Chương 1

“Ta có thể cho ngươi mọi thứ ngươi muốn”, bà tiên nói. “Của cải, vương miện và quyền trượng, danh tiếng, một cuộc đời hạnh phúc dài lâu. Chọn đi.”

“Tôi không muốn của cải hay danh tiếng, vương miện hay quyền trượng,” nữ witcher trả lời. “Tôi ước một con ngựa đen và nhanh như ngọn gió đêm. Tôi ước một thanh kiếm sắc và sáng như ánh trăng rằm. Tôi muốn bước qua thế giới trên con ngựa đen trong đêm thâu, tôi muốn đánh bại sức mạnh của Cái Ác bằng thanh kiếm sáng. Đó là tất cả những gì tôi khao khát.”

“Ta sẽ cho ngươi một con ngựa đen hơn màn đêm và nhanh hơn ngọn gió,” bà tiên hứa. “Ta sẽ cho ngươi một thanh kiếm, sắc và sáng hơn ánh trăng rằm. Nhưng ngươi đòi hỏi ở ta rất nhiều, nữ witcher, và cái giá phải trả sẽ là rất lớn.”

“Bằng cái gì? Bởi tôi không có gì cả.”

“Bằng máu của ngươi.”

- Flourens Delannoy, Truyện cổ tích và dân gian.

CHƯƠNG I

Có một sự thật phổ cập rằng Vũ Trụ, cũng như cuộc sống, xoay quanh một vòng tròn. Bên rìa vòng tròn này, chia thành từng cặp đối lập với nhau là tám điểm ma thuật, xoay đều thành một chu kỳ tự nhiên. Những điểm đó, nằm đối lập nhau trên rìa vòng tròn, là: Imbaelk – Nảy Mầm, Lammas –Trưởng Thành, Belleteyn – Đâm Hoa, Saovine – Lụi Tàn. Rìa vòng tròn cũng được đánh dấu bởi hai điểm chí – đông hay còn gọi là Midinvaerne và hè hay còn gọi là Midaete. Và tồn tại song song hai điểm phân – xuân hay còn gọi là Birke và thu hay còn gọi là Velen. Những ngày này chia vòng tròn ra làm tám phần – và đó là cách phân chia lịch của người elves.

Khi con người cập bến ở cửa sông Yaruga và đồng bằng thung lũng Pontar, họ đem theo lịch riêng của mình, chia năm ra thành 12 tháng – bao gồm đủ toàn bộ các vụ thu hoạch thường niên – từ tháng Một cho đến kết thúc – là khi mùa đông biến đất đai trở nên khô cứng. Nhưng dù cho con người có chia năm và đếm ngày khác đi, họ vẫn chấp nhận vòng tròn tám điểm của người elves: Imbaelk, Lammas, Belleteyn, Saovine cùng cả hai ngày điểm chí và điểm phân. Đối với con người, chúng trở thành những ngày lễ quan trọng. Tách biệt hẳn so với những ngày còn lại như thân cây đứng giữa cánh đồng trơ trọi.

Những ngày này khác biệt bởi do ma thuật.

Không có gì là bí mật rằng trong tám ngày và đêm đó, hào quang phép thuật được nhân lên cực mạnh. Không ai ngạc nhiên trước những hiện tượng kỳ diệu và bí ẩn xảy ra trong tám ngày này, đặc biệt là vào điểm chí và điểm phân. Mọi người đều đã quen với chúng và hiếm khi xảy ra chuyện gì đáng gây xôn xao.

Nhưng năm nay khác.

Năm nay, khi con người tổ chức ăn mừng lễ thu phân thường niên, với những bàn tiệc chứa số lượng hoa quả lớn nhất thu hoạch được trong năm đó, nhưng mỗi loại không quá nhiều. Phong tục là như vậy. Một khi họ đã dùng xong bữa tối và cảm tạ Nữ thần Melitele vì mùa màng bội thu, con người bắt đầu đi ngủ. Và rồi sự kinh hoàng bắt đầu.

