tình thế khó xử:

– Thế đấy, đến cậu là người của Nhà Trắng mà cũng không biết đến Dallas, Phó Tổng thống nước ta hồi những năm 1945- 1949. Cũng chẳng có gì là lạ. Nước Mỹ từ thời Tổng thống đầu tiên Washington cho đến Tổng thống thứ ba mươi lăm bây giờ, luôn nhìn các Phó Tổng thống với con mắt hoàn toàn dửng dưng. Cho nên Lindon Johnson chả

tội gì phải đau khổ. Ông ta đã biết là đã dấn thân đi đâu. Đáng lẽ ông

ta không nên rời cái cương vị quan trọng trước kia của mình. Thủ lĩnh phe đa số đảng dân chủ ở thượng viện – đó là thực lực mà đến Nhà Trắng cũng phải tính đến. Thôi được, về ông ta thế là đủ. Người ta đồn Kennedy đem cả vợ đi chuyến này. Có thật thế không?

– Thật đấy, mọi cái đã được quyết định, Jacqueline xinh đẹp đang tập làm quen với chính trị.

– Bà ta có chịu được cái tai ách nặng nề kia không?

– Jackie đã bình phục rồi, giờ nom tuyệt trần lắm. Không còn tí dấu vết nào của tai họa mùa hè vừa qua. Cậu chắc có biết chuyện ấy?

– Tớ cũng có đọc láng máng. Hình như cậu cùng đi với đệ nhất phu nhân đến Boston và sang châu Âu?

– Phải, Tổng thống có cử tôi cùng với một số người nữa đi với

Jacqueline.

– Thế, chuyện gì xảy ra với Jacqueline thế?

– Bà ta sinh nở mẹ tròn con vuông. Nhưng Patrick chỉ sống được có bốn mươi giờ đồng hồ. Cả cha lẫn mẹ đều chịu đựng tổn thất một cách khủng khiếp. Tôi được chứng kiến sự đau khổ của họ và chính tôi cũng đau khổ dữ lắm.

Tôi cười thầm trong bụng. Không thể tưởng tượng được bộ mặt béo tốt, no đủ của Robert nó đau khổ ra làm sao. Tôi có cảm tưởng như nó luôn tỏ ra sự yên lặng không gì phá nổi.

– Đau khổ làm người ta xích lại gần nhau, – Robert nói tiếp. – Jacqueline lại càng yêu chồng hết mực. Một lần tôi vô tình nghe thấy

bà ấy nói với chồng: “Em làm sao sống được nếu như mất anh”, “Anh

biết mà, anh biết mà! – John âu yếm ngắt lời và xoa đầu vợ. – Em phải sang châu Âu mới được. Đi du lịch sẽ bứt em khỏi những ý nghĩ

u sầu về Patrick”.

Robert kể tỉ mỉ anh ta đã đi kèm Jacqueline như thế nào trên chiếc

du thuyền của tỉ phú Onassis dọc các nước vùng Địa Trung Hải, bà ta đã hồi lại, đẹp ra và vui vẻ lên như thế nào.

Tôi phát chán. Nhưng không thể ngắt chuyện Robert được. Anh ta

sẽ phật lòng. Đối với anh ta, cặp vợ chồng Tổng thống là thiêng liêng.

Anh ta cả đời sẽ say sưa kể tất cả những gì anh ta biết, anh ta nghĩ về

Jacqueline và chồng bà ta.

Tôi rút bao “Chesterfield” ra, lấy điếu thuốc và đẩy bao thuốc về phía Robert: May ra anh ta sẽ hút thuốc và chuyển đề tài. Nhờ trời, mọi sự đã xoay vần đúng như thế.

– Đúng, chuyến đi của chúng ta sẽ rất không dễ dàng, tuy bên cạnh

có Jacqueline mê hồn. Mới đây tớ đã đến Dallas, cũng thăm dò được ít nhiều. Kẻ thù của Kennedy sôi sục vì tức giận. Bản tốc kí của hội nghị đặc biệt do thống đốc Connelly triệu tập vào đầu tháng trước đã lọt vào tay tôi. Chỉ có những ông chủ thực tế của Texas và những đại diện toàn quyền của họ có mặt. Có chủ tịch hội đồng công dân đầy

quyền uy Johnson, người trùng tên với Phó Tổng thống. Có trưởng

phòng thương mại Calam. Có chủ tịch nhà băng “Macintyre Thornton”. Các ông chủ các báo Morning News (Tin buổi sáng) và Dallas Time Herold (Người báo giờ Dallas). Jim con và Anbert Jackson. Có cả những vị tai to mặt lớn khác. Connelly đọc bài diễn văn lớn về chuyến đi của Kennedy.

Robert khiêm nhường dừng lời và để tâm trí vào cốc cà phê. Thế là

đã rõ: anh ta muốn kéo dài sự khoan khoái được lên lớp với anh lính mới. Cứ cho anh ta tận hưởng. Tôi hỏi:

– Connelly nói gì vậy?

– Trước hết ông ta xin lỗi các con át của Texas về chuyến thăm không mời của Tổng thống và tuyên bố rằng bản thân ông ta lấy làm buồn phiền vì cuộc chinh phạt này. Ông ta không thể cấm Tổng thống đến Texas, nhưng ông ta không định làm cậu bé chạy điếu đóm trước Kennedy. Tôi sẽ làm tất cả, ông ta nói, để sử dụng cơ hội này vào mục đích chung của chúng ta: hạ uy tín của Yarborough và chấm dứt trường phái tự do ở Texas.

– Ông ta nói thế à.

– Nguyên văn như thế. Tớ đã mật báo lên Nhà Trắng. Tớ nhớ rõ từng dòng. Cậu nghe tiếp đây này. Ngày ba tháng mười, Connelly triệu tập ở Austin tất cả các nghị sĩ đại diện cho bang ông ta ở đồi Capitol, trừ Yarborough và truyền bá trước họ mối ác cảm của các nhà kinh doanh Texas đối với Tổng thống. Còn ngày bốn tháng mười, ông ta mà vào Phòng bầu dục và chứng minh cho chủ nó rằng Tổng thống phải đứng trên chính trị. Tức cười thật! Mỗi lời nói của Tổng thống là chính trị rồi.

– Thế ông ta bị trả miếng ra sao?

– Kennedy chỉ cười nhã nhặn. Cần phải giữ nguyên sắc mặt khi trong lòng không vui. Nghi thức rắc rối của chuyến đi Texas phụ thuộc nhiều ở viên thống đốc. Ngoài ra, còn phải hòa giải người theo phái tự

do với kẻ thủ cựu, phải chứng tỏ cho mọi người thấy sự thống nhất

chính trị của đảng dân chủ. Cuộc mạn đàm của Tổng thống với thống

đốc bang bề ngoài kết thúc hòa bình.

– Thế còn người của phái tự do Yarborough.

– Ông ta cũng biết mưu mô của đối thủ và bằng những từ ngữ văn hoa nhất, ông ta đã dài lời nhắc nhở cho người của Kennedy là trong những ngày khó khăn đối với JFK, khi mà các thủ lĩnh của đảng quyết định việc Kennedy có hay không được ứng cử viên Tổng thống, ông ta, Yarborough đã một mực đứng về phía Kennedy. Giờ đây, ông

ta nói, người ta lại muốn khinh bỏ ông ta để làm vừa lòng lão Connelly lá mặt lá trái, đầy tớ trung thành của các tư bản độc quyền dầu lửa của Texas. Chúng tôi tất nhiên là đã đồng thanh vỗ về vị thượng nghị sĩ đang điên tiết: “Kennedy sẽ không đi Texas mà không

có Yarborough. Thượng nghị sĩ Yarborough sẽ không bị đặt vào tình huống ê chề”.

Tôi không kìm được và hỏi, có nguy cơ mang tiếng thộn trước con mắt của Robert:

– Không lẽ cái chuyện đấu đá này giữa Yarborough và Connelly lại không gây sự kinh tởm ở Tổng thống?

– Than ôi, Tổng thống đến giờ cũng vẫn chỉ có khái niệm lờ mờ về

sự kình địch của họ. Ông đâu có thì giờ nghiên cứu những vấn đề nhỏ

nhặt như thế. Ông ấy điều hành cả đất nước kia mà.

– Thế bây giờ?

– Giờ ông ta cũng phải cất công bỏ sức vào đó. Nhưng, tiếc thật, những tín hiệu lo ngại của êkíp của mình, thuyền trưởng ta thu nhận

với vẻ điềm nhiên vô cùng.

Bob uống nốt cà phê, cẩn thận thấm cái giấy lau miệng lên đôi môi đỏ của mình và hỏi:

– Cậu có biết Byron Skelton không?

– Đại biểu Texas trong ủy ban quốc gia của Đảng Dân chủ ấy à?

– ừ, Byron đã một tháng nay báo động cho các phụ tá của Kennedy

về thời tiết chính trị tồi tệ ở Texas, đặc biệt là ở Đại Dallas. Người

Dallas, ông ta nói, sẽ đổ lên đầu Tổng thống không chỉ bùn đất và

nước rác. Họ còn có thể vớ lấy cả súng cực nhanh nữa kia đấy. JFK không nên đi Texas. Theo lời Byron, ông ta linh cảm thấy chuyến đi của Tổng thống vào hang hùm này lành ít, dữ nhiều.

– Các cậu trả lời thế nào? Có cười những tiên đoán ảm đạm của ông

ta không?

– Những chuyện như thế không phải trò đùa. Chúng tớ đã báo cáo cho JFK về mối lo lắng của Baker. Kennedy thở dài nặng nề và nói là ông không thể thay đổi kế hoạch được. Tổng thống phải gặp gỡ không

có hàng rào ngăn với nhân dân Mỹ. Cả ở Dallas đáng sợ kia, ông nói, cũng có những người Mỹ tôn trọng thể chế của chúng ta, trong đó có cương vị Tổng thống. Nhưng sau đấy Byron vẫn không yên lòng. Ông

ta viết một bức thư riêng cho Bộ trưởng Tư pháp. Ông ta vẫn giữ ý

kiến của mình là bầu không khí ở Dallas bị đốt nóng nguy hiểm bởi những lời lẽ khiêu khích của các báo, các tổ chức phái hữu. Nhưng cũng không có tác dụng đối với JFK. Không chỉ một mình Byron bị những linh cảm u ám dầy vò. Etlai Stivenson, bị nh

nhừ tử ở Dallas tháng mười vừa rồi, van nài Kennedy đừng đến thành phố đáng nguyền rủa này. Thượng nghị sĩ bang Atkansas Fulbright thừa nhận

với Kennedy, là Texas, khi ông ta đến đây, gây cho ông sự khiếp hãi. Dallas là thành phố rất nguy hiểm. Đến tôi cũng sẽ không đến đó nữa kia, Fulbright nói. Ông lại càng không bao giờ nên đến. Tổng thống phẩy tay với cả Stivenson, cả Fulbright. Nguyên cái ý nghĩ rằng, ông nói, Tổng thống Hợp chủng quốc Hoa Kỳ phải sợ một thành phố Mỹ nào đó, thực là quái đản. Cậu thấy không, Kennedy sùng tín đến thế nào vào sự bất khả xâm phạm của thân thể Tổng thống.

– Chà, ông ta biết quá kém về tình trạng thực ở nước mình. Cái đó chúng ta, thành viên của đội quân của Tổng thống, có lỗi.

– Bản thân tớ không coi mình có lỗi tr ong vấn đề này. Tớ đã viết cho JFK một báo cáo đặc biệt. Tớ đã trình bày rõ ràng rằng bang Texas đứng hàng đầu trong nước và trên thế giới về các vụ dùng bạo lực, cướp bóc, giết người, lừa đảo, phiêu lưu, rằng ở Dallas mỗi tháng bọn giết người lạ mặt cho sang thế giới bên kia số người bằng số người chết ở Anh. Dallas, tớ viết, đó là cái búi nhung nhúc “những người

Texas chân chính”(1), những kẻ thù không dung hòa của chương trình

chính phủ Kennedy. Người Dallas sầu nhớ những ranh giới cũ và lao vào trận như những con bò đực hăng tiết, đối chọi lại với tất cả những

gì JFK đề xướng. Báo chí, đài phát thanh, vô tuyến truyền hình từ sáng sớm đến tối mịt ra rả cư như là đóng đinh treo cổ Tổng thống…

Hỡi ôi, cả với bản báo cáo của mình, tôi cũng không lay chuyển được quyết định của Kennedy.

