Chương 1

THẾ TIẾN THOÁI LƯỠNG NAN CỦA TÙ NHÂN

Tại một thành phố có tên Thành phố Đá, trên tầng ba của một ngôi nhà cũ kỹ làm bằng đá xám, một cậu bé tên Reynie Muldoon đang ngồi cân nhắc các lựa chọn của mình. Reynie bị nhốt trong một căn phòng nóng bức đến mức khó chịu, và cách duy nhất để thoát khỏi đây là phải đưa ra một quyết định không mấy hay ho. Tệ hơn là, cậu bị nhốt chung phòng với một cô bé bốn tuổi tính thẳng như ruột ngựa, Constance Contraire. Và hẳn là chẳng ai vui vẻ với điều đó rồi. Ngay khi bị đẩy vào phòng, cô bé liền bộc lộ sự bất mãn của mình bằng cách ngâm nga những bài thơ cáu bẳn. Cho dù Reynie có lớn tuổi hơn Constance gấp ba lần và kiên nhẫn hơn cô bé gấp năm mươi lần đi chăng nữa, bản thân cậu cũng bắt đầu cảm thấy bực bội. Cậu phải chịu đựng cả căn phòng nóng nực lẫn cô bé gàn dở này. Constance cũng muốn thoát ra không kém gì cậu. Vấn đề là ra rồi thì hậu quả sẽ t

“Chúng ta cân nhắc lại các lựa chọn được không?” Reynie cố gắng nhẫn nại nói. “Em biết đấy, càng sớm đưa ra được quyết định, bọn mình sẽ càng được ra nhanh.”

Constance nằm vật ra giường, hai tay giang rộng sang hai bên như kiểu vừa bị ném vào sa mạc. “Em quyết định rồi chứ,” cô bé nói, hướng đôi mắt màu xanh nhạt về phía Reynie. “Chỉ có anh là chưa quyết thôi.” Constance vén một lọn tóc vàng lòa xòa trên vầng trán nhớp mồ hôi của mình rồi lại vung tay ra ngay lập tức - một hành động tỏ rõ sự chán nản và khổ sở của mình. Cô bé thở hổn hển như sắp hết hơi.

“Bọn mình phải thống nhất với nhau chứ,” Reynie nói, sắc mặt tỏ ra bình thản. Bực tức chỉ càng làm cho Constance phấn khích hơn thôi; và cô bé lúc nào cũng chỉ chăm chăm săm soi điều đó. “Em không thể bảo anh phải làm gì rồi cứ thế bắt anh làm theo được.”

“Nhưng đó chính là điều em đã làm đấy,” Constance đáp, “anh còn chịu được chứ em đang chết ngốt rồi đây.”

“Có lẽ em nên cởi cái áo len ra đi,” Reynie nói. Cậu đã kịp cởi áo của mình ngay khi hai đứa bước vào đây. (Hệ thống sưởi trong ngôi nhà này làm việc chẳng ra sao cả; tầng một y chang một hộp băng còn tầng ba chẳng khác nào một lò lửa.) Constance chậm rãi cởi, trong lúc hai tay còn lóng ngóng trên hàng cúc chiếc áo len, cô bé vẫn không ngừng lẩm bẩm “sẽ tốt thôi” và “mướt mồ hôi”. Lại đang sáng tác thơ đấy, Reynie ngán ngẩm nhận ra. Bài thơ gần đây nhất của cô bé kể về một “gã đần độn” có tên “Muldoon”.

Reynie đi đi lại lại trong phòng ngẫm nghĩ. Cậu nên làm gì đây? Cậu biết chính Rhonda Kazembe - người đã bày ra thử thách khó chịu này - sẽ sớm quay trở lại để hỏi xem chúng đã quyết định hay chưa. Rõ ràng là bạn chúng, Sticky và Kate hiện đang bị nhốt trong một căn phòng dưới sảnh, đã quyết định xong rồi và chỉ đang ngồi chờ Reynie và Constance thôi. Ít ra thì đó cũng là những điều Rhonda nói trong lần đến kiểm tra chúng vừa rồi. Theo Reynie, chưa chắc cô ấy đã nói thật và đó có thể chỉ là một phần thử thách.