Chỉ ít phút trước nửa đêm, một cơn bão hung tợn nổi dậy, gió quật vần vũ, có thể nghe thấy tiếng cành gãy, mái nhà cọt kẹt và cửa sổ đập liên hồi. Nghe thấy những tiếng tru ma quái, gào thét và rên la. Thậm chí cả những đám mây cũng mang hình thù kỳ dị, mà trong số đó nổi bật và lặp lại nhiều nhất là bóng dáng của vó ngựa và kỳ lân phi nước đại. Cơn gió bất chợt ngừng sau khoảng một giờ đồng hồ. Nhưng sự tĩnh lặng không còn nguyên, bởi vì màn đêm bỗng sống dậy với tiếng kêu và đập cánh của hàng trăm con cú muỗi, giống chim bí hiểm, được người ta tin rằng sẽ đậu trên nhà của người sắp chết và hát khúc ca khải hoàn của chúng. Đêm nay, điệp khúc của những con chim lớn và vang xa đến nỗi có cảm tưởng như cả thế giới đang chết.

Những con cú muỗi hát vang khúc khải hoàn trong khi ở phía đường chân trời mây đã che khuất hoàn toàn chút ánh trăng còn sót lại. Rồi đột nhiên tiếng la kinh hoàng của Banshee cất lên, điềm báo cái chết bất ngờ và bạo lực, và Wild Hunt diễu hành qua bầu trời, một đoàn kỵ sĩ ma với cặp mắt rực lửa cưỡi trên lưng những bộ xương ngựa, vạt áo tả tơi tung bay quanh người như cờ hiệu. Cứ đến mỗi dịp, Wild Hunt sẽ lại đi thu hoạch, nhưng cả thập kỷ rồi chưa có lần nào thảm khốc như bây giờ. Ở Novigrad người ta thống kê có đến hơn 20 người đã biến mất không dấu vết.

Khi Đội Săn và đám mây đã tan biến, đôi mắt của con người lại nhìn thấy được ánh trăng, như mọi khi vào đêm thu phân, nó mang một màu nhạt. Nhưng đêm nay, mặt trăng đỏ như máu.

Người dân thường có nhiều cách lý giải cho hiện tượng kỳ dị này, mỗi cái khác nhau một khoảng khá xa tùy theo tín ngưỡng ma quỷ của vùng miền. Các nhà chiêm tinh, druid và pháp sư cũng có lời giải thích của riêng họ, nhưng đa số không chính xác và bị thổi phồng lên nhiều. Có rất ít, rất ít người có thể liên hệ những hiện tượng này với các sự kiện có thật.

Ví dụ, trên Quần đảo Skellige, một nhóm người mê tín coi đó là dấu hiệu của lời tiên tri về Tedd Deireádh, ngày tận thế, mà sẽ bắt đầu bằng trận đánh Ragh nar Roog, cuộc chiến cuối cùng giữa thế lực của Ánh Sáng và Bóng Tối. Nhóm người mê tín cho rằng cơn bão hung tợn vào đêm thu phân và những cơn sóng làm rung chuyển hòn đảo được sinh ra từ mũi tàu Naglfar đến từ Morhogg, dẫn theo một đội quân quỷ dữ trên một con thuyền làm từ móng tay và móng chân người chết. Tuy nhiên, những kẻ khôn ngoan và hiểu biết hơn thì lại liên hệ cơn thịnh nộ của thiên nhiên với nữ pháp sư lừng danhYennefer và cái chết thảm khốc của cô. Và vẫn còn một số khác – thậm chí còn biết nhiều hơn, đã trông thấy ngoài biển cả bão bùng điềm báo cái chết của một ai đó, một người mang trong mình dòng máu cai trị của cả Skellige và Cintra.

Kể từ khi thế giới bắt đầu, đêm thu phân cũng vẫn luôn là đêm của ma quỷ, ác mộng và điềm gở, những lần thức dậy đột ngột giữa đêm khuya, hơi thở và nhịp tim thắt lại trong nỗi sợ vô hình, giữa đống chăn màn nhăn nhúm và thấm đẫm mồ hôi. Điềm gở và sự thức tỉnh thậm chí còn không tha cho những cái đầu sáng suốt nhất. Ở Nilfgaard, tại Tòa Tháp Vàng, Hoàng đế Emhyr var Emreis choàng dậy la hét. Xa trên phương bắc ở tận Lan Exeter, vua Esterad Thyssen nhảy ra khỏi giường, đánh thức vợ mình, hoàng hậu Zuleyka. Ở Tretogor, Dijkstra giật mình thức giấc và với lấy con dao, đánh thức vợ của Bộ trưởng Tài chính. Ở lâu đài Montecalvo, Philippa Eilhart nhảy khỏi ga giường làm từ tơ tằm, mà không làm đánh thức vợ của bá tước de Noailles. Chúng còn làm phiền cả những cái đầu kém sáng suốt hơn tí. Người lùn Yarpen Zigrin ở Mahakam. Witcher già Vesemir ở pháo đài Kaer Morhen. Cậu thu ngân tập sự Fabio Sachs ở thành phố Gors Velen và Crach an Craite trên con tàu Ringhorn. Chúng đánh thức nữ pháp sư Fringilla Vigo tại cung điện Beauclair, nữ tư tế Sigrdrifa tại đền thờ nữ thần Freya nằm trên đảo Hindarsfjall. Chúng đánh thức Daniel Etchevery, bá tước của Garramone, tại pháo đài bị vây hãm Maribor, binh nhất Zyvik của Lữ đoàn Dun Banner, tại đồn canh Ban Glean. Thương nhân Dominik Bombastus Houvenaghel tại thành phố Claremont, và nhiều người khác nữa.