Bob dừng lại, tiếc rẻ nhìn đồng hồ.

– Xin lỗi ông bạn, tớ không còn thì giờ nữa, – anh ta đứng dậy, sửa

lại cravat, cài lại áo véc. Để lần khác ta sẽ nói chuyện. Mạnh giỏi nghe. Rất vui vì đã gặp cậu và nối lại tình bạn của chúng ta.

*

Bây giờ thì có thể vào Nhà Trắng được rồi. Tôi chầm chậm đi vòng

từ phía công viên Elip. Tôi ngoặt vào một góc. Đi dọc hàng rào phía

đông. Tôi tiến lại cái chòi gác, nơi có viên cảnh sát cao lớn đang đứng và chìa giấy ra vào. Anh lính gác đứng nghiêm chào.

Không vội vã, tôi đi theo con đường thẳng tắp đến chái phía đông của dinh Tổng thống lâu đời. Đã có thời, tôi cũng như nhiều người Mỹ khác loá mắt vì những trang hoàng lẫm liệt của lối sống Mỹ, đã nuôi một sự sùng kính đối với Nhà Trắng, những cư dân của nó và ngây thơ tin rằng mỗi Tổng thống đều do dân bầu, của dân và vì dân. Bây

giờ tôi nhìn dinh chính phủ bằng con mắt tỉnh táo.

Nhà Trắng được bao bọc bởi hàng rào sắt cao. Những thảm cỏ bao

la mang màu xanh quanh năm, những cánh cổng nam và tây nam chỉ

mở rộng trước những ông lớn, bà lớn của trần gian này, vòi phun, vườn hoa hồng, sân tennis, hoa mộc lan, lối ra vào cho những người tham quan bình thường… Đi trong dòng ôtô trên đại lộ huyết mạch Constitution, bạn có thể thấy, nếu gặp may, John và Jacqueline trong quần soóc trắng đang chơi tennis hay dạo quanh các con đường của công viên.

Bất kì người Mỹ nào vào những ngày giờ nhất định, qua lối vào nhất định có thể vào Nhà Trắng và xem các phòng đại lễ ở tầng một.

Mỗi một người Mỹ từ bé đã biết rằng trong Nhà Trắng có một phòng

với lò sưởi đá hoa lớn, với cái bàn bóng, khảm lộng lẫy của Monroe, Tổng thống thứ năm của Hoa Kỳ. Qua ảnh chụp và qua mô tả, mỗi người Mỹ đều biết rằng, khi đứng bên cửa sổ to lớn từ sàn lên đến trần, trông ra phía nam, có thể thưởng ngoạn cái kim bằng đá hoa cương vút mây – đài kỉ niệm George Washington, mái tròn của đài kỉ niệm Jefferson, “túp lều” đá hoa, trong đó trên cái ghế bành đá hoa trắng là Abraham Lincoln.

Mỗi người Mỹ đều biết rằng trong Nhà Trắng có cái gọi là phòng

ăn quốc gia, nơi tổ chức các bữa ăn cho các nhân vật cao quý, chủ yếu là người nước ngoài. Ai cũng biết trong Nhà Trắng có bao nhiêu phòng, buồng và chúng màu gì. Báo chí đã từng loan tin chi tiết rằng theo chỉ thị của Harry Truman, Tổng thống thứ ba mươi ba của Hoa Kỳ, năm 1955 đã tiến hành sửa chữa lớn toàn bộ dinh và đã xây một ban công đặc biệt và sân tắm nắng theo kiểu chủ nghĩa hiện đại bằng thép mạ niken gương thuỷ tinh và chất dẻo. Toàn nước Mỹ được xem trên vô tuyến những phòng ở và phòng đại lễ của Nhà Trắng được làm theo gu của Jacqueline như thế nào, những đồ đạc

cổ xưa nào đã được chọn, những ghế bành và đi văng trong phòng

làm việc của chồng đã được bao bọc bằng gì. Nhưng có điều, nhiều người lại không biết là ông tổ của Jacqueline về họ nội đã làm cai thầu và làm giàu khi cung cấp đá hoa để xây dựng Nhà Trắng và Capitol.

Nhờ cái vẻ ngoài như cởi mở, mà vẻ ngoài của đời tư của những con người kia đã được bày ra trước mắt, và cái dinh trắng toát này có vẻ

rõ ràng, ai cũng đạt đến! Thực ra ở khắp Washington không có tòa nhà nào bí ẩn hơn tòa nhà trên đại lộ Pen- xi- na- ni- a, số 1.600 này.

Tại một trong những căn hầm của Nhà Trắng, có một chỗ bí mật nhất trong tất cả những chỗ bí mật của CIA – một bàn điều khiển đặc biệt

dành riêng cho Tổng thống. Báo chí không viết về nó. Vô tuyến truyền hình không chiếu về nó. Mỗi một tờ giấy đi từ Nhà Trắng ra và vào

đây đều được đánh dấu bằng dòng chữ “Tuyệt mật”.

Sự biệt phái chính thức của tôi ở Nhà Trắng diễn ra buồn tẻ. Sếp của phòng thông tin, một người bảnh bao, dễ tính, rất thạo tin tên là Pie Salinger đã không kể được lấy một phần nghìn những gì tôi thu

thập được qua người bạn trẻ của mình. Trong những điều kiện thích

hợp hơn, có lẽ ông ta sẽ hào phóng hơn. Bây giờ ông ta đang chuẩn bị

đi xa. Không phải đi Texas. Ông ta bay với Dean Rusk và Mark

George Bandy sang Honolulu. Các nhà báo, đã không tiếc giấy mực để

mô tả bộ ba hiệp sĩ trong êkíp Kennedy sẽ nghỉ ngơi giải trí ra sao

trong miền nước ấm nắng tươi. Thực ra bộ ba này phi sang châu á nóng bỏng với công việc quốc gia trọng đại. Họ sẽ tham gia vào hội đồng quân sự, nơi bàn luận vấn đề Việt Nam. Sau đó Salinger và các đồng hành sẽ sang Nhật. ở đó, họ chuẩn bị cơ sở cho cuộc đi thăm của Kennedy vào tháng hai sang năm. Người tiền bối của Kennedy đã vạch kế hoạch thăm Nhật và đã chịu thất bại thảm hại nhất. Hàng trăm nghìn người Nhật đã đổ ra phố và đồng thanh lên án Tổng thống Mỹ. Eisenhower phải vội vã cuốn gói. Kennedy hi vọng bằng cuộc thăm Nhật lần này sẽ trả về cho Nhà Trắng cái mà Eisenhower đã đánh mất ở Nhật. Những hi vọng lạ lùng. Người Nhật không bao giờ tha thứ cho chúng ta về những gì xảy ra ở Hiroshima và Nagasaki. ở các thành phố này, cả những trẻ em ra đời sau khi “những cậu ấm nguyên tử” đã được ném xuống, cũng đã chết vì bom Mỹ. Các em đã bị nhiễm phóng xạ trong bụng mẹ. Tôi đã ở Hiroshima và viết những gì

tôi biết.

Chuyến đi của Salinger, Ruske và Bandy dự kiến vào thứ ba, 20 tháng Mười một. Tổng thống và êkíp của ông rời Washington vào ngày hôm sau.

Dinh thự ở số 1.600, đại lộ Pennsylvania trống rỗng. Nhà Trắng mất hơi người. Và xuất hiện một Nhà Trắng lưu động mới. Từ cái giây phút mà Tổng thống bay lên khỏi mặt đất, người ta sẽ không gọi ông là JFK nữa, mà là “Người cầm giáo”. Jacqueline sẽ trở thành “Danten”.

Cô con gái Caroline thành “Trữ tình”. Cậu John nhỏ bé trong cái quần ngắn là “Bé tinh nghịch”. Các trợ lí, thư kí, cận vệ cũng đổi họ thay tên. Phó Tổng thống Lindon Johnson sẽ phải là “Người tình nguyện”, còn phu nhân ông ta, bà Bird Chim nhỏ thì là “Victoria”.

Nhà Trắng sẽ nhận được biệt hiệu “Lâu đài”. Nơi Tổng thống đích thân hạ cánh, ngủ lại, ăn uống, đọc diễn văn, đi xe hơi cũng mang mật danh “Than củi”.

Chơi trò bí mật ngây ngô. Sự bảo vệ không thể bảo đảm được an

toàn cho một nhân vật trọng yếu. Toàn nước Mỹ đã biết là Tổng thống

rời Washington sáng ngày 21 tháng Mười một. Thành phố đầu tiên

mà ông ta dừng lại là San Antonio. Thành phố thứ hai là Houston. Ông ta sẽ ngủ lại ở Ford Worth. Trưa ngày 22 tháng Mười một, ông ta

sẽ đọc diễn văn ở trung tâm thương mại của Dallas. Dự kiến sẽ đăng hành trình chính xác, qua những thành phố nào, ngày nào, đi trên các

phố nào, vào thời gian nào, và nơi nào sẽ qua. Mọi tờ báo đã rung chuông báo hiệu là John và Jackie ở thành phố Houston sẽ ở lại

khách sạn “Rayson” của Max Peck, v.v…

Mọi điều có thể đọc thấy trên báo, ngoài cái khoản ông Hatter đã chuẩn bị món bất ngờ gì cho Tổng thống. Lão đã hé mở nhiều cho tôi, nhưng dẫu sao, cái chính nhất, cốt lỗi nhất thì lão vẫn giấu. Lão nghĩ ra tro gì? Huýt sáo phản đối Kennedy ở Houston? Ném trứng thối ở Dallas? Chọc cái gì đó vào bánh xe Tổng thống ở Ford Worth?

Bill bấp chấp những lời hứa của mình,

đã khùng lên khi biết những ý định mới của Hatter. Đón tôi ở hành lang thượng nghị viện,

gã nắm tay tôi, kéo ra một góc và hỏi cung ngay:

– Cái gì xảy ra thế Serge? Tại sao ông không thông báo đúng lúc cho tôi về sự đảo điên của lão cao bồi?

– Tại vì sự đảo điên bao giờ cũng là sự đảo điên. Bao giờ người ta cũng biết chậm.

– Tôi không đùa đâu. Ông chơi một trò chơi bẩn thỉu với chúng tôi.

– Mọi trò chơi! Frank ạ, đều bẩn thỉu. Trong đó có cả trò chơi giữa chúng ta.

– ái chà chà, ông bắt đầu giở giọng thế đấy!

– Đừng có gào lên, Frank. Tôi không định cãi nhau với ông. Chẳng

có cái gì đáng sợ xảy ra cả.

– Sao lại chẳng có cái gì? Chúng tôi tin chắc rằng sau một tuần các ông sẽ ở châu Âu, ba ngày sau ở arabia, nửa tháng sau nữa ở quần

đảo Canari. Dựa vào tin tức của ông, chúng tôi đã vạch ra một số biện

pháp, đã chuẩn bị vị trí, đã phái người đi các nơi…

– Các ông đã chi tiêu tốn kém…

– Phải chi tiêu không nhỏ. Nhưng đâu phải chỉ chuyện tiền nong. Chúng tôi bực tức…

– Các ông nghi tôi chơi trò hai mặt? Không tin tôi chứ gì?

– Phải, chúng tôi nghi ông. Phải, chúng tôi không tin…

– Các ông làm đúng đấy. Tôi thì ngay lập tức, ngay lần gặp đầu tiên đã nghi các ông không thành thật và không tin một lời nào của các ông. Trong chính trị và trong kinh doanh, như một người bạn tôi

đã nói, không có bạn bè, chỉ có đồng bọn… Mà kẻ đồng bọn thì còn ở

với anh chàng nào hắn còn có lợi.