Đối với chúng, đây không phải là bài họi oăm đầu tiên. Dưới sự chỉ dẫn của Rhonda, lũ trẻ đã tham gia giải quyết rất nhiều phi vụ đòi hỏi sự tập trung và tài năng đặc biệt của chúng. Còn đâu những ngày tháng được đến lớp học cùng các bạn - vì lý do an toàn, chúng không thể đến trường được - nhưng bất cứ khoảng trống nào dư ra trong ngôi nhà cũ rộng thênh thang này cũng có thể trở thành lớp học, và thực tế là có rất nhiều chỗ trống như thế. Nhưng đây là lần đầu tiên chúng bị nhốt vào phòng dự trữ và thử thách đặt ra là những quyết định của chúng có thể dẫn đến những hậu quả khôn lường - những hậu quả chẳng hề dễ chịu chút nào.

Như Rhonda đã nói, tình huống thử thách lũ trẻ dựa trên một trò chơi trí tuệ có tên là “Thế tiến thoái lưỡng nan của tù nhân”. Sticky tất nhiên đã đọc toàn bộ câu chuyện, và với sự gợi ý thêm từ Rhonda, cậu ấy đã giải thích lập luận của mình cho các bạn nghe.

“Có hàng nghìn dị bản khác nhau,” Sticky nói (và chẳng cần hỏi cũng biết cậu ta nắm rõ tất cả những phiên bản đó như thế nào), “những câu chuyện thường diễn ra như sau: Hai tên tội phạm bị bắt, tuy nhiên cảnh sát thiếu chứng cứ buộc tội chúng nên họ nhốt hai tù nhân trong hai căn phòng riêng biệt và cho họ các lựa chọn giống nhau. Nếu một tù nhân phản bội lại đồng bọn và đứng ra làm chứng để buộc tội, trong khi tù nhân còn lại không nói gì thì kẻ phản bội sẽ được thả tự do, còn bạn hắn sẽ nhận án tù mười năm.”

“Thế là hết được dính vào nhau rồi nhé,” Kate nhận xét.

“Ừm, họ vẫn có thể dính vào nhau đấy chứ, đúng không? Cả hai người họ đều có thể im lặng. Nhưng nếu như vậy, bọn họ sẽ bị phạt tù sáu tháng vì tội nhẹ hơn. Vậy là cả hai sẽ bị trừng phạt, mặc dù án phạt không nặng lắm nếu so với các lựa chọn còn lại.”

“Vậy nếu bọn chúng phản bội lẫn nhau thì sao?” Reynie hỏi.

“Lúc ấy, cả hai sẽ bị nhận án phạt năm năm tù. Như vậy rõ là không tốt chút nào nhưng còn đỡ tệ hơn là mười năm. Vậy thế khó xử ở đây là mỗi tù nhân phải quyết định xem nên phản bội người kia hay giữ im lặng - trong khi không biết người kia sẽ làm gì.”

Chính phần cuối của câu chuyện lại làm cho Reynie rối trí nhiều nhất, bởi vì càng suy nghĩ về điều đó, cậu càng rằng mình đã biết phải làm gì. Cậu liếc mắt nhìn Constance, lúc này cô bé đang biểu diễn màn thè lưỡi giống như chó cún mỗi khi bị nóng quá. “Constance, em có nghĩ là cô Rhonda đã nói dối rằng Sticky và Kate đã quyết định rất nhanh không?”

“Không, cô ấy nói đúng đấy,” Constance đáp, cô bé thậm chí còn giỏi hơn cả Reynie trong việc cảm nhận những chuyện như thế.

“Vậy thì điều đó chỉ có một ý nghĩa duy nhất.”

Constance đảo mắt. “Có lẽ chỉ riêng với anh thôi.”

“Phải, với anh thôi,” Reynie thở dài. Mặc dù xét theo một khía cạnh nào đó, trông cậu cũng bình thường như bao cậu con trai khác: tóc và mắt nâu bình thường; da trắng bình thường, sơ vin vụng về bình thường - và cũng chẳng có gì đặc biệt nếu xét về mặt giải quyết mọi chuyện. Điều đó bao gồm cả những người bạn thân như Sticky Washington và Kate Wetherall - hai người bạn cậu hiểu hơn ai hết. Nếu Sticky và Kate đã quyết định chóng vánh như vậy thì Reynie đã biết họ quyết định thế nào. Điều rắc rối là cậu phải làm gì với nó.