Có rất ít người có thể liên hệ những hiện tượng này với các sự kiện có thật. Và kèm theo một nhân vật cụ thể. May mắn thay, có ba người như vậy đang qua đêm thu phân dưới cùng một mái nhà. Tại Đền thờ của nữ thần Melitele ở Ellander.

***

“Cú muỗi...” Jarre rên rỉ trong khi quan sát bóng đêm đang nuốt trọn công viên trong thánh đường. “Tôi nghĩ là có cả ngàn con, một bầy...Chúng đang khóc vì cái chết của ai đó...Vì cái chết của cậu ấy...Cậu ấy đang chết...”

“Đừng nói chuyện vớ vẩn,” Triss Merigold quay ngoắt lại, giơ nắm tay lên trong một lúc như thể định đẩy hay đấm vào ngực cậu ta. “Cậu tin vào mấy trò mê tín ngu ngốc đó à? Tháng Chín đã qua rồi, chim chóc đang chuẩn bị di trú. Điều đó hoàn toàn là tự nhiên!”

“Cậu ấy đang chết...”

“Không có ai đang chết cả!” nữ pháp sư hét lên, tái nhợt vì giận. “Không ai cả, cậu hiểu chưa? Thôi lảm nhảm đi!”

Bên ngoài hành lang thư viện, các học viên bị đánh thức bởi âm thanh báo động. Gương mặt họ lo lắng và biến sắc.

“Jarre,” Triss bình tĩnh lại, đặt hai tay lên vai cậu bé và siết. “Cậu là người đàn ông duy nhất trong đền thờ. Tất cả mọi người đều đang trông chờ vào cậu. Cậu không được phép hoảng loạn hay sợ sệt. Kiềm chế bản thân đi. Đừng làm chúng tôi thất vọng.”

Jarre thở dài và với cố gắng rõ rệt, kiềm chế cơn run trên môi và bàn tay.

“Tôi không sợ...” cậu thì thầm, tránh nhìn vào mắt nữ pháp sư. “Đó không phải nỗi sợ, mà là lo lắng. Cho cậu ấy. Tôi đã thấy cậu ấy trong mơ...”

“Tôi cũng đã trông thấy cô bé.” Triss cắn môi. “Chúng ta mơ cùng một giấc mơ, cậu, tôi và Nenneke. Nhưng đừng để lộ ra cái gì.”

“Máu trên mặt cậu ấy...nhiều máu quá...”

“Tôi đã bảo cậu im lặng cơ mà. Nenneke đang tới kìa.”

Nữ tư tế tối cao tiến lại phía họ. Gương mặt bà mệt mỏi. Để trả lời câu hỏi thầm lặng của Triss, bà lắc đầu. Nhận thấy Jarre đang mở mồm ra, bà nhanh chóng tiếp lời.

“Không may là, chẳng có gì cả. Khi Wild Hunt bay qua thánh đường, chúng đánh thức gần hết mọi người, nhưng không ai gặp ảo ảnh. Thậm chí mơ hồ như của chúng ta. Đi ngủ đi nhóc con, ở đây không có gì cho con làm đâu. Mấy đứa này, quay lại ký túc xá ngay!”

Bà xoa mặt bằng cả hai bàn tay.

“Heh...Thu phân! Đêm đáng nguyền rủa...Đi ngủ đi, Triss. Chúng ta chẳng thể làm được gì cả.”