– Ông muốn nói…

– Tôi muốn nói là các ông đã kéo còi báo động giả mạo. Tôi nhắc lại, không có cái gì đáng sợ xảy ra. Một bước ngoặt bất ngờ như thế của các sự kiện còn có thể diễn ra trong tương lai. Lão cao bồi, cũng như mọi con người bằng xương, bằng thịt khác, hôm nay nghĩ chuyện làm

cái này, ngày mai lại cái khác. Cho đến hôm qua, lão còn cương quyết

dự định đi châu Âu, đến với người arabia và đến quần đảo Canari.

Thậm chí chúng tôi đã cho chở ngựa, chó và một số đồ vật đi Lodge Pau- mốt. Chuyến đi bị bãi bỏ bất thình lình, bất ngờ với cả tôi. Tôi không kịp báo gì cho các ông.

– Sao lại bỏ chuyến đi?

– Thế ông còn không rõ à? Tổng thống Kennedy đến Texas, bang quê hương của Hatter. Làm sao một người Mỹ trung thành là Hatter, người tôn trọng và yêu quý Tổng thống lại không bày tỏ lòng mến khách thỏa đáng đối với ông ta cho được?

– Serge, bỏ cái lối thả bong bóng xà phòng ấy đi. Tôi thừa biết

Hatter của ông yêu quý và tôn trọng Tổng thống như thế nào rồi.

– Tôi cam đoan với ông. Sau Texas, chúng tôi sẽ đi châu Âu, đến với

người arabia và sang Lodge Palmos.

– Hatter không phải là hạng người có thể đổi lại kế hoạch của mình dưới áp lực của ai, dù người đó là Tổng thống.

– Frank, kế hoạch không thay đổi.

– Đã thay đổi! Hatter đã nghĩ ra trò gì đó. Tôi cảm thấy nguy hiểm, nhưng còn chưa biết tính cách của lão, chưa biết lão sẽ thình lình hiện ra từ đâu, khi nào và làm ra sao. Này, thế thời gian gần đây lão cao bồi không ló mặt ở Nhà Trắng chứ?

– Không.

– Không trao đổi thư từ bí mật?

– Không.

– Không thương lượng gì cả với JFK qua những kẻ thứ ba?

– Cũng không có.

– Kỳ thật! Qua là kì lạ!

– Cái gì làm ông ngạc nhiên?

– Mọi cái. Cả những bài báo nhiều giọng, cả lời bác bỏ, và cả sự sẵn sàng nghênh tiếp Tổng thống của Hatter, người mà lão căm ghét.

– Hình như ông nghi Hatter và Tổng thống đã câu kết gì đó với nhau sau lưng các ông?

– Cũng có thể họ đã câu kết với nhau. Tại sao người ta lại cử ông đi công tác ở Nhà Trắng? Ông đã nhận nhiệm vụ gì từ lão cao bồi?

– Cả nhìn, cả nghe cho tinh và viết rặt sự thật về chuyến đi Texas của JFK.

– Chỉ thế thôi à?

– Thế còn ít ư? Hatter tin rằng Texas sẽ chứng tỏ nó sẽ đánh giá thấp Tổng thống đến thế nào.

– Texas thì trước tiên là Hatter. Lão muốn sao thì được vậy. Ông có

biết những biện pháp nào khác thường, ngoài kinh doanh ra, của

Hatter ở Houston, San Antonio, Dallas, Austin không?

– Không!

– Không có cuộc họp nào ở chỗ Hatter nhân chuyến đi của Tổng thống à?

– Có thể có, nhưng tôi không biết gì cả.

Bill không đáng để tôi nói chuyện thành thực. Nhưng lẫn này tôi đã nói sự thật với gã.

Trạng sư Chicago ủ rũ và đồng thời thán phục lắc đầu:

– Chà, láu cá thật, lão cao bồi ạ, cẩn thận thật! Đến viên sử gia riêng của mình, lão cũng không hé bí mật chiến dịch ra!

– Chiến dịch nào, Frank?

– Chính tôi cũng cần biết chiến dịch nào đấy?! Tôi sẽ trả hậu cho ai mở cho tôi bí mật của chuyến đi Texas! Có nghe thấy không, Serge?

– Ông bạn ơi, tôi đâu chống việc kiếm nhiều tiền. Nhưng làm thế nào đây?

Gã nghĩ ngợi, tay xoa mạnh cái cằm cạo chưa kĩ.

Tôi hết sức cố gắng sao cho Bill thổ lộ càng nhiều càng tốt.

– Tôi khuyên ông nên theo dõi kĩ lưỡng hết sức cái trụ sở tham mưu của Hatter, – tôi nói.

– Chúng tôi đã làm. Người của chúng tôi làm việc ngay cả trong bộ tham mưu. Chúng tôi đã nhận được nhiều tin tức quý giá, nhưng chưa có tin nào giật gân.

– Thế ông đợi cái gì nữa? Tin giật gân nào? Bill giang tay ra:

– Chẳng có gì cụ thể ra hình ra thù, có cái thứ quái quỷ gì đó mà dù

sao vẫn…

– Thế ông có thường dựa vào cái thứ quái quỷ ấy không khi làm việc?

– Hầu như mọi lúc. Tài của nhà kinh doanh, trước tiên là giác quan thứ sáu. Tôi nghe ngóng nó luôn luôn. Thôi được, Serge ạ, ta sẽ xem

các sự kiện sẽ diễn biến ra sao.

Chúng tôi chia tay nhau ở đây. Cái trò chơi ba mặt của tôi lại hóa

ra như vậy. Tôi chống Bill, chống Hatter, vì mình, còn giờ đây… Hóa

ra là tạm thời bây giờ tôi cùng đường với Bill. Một linh cảm nào đó cũng đang dằn vặt tôi, tôi chắc rằng ông Bạc tỉ đã nghĩ ra một hành động bẩn thỉu, đê tiện nào đấy chống JFK. Những chứng cớ trực tiếp vạch tội Hatter, hiện tôi không có. Nhưng tôi phải tìm cho ra. Liệu có thành công không?

Ngày hôm sau, từ sáng sớm, cuộc đời mới của tôi ở Nhà Trắng đã bắt đầu.

Hẳn một nửa thời gian làm việc, tất cả các phóng viên thường trú ở Nhà Trắng không ngồi ở phòng báo chí, mà ở “Nhà thịt bò Blacky”. Trong thế giới của các nhà báo Washington phục vụ chính phủ, và trong giới ngoại giao nước ngoài, tiệm ăn có tiếng là có món bít tết tuyệt trần và món bánh pho mát tươi – “Cheese- cake” ngon nhất thủ

đô. Cái tiệm lừng danh này thường được gọi là “Blacky”. ở đó có thể ăn ngon, uống đã, nói chuyện bên bàn thanh tịnh, bàn với đồng nghiệp những tin tức quan trọng nhất của Nhà Trắng, tán chuyện trên trời dưới biển với các nhà ngoại giao, nghe một câu chuyện tiếu lâm mới, biết thêm những chi tiết lí thú về đệ nhất phu nhân nước Mỹ, v.v…

ở “Blacky”, không cần ra khỏi phòng chính, cũng có thể biết những

sự kiện quan trọng nhất trong ngày trên thế giới. Muốn thế, chỉ cần tiến lại cái máy điện báo đánh chữ luôn kêu tì tạch của hãng thông tấn United Press International và nhòm vào dải băng rộng đang chui

từ máy ra. Khi truyền những tin tức đặc biệt quan trọng, máy réo hai-

ba hồi chuông báo cho các kí giả và các nhà ngoại giao đang uống cocktail và nhai bíp tết. Khách của “Blacky” ồn ào chồm dậy khỏi bàn

và xô đến bên máy. Tôi không thể không nhắc đến một đặc điểm nữa

của “Blacky”. Bạn chỉ vừa đặt chân vào phòng chính, thì đập ngay vào mắt bạn là cái lồng có con chim to hay kêu, theo lời Bobby Scott thì nó vốn cư trú ở Nam Mỹ, đâu đó bên bờ sông Amazona. Con chim màu đen, mỏ vàng và cong, còn tiếng kêu thì nghe kinh đến buồn nôn lên được. Tiếng hú của chó sói núi so với tiếng rú của nó còn là bài ca thiên đường.

Bobby Scott lôi tôi vào tiệm “Blacky”. Khi đã nếm món bíp tết ngon lành và bánh pho mát tươi “Cheese- cake” tuyệt trần, đã nghe tiếng tì tạch của máy điện báo ghi chữ, đã ngắm quái vật đen của Amazona,

tôi mỉm cười và nói:

– Phụng sự thánh thần. Cái quán cao cấp này của ai thế? Không phải của Gionvanni Batistini chứ?

Bobby đưa mắt chỉ người chủ cho tôi:

– Cậu có muốn, tới giới thiệu.

– Không, bây giờ thì không. Ông ta sẽ làm phiền câu chuyện của chúng ta.

– Ô hay! Lão ấy là tay cừ lắm và biết mọi việc của chúng ta. Bobby muốn gọi ông chủ lại bàn, nhưng tôi ngăn lại:

– Để cho hắn yên. Ta sẽ nói chuyện với nhau!

– Xin mời. Nói chuyện gì?

– Vẫn chuyện ấy. Chuyện chuyến đi của JFK đến Texas. Người ta khua trống rung chuông nhiều lắm rồi. Nhưng đến giờ tớ vẫn chưa hiểu, Tổng thống cần đi để làm gì.

Bobby nhìn tôi thương hại.

– Nhưng theo như tớ nhớ thì tớ đã kể cho cậu nghe rồi: tại sao JFK

đi Texas và để làm gì?

– Phải, cậu có kể nhưng tớ vẫn chưa rõ đầu đuôi. Cậu kể kĩ kĩ một

tí nhé.

– Được. Cậu quan tâm cái gì? Cụ thể ra.

– Bản thân JFK cần gì ở Texas? Tại sao ông ta lại bỏ Washington trước khi thủ tướng Tây Đức sang và lao đầu vào Texas, nơi mà, nói nhẹ ra, thì người

người ta không yêu ông ta cho lắm? Ông ta hi vọng làm mềm những trái tim đá của người Texas và kiểm phiếu trong cuộc bầu cử sắp tới chăng?

– Chuyến đi này đối với ông ta chẳng được tích sự gì.

Ông ta không cần phiếu của Texas. JFK sẽ được bầu nhiệm kì thứ hai không cần có Texas. Cái phong vũ biểu của viện Gallup đã chỉ ra như vậy.

Cứ hai- ba phút một, tôi và anh bạn đối thoại phải cao giọng lên hoặc im bặt, bởi vì con chim đen từ bờ Amazon kia rền rĩ và cười khanh khách làm vang cả phòng.

Một con vật ngoại lai kì dị. Làm sao khách vãng lai chịu được nó? Tôi thề trong bụng rằng mình sẽ chỉ đến đây trong những trường hợp hãn hữu.

Đợi tiếng ồn qua đi, tôi lại tiếp tục tra tấn Bobby:

– Thế tại sao ông ta lại không khước từ chuyến đi?

– Người ta bó buộc ông ta.

– Ai?

– Những người mà đất Texas dưới chân họ đang cháy. Uống đi, Serge!

– Những người này là ai, hở Bobby?

Con sói lão luyện trong làng báo kiêu ngạo nhìn tôi từ đầu đến chân, rồi cười thân thiện, vui vẻ.

– Làm sao cậu có thể thông tin cho tờ báo của mình về các hoạt

động của Tổng thống, nếu không biết người ta xào nấu gì trong bếp

Nhà Trắng? Tớ cũng chịu tờ báo của cậu.

– Cậu nói đúng, Robert ạ. Tớ là một thông tín viên tồi. Tạm thời như thế! Nhưng hi vọng là với sự giúp đỡ của cậu, tớ sẽ trở nên chẳng kém ai. Xin cám ơn ông bạn. Tớ cũng không biết làm gì nếu thiếu cậu.

Tôi nói thế để lấy lòng Bobby và khuyến khích anh ta nói khoẻ. Của đáng tội, tôi không cần lắm ở sự bộc bạch của anh ta. Tôi biết rõ

kẻ nào đã buộc Tổng thống đi Texas, buộc thế nào và để làm gì.