Reynie vẫn tiếp tục đi tới đi lui trong phòng. Giá mà không có hậu quả thật thì tốt biết bao! Nhưng chúng có thật, mặc dù không phải là án tù như trong câu chuyện. Rhonda đã tỉ mỉ giải thích tất cả:

Nhóm sẽ được chia làm hai đội “tù nhân”. Nếu cả hai đội chọn đáp án A - giữ im lặng - cả lũ sẽ phải làm thêm việc bếp núc trong ngày hôm nay (Đó hẳn không phải là nhiệm vụ nhẹ nhàng gì vì có đến tổng cộng mười ba con người sinh sống trong ngôi nhà này, và sau mỗi bữa ăn là một núi bát đĩa khổng lồ.) Tuy nhiên, nếu cả hai đội chọn đáp án B - phản bội - thì cả hai đội sẽ phải làm hết việc bếp núc cho đến hết tuần. Và tất nhiên, khả năng cuối cùng, cũng là khả năng tàn nhẫn nhất, là: Nếu một đội chọn phương án im lặng trong khi đội còn lại chọn cách phản bội thì những kẻ phản bội sẽ chẳng phải làm gì trong khi những người còn lại phải tự xử lý đống bát đĩa một mình.

“Thế đấy, vậy là có ba bữa một ngày,” Sticky đã nói, “với mức trung bình là mười ba suất ăn một bữa...

“Còn chưa kể xoong nồi chảo ấm nữa,” Kate nhăn nhó.

“Và còn đồ ăn nhẹ nữa,” Reynie nói.

Mắt Sticky mở to đầy sợ hãi. “Và suốt năm ngày còn lại trong tuần...”

Toàn bộ viễn cảnh u ám ấy đang dần dần hiện ra trước mắt lũ trẻ, và trước khi chúng kịp đưa ra một hiệp ước kín nào - Rhonda đã đưa chúng đến hai phòng riêng biệt để thảo luận các lựa chọn. Nhưng với Constance thì thảo luận chẳng ích gì, vì cô bé cứ khăng khăng ngay từ đầu rằng họ sẽ chọn đáp án B. Phản bội là cách khôn ngoan hơn cả, cô bé nói, bởi vì Sticky và Kate chắc chắn cũng sẽ chọn đáp án B. Tóm lại, cả hai đội sẽ không dám mạo hiểm để làm việc bếp núc một mình đâu.

Nhưng Reynie thì nhận thấy bi kịch này thật khó chịu (cậu có thể hình dung ra hình phạt rửa bát dành cho kẻ thù của mình, nhưng đây là bạn của cậu cơ mà?), cậu cũng biết đội bạn chọn phương án nào - và đó không phải là B. Sticky và Kate đã chưa suy nghĩ thấu đáo. Nếu họ làm thế, họ đã có thể nghĩ rằng tình cảnh giam cầm của Reynie khốn khổ hơn họ rất nhiều, rằng nếu ở địa vị của Reynie, họ cũng sẽ cố gắng hết sức để chấm dứt sự thử thách bằng cách nhân nhượng cô bé thôi.

Nhưng Sticky và Kate đã qua phút bốc đồng ban đầu. Lựa chọn khôn ngoan nhất, theo quan điểm của họ là im lặng. Và họ cũng mong rằng Reynie sẽ chọn phương án khôn ngoan đó. Thậm chí nếu Constance cứ khăng khăng chọn đáp án B - ừm, Reynie sẽ phải tìm cách để thay đổi suy nghĩ đó! Họ tin tưởng mình lắm, Reynie thầm nghĩ; nên cậu không tránh khỏi cảm giác đau lòng khi nghĩ đến tình huống phải phản bội lũ bạn.

Tuy nhiên, cậu không thể không suy nghĩ về điều đó. Rhonda đã nói rằng cả đội phải thống nhất ý kiến, và Constance thì cứ khăng khăng bảo vệ ý kiến của mình. Họ còn bị kẹt ở đây bao lâu nữa? Một tiếng nữa? Hay hai tiếng nữa đây? Reynie nhăn mặt, bước chân bắt đầu gấp gáp hơn. Cậu không thể chịu được khuôn mặt thất vọng của bạn bè, nhưng Constance đã bắt đầu hắng giọng rồi chuẩn bị xướng lên một bài thơ khó chịu nữa, và Reynie không biết liệu mình có chịu nổi điều đó nữa hay không. Nếu cậu dọa sẽ mách Rhonda về nơi cất giấu kẹ Constance thì sao nhỉ? Không, Constance không dễ bị dọa đâu, và cô bé sẽ bắt Reynie phải trả giá đắt cho điều đó. Gần đây nhất, Reynie đã dọa Constance bằng cách rắc ớt vào bàn chải đánh răng của cậu ấy.