“Sự bất lực này làm tôi muốn điên,” nữ pháp sư nói, tay nắm chặt lại. “Chỉ cần nghĩ tới con bé đang phải khổ sở chịu đựng, chảy máu, tính mạng đang bị đe dọa...Quỷ thần ơi, giá mà tôi biết phải làm gì!”

Nenneke, nữ tư tế tối cao của Đền thờ Melitele, quay lưng đi.

“Và cô đã thử cầu nguyện chưa?”

***

Ở phía nam, xa đằng sau dãy núi Amell, ở Ebbing, tại một ngôi làng tên Pereplut, nằm giữa những đầm lầy trải dài tạo nên bởi khúc giao của sông Velda, Lete và Arete, một nơi cách thành phố Ellander và Đền thờ Melitele khoảng 800 dặm theo đường chim bay, vào lúc bình minh, một cơn ác mộng chợt đánh thức một ẩn sĩ già tên Vysogota. Một khi đã dậy, Vysogota không thể nhớ nổi nội dung giấc mơ, nhưng một cảm giác bất an kỳ lạ ngăn ông ta quay trở lại giấc ngủ.

***

“Lạnh, lạnh, lạnh, brr,” Vysogota tự lẩm nhẩm với chính mình khi đi dọc con đường đâm xuyên qua lùm cây. “Lạnh, lạnh, lạnh, brr.”

Cái bẫy tiếp theo trống không. Chẳng có lấy một con mồi nào cả. Cả một ngày đi săn không được cái gì hết. Vysogota lau đi lớp bùn và rêu phủ lên cái bẫy, vừa lầm bầm nguyền rủa và khịt mũi.

“Huh, đã sang đông rồi,” ông ta nói, hướng về phía đầm lầy. “Trong khi tháng Chín vẫn còn chưa qua. Sau cùng thì, chỉ vừa mới qua thu phân được vẻn vẹn bốn ngày. Cả đời ta không thể nhớ nổi có bao giờ lạnh như thế này. Và ta đã sống cũng lâu rồi đó chứ!”

Cái bẫy tiếp theo, cái bẫy cuối cùng, cũng trống rỗng. Vysogota thậm chí còn chẳng buồn chửi thề.

“Không nghi ngờ gì,” ông già tự lẩm nhẩm, “là khí hậu đang ngày càng lạnh đi qua từng năm. Và giờ thì có vẻ như nhiệt độ tụt nhanh như tuyết lở. Ha, đám elves đã dự đoán được điều này từ hàng thế kỷ trước rồi, nhưng ai mà lại đi tin dự đoán của người elves kia chứ?”

Phía trên đầu ông già, những đôi cánh phấp phới, và những bóng đen nhỏ thó bắt đầu phi qua phi lại. Làn sương phủ lên khu đầm lầy bỗng sống dậy với tiếng la hoang dại của cú muỗi, và âm thanh những đôi cánh đập điên cuồng. Vysogota không quan tâm đến lũ chim. Ông ta không phải một người mê tín và trong đầm lầy luôn có cũ muỗi, đặc biệt là vào lúc bình minh, khi chúng bay gần đến nỗi ông phải thắc mắc sao chúng vẫn chưa đâm vào đầu mình. Chà, có thể là chưa ngày nào chúng tập trung đông như hôm nay và không phải với mấy tiếng hét chói tai đó...Tuy nhiên, dạo gần đây thiên nhiên có vẻ thích bày những trò chơi khăm như vậy, và những sự kiện lạ lùng cứ liên tiếp xảy ra, cái đi sau kỳ dị hơn cái đi trước.

Ông già đang kéo cái lưới cuối cùng lên khỏi mặt nước, cũng trống không, thì nghe thấy một tiếng ngựa hý. Bài ca của đàn cú muỗi bỗng ngưng bặt như thể được ra hiệu.

Ngay cả trong vùng đầm lầy, Pereplut cũng có những bụi cây khô ráo mọc trên những nơi cao, những gò đất phủ đầy phong đen, trăn, dương đào và mận hoang. Đa số chúng đều được bao vây xung quanh bởi những hồ nước kín mít tới nỗi một con ngựa hay một người kỵ sĩ không thể nào nhận ra nổi nếu không biết đường. Thế nhưng tiếng hý – Vysogota lại nghe thấy lần nữa – lại vọng ra từ một trong những gò đất như vậy.