Nhưng tôi muốn chính xác hóa đôi điều. Vì thế, tôi mới để cho anh bạn thạo tin và hiếu thắng của mình chòi lên trên đầu tôi. Cứ để cho anh ta tưởng là sự thật đúng như vậy. Tôi nhắc lại câu hỏi:

– Bobby này, những người bắt Tổng thống phải đi Texas là ai thế? Người đối thoại của tôi hạ giọng và cong người qua cái bàn vươn về

phía tôi:

– Thống đốc bang và Phó Tổng thống.

– Theo tôi được biết, Tổng thống cũng không vị nể họ cho lắm. Sao ông ta lại nhượng bộ? Họ làm thế nào mà bắt Tổng thống làm

cái mà ông ta không muốn cho được?

– Phải, không ít cái lạ lùng trong lập trường của Tổng thống nếu mới thoạt nhìn. Nhưng bản thân tớ không ngạc nhiên. Tổng thống luôn thích trò chơi hai mặt. Lần này ông ta cũng trung thành với chính mình.

– Tớ không hiểu, trò chơi quái gì thế?

– Một trò chơi rất khôn khéo, rất ranh ma, rất thông minh, rất nhìn xa. Ngang tầm tập đoàn ông ta.

Tôi tỏ cử chỉ sốt ruột. Bobby nhăn mặt.

– Đừng có ngắt lời tớ, nếu cậu muốn biết tường tận chuyến đi này. – Tớ sẽ không ngắt lời đâu. Nói đi!

– Số là sau cái thất bại ê chề của Baker, cổ phần của Phó Tổng

thống tụt xuống và mất giá nghiêm trọng. Ngày hôm nay Johnson hầu như không còn đáng giá gì nữa. Ông ta không còn cơ hội ứng cử cùng liên danh với Tổng thống nữa. Có những tin đồn xác thực là trong cuộc bầu cử sắp tới, cặp đôi với JFK sẽ không phải là người Texas. Tớ cũng được biết điều bí mật này qua một cô thư kí của Tổng thống. Mới hôm qua, cô ta hỏi JFK: “Ông định ai sẽ cùng liên danh với mình trong cuộc bầu cử?”. Ông ta đáp: “Giờ tôi đang nghĩ đến thống đốc bang Bắc Caroline Terry Sandford. Dù sao thì cũng không phải là Lindon”.

– Tin khá thật! Tôi quá tự phụ khi cho rằng mình biết nhiều.

– Ra thế đấy! – tôi nó với sự ngạc nhiên. – Vậy mà theo tin của tớ, xuất phát từ người em của Tổng thống thì Johnson vẫn được dự kiến cùng liên danh.

– Tin giả đấy, Serge ạ. Cậu đã trở thành nạn nhân của chính trò chơi hai mặt mà tớ đã nói. Cả Tổng thống, cả em ông ta còn chưa thể, chưa

có quyền nói sự thật vào lúc này, còn lâu mới đến bầu cử, lại thêm trước

chuyến đi Texas nữa. Họ làm ra vẻ Lindon Johnson không bị đe dọa gì

cả, rằng ông ta vẫn chắc chắn ngồi trên yên ngựa của mình. Trên thực

tế họ sẽ hất phăng ông ta đi.

– Thôi được, ta sẽ xem. Quay trở lại chuyện lúc mở đầu. Làm thế nào và tại sao thống đốc và Phó Tổng thống lại bắt JFK đi Texas?

– Những người Texas cần chuyến đi này như cần bánh mì. Họ hiểu rằng họ có thể bị gạt ra khỏi bên lề đời sống chính trị. Chả là đối thủ chính của họ ở Texas, thượng nghị sĩ đảng dân chủ Ralph Yarborough sau vụ bê bối của Baker, gieo ngờ vực đối với Johnson, đã chiếm được

vị trí vững chắc trong tổ chức đảng của bang và chắc chắn sẽ giành

thắng lợi trong cuộc bầu cử sang năm. Ông ta hầu như đã nắm được bộ máy đảng mà trước kia ở trong tay các kẻ thù của ông. Chỉ cần một nỗ

lực nữa là ông ta sẽ trở thành thủ lĩnh Texas. Mới đây, một trong những tờ báo vẫn ủng hộ Yarborough đã tiến hành thăm dò cử tri có

lựa chọn và đã xác lập rằng đa số sẵn sàng bỏ phiếu phế Connelly khỏi chức thống đốc và đặt Yarborough lên đó. Có tưởng tượng được

không?… Connelly hốt hoảng vù lên Washington và đòi Tổng thống đi

Texas để mà, theo lời ông ta, “hòa giải trước cuộc bầu cử đang xích lại

gần những phe phái kình địch nhau trong tổ chức đảng dân chủ ở địa phương”. Tổng thống từ chối sứ mạng ấy với cái cớ xuôi tai: ông ta cực

kì bận rộn. Lúc đó, Connelly cầu cứu đến người bạn của mình là

Johnson. Lindon đến Phòng bầu dục và đòi JFK đi về Texas, quê

hương của ông ta. Họ chuyện trò tay đôi, vậy mà ở Nhà Trắng, người ta cũng biết là JFK không đứng vững trước áp lực và đã nhượng bộ.

– Sao vậy? Ngay Tổng thống cũng thừa hiểu là chuyến đi Texas của ông ta trước hết chỉ có lợi cho các vị Texas đang phá sản và trong chừng mực nào đó, làm hại đến uy tín của thượng nghị sĩ Yarborough, người ủng hộ trung thành từ lâu của ông ta.

– Phải, ông ta hiểu mà vẫn cứ đồng ý.

– Sao lại thế?

– Thế đấy, ông bạn thân mến ạ. Trò chơi hai mặt! Tổng thống hiện

giờ không muốn ngửa những con bài mạnh trước người đồng liêu sóng

đôi với mình. Tớ cho là ông ta chỉ chơi con chủ bài trước khi bầu cử.

Bobby cười to:

– Trò chơi chính trị là trò chơi đen tối. Đen tối hơn cả trò poker.

Tôi không ra thêm câu hỏi cho người đối thoại am hiểu của mình nữa. Tôi lặng im uống nốt cốc vại. Vậy là, Tổng thống đi Texas dưới

áp lực kép của những người Texas có thế lực nhất. Nhưng có phải chỉ

có áp lực kép thôi không? Còn Hatter? Lão cũng có thể thò tay vào chuyến đi này. Có phải qua những người Texas của mình mà lão đã buộc Tổng thống làm cái mà ông ta không muốn làm không? Tôi được biết là Kennedy hôm qua với vẻ buồn bã trong giọng nói đã bảo viên

trợ lí về báo chí của mình thế này: “Giá mà tôi không phải đi Texas”. Còn với viên Bộ trưởng Tài chính thì khi phái ông này đi Nhật Bản, Kennedy đã tuyên bố còn rõ hơn: “Tôi ước được đổi chỗ cho ông”.

Như vậy nghĩa là làm sao? Nếu đó quả thật là “trò chơi hai mặt”, như Robert khẳng định, thì nghĩa là Tổng thống không tán thành tin tưởng ở những con bài của mình.

Không, Robert ạ, lịch sử không đơn giản như cậu tưởng. Cậu

không biết những động cơ thật sự của những kẻ ngoan cố của Texas.

Cả tôi cũng không biết. Toàn bộ sự giải đáp đều ẩn trong chúng. Bọn

người Texas hi vọng thu thập được vốn liếng gì khi đẩy Tổng thống đến Texas? Họ sửa soạn cái gì ở đó cho ông ta? Những bãi nước bọt?

Sự ê chề trước công chúng? Và cũng có thể còn tồi tệ hơn nữa. Những

kẻ trục lợi bị dồn đến bờ vực chính trị có gan làm điều mà một lần

trong cơn bộc bạch giữa những bạn bè, Hatter đã múa mép: “Những người Mỹ như ông Tổng thống phản lại nước Mỹ bây giờ thì phải dồn vào tường mà xả đạn”.

Cốc vại của tôi đã cạn, lại có cocktail mới. Robert còn nói điều gì đó mà tôi chẳng nghe thấy gì cả. Tôi nghĩ và nghĩ.

Chúng tôi rời “Nhà thịt bò Blacky” trong tiếng gào rú của con chim

Amazona đen, mỏ vàng hôi hám.

*

Thời khắc của những cuộc đọ sức bí mật đã qua. Hôm nay, tôi mua

tờ Đồi núi Washington và đọc thấy những dòng thế này:

“Khi chuyện trò với một trong những bạn bè của mình, mới đây Tổng thống đã nói về hai người mà ông đã nhiều lần gọi mỗi người trong số họ là “người giàu nhất thê giới”. Một người là Paul Getti hiện sống ở nước ngoài. Người thứ hai là trùm dầu lửa Dallas H. Hatter.

Cả hai đều là tỉ phú. Cả hai, như Tổng thống nói, năm qua đã trả số

thuế liên bang không lớn. Những nhà công nghiệp này, Tổng thống nhấn mạnh, đã dùng tới nhiều thủ đoạn trốn thuế khác nhau, trong khi không hà tiện tiền cung cấp tài chính cho bọn cực hữu”.

Không còn nghi ngờ gì nữa, sự dò bí mật của Nhà Trắng đã xảy ra không phải là không có sự biết trước của chính quyền Nhà Trắng.

Ngay từ đầu tháng, Hatter và một vài nhà kinh doanh Texas khác

đã đến thăm Kennedy tại dinh ông ta. Cuộc mạn đàm chỉ kéo dài cả thảy

thảy có hai mươi lăm phút. Các tỉ phú xô ra khỏi Nhà Trắng với thái

độ hầm hầm. Họ không nói gì với các phóng viên. Họ im tịt. Cơ quan ngôn luận của họ “Oil and gaz” “Dầu lửa và hơi đốt” đã làm mềm dịu

hết sức cái mà các chủ tiền kếch xù, bị quyết định của Tổng thống làm

xúc phạm và choáng váng đã nghĩ, đã cảm: “Đại diện các giới dầu lửa thăm Nhà Trắng đã rời đó với vẻ chán ngán”.

Lịch sử quan hệ tương hỗ của “Hatter Industries” với Nhà Trắng,

với Tổng thống Kennedy dưới dạng cô đặc nhất cho đến ngày hôm nay

là như vậy đó.

Thợ giầy đã và đang dọn đường cho “Tiên tri” tới các nhà máy của Hatter. Kẻ bắt chước Clark Gable nổi tiếng, mưu toan chặn lối vào thượng viện cái dự án bãi bỏ việc giảm thuế vì sự ha o cạn của lòng đất.

Tổng thống Mỹ đã bước lên diễn đàn Liên hợp quốc và trong những tràng vỗ tay vang dội của các đại biểu, ông ta tuyên bố rằng giữa nước

ta và Liên Xô đã đạt được sự thỏa thuận về việc không đưa lên quỹ

đạo các vật thể vũ trụ có mang vũ khí hạt nhân…

Với những lời này, ông ta đã để cho Texas và tất cả các kẻ thù của mình có cái cớ để gào lên rằng Kennedy đang bắc cầu cho sự thâm nhập của dầu lửa Xô Viết và của chủ nghĩa cộng sản qua lại đại dương sang đại lục châu Mỹ.

Thực ra ông ta hành động để cho nước Mỹ sống sót. “Chiến lược sống sót”, như ông ta đã nêu. Đó là sự thừa nhận cay đắng, bắt buộc.