Constance hít một hơi thật sâu và xướng lên:

Ngày xưa có một chàng ngốc tên Reynie

Có một lựa chọn mà cứ tính suy

Bởi vì cậu ta thật là nhu nhược

Cậu ta...

“Đủ rồi đấy!” Reynie than vãn, hai tay đưa lên ôm đầu. Có lẽ cậu phải xin lỗi Sticky và Kate thôi, và... phải, cậu sẽ đề nghị giúp đỡ họ rửa bát. Bất cứ chuyện gì cũng được, miễn là không phải chuyện khốn khổ này.

“Vậy chúng ta thống nhất phương án B nhé?” Constance hồ hởi hỏi. Khuôn mặt ánh lên sự hài lòng.

“Thế quái nào mà các cậu lại làm vậy được cơ chứ?” Một giọng bí hiểm không hiểu từ đâu bỗng vang lên.

Reynie và Constance nhảy dựng lên. Nãy giờ họ mới chỉ nghĩ trong đầu thôi - và thực sự là bây giờ vẫn thế. Nếu không tính mấy giá sách chật cứng và vài chồng sách cao ngất ngưởng trên sàn nhà, căn phòng hoàn toàn trống rỗng. Có một khung cửa sổ có mái vòm, nhưng cửa vẫn đóng chặt cơ mà? Và chẳng có gì hiện ra bên trên khung cửa kính ngoại trừ bầu trời tháng Giêng xám xịt.

“Anh có nghe thấy gì không?” Constance hỏi, hai mắt mở to thao láo. “Hay đó là, anh biết đấy...” Cô bé vỗ vỗ vào đầu.

“Không, anh cũng nghe thấy mà,” Reynie trấn an cô bé trong lúc ngó nghiêng tìm xung quanh. “Cậu ở chỗ nào đấy

“Ở ống dẫn nhiệt, đồ ngốc ạ,” giọng Kate vang lên đáp lại. “Đằng sau công tơ đây này. Có một chồng sách ở đằng trước ấy.”

Reynie tìm thấy công tơ ghi nhiệt độ đằng sau một chồng tạp chí khoa học cao ngang thắt lưng. Nhanh chóng chuyển đống tạp chí sang một bên, cậu hé mắt nhìn qua chiếc lưới tản nhiệt và thấy đôi mắt màu xanh nhạt của Kate đang hé nhìn lại cậu. Cô bé luồn lưỡi dao đa dụng Thụy Sĩ qua tấm lưới. “Cho bọn tớ ra đi, được không? Sticky đang bị chứng sợ ngồi trong phòng kín.”

Reynie mừng quýnh khi nhìn thấy đầu tuốc nơ vít gắn trên con dao. Công tơ của lò sưởi đã khá cũ và han gỉ, phải mất một lúc cậu mới tháo nó ra được. So với Kate, thì khả năng sử dụng đồ nghề của cậu kém xa, song chẳng có gì phải xấu hổ về điều đó hết bởi chẳng ai sánh được với Kate về khả năng kỹ thuật cả. Dù vậy, Reynie vẫn thấy rất xấu hổ; vì cậu đã manh nha phản bội Kate trong cuộc chơi và cậu thật biết ơn vì cô bé cứ huýt sáo liên mồm trong lúc cậu đang làm việc.

“Bọn tớ cứ băn khoăn mãi, không biết các cậu quyết định gì mà lâu thế,” Kate nói với tốc độ bắn liên thanh như thường khi, “và cuối cùng, chúng tớ quyết định nên đến kiểm chứng xem sao. Tớ nghĩ có lẽ các cậu bị sốc nhiệt, nhưng Sticky đoán chắc rằng Constance hẳn đã gây cho cậu rất nhiều phiền toái. Và cậu ấy nói đúng, phải không? Xấu hổ quá đấy, Constance ạ! Thật là một bài thơ tệ hại khủng khiếp. Mặc dù, chị phải thừa nhận là chị rất tò mò muốn biết từ nào vần với từ ‘nhu nhược’ đấy.”

“Vậy thì chị sẽ không bao giờ biết đâu,” Constance khoanh hai tay trước ngực, lớn tiếng nói.