Tính hiếu kỳ đã đánh bại sự cảnh giác.

Vysogota không biết nhiều lắm về ngựa, nhưng ông là một chuyên gia thẩm mỹ và biết cách thưởng thức và trân trọng vẻ đẹp. Và con ngựa đang đứng giữa những thân cây trăn kia, bờm sáng bóng như than, là một tác phẩm nghệ thuật đích thực. Nó đẹp tới nỗi tưởng như là ảo.

Nhưng con ngựa là thật. Và nó thật tới mức bị mắc bẫy, máu đỏ phủ lên một bụi dương đào bên cạnh.

Khi Vysogota lại gần, con ngựa vểnh tai lên, duyên dáng lắc đầu, quay đi và giậm chân cho đến khi mặt đất rung chuyển. Giờ thì ông ta có thể thấy con vật đang bị mắc bẫy là một con ngựa cái. Ông già còn phát hiện ra một chi tiết nữa. Một thứ mà khiến tim ông nhảy ra ngoài và những ngón tay vô hình siết lấy cổ họng.

Đằng sau con ngựa, nằm dưới một cái hố nông, là một cái xác.

Vysogota ném túi đồ xuống đất. Ông ta cảm thấy xấu hổ vì suy nghĩ đầu tiên của mình là quay đầu và bỏ chạy. Ông lại gần một cách cẩn thận, bởi vì con ngựa đen đang giậm chân và lắc đầu có vẻ như chỉ cần một cơ hội để cắn hoặc tặng cho kẻ lạ mặt một cú đá.

Cái xác là một thiếu niên. Cậu ta nằm sấp mặt xuống đất, một tay nép vào người, tay kia vươn sang bên với những ngón tay cắm xuống đất. Cậu ta mặc một chiếc áo da lộn, quần bó và ủng theo kiểu elves có khóa cao đến đầu gối.

Vysogota cúi xuống và ngay khoảnh khắc đó cái xác phát ra một tiếng rên thật lớn. Con ngựa hí lên một tiếng sắc lẹm và giậm chân.

Tay ẩn sĩ quỳ xuống và cẩn thận lật ngửa người thiếu niên. Theo bản năng, ông ta giật đầu ra sau và rít lên khi trông thấy lớp mặt nạ gớm ghiếc tạo nên từ bùn và máu khô trên mặt thằng nhóc. Cẩn thận, ông ta lau đi lớp rêu, lá và cát bám trên môi cùng với nước miếng, gỡ một lọn tóc dính trên má do máu tụ. Người thiếu niên bị thương rên lên, cơ thể căng cứng và bắt đầu run rẩy. Vysogota gạt tóc cậu ta ra khỏi mặt.

“Một đứa con gái,” ông nói lớn, không thể tin nổi thứ đang ở trước mắt mình. “Một đứa con gái.”

***

Nếu vào nửa đêm ngày hôm sau, có người lén lại gần căn chòi nằm ẩn sâu trong đầm lầy và nhìn qua khe nứt trên ô cửa sổ, trong ánh sáng le lói của đèn dầu, họ sẽ thấy một thân hình mảnh mai nằm bất động, đầu băng bó, dở sống dở chết, chăn đắp kín người. Họ cũng sẽ thấy một ông già ngồi đó, với chòm râu bạc dài lòng thòng và những sợi tóc trắng hếu trên cái đầu hói gần hết đổ xuống vai. Họ sẽ thấy cái bóng của ông già hắt lên tường bởi một ngọn nến cháy dở, thấy trên chiếc bàn có đặt một cái đồng hồ cát, thấy ông già mài nhọn ngòi bút trong khi đang cúi xuống một tấm giấy da. Thấy cái cách ông chăm chú theo dõi cô gái bị thương và tự lẩm nhẩm một mình.

Nhưng làm gì có chuyện đó, chẳng ai có thể thấy cả. Căn chòi với mái lợp phủ đầy rêu phong nằm lạc lõng giữa làn sương, bỏ hoang giữa đầm lầy, nơi không ai dám bước chân vào.