Trong Phòng bầu dục của Nhà Trắng, trên bàn Kennedy có giữ tờ báo đóng bìa bằng da mềm với bài báo của Walter Lippman sáng suốt,

già cả đã trải qua chín đời Tổng thống Mỹ. Đôi khi, John lôi từ dưới

đáy hòm bài báo có ghi chú của chính mình và cho những người không muốn hiểu “Chiến lược sống sót” của ông ta xem, coi như một bảo vật quý báu. Cạnh một đoạn giữa hai lần xuống dòng những lời này đã được chính tay Kennedy thảo ra: “Cừ lắm, cụ Lippman! Thông minh thật”. Cái đoạn nói về Kennedy và các vấn đề ông ta vấp phải khi trở thành chủ Nhà Trắng ấy đây:

“Ông buộc phải giao tiếp với một đối phương ngang về sức mạnh quân sự, và với những bạn hàng ngang về sức mạnh kinh tế. Đó là một cái gì hoàn toàn mới đối với nước Mỹ. Trong vòng một trăm năm,

chúng tôi đã cách li với các cuộc chiến tranh diễn ra ở phần còn lại của

thế giới. Rồi trong vòng khoảng bốn mươi năm, chúng ta chuyên chú việc tạo nên một sức mạnh khả dĩ cho phép chúng ta giành những thắng lợi hoàn toàn và đòi hỏi ở các đối thủ của chúng ta sự đầu hàng không điều kiện. Cả trước kia, trong những điều kiện cách li lân sau này, trong những điều kiện thắng lợi, chúng ta ch ưa phải va chạm với những vấn đề lâu đời của con người là phải học sống trong một thế giới, trong đó ý chí chúng ta không phải là đạo luật duy nhất”.

Chính ở đó, xét cho hết mọi lẽ, là cốt lõi những mâu thuẫn giữa nhà

tư bản Kennedy và nhà tư bản Hatter. Là một người có đầu óc thực tế tỉnh táo, không khờ dại, Kennedy muốn học sống trong hòa bình với các Xô Viết, muốn cùng tồn tại, còn Hatter thì muốn làm chúa tể như dưới thời Wilson(1) muốn đem ý mình ra bức chế phần còn lại của thế giới. Tổng thống Kennedy muốn tất cả các nhà kinh doanh đều sống sót, ông ta bảo vệ chủ nghĩa tư bản về tổng thể, còn Hatter thì chỉ muốn cho lão và Texas phất lên. Kennedy dùng mánh khoé, dưỡng sức,

đợi những điều kiện thuận lợi hơn để phá tan các Xô Viết và phe xã hội

chủ nghĩa, còn Hatter thì hùng hổ muốn xung trận ngay lập tức, không chậm trễ. Hai chiến lược. “Chiến lược sống sót” và “Chiến lược tự sát”.

*

Những công việc khẩn cấp và quan trọng đã dẫn tôi với Hatter đến Chicago. ở đây đang diễn ra đại hội bất thường của các nhà công nghiệp dầu lửa. Đem ra tranh luận vẫn là cái dự luật dầu lửa đáng nguyền rủa của Kennedy. Những điều chất chứa được dịp xổ tung ra. Tất cả các diễn giả dùng những lời lẽ gay gắt nhất để lên án Tổng thống về chuyện, sau khi chễm chệ trong Phòng bầu dục rồi, ông ta đã phá cái trật tự hàng thế kỉ, tước của bộ nội vụ quyền chuyên trách các công việc về dầu lửa và lập ra một ủy ban liên bộ đặc biệt do người của Nhà Trắng, một trong những phụ tá của Tổng thống đứng đầu. Người

ta công kích Kennedy vì ông ta đã toan thông qua luật pháp điều chỉnh

thu nhập của các nhà công nghiệp dầu lửa, một điều khác với tất cả những người tiền bối của ông ta. Và Tổng thống đã công bố vào tháng Bảy năm 1963 cái dự luật khủng khiếp bãi bỏ việc giảm thuế cho lòng đất hao cạn. Vì rằng dự luật này, nếu được thượng nghị viện thông qua, sẽ giảm lợi nhuận của các nhà công nghiệp dầu lửa đi 3 tỉ bạc.

Một trong những kẻ điều khiển hiệp hội các vua dầu lửa Leonard

Ph. Mccollum, từ trên diễn đàn, mặt đỏ húp híp, tóc cứng dựng lởm chởm, với nắm tay giơ cao trước đầu, với cái giọng sấm sét, trong tràng vỗ tay nhiệt liệt của những kẻ cùng hội cùng thuyền đã trút xuống đầu ông chủ Nhà Trắng lời đe dọa công khai. Ông ta nói là chính sách của Kennedy gây cho giới công nghiệp dầu lửa sự hoang mang và lo ngại.

Sự hoang mang! Sự lo ngại! Những lời lẽ được lựa chọn kĩ lưỡng mới có sức chứa làm sao! Coi chừng đấy, ngài Tổng thống! Những kẻ

bị sự hoang mang và lo ngại bao trùm rất nguy hiểm với ngài đấy. Hãy nghĩ lại đi, khi còn chưa muộn. Hãy hủy bỏ cái dự luật khủng

khiếp kia đi. Hãy trả lại cho Bộ Nội vụ cái quyền hàng thế kỉ nay vẫn điều hành các công việc dầu lửa phục vụ cho lợi ích các tư bản độc

quyền dầu lửa. Hãy phục hồi lại cái trật tự cũ tốt đẹp kia. Nếu không…

JFK đã không nghe thấy, không muốn nghe thấy tiếng nói của Hatter, Mccollum và đồng đảng của chúng. Chính Mccollum kia mới ba năm trước, khi Kennedy còn chưa vào Nhà Trắng, đã là kẻ cạnh tranh

và là kẻ thù một sống một chết của Hatter. Bây giờ chúng là bạn. Bạn

bất đắc dĩ. Sự căm thù Kennedy đã xích chúng lại gần nhau. Với thời gian, khi Kennedy biến khỏi vũ đài chính trị, chúng sẽ lại bóp cổ và cắn xé nhau.

Đại hội các nhà công nghiệp dầu lửa ở Chicago là một cố gắng cuối cùng dàn xếp hòa bình với Tổng thống.

JFK đã không nhượng bộ.

*

Cái mà lâu nay chính quyền Nhà Trắng đã che giấu kĩ lưỡng, bỗng được cả phòng báo chí biết. Có kẻ đã sốt sắng phổ biến trong các phóng viên cái tin chính trị quan trọng dưới dạng tin mật.

Hôm nay, 12 tháng Mười một năm 1963, Tổng thống lần đầu tiên thảo luận với các phụ tá thân cận nhất của mình vấn đề chiến dịch vận động bầu cử Tổng thống năm 1964. Texas được lưu ý đặc biệt.

Lần này, sự việc Texas được thảo luận mà thiếu con người Texas chủ

yếu là Johnson. Ông ta không đi vắng, không ốm, về hình thức thì thuộc giới tâm phúc của Tổng thống, vậy mà vẫn không được cái vinh

dự mời đến cuộc họp quan trọng nhất.

Trước kia, đa số các phóng viên không tôn kính ông ta lắm, giờ lại còn tệ hơn thế! Họ kể cho nhau nghe các câu chuyện tiếu lâm về thất bại ê chề của ông ta trong cuộc tranh giành Nhà Trắng.

Cuộc họp bí mật ngày 12 tháng Mười một, dĩ nhiên là Johnson cũng biết. Theo tôi, ông ta biết từ lâu là người ta đã gạch ông ta khỏi

ra êkíp của Tổng thống. Điều đó đã để lại dấu ấn trên trán ông ta. Dấu ấn của một kẻ tuyệt mệnh. Là người có lòng tự ái quái đản, rất

dễ bực bội, ông ta không đu khả năng chịu đựng thất bại của mình một cách lặng lẽ hoặc ít nhiều xứng đáng. Thời gian gần đây, ông ta ít

khi xuất hiện ở Nhà Trắng. Nói ít. Không can thiệp vào chuyện gì và hình như không làm gì, tuyệt nhiên không làm gì với cương vị Phó

tổng thổng. Thậm chí ông ta không tham gia các phiên họp của Hội đồng an ninh quốc gia dù trên hình thức là nhân vật trung tâm của

Hội đồng.

Johnson đang hồi vận đen. Nghĩa là Hatter cũng đang vận đen. Ông Bạc tỉ đã đặt cọc rất lớn ở người bạn cũ Texas. Và ông ta đã thua.

Từ Nhà Trắng, tôi phóng ra sân bay và bay ngay về Dallas.

Hatter lập tức tiếp tôi. Tôi kể cho lão những gì xảy ra sáng nay ở

Nhà Trắng. Lão giận dữ cắt ngang:

– Biết rồi!

– Do đâu ông biết được? JFK họp ngày hôm nay.

– Thế thì sao?

– Theo tôi nghĩ, tôi là người đầu tiên, trước tiên có thể báo cho ông biết về cuộc họp này.

– Tôi biết trước anh kia.

– Do đâu? Làm sao ông biết?

– Tôi ở Phòng bầu dục và nghe thấy hết. Thế thôi.

Bộ mặt ngựa của ông chủ nở ra nụ cười, Hatter vừa nói đùa. Và tôi cũng đánh bạo đùa:

– Tất nhiên rồi, ông đội cái mũ tàng hình.

– Anh khéo đoán lắm. Vâng, tôi đã tàng hình vào Nhà Trắng. Tôi chỉ còn cách im lặng và đợi những lời giải thích.

– Tôi không rời mắt khỏi Tổng thống, tôi nghe được từng lời của

ông ta, tôi đọc tất cả những gì ông ta viết, tôi sao lại tất cả số tài liệu được nhào nặn ra trong văn phòng ông ta. Tôi đã trả cho các bác học của mình nhiều như điên, và họ đã l

làm cho tôi cái mũ tàng hình.

– Trong trường hợp ấy thì, thưa ông Harold, việc tôi ở Nhà Trắng không có ý nghĩa gì cả. Tôi sẽ làm lợi cho ông ở nơi khác mà ông bất

lực không lọt vào được.

– Nhờ trời, tôi không biết thế nào là bất lực. Tôi luôn luôn, ở mọi nơi đều đã đang và sẽ vẫn dồi dào sức lực. Ngay cả khi ở trong mồ. Tôi chết đi thì tiền của tôi vẫn sẽ hành động. Theo kế hoạch của tôi. Trên tinh thần của tôi.

Lão âu yếm vuốt vai tôi như vuốt con chó Bax của lão, rồi đẩy nhẹ

ra và cười.

– Hãy nhớ lấy, Serge ạ, cái câu chuyện vui đùa này. Rồi sẽ đến lúc anh thấy ra là tôi đã đùa rất nghiêm túc.

Lão đi lại vài lần trên tấm thảm dày, từ góc này đến góc kia theo đường chéo, mắt nhìn xuống chân. Lão dừng lại trước tôi và lại đặt bàn tay sắt lên vai tôi.

– Aby(1) vĩ đại đã từng nói: thời thế, sự kiện làm nên Tổng thống.

Cụ đã nhầm. Tiền làm nên tất cả, trong đó có Tổng thống. Đôla, chỉ có

đôla đã làm cho chính Aby thành Tổng thống. Về sau, cụ đã công khai thừa nhận. Đôla của bố già Kennedy, lão kẻ cướp Joseph ấy, và đôla của đồng bọn ở miền Đông Bắc đã đưa John Kennedy vào Nhà Trắng.

Tiền của tôi, nếu tôi muốn, có thể làm tôi thành chủ Nhà Trắng.

Nhưng tôi thích điều khiển như một người vô hình hơn. Các Tổng thống có hình hài đến rồi lại đi, còn tôi vẫn ở Phòng bầu dục và không cho phép thay đổi đường lối của tôi… Này, sao lại im như thóc thế?

Không, lão không khoác lác. Chẳng qua lão nói thành lời cái mà lão tin tưởng sâu sắc. Những lời lão nói không xa sự thật là mấy.

– Nào, nói cái gì đi chứ, nhà biên sử thân mến của tôi. Anh bây giờ nhất quyết phải bày tỏ. Tôi muốn biết anh đánh giá ra sao lời xưng thú của tôi. Nói đi! Không thì tôi có thể coi sự im lặng của anh như dấu hiệu không đồng ý với tôi.

– Tôi đang nghĩ, ông Harold ạ.

– Nghĩ gì?

– Nghĩ về lời nói của ông, về chuyện tại sao chính lúc này ông lại đặt lòng tin cao nhất vào tôi kể từ khi chúng ta cùng làm việc với nhau.

– Rồi sao nữa?