Cuối cùng thì Reynie cũng kéo được cái công tơ ra khỏi tường, và Kate thù lù hiện ra qua đường ống dẫn nhiệt với nụ cười toe toét đắc thắng, sẵn sàng giơ tay đập mừng chiến thắng. Nhưng ngay sau đó, Reynie cảm thấy hối hận về chuyện đó vì cú đập làm bàn tay cậu ê ẩm chẳng khác nào vừa bị xe máy cán qua. Ôm chặt tay như một con chim bị thương, cậu nhìn theo bóng Kate quay trở lại ống dẫn nhiệt để tìm Sticky, lúc này cậu chàng đang lầm bầm điều gì đó về việc nóng chảy mỡ. Kate phải thử vài lần - bàn tay Sticky nhớp nháp mồ hôi đến mức cô bé không thể túm lấy - nhưng cuối cùng cô cũng túm được vào vai Sticky và kéo cậu ta qua đường ống dễ như kéo ổ bánh mì ra khỏi lò nướng vậy.

Cả hai đứa cứ như thể vừa bị nướng trong lò vậy. Đường ống dẫn nhiệt chắc phải nóng lắm. Hai má Kate đỏ lựng lên, mái tóc đuôi ngựa vàng hoe của cô bết mồ hôi và rũ rượi chẳng khác nào một cây chổi lau nhà cũ nát. Sticky còn trông thảm hại hơn. Bộ quần áo ướt đẫm mồ hôi y như bộ đồ lặn bám chặt vào thân hình gầy đét; làn da màu nâu sáng chuyển sang tái xám ốm yếu; và đằng sau cặp kính gọng đeo dây đang nằm lệch trên mũi, hai mắt Sticky hiện rõ vẻ đờ đẫn, choáng váng. Những giọt mồ hôi lấp lánh trên cái đầu được cạo nhẵn thín của cậu.

“Nóng quá,” Sticky lờ đờ nói. Cậu chớp mắt, cố gắng tập trung. “Tớ nóng quá.”

“Nói cho tớ nghe xem nào,” Kate vừa nói vừa nâng cửa sổ lên. “Sao hai người không mở cái này ra? À, thấy rồi, nó không đứng được. Chà, chúng ta chỉ cần chèn một quyển sách vào đây là xong.” Cô với tay ra giá sách gần nhất.

“Làm ơn đừng mà,” Reynie nói. Cậu là người rất yêu quý sách. (Hồi còn sống ở Trại trẻ mồ côi Thành phố Đá, sách là những người bạn duy nhất của cậu.) “Nếu nó rơi ra ngoài cửa sổ thì chắc chắn là sẽ hỏng đấy.”

“OK, cậu nói đúng,” Kate đáp và quét mắt một lượt quanh căn phòng, “nhưng ở đây chẳng còn gì khác để dùng cả. Chờ tí, tớ sẽ quay lại ngay.” Rồi cô bé biến mất trong ống dẫn nhiệt thành thạo y như một con hải cẩu trườn mình xuống nước.

“Cậu ấy để giỏ đồ ở phòng bên kia,” Sticky nói the thé trong lúc đưa những ngón tay trơn trượt chỉnh lại kính. Sau đó, cậu lôi từ túi áo sơ mi ra miếng vải để lau cặp kính đang nhòe đi. Nó cũng ướt nhẹp chẳng khác nào khăn lau cho em bé.

Constance ngờ vực. “Kate để cái giỏ quý báu của chị ấy ở lại ư?”

“Đường ống hẹp lắm,” Sticky nói, nhăn nhó nhét miếng vải lau trở lại vào túi. “Cái giỏ sẽ gây ra tiếng ồn, và bọn anh không muốn để Rhonda nghe thấy.”

Reynie cười tủm tỉm. Cậu nhớ như in ngày đầu tiên cả lũ đến ngôi nhà này, cách đây cũng gần một năm rưỡi rồi. Hồi đó Kate cũng trườn qua một đường ống dẫn nhiệt. Cậu nhớ cô bé có kể cho cậu cách cô buộc cái giỏ vào chân và kéo nó đằng sau mình như thế nào. Cậu đã rất ngạc nhiên trước sự nhanh nhẹn của Kate cùng việc đi đâu cô cũng mang theo cái giỏ đỏ của mình. Nhưng giờ thì Reynie đã quá quen với những điều như thế; với cậu lúc này, chúng hết sức bình thường.

Ví dụ như cậu không hề giật mình khi thấy Kate trở về từ cuộc hành trình nhanh hơn cả thời gian nhiều người đi xuống tiền sảnh. Cô bé thò đầu qua đường ống với một cục nam châm hình móng ngựa - một trong số những món đồ hữu ích mà Kate luôn giữ trong chiếc giỏ của mình - và nhanh như cắt, nó được dựng đứng lên để chống vào khung cửa sổ.