***

“Ta ghi chép lại lịch trình như sau,” Vysogota nhúng ngòi bút vào mực. “Đã qua ba tiếng kể từ sau cuộc phẫu thuật. Chẩn đoán – vulnus incisivm, một vết cắt gây ra bởi một lực tương đối mạnh từ một vật thể không xác định, có lẽ là một thanh đao cong. Vết thương bắt đầu ở bên dưới mắt trái và chạy qua vùng thái dương tới mang tai. Phần sâu nhất của vết cắt, mà gần chạm đến xương, nằm bên dưới mắt. Dự đoán thời gian từ khi bị thương cho tới lần chữa trị đầu tiên, mười giờ đồng hồ.”

Ngòi bút sột soạt trên giấy, nhưng tiếng sột soạt không diễn ra được quá vài phút. Bởi vì trên giấy chỉ viết có vài dòng. Vysogota rõ ràng là không coi toàn bộ những gì mình đã nói là xứng đáng để lưu lại.

“Quay trở lại quá trình điều trị vết thương,” ông già tiếp tục dán mắt vào ngọn lửa le lói và tí tách của cây nến mỡ bò. “Ghi chép lại như sau. Ta đã không cắt dọc vết thương, chỉ giới hạn ở mức làm sạch những nơi không chảy máu hay tụ máu, dĩ nhiên rồi. Ta rửa vết thương bằng một dung dịch chiết xuất từ vỏ liễu. Ta lau hết bụi bẩn và vật thể lạ. Rồi khâu miệng vết thương, bằng sợi gai. Ở quanh đây không có loại sợi nào khác. Cuối cùng, ta đắp một chút cúc núi và băng bó vết thương lại.”

Một con chuột chạy qua phòng. Vysogota ném cho nó một mẩu bánh mỳ. Cô gái đang nằm trên chiếu thở từng hơi rời rạc và rên rỉ.

***

“Đã qua tám giờ kể từ sau cuộc phẫu thuật. Tình trạng bệnh nhân – không biến chuyển. Tình trạng bác sĩ...nói cách khác, là ta đây, đã tốt hơn trước, kể từ khi ta chợp mắt được một lúc...Ta lại có thể tiếp tục ghi chép. Bởi vậy cần thêm vào những trang giấy này vài mô tả về bệnh nhân của ta. Dành cho những thế hệ tương lai. Phòng trường hợp những thế hệ tương lai có thể tới được nơi đầm lầy này trước khi nó mục rữa và hóa tro hoàn toàn.”

Vysogota thở dài, nhúng ngòi bút vào mực.

“Với bệnh nhân,” ông lầm bầm, “ghi chép lại như sau. Khoảng 16 tuổi, cao, thân hình hơi gầy, nhưng ít ra cũng không yếu ớt, hay có dấu hiệu suy dinh dưỡng. Cơ bắp và ngoại hình gần tương tự một thiếu niên elf, nhưng ta không quan sát thấy dấu hiệu nào của con lai...hay thậm chí là lai một phần tư. Một lượng nhỏ huyết thống của Giống Loài Cổ Xưa, theo như nghiên cứu, có thể không để lại dấu vết nào cả.”

Chỉ lúc đó Vysogota mới nhận ra rằng mình chưa viết gì lên giấy cả, không một từ. Bàn tay cầm bút để sẵn sàng, nhưng mực đã khô. Ông già có vẻ không chú tâm đến điều đó.

“Hãy cũng ghi lại rằng,” ông tiếp tục, “cô gái chưa từng sinh con bao giờ. Và trên người cũng không có vết sẹo cũ nào còn sót lại sau bất kỳ tai nạn hay chấn thương trước đây, không có dấu hiệu của những người sống một cuộc sống vất vả hay liều lĩnh. Ta nhấn mạnh vào phần vết sẹo cũ. Bởi vì hiện tại trên cơ thể không thiếu sẹo. Cô gái đã bị đánh đập. Đánh đập thật sự chứ không phải bằng bàn tay của cha cô ta. Có lẽ là cũng bị đá nữa.”

“Ta cũng tìm thấy trên người một dấu ấn khá kỳ lạ...Hmm, có lẽ điều này được ghi lại chỉ vì mục đích khoa học...Trên háng, gần gò mu, có săm một hình bông hồng đỏ.”

Vysogota nghiên cứu cái ngòi bút sắc nhọn, mà sau đó ông nhúng vào mực. Tuy nhiên, lần này ông đã không quên mục đích của hành động đó – ông bắt đầu viết cho đến khi mực khô.