– Tôi phải đáp lại lòng tin của ông.

– Đúng. Tiếp đi!

– Tôi phải làm cái gì đó hết sức trọng đại cho ông.

– Cũng đúng nốt.

– Nhưng tôi không biết là phải làm gì.

– Bây giờ thế là OK cả rồi. Anh đã làm được một nửa công việc của mình. ở Texas, anh phải phấn đấu nốt nửa kia.

Tôi chưa xem lão nói gì. Lão có định thắng tôi vào cùng cỗ xe ngựa của Batistini, vào đội tàng hình của lão không? Tôi sẵn sàng nghe mọi

cái khủng khiếp nhất, nhưng tay chơi poker lão luyện nhất thế giới đã không lật con bài của mình lên, ma vẫn huyên thuyên tiếp. Lão nói:

– Những ngày tháng Mười một ở Texas phải là đỉnh cao cuộc đời

của anh. Số phận vĩ đại của anh, Serge ạ, ở trong chính tay anh. Khi công du với Tổng thống, anh hãy nhìn ông ta bằng con mắt của tôi, hãy viết quyển sách hệt như chính tôi viết nó, – thì anh sẽ hoàn toàn đáp lại được lòng tin của tôi, với lại, sẽ bảo đảm cho anh và cho con cháu anh suốt đời.

Bằng tất cả sự chân thành có được, tôi nói một cách cương nghị:

– Tôi hiểu nhiệm vụ của mình, ông Harold ạ, và hiểu cái dịp may hiếm có kia đã rơi vào tôi. Tôi không cần liều thuốc kích thích đâu.

– Cần đấy, anh bạn thân mến ạ. Còn cần ra trò ấy chứ. Đã lâu ta không gặp nhau, anh cứ tưởng rằng lão cao bồi bị bật khỏi yên. Anh nhầm to rồi. Chính lão cao bồi đang dẫn đầu cuộc nhảy. Quả thật, không phải ai cũng nhìn thấy và hiểu điều đó. Ngay cả lão cao bồi cũng không ngờ là ngựa của mình lại đi đầu.

Sự ngạc nhiên lúng túng của tôi đem lại sự khoan khoái chân thực cho Hatter. Lão cười vang.

– Phải, cũng không ngờ. Sự thú vị là ở đấy. Cho đến giây phút cuối cùng, khi đã ở đích, lão mới khám phá ra mình là kẻ thắng, còn những kẻ cưỡi ngựa khác đều trượt khỏi vòng.

Và, tiếp tục cười, Hatter đập cả hai tay lên vai tôi theo thói quen, kéo vào rồi lại đẩy ra:

– Đấy, cái liều thuốc kích thích cho anh đấy.

“Khi đã ở đích, lão mới khám phá ra mình là kẻ thắng”. Cái đích quái quỷ gì thế? Và có đúng là lão cao bồi cũng không biết mình làm

trò gì không? Có vẻ không đúng. Vị tất kẻ bậc thầy vĩ đại của những

mánh lới sao phỏng lại hài lòng với cái vai trò ấy.

*

Ngày hôm sau tôi quay về Washington. Tôi kiếm taxi ở sân bay, đi vào thành phố. Đến một phố đông người, tôi xuống xe, đi bộ qua hai

khu phố nữa, và chọn một trạm điện thoại tự động, tôi quay số thường

trực của FBI và nói nhanh, sau khi đã đổi giọng:

– Hãy chú ý nghe đây! Hãy ghi đi!… Tôi vô tình được biết là một cuộc mưu sát Tổng thống trong chuyến đi Texas đang được chuẩn bị. Hãy áp dụng các biện pháp. Ai nói à?… Cái đó không quan trọng. Không, không, tôi không thể đích thân đến gặp ông được. Và tôi cũng không thể viết gì được. Xin lỗi, thời gian của tôi hết rồi đây. Tạm biệt.

Đấy là tất cả những gì tôi có thể cho phép mình làm. Tôi biết rằng

ở FBI có người của Hatter, của Batistini và của Mark Trán to. Chưa

biết chừng, bọn chúng đã đổ ra phố, nơi tôi gọi điện. Xin cứ việc. Chúng không thể lần ra dấu của tôi.

Tôi treo ống nói lên, rời khỏi cabin điện thoại, vớ chiếc taxi đầu tiên ló ra và đi ra ga. Tôi lượn năm phút trong phòng đợi chính rồi bước ra quảng trường. Tôi đi bộ đến Nhà Trắng.

Tôi bước trên đại lộ Pennsylvania mà lòng suy nghĩ. Tôi tin chắc là những gì Hatter trù liệu có liên quan đến cả những ông to nào đó ở CIA và FBI, mà trách nhiệm trực tiếp là giữ gìn hiến pháp và tính mạng của người đứng đầu chính phủ Mỹ. Mark Trán to, tôi biết, bây

giờ cũng vẫn cố vấn cho những chiến dịch bẩn thỉu của CIA.

Dẫu sao tôi vẫn hi vọng rằng tín hiệu của tôi không vô ích. Ngay như nếu những lo lắng của tôi không có căn cứ, thì tôi cũng vẫn không hối hận với hồi chuông điện thoại của mình. Tôi phải làm việc

đó. Tôi không nuô i những tình cảm trìu mến đối với Tổng thống hiện

nay. Nhưng nếu có chuyện gì xảy ra với ông ta, thì đó sẽ là điều bất hạnh to lớn cho cả nước Mỹ, và cho tôi. Hòn đá lăn từ đỉnh núi, thường kéo theo cả dòng thác đá.

*

John Kennedy không phải là Tổng thống đầu tiên không hay biết hay không muốn góp tay cho Harold Hatter làm ăn phát đạt như lão muốn. Mọi sự, tuy có vẻ hết sức lạ lùng, bắt đầu từ Truman.

Chuyện lục đục bắt nguồn từ những vùng mo mới phát hiện sau

chiến tranh, vào cuối những năm bốn mươi, trên những bãi cát vàng của vịnh Mexico. Hatter tính toán cặn kẽ số lời lãi mà những vỉa đất kia cho lão nếu chúng trở thành sở hữu của lão, và đã cho vận hành mọi đòn bẩy để chiếm đoạt cái món béo bở kia. Nhưng lão không được

sự thông cảm của chủ Nhà Trắng thời bấy giờ là Truman, người mà toàn bộ vấn đề Hatter có là hay không là chủ kho vàng tùy thuộc vào. Tổng thống đã cho lão hiểu rằng, không thể bước qua luật pháp mà chiếu theo đó thì đường bờ biển được coi là sở hữu Nhà nước và không được trao cho các nhà kinh doanh tư nhân.

Hatter làm ra vẻ phục tùng pháp luật. Biết là không tấn công trực diện được, lão quyết định dùng sự xảo quyệt để chiếm đoạt. Lão nghĩ cách đặt vào Nhà Trắng tay chân của mình, một kẻ biết đền ơn và có thể bước qua cái đạo luật ngu ngốc và trao lại với giá phải chăng những

bãi cát vịnh Mexico về tay Hatter. Lão đã tìm ra một kẻ như vậy trong

đám bạn bè tri kỉ. Đó là tướng Duglas McArthur, “anh hùng của cuộc chiến tranh Thái Bình Dương”. Chiến dịch tế nhị và phức tạp, Hatter định tiến hành với sự giúp đỡ của cựu tướng Eisenhower. Lão tìm đến Eike đầy thân thiện, kính trọng và đề nghị Eike ủng hộ việc đề cử Duglas McArthur. Tôi không biết Hatter trông đợi vào cái gì: phải chăng vào những dữ kiện đáng nghi ngờ của bộ tham mưu của lão, hay

là vào tính đồng đội của cánh tướng lĩnh, hoặc giả lão tin rằng Eike không dám khước từ. Dù thế này hay thế khác, thì lão cũng đã tính nhầm.

Chỉ mới vài năm trước, Eike đã đổi bộ tướng phục lấy chiếc áo giảng viên đại học để có quyền ứng cử Tổng thống. Chính ông ta đã

mơ trở thành ông chủ Nhà Trắng, vậy mà lại có kẻ đề nghị ông ta kéo

Duglas McArthur vào chỗ đó.

Eisenhower đã khước từ việc ủng hộ kẻ tay chân của Hatter.

Lúc đó Hatter đã thâu góp bạc tỉ của mình cùng với những bạc tỉ khác, dựng nên một bộ tham mưu vận động bầu cử, cung cấp cho nó hàng trăm nghìn đôla và vật lộn cho người của lão – Duglas McArthur. Cuộc giao tranh kéo dài bốn tháng. Một cựu tướng chống

lại một cựu tướng. Tiền chống lại tiền. Tư bản độc quyền. Con voi lại

húc phá và giày xéo con voi(1). Chiến trận kết thúc bằng cuộc đấu ở

Woldorf – Astoria, tại kì họp của ủy ban toàn quốc. Hatter đòi các thủ lĩnh đưa tướng McArthur ra ứng cử Tổng thống. Mọi việc đã đi đến chỗ người ta nhượng bộ lão già Texas. Nhưng vào khoảnh khắc cuối cùng, lượn

lượng vàng nặng hơn của đối phương đã được ném lên cân và thế là McArthur không trót lọt. Eisenhower được tuyên bố là ứng cử

viên.

Hatter giải thích thất bại của mình như sau: “Tôi chỉ thiếu có hai tiếng đồng hồ nữa để đạt được việc đề cử McArthur tại đại hội”.

Lão tuyên bố điều này không phải với các bạn bè của lão, không phải tại một buổi dạ hội trang trọng ở một trong các vi la của mình, mà là công khai, tại một cuộc họp báo. Lời lão được nhiều tờ báo đăng. Thái độ lạ lùng của một tay chơi poker sừng sỏ nhất thế giới? Chẳng

có gì lạ lùng cả. Chẳng qua lão giải thích rằng lão thua không phải vì chơi tồi, mà bởi vì đã không gói gọn được vào thời gian đã cho, vì vô tình bị bí thì giờ.

Ông Bạc tỉ tin chắc rằng ông ta có thể nói và hành động theo cái cách ông ta cho là cần thiết. Và chắc mẩm rằng trong lần chơi sau mình nhất định sẽ thắng.

Suốt tám năm, hai kì, Eike ở trong Nhà Trắng và trả thù lao hậu

hĩ cho những kẻ đã dọn đường cho ông ta lên đỉnh cao quyền lực. Kẻ

tiền bối của ông ta đã không dám bước qua pháp luật và trao những bãi cát vịnh Mexico cho các nhà tư doanh, vậy mà ông ta đã tìm được

kẽ hở của luật pháp và chuyển sở hữu nhà nước cho các công ty dầu lửa tư nhân. Miếng mồi được chia giữa những kẻ may mắn. Hatter

không được gì cả. Vào năm 1960, thời hạn thứ hai của Eike ở Phòng bầu dục đã hết. Theo cái lệ đã quen không thành văn bản thì ông ta

không có quyền vào Nhà Trắng kì thứ ba. Tuy nhiên, cái lệ này thường bị chà phá khi mà Tổng thống có đủ sự ủng hộ của giới quyền

thế trên trần gian này. Một điều khoản pháp luật tương ứng có thể ngăn không cho Eike tiếp tục ở trên cương vị này, nhưng điều khoản

ấy còn chưa có. Hiến pháp nước Mỹ cho phép Rosevelt được bầu bốn lần. Eike trông đợi lặp lại thành tích đó. Nhưng Hatter, liên kết với

các tỉ phú thua thiệt khác đã cản đường ông ta lại.

Kẻ thù của Eike đã tiêu không ít tiền bạc, thời giờ và sức lực để lôi

qua thượng viện điều khoản 22 sửa đổi hiến pháp nổi tiếng, cấm Tổng thống ở trên cương vị này quá hai nhiệm kì.

Khi điều sửa đổi đã được thông qua, Hatter nói:

“Tôi đã đạt được điều này chỉ trong vòng có bảy tuần lễ. Tôi coi đó

là thắng lợi quan trọng nhất của tôi trong chính sách đối nội. Đó là một thắng lợi lớn. Nếu như không có nó thì Eike còn ngồi đó đến tận bây giờ”.

Năm 1961, bất chấp mong muốn cho Đảng Cộng hòa của Hatter, John Kennedy đã trở thành Tổng thống.

– John Kennedy được đưa vào cả ở hạ viện, cả ở thượng viện và rồi vào Nhà Trắng không phải do cử tri, mà do kẻ có tài sản trị giá 400 triệu, môt nhà tài chính khôn khéo, một kẻ doanh lợi chính trị già đời, cựu đại sứ ở Anh – Joseph Patrick Kennedy, cha của John Kennedy. Chính lão đã thừa nhận điều đó trên một trang báo có thế lực: “Tôi đã đưa John vào chính trị. Chỉ một mình tôi”.

ứng cử viên Tổng thống, theo lệ thường, là do đại hội toàn quốc của Đảng Dân chủ hay Cộng hòa đưa ra trước cử tri, Joseph Kennedy suốt một thời gian dài đã tác động vào các ông chủ của Đảng Dân chủ và các đại biểu Đảng của New York, Chicago, New Jersey đã đưa người con trai qua được Barrière đầu tiên và khó nhất một cách bình yên.

Hai “tờ- rớt trí tuệ” : tờ- rớt chính trị, gồm có giáo sư đại học Harvard Salinger, Galbraith, Cocer, Bandy, Rostow, và tờ- rớt chung, quy tụ từ các trí thức trẻ, bạn bè thân cận của John Kennedy chẳng hạn như Sorensen, Good Wear, Freeman, đã cung cấp những ý tưởng

và bằng những lời khuyên tốt gây phấn chấn cho người của Kennedy ở các địa phương.

Đối thủ của Kennedy có bốn người: Johnson, Humphrey, Symington, Stivenson. Kẻ nào cũng đã chiễm chệ ở hạ viện và thượng viện không chỉ một thập kỉ. Kẻ nào cũng muốn thọc dao vào kẻ khác. Nhưng để chống lại ứng cử viên trẻ Kennedy, bọn họ đã tranh đấu dưới khẩu hiệu chung: “Chặn Kennedy lại”.

Humphrey, khi giao tranh với Kennedy ở Tây Viếc- Ginea, đã nói:

“Tôi không có một ông bố trả tiền cho chi tiêu của tôi. Tôi không thể cho phép mình bay khắp các bang với cái túi du lịch con màu đen và quyển sổ ngân phiếu”.

Cảm thấy ở miền Nam, nhiều triệu người đoàn kết và các ông chủ công nghiệp Texas đứng đằng sau, Johnson gọi đối thủ của mình lên tỉ

thí trên vô tuyến. Hai kẻ tranh giành chức Tổng thống kịch chiến trước

con mắt của toàn thể nước Mỹ. Lindon Johnson nói rằng vào những giây phút quyết định nhằm đấu tranh cho dự luật tiến bộ về quyền công dân, có một số thượng nghị sĩ không chịu yên chỗ đã vắng mặt tại phòng họp, bọn họ dạo mát, hứng gió cho những cái đầu thông thái của mình ở đâu đó. “Tôi tự hào thông báo với các bạn, – Lindon Johnson hướng tới hàng triệu khán giả vô tuyến truyền hình, – rằng trong suốt thời gian ấy đã tiến hành 50 lần điểm danh và lần nào cũng có giọng nói. Lindon Johnson ở đây! Cũng trong lúc ấy, có một số người muốn ngoi lên làm Tổng thống với cương lĩnh về quyền công dân lại chưa lần nào đáp trong các cuộc điểm danh”.

John Kennedy chăm chú lắng nghe đối thủ và cho hắn ta một cái tát lịch lãm:

“Ông ấy nói đến những khuyết điểm của các ứng cử viên Tổng thống khác nhưng không gọi tên ai cả, nên tôi cho rằng, điều ấy không nhằm vào tôi. Vị thượng nghị sĩ quả thực đã có một thái độ tuyệt vời khi đáp các cuộc điểm danh, và tôi khen ngợi ông về điều ấy. Thực tình tôi đã không có mặt những lúc ấy, bởi tôi đâu phải là thủ lĩnh phe đa số… Cho nên hôm nay, tôi đầy lòng khâm phục thượng nghị sĩ Johnson chứa chan tình cảm đối với ông, hoàn toàn ủng hộ ông trên cương vị thủ lĩnh phe đa số và tin tưởng rằng sẽ làm việc ăn ý với ông, một thủ lĩnh phe đa số”.

Cả nước Mỹ ngồi bên vô tuyến truyền hình được một mẻ cười.

Đại hội Đảng Dân chủ diễn ra ngày 11 tháng Bảy năm 1960 ở Los Angeles. 4.509 đại biểu và 4.750 phóng viên đặc phái đã tham dự. Trong số đó có cả tôi. Thành phố chật ních khách khứa. 45.000 người

đã đến đó. Một số ủng hộ Kennedy, số khác ủng hộ Johnson, số thứ ba

thì ủng hộ Stivenson. Tất cả đều hùng dũng tuần hành gào thét, gõ

trống, thổi kèn, tổ chức những cuộc diễu hành hóa trang đốt đuốc

phun khói rầm rộ.

Không một nhà quan sát chính trị nào dám cả gan đoán trước thắng lợi của Johnson và thất bại của Kennedy. Có một dạo tưởng như là Etlai Stivenson sẽ thắng. Bốn nghìn người ủng hộ ông ta đã tràn ngập đại hội, ngồi trên khắp tầng trên cùng và hô: “Chúng tôi muốn Etlai! Chúng tôi muốn Etlai! Chúng tôi muốn Etlai!”. Một vài phóng viên giật mình, tin vào ngôi sao chiếu mệnh của Etlai.

Quả bong bóng xà phòng đã vỡ sau khi kiểm phiếu. John Fitzgerald Kennedy được 806 phiếu thay vì 763 phiếu cần thiết. Johnson được hai lần ít hơn và Stivenson – mười lần ít hơn. Symington và Humphrey đã đầu hàng trước khi đại hội.

Việc đề cử ứng cử viên Phó Tổng thống thường được tiến hành cùng với ứng cử viên Tổng thống tại đại hội. Phe cánh của John Kennedy đề xuất cho ông ta người phó trong số những người cùng cánh, nhưng Kennedy, theo lời khuyên của bố, đã lấy Lindon Johnson người Texas. Lão già biết việc lão làm. Lão hi vọng kéo về phía con trai tất cả những người miền Nam, tất cả những ông trùm Texas đang ủng hộ Johnson.

Harold Hatter cũng biết việc mình làm. Theo sự thừa nhận của chính lão, đăng trong tạp chí “Nation” (Dân tộc), trong những ngày diễn ra đại hội Đảng Dân chủ, lão là kẻ phù trợ cho Johnson. Lão bỏ Dallas quen thân và đến Los Angeles. Lão sống ở khách sạn gần nơi các đại biểu họp để nghe và nhìn mọi cái. Hằng ngày lão soạn cho Johnson đủ thư giác thư và những lời chỉ dẫn. Hatter bình luận thắng

lợi của Kennedy như thế này: “Giá như Lindon nhất nhất tuân theo

lời khuyên của tôi thì Kennedy đã không thể thắng được. Với lại,

chính tôi đã khuyên Johnson đồng ý với vị trí thứ hai trong liên danh, nhận đề nghị tranh chức Phó Tổng thống sau khi việc đề cử Kennedy

đã được thông qua”.

Sau thắng lợi tại Đại hội Đảng, Kennedy và đạo quân các phụ tá trong và ngoài biên chế dồn sức lực và phương tiện sang cuộc ganh đua với ứng cử viên Tổng thống của Đảng Cộng hoà, và là cánh tay phải của Eisenhower – Richard Nixon.

Cánh Cộng hòa cũng giương giáo xông vào ông đảng viên Dân chủ.

Họ dọa cử tri bằng bốn trăm triệu đôla của dòng họ Kennedy. Họ tung

ra những chuyện tức cười về đối phương của mình, đại loại như:

Joseph Kennedy, khi sắp sửa cho người con trai bước vào cuộc chiến chinh, đã vỗ về con: “Con đừng lo lắng, có thua bầu cử, thì bố sẽ mua cho con một nước khác”.

Đến lượt mình, Kennedy cũng công kích kẻ từng trải là Nixon. Sau khi kể ra mọi tai ương giáng xuống

xuống đất nước trong suốt thời gian cầm quyền của Eisenhower – Nixon, ông ta đặt câu hỏi, làm sao bọn họ lại

để cho một chư hầu cộng sản xuất hiện cách bờ biển nước ta chín mươi dặm được?

Ngày 8 tháng Mười một; Kennedy giành thắng lợi. Không phẩy một phần trăm số phiếu của cử tri đã định đoạt cái số phận Tổng thống của ông ta. Sự tán đồng của toàn dân đã không diễn ra. Bỏ phiếu chống lại nhà trí thức tỉ phú có 34.108.582 người Mỹ. Gần một nửa số người tham gia bỏ phiếu.

John Kennedy, thực tế đã là Tổng thống được “nghỉ” cho đến 20 tháng Giêng. Êkíp Eisenhower và êkíp Kennedy chuẩn bị việc giao và nhận việc. Hàng nghìn quan chức cao cấp của chính phủ sửa soạn rời

cái chỗ đã mài đũng quần họ tám năm nay. Hàng nghìn tay trẻ trung,

trí thức của cái lò Harvard, chuẩn bị cùng với ông chủ trẻ của họ bước

lên bục nhà nước. Vào thời ấy, mĩ từ “trẻ” còn rất mốt. Các từ ấy được thông dụng là do ở Eisenhower, bực tức vì Nixon bị trượt và vì ông ta, một cựu tướng, cựu tổng tư lệnh, cựu hiệu trưởng Đại học Tổng hợp, phải nhường Nhà Trắng cho một viên cựu trung uý, chỉ huy một tàu ngư lôi nhỏ. Để trả thù điều đó, ông ta đã công khai dán cho John Kennedy cái nhãn hiệu “đồ tiểu ti trẻ và ngạo mạn”.

Vị Tổng thống “trẻ” cũng trả thù lão Tổng thống già theo cách của mình. Ông ta tránh gặp Eishenhower trong suốt tháng Mười một, viện cớ bận lựa chọn các cán bộ cầm quyền đến tận cổ. Thực tế quả có như vậy. Các nhà viết tiểu sử của Kennedy đã ghi lời than vãn kinh hoàng của ông ta: “Người, người, người! Tôi không biết ai cả. Tôi chỉ biết có cử tri. Tôi lấy đâu ra 1.200 người để lấp những cương vị trống bây giờ?”.

Kennedy chỉ đích thân bổ nhiệm người cho những cương vị chính

yếu. Các cương vị hạng hai do vụ trưởng của các vụ cán bộ lâm thời, được dựng lên vội vã là Sargent Shriver, con rể gia đình Kennedy phân phát cho người bọn họ. Em trai Tổng thống là Robert Kennedy được đặt vào cái ghế Bộ trưởng Tư pháp. Tay chân riêng của Joseph Kennedy chiếm những vị trí chủ chốt trong chính phủ. Lão già khuyên cho Robert McNamara, một nhà kinh doanh từng trải, triệu phú, chủ tịch hãng “Ford Motor Company” vào Lầu Năm góc làm Bộ trưởng Quốc phòng. Một nhà kinh doanh khác, Dean Rusk, chủ tịch “Quỹ Rokefeller” thì lão già Joseph muốn thấy được đứng đầu Bộ Ngoại giao.

John Kennedy không quên lãng các quân nhân mặt trận, chủ yếu

là các trung úy đồng niên của mình và các bạn bè văn nghiệp, các kí

giả và các nhà văn. Điều đó tạo cớ cho những kẻ ác ý với ông ta sau này khẳng định là Nhà Trắng bị bọn trung úy và bọn cạo giấy chiếm đóng. Trung úy Freeman thành Bộ trưởng Nông nghiê p. Ông ta đã chiến đấu với người Nhật trong rừng rậm nhiệt đới. Trợ lí đặc biệt của Tổng thống người gốc Ireland Ken O’Donnell, trung úy phi công, đã từng hạ máy bay địch và bản thân đã hai lần rơi xuống đất. Một trợ lí đặc biệt khác của Tổng thống về các vấn đề an ninh quốc tế, cựu trung úy Mark George Bandy, đã từng cầm đầu một đơn vị đổ bộ đầu tiên bước lên bờ Normandy do bọn Đức chiếm đóng. Trung úy Nicolas Katzenbach, phi công, bị những con át nước Đức bắn hạ, đã ở trại tập trung của Hít- le hai năm. Bây giờ ông ta giúp Robert Kennedy với tư cách là Thứ trưởng Tư pháp. Trung úy Duglas Dillon, lính không quân của hải quân, nắm chìa khóa của tất cả các kho tàng tiền của của đất nước. Anh chàng lính thuỷ quả cảm Pie Salinger, anh hùng Okinawa, trở thành sếp chính của Nhà Trắng về báo chí. Chỉ có một mình Arthur Goldberg, bộ trưởng lao động mới, là người khi chiến tranh kết thúc thì đóng hàm thiếu tá.

Tổng thống nhậm chức vào tháng Giêng và ở Phòng bầu dục xuất hiện chiếc ghế bành đung đưa. Những kẻ ác khẩu của phe thù địch, không bỏ dịp cười nhạo một vị Tổng thống buộc phải gìn giữ cái xương sống bị tổn hại của mình. Họ gọi cái ghế bành đung đưa tượng trưng cho “những ranh giới mới”.

Một tháng chưa qua hết mà những đường viền nhiều hứa hẹn của

“những ranh giới mới” đã thành hình. Trong thông điệp đầu tiên gửi Quốc hội, Tổng thống tự hào báo cáo rằng, thứ nhất, ông ta đã thúc đẩy, triển khai chương trình tốn kém chế tạo tàu ngầm, được trang bị tên lửa “Polaris” đáng sợ: thứ hai, đã triển khai việc chế tạo tên lửa hạng nặng và hạng trung; thứ ba, cung cấp chắc chắn cho các lực lượng vũ trang trên bộ và trên biển những máy bay có trọng tải lớn và tầm hoạt động xa.

Cuối mùa xuân và vào lúc hè đang rộ, John Kennedy hai lần nhồi vào đầu chúng ta như thế này:

– Nên vạch ra và chọn lựa những vị trí trong các tòa nhà tương ứng, công và tư, để tạo nên những hầm trú ẩn phòng trường hợp bị tấn công; trữ lương thực, nước, thuốc men và các vật dụng cần thiết khác để sống sót…

Có lẽ nào kẻ muốn sống sót lại tiếc tiền chi cho chiến tranh, cho vũ trang?

Người ta đã chi và đã đào sâu dưới đất. Những kẻ giàu, dĩ nhiên, làm trước tiên. Các hãng xây dựng nên những hầm trú ẩn bằng thép

và bê tông cốt sắt. Hầm chính và hầm lưu động. Cơn kinh hoàng nổ

ra. Những kẻ đã kịp có được hầm trú ẩn, sửa soạn chống trả sự tấn công của bọn khố rách áo ôm không có giáp che bê tông – chì. Các ataman phòng thủ quân của bang California kêu gọi những người anh

em của mình vũ trang đến tận răng và đánh trả không thương tiếc

làn sóng những kẻ ngoại bang từ Nevada, Utah và các bang khác tới. Las Vegas chuẩn bị cho cuộc chiến đấu với bọn người California càn

rỡ, tưởng như đa xâm phạm đến những hầm trú dưới đất đàng hoàng của họ.

Trong cảnh om sòm và huyên náo, trong sự bùng nổ về xây dựng, trong sự vung tiền điên rồ vào cái lò Lầu Năm góc, không ai nghe thấy tiếng cười cay đắng và lành mạnh của một nhà hài hước trên báo: “Trong quốc phòng toàn dân, Tổng thống của chúng ta tỏ ra cứng rắn – nếu anh không vươn tới được người Nga, thì hãy tạm vừa lòng

với người Mỹ vậy”.

Những lời nói trước lúc mất của nhà xã hội học nổi tiếng Wright

Mills: “Tôi xấu hổ vì tôi là người Mỹ, tôi xấu hổ vì Kennedy là Tổng thống của chúng ta” đã không tới tai ông ta.

Ba ngàn ngày làm Tổng thống của Eisenhower làm nước Mỹ tốn

315 tỉ đôla. Nghìn ngày đầu tiên của Kennedy có cái giá 169 tỉ.

McNamara đã làm người Mỹ “vui sướng” vì rằng ở Mỹ, số đầu đạn hạt nhân đã tăng lên gấp rưỡi. Số quân của các quân chủng và số vũ khí tăng vọt kể từ khi Kennedy bước qua ngưỡng cửa Nhà Trắng.

Chân dung xác định của John Fitzgerald Kennedy là như vậy.

Tuy những công lao của ông ta trước Lầu Năm góc và giới kinh doanh nước Mỹ là hiển nhiên, Kennedy đã kêu gọi đồng bào của mình dũng cảm “nhìn thẳng vào thực tế”. “Nước Mỹ không phải mạnh vô biên, không phải am tường mọi thứ, – ông ta nói với các sinh viên trường tổng hợp Washington. – Nước ta chỉ chiếm cả thảy sáu phần trăm dân số thế giới, và chúng ta không thể áp đặt ý chí của mình cho chín mươi tư phần trăm còn lại của nhân loại, chúng ta không thể… đánh tan mọi kẻ thù, cho nên không thể có cách giải quyết kiểu Mỹ cho mọi vấn đề”.

Thật chưa có những người cầm quyền nào ở Nhà Trắng trước kia nói với nhân dân Mỹ một cách chân thành như thế, thực tế như thế.

Phát biểu ở trường đại học, ông ta nói:

Có quá nhiều người trong số chúng ta cho rằng hòa bình là không

thể có được. Rất nhiều người nghĩ rằng nó không thể đạt tới được. Đó

là một thành kiến nguy hiểm và có tính chất chiến bại… Tôi nói về hòa bình bởi vì chiến tranh đã có bộ mặt mới. Một cuộc chiến tranh tổng

lực là vô nghĩa ở cái thế kỷ khi mà các đại cường quốc có thể nắm giư những lực lượng lớn và khá là chắc chắn và không đời nào chịu đầu

hàng mà chưa sử dụng đến chúng. Nó là vô nghĩa ở cái thế kỉ khi mà một quả bom hạt nhân có một sức nổ bằng gần gấp mười lần toàn bộ

sức nổ đã được tất cả các lực lượng không quân đồng minh đem ra dùng khi áp dụng bom thường trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ

hai. Nó là vô nghĩa ở cái thế kỉ khi mà những độc hại chết người tỏa

ra khi sử dụng vũ khí hạt nhân, qua gió, đất và hạt có thể lan tới

những ngóc ngách xa xăm nhất của địa cầu và tới những thế hệ còn

chưa sinh ra.

Ta hãy xem xét lập trường của ta đối với Liên Xô… Chúng tôi, những người Mỹ, khá là ác cảm với chủ nghĩa cộng sản. Tuy nhiên, chúng ta vẫn chào mừng nhiều thành tựu của nhân dân Nga trong khoa học và vũ trụ, trong sự phát triển kinh tế và công nghiệp, trong văn hoá và đánh giá xứng đáng lòng dũng cảm của họ. Trong số nhiều nét chung của hai dân tộc chúng ta, cái nổi bật nhất là cùng ghê tởm chiến tranh. Trong số các đại cường quốc, hai nước chúng ta chiếm một vị trí có một không hai: chúng ta chưa từng bao gi

giờ giao chiến với nhau. Và chưa có một quốc gia nào trong lịch sử chiến tranh lại chịu đau khổ nhiều hơn Liên Xô trong chiến tranh thế giới thứ hai. ít nhất

đã có 20 triệu người hi sinh. Của cải của nhiều gia đình bị thiêu trụi

hay bị cướp sạch. Một phần ba lãnh thổ, kể cả hai phần ba số cơ sở công nghiệp của người này đã bị biến thành sa mạc; nếu đem so với nước Mỹ, thì cái đó tương đương với việc phá huỷ toàn bộ phần nước

ta ở về phía đông của Chicago… Quả là sự mỉa mai của số phận,

nhưng hoàn toàn rõ ràng là hai cường quốc mạnh nhất thế giới đang làm vào mối nguy hiểm lớn nhất. Tất cả những gì chúng ta đã xây nên, tất cả những gì chúng ta đã làm ra, sẽ bị phá huỷ trong hai mươi bốn giờ đầu tiên.(1)

Kennedy thành tâm, không tiếc sức phục vụ cho giới kinh doanh, nhưng vẫn không làm vừa lòng bọn cực hữu mà kẻ đứng đầu là Hatter.

ở Texas lan truyền câu chuyện phiếm như sau: Kennedy gọi hồn của Abraham Lincoln đến và hỏi cách giải quyết vấn đề công dân nan giải. Lincoln nhìn Kennedy bằng cặp mắt u sầu của bóng ma và nói: “Tôi chỉ có thể khuyên ông đến rạp Ford”(2).

Còn có thể thêm điều gì nữa về John Gerald Kennedy? Vài nét chấm phá nữa là đủ.

Có người cho sự đãng trí của ông ta là không tự nhiên. Tôi không

rõ có thật thế không. Tôi thích là ông ta thường hay quên, đánh mất

đồ ở đâu đó, nhất là trong khách sạn. Tôi thích đôi khi vào giữa lúc

tranh cãi sôi sục, nẩy lửa nhất, ông ta bỗng im bặt, tự nhiên nhập vào

nội tâm. Sự thờ ơ hoàn toàn của ông ta đối với cái cách ăn mặc hợp với

tính cách của tôi. Một lần tôi đã thấy ông ta xỏ tất khác đôi.

Ông ta thường xuyên thay đổi. Viên chỉ huy tàu ngư lôi không giống với ông chủ Nhà Trắng. Ngay cả thượng nghị sĩ Kennedy và Tổng thống Kennedy cũng đã là những con người khác nhau trong nhiều cái. Trong câu nói của Eisenhower “đồ tiểu ti trẻ và ngạo mạn”

có một phần sự thật. Nhưng còn có nhiều phần sự thật bên trong câu

nói khác của chính Eisenhower nói ra sau này: “Kennedy hiểu biết các sự việc quốc tế, đặt ra những câu hỏi sâu sắc, nắm lấy bản chất

vấn đề và có một trí óc sắc bén”.

Nhà viết sử thường xuyên của Tổng thống Hugh Seedy trên trang báo Time (Thời đại) đã đưa ra một nhận xét ngắn nhưng rất chính xác

về nhân vật của mình. “Bởi vì Kennedy rất giàu, – Xidi viết, – nên mọi

lo toan vật chất thường nuốt đến một nửa hay thậm chí quá nửa thời gian của những công dân kém sung túc hơn, nói chung không làm bận tâm trí của ông. Quần áo, ôtô, máy bay của ông, – tất thảy đều hiện

ra như theo sự chỉ huy của cây gậy thần. Những nhu cầu của vợ con

không làm phiền ông. Ông muốn bơi, đi thuyền, nghỉ ở miền Nam thì điều đó được hiện trong nháy mắt hay chí ít thì cũng sau một chuyến bay ngắn. Các cộng sự của ông, các nhà báo và công chúng kinh ngạc hình dung một cách khó khăn làm sao có thể theo kịp ông. Bị mệt lử,

họ truyền đi câu chuyện thần thoại về Kennedy – siêu nhân. Câu trả

lời nằm ngay trong sự thần bí của đôla. Khi mà đôla thừa thãi, chúng

bao con người bằng sự phục vụ hoàn tất, hoàn toàn gi ải phóng trí óc cho công việc”.

Về phần mình, tôi thêm một vài lời nữa. Số tiền lớn cộng với cương

vị ông chủ Nhà Trắng tạo cho con người ánh huy hoàng thần diệu và

làm tăng sức hấp dẫn tự nhiên ít ỏi của ông ta.