“Nó sẽ đứng vững thôi,” Kate nói đầy vẻ hài lòng khi không khí mát lành tuyệt diệu ùa vào căn phòng, “nhưng để chắc chắn hơn...” cô bé lấy từ chiếc giỏ ra một sợi dây câu dài với một đầu được buộc vào nam châm, đầu còn lại cô buộc vào cổ tay mình. “Làm thế này để nếu nam châm có trượt ra, tớ sẽ không phải mất thời gian đi tìm nó nữa.’

Kate làm tất cả những việc này không đầy hai mươi giây. Ngay sau khi cô bé hoàn thành, cả lũ liền ngồi quây thành một vòng tròn. Bất cứ khi nào bốn đứa ở riêng với nhau, chúng lại có thói quen ngồi họp bàn như vậy. Lũ trẻ tự nhận mình là những thành viên Hội Benedict Thần bí, và cứ như vậy chúng đã tổ chức biết bao nhiêu cuộc họp - đôi khi diễn ra ngay trong những tình huống vô cùng khốc liệt.

“Vậy tên của đội cậu là gì?” Kate hỏi trong lúc vặn hai chân lại như bánh quy xoắn. “Sticky và tớ là đội Những bạn tù thắng cuộc!” Lời tuyên bố vừa đưa ra đã vấp phải những ánh mắt chằm chằm phản đối, cô bé nhăn mặt khó chịu. “Các cậu không hiểu à? Đó là trò chơi chữ mà - ngón chân cái của một người đàn ông béo tốt hay là... Chúng ta gọi đó là gì nhỉ, Sticky? Khi mà hai từ được ghép lại với nhau ấy?”

“Một từ ghép,” Sticky nói.

“Đúng vậy! Một từ ghép! Thấy chưa, đội chúng tớ có tên là Những bạn tù thắng cuộc bởi vì chúng tớ là bạn tù - giống như kiểu bạn ở chung trong tù ấy, hiểu không? - và chúng tớ thắng cuộc.” Kate nhìn tới nhìn lui vào Reynie và Constance để xem gương mặt họ có biểu cảm vui sướng nào không.

“Bọn chị tự đặt tên cho mình à?” Constance hỏi.

Bây giờ đến lượt Kate khó chịu. “Thế hai người không đặt tên à? Làm sao mà thành một đội được khi đội đó không có tên cơ chứ?”

Reynie lén đưa ánh mắt ngạc nhiên về phía Sticky, nhưng cậu chỉ biết nhún vai. Chẳng cần hỏi cũng biết vụ đặt tên này xuất phát từ ai rồi.

“Dù sao thì,” Kate nói, ném ánh mặt nghiêm nghị về phía Constance, “tất cả chúng ta đều có thể chiến thắng, các cậu biết đấy. Đơn giản là các cậu chỉ cần chọn đáp án A, và bọn tớ cũng thế.”

“Được rồi, được rồi,” Constance nói và buông ra một hơi thở rõ dài. “Quay trở lại phòng và giải quyết việc này cho dứt điểm đi.”

Sticky nheo mắt lại. “Và các cậu sẽ chọn phương án Achứ?”

Constance giả vờ nhìn ra cửa sổ.

“Tớ đã nghĩ đến điều đó rồi,” Sticky nói. “Nói xem nào, Constance, làm thế có ích gì cơ chứ? Nếu em cứ khăng khăng đòi làm theo cách đó, bọn anh cũng chẳng còn lựa chọn nào khác ngoài phương án B. Và nhờ đó, tất cả tụi mình sẽ có thêm việc để làm đấy.”

“Nói với Constance chẳng ích gì đâu,” Reynie nói thẳng. “Kiểu gì thì con bé cũng sẽ sáng tác những bài thơ cáu bẳn thay vì làm bếp. Con bé có bao giờ lau dọn gì đâu.”

Constance gắt lên đầy tức tối, vì Reynie nói quá đúng.

Kate nhìn chằm chằm qua cửa sổ. “Tớ ước chúng mình là những tù nhân thực thụ. Nếu vậy, tụi mình có thể thôi tranh cãi đi và cố gắng thoát ra ngoài.

“Bọn mình là tù nhân thật còn gì,” Sticky nói bằng giọng ủ rũ, và một loạt âm thanh hưởng ứng hùa theo.

Lũ trẻ đều hiểu rằng không phải Sticky đang nói đến cuộc thử thách mà là tình cảnh chung của bọn chúng. Nhiều tháng nay, bọn trẻ và gia đình chúng đã trở thành khách của ngài Benedict - người đã tập hợp chúng lại với nhau, đồng thời là chủ nhân của ngôi nhà này. Mặc dù có lẽ hơi kỳ lạ một chút là việc trở thành khách của ngài Benedict - một người thông minh, tốt bụng - đáng lẽ phải thoải mái lắm, nhưng sự thật là họ chẳng được lựa chọn gì hết.

Ngài Benedict là người giám hộ cho một phát minh cực kỳ vĩ đại có tên là Máy Thì Thầm - cỗ máy nguy hiểm được một nhà phát minh cũng nguy hiểm không kém thèm muốn - Ledroptha Curtain - em trai song sinh của ngài Benedict. Và bởi vì lũ trẻ có mối quan hệ mật thiết với ngài Benedict nên người ta cho rằng chúng đang gặp nguy hiểm. Vì vậy, chính quyền đã yêu cầu lũ trẻ và gia đình chúng phải được canh phòng cẩn mật. (Thực ra, lệnh ban ra lúc đầu yêu cầu lũ trẻ phải tách nhau ra và được đưa đến những địa điểm bí mật - điều khiến chúng nản lòng nhất - nhưng ngài Benedict không cho phép chuyện đó xảy ra. Ông khẳng định ngôi nhà của ông sẽ được canh phòng cẩn mật và tất cả mọi người tới đó đều có chỗ ở đàng hoàng. Cuối cùng, chính quyền cũng phải miễn cưỡng nhượng bộ; khi cần, ngài Benedict quả là rất giỏi thuyết phục.)

Lũ trẻ hiểu rằng mọi phòng ngừa đó đều có lý do chính đáng. Lão Curtain rất xảo quyệt và tàn ác, ông ta có cả đám tay chân nguy hiểm phục vụ, vì thế, hiển nhiên là lũ trẻ và gia đình sẽ trở thành mục tiêu của chúng. Họ sẽ bị tóm cổ và trở thành con tin nếu không được bảo vệ nghiêm ngặt, vì lão Curtain sẽ không từ một thủ đoạn nào để giành lại quyền sở hữu Máy Thì Thầm của mình. (Chỉ cần nghĩ đến đó thôi mọi người đã kinh hoàng lắm rồi và lũ trẻ cũng không phải là ngoại lệ.) Tuy nhiên, sau nhiều tháng bị cấm đoán không được chơi bên ngoài một mình, hoặc không được phép đi bất kỳ đâu trong thị trấn, những thành viên trẻ tuổi của Hội đã bắt đầu cảm thấy bí bách.

“Tuy nhiên, nếu bọn mình đúng là tù nhân thực thụ,” Kate nói, “tớ có thể giúp cả lũ trốn khỏi đây trong tích tắc.”

“Qua cửa sổ á?” Reynie hỏi, đưa mắt nhìn theo ánh nhìn chằm chằm của cô bé. “Dây của cậu có đủ dài không

“Ừm, đoạn cuối sẽ phải nhảy một chút,” cô thừa nhận, và mấy đứa nhìn nhau đầy lo âu. Có thể Kate là người phán đoán khoảng cách khá chuẩn, nhưng định nghĩa về cái gọi là “nhảy một chút” của cô bạn khác xa so với định nghĩa của chúng.

“Tưởng tượng xem tớ sẽ bầm dập thế nào nếu bọn mình làm thế,” Sticky nói, “thế làm thế này được không?” Cậu chỉ tay ra phía cửa, nó bị khóa bên ngoài bằng một ổ khóa vân tay - nhưng bản lề lại ở bên trong. “Cậu có thể gỡ bản lề ra, đúng không? Dùng lực đòn bẩy, bọn mình có thể kéo cho phần cửa đó hé ra đủ để chui ra ngoài.”

“Đợi đã,” Constance thốt lên đầy kinh ngạc. “Ý anh là mấy tên Điều hành viên đã trốn khỏi đây dễ dàng đến thế sao? Chỉ cần tháo bản lề ra thôi á?”

Cô bé đang nói đến Jackson, Jillson, và Martina Crowe, ba kẻ độc ác đã từng ngược đãi bọn trẻ ngày trước (tất cả bọn chúng đều từng là cựu Điều hành viên của lão Curtain) và chắc chắn là chúng chưa có biểu hiện gì đáng tin cậy kể từ lúc bị bắt. Trong quá trình điều tra vụ việc liên quan đến lão Curtain, có đôi lần chúng được đưa đến ngôi nhà này để thẩm vấn. Bản thân bọn chúng không bộc lộ mối đe dọa rõ rệt nào - trông chúng chẳng giống những Gã Số Mười nham hiểm của lão Curtain chút nào - nhưng nhà cầm quyền, với ý thức cảnh giác cao độ đã khăng khăng yêu cầu phải lắp khóa vân tay ở cả hai phòng và mang hết tất cả mọi thứ có thể giúp chúng bỏ trốn ra ngoài.

“Hãy nhớ là những kẻ đó không giống Kate” Sticky đáp. “Chúng không mang theo công cụ bên mình - chúng không được phép làm thế, các cậu biết mà, thậm chí chúng có muốn cũng không được. Thêm nữa, ngay cả khi chúng tháo được bản lề ra, chúng cũng không thể qua mặt bảo vệ được.”

“Chà, em mong là chúng sẽ không bao giờ đến nữa,” Constance nói. “Em phát bệnh khi phải nhìn những khuôn mặt ngu ngốc và ác độc của chúng.”

Kate khịt mũi. “Em sẽ không gặp lại chúng nữa đâu, nếu em tránh mặt chúng theo đúng yêu cầu. Nhưng lúc nào em chẳng cố để lách luật, đúng không? Để xem em có thè lưỡi ra trước mặt chúng nữa

“Nếu chúng không ở đây,” Constance kiêu căng đáp, “em sẽ chẳng có hứng làm chuyện đó đâu.”

“Dù sao thì,” Kate vừa nói vừa đảo mắt láo liên, “quay trở lại câu hỏi của Simon, bọn mình có thể trèo qua cửa sổ, nhưng không được yên ắng lắm đâu - Rhonda chắc chắn sẽ nghe thấy chúng ta.” Cô bé vỗ mấy ngón tay vẻ đầy cân nhắc lên chiếc giỏ của mình. “Chị ấy không nói là mình có được trang bị vũ khí hay không à? Khi chị ấy giải thích bài thử thách ấy?”

“Không, nhưng Rhonda có nói chị ấy là người canh gác duy nhất,” Sticky nói. “Nhớ chưa? Constance đòi được nói chuyện với người canh gác khác - người có thể cho chúng ta những lựa chọn tốt hơn - Rhonda thở dài và nói rằng vì mục đích của bài thử thách này, chúng ta nên hiểu rằng chị ấy là người duy nhất.”

“Đó là một yêu cầu hoàn toàn hợp lý mà,” Constance phản đối khi thấy những người còn lại cười khúc khích nhớ lại vẻ bực tức của Rhonda.

“Tớ không nghĩ rằng chị ấy cần những người canh gác khác,” Reynie nói trong lúc vẫn đang cố nén cười. “Cuối cùng thì chúng mình cũng chẳng trốn được đâu mà. Ý tớ là, việc này không giống như kiểu chúng ta đang chuẩn bị tấn công chị Rhonda, đúng chưa? Và bọn mình thậm chí còn không thể bước chân ra khỏi ngôi nhà khi chưa được phép.”

Đúng lúc đó Constance nghển cổ lên, ngoái qua vai Reynie nhìn ra. “Ố ồ!” Cô bé làm động tác ra hiệu im lặng. “Chị ấy đến rồi kìa!”

Cả bọn nín thở. Khi Constance thông báo kiểu này, lúc nào cô bé cũng đúng. Quả không sai, chẳng bao lâu sau đã có tiếng bước chân vang lên bên ngoài cửa, sau đó là tiếng gõ cửa. “Constance? Reynie? Mọi chuyện trong đó ổn chứ? Các em đã quyết định chưa?”

“Bọn em cần thêm thời gian ạ!” Reynie nói vọng ra.

“Chắc chứ?” Trong giọng nói kiềm chế của Rhonda có dấu hiệu âu lo. Bọn trẻ nghe thấy tiếng khóa cửa xoay. “Các em có cần uống nước hay gì không?”

“Bọn em ổn cả mà!” Reynie kêu lên thật nhanh. “Thêm mấy phút nữa thôi ạ!”

“Tốt rồi, nhưng nhanh lên nhé,” Rhonda đáp và