“Nửa tỉnh nửa mê,” ông tiếp tục. “cô gái bắt đầu la hét và nói mớ. Chất giọng và ngữ điệu, nếu bỏ qua những ngôn từ tục tĩu và tiếng lóng của tội phạm thường xuyên được chêm vào, gây ra một sự bối rối không hề nhỏ, và cực kỳ khó để xác định, nhưng ta dám nói rằng cô gái tới từ phía bắc chứ không phải phía nam. Có một vài từ...”

Lại lần nữa ngòi bút sột soạt. Rất ngắn, ngắn hơn nhiều so với khoảng thời gian cần thiết để ghi lại mọi thứ ông vừa nói. Ngay sau đó, ông già tiếp tục cuộc độc thoại, ngay tại chỗ vừa mới ngắt.

“Một vài từ, tên và biệt danh mà cô gái nói mớ trong lúc ngủ, có lẽ tốt hơn là không nên ghi lại. Tuy nhiên vẫn đáng để điều tra. Mọi nghi vấn đều ám chỉ rằng một cá nhân rất, rất đặc biệt đã tìm được đường tới căn chòi của Vysogota già nua này...”

Ông già im lặng một hồi, nghe ngóng.

“Ta hy vọng,” ông lầm bầm, “rằng căn chòi của Vysogota già nua này sẽ không là điểm dừng cuối cùng trên con đường của con bé.”

***

Vysogota cúi xuống tấm giấy da và tựa vào cây bút, nhưng không viết gì cả, không một chữ. Ông ném cây bút lên bàn. Ông thở gấp trong một giây, lầm bầm giận dữ và khụt khịt. Ông nhìn chiếc giường và lắng nghe âm thanh đang phát ra từ nó.

“Ta buộc phải thừa nhận,” ông nói bằng giọng mệt mỏi, “rằng nỗi sợ của mình là hoàn toàn có căn cứ. Mọi cố gắng của ta có vẻ như vẫn là chưa đủ và vô tác dụng. Tình trạng bệnh nhân vẫn đang trầm trọng và giờ đang lên cơn sốt. Vết thương đã bị nhiễm trùng. Chúng ta đã chứng kiến ba trong số bốn triệu chứng chủ yếu của viêm cấp tính. Mẩn đỏ, nóng và sưng tấy giờ có thể dễ dàng được phát hiện bằng mắt thường. Một khi chấn động sau phẫu thuật đã qua đi, chắc chắn sẽ xuất hiện triệu chứng thứ tư – đau đớn. Hãy ghi lại rằng đã gần nửa một thế kỷ kể từ lần cuối ta cống hiến bản thân mình cho nghệ thuật chữa bệnh, ta có thể thấy năm tháng đã mài mòn trí nhớ và ảnh hưởng đến độ nhạy của những ngón tay đến mức nào. Ta không thể làm được gì nhiều, thậm chí còn ít hơn là mình tưởng. Ta không có đủ thuốc hay liệu pháp. Tất cả mọi hy vọng của ta giờ phụ thuộc vào khả năng tự vệ của cơ thể đứa trẻ...”

***

“Đã qua 12 giờ kể từ sau cuộc phẫu thuật. Đúng như dự đoán, triệu chứng thứ tư của viêm cấp tính đã xuất hiện – đau đớn. Bệnh nhân gào thét, lên cơn sốt và tần suất co giật tăng lên. Ta không có gì cả, không có phương thuốc nào có thể đưa cho con bé. Ta chỉ có một liều nhỏ chiết xuất cà độc dược, nhưng con bé quá yếu để có thể chống cự được nó. Ta cũng có một ít phụ tử, nhưng nó sẽ giết chết con bé ngay tức thì.”

***

“Đã qua 15 giờ kể từ sau cuộc phẫu thuật. Bình minh đã lên. Bệnh nhân đang bất tỉnh. Cơn sốt vẫn còn tăng và tần suất co giật vẫn không thuyên giảm. Ngoại trừ những điều đó, có vẻ như cơ mặt cũng bị co lại đáng kể. Nếu đó là uốn ván thì con bé không thể cứu được. Nhưng hãy hy vọng đó chỉ là dây thần kinh mặt...hoặc dây thần kinh sinh ba...hoặc là cả hai. Con bé sẽ bị dị dạng...nhưng còn sống...”

Vysogota nhìn xuống tờ giấy, ông đã không viết một từ.

“Đó là nếu,” ông nói nhạt, “con bé sống sót khỏi vết nhiễm trùng.”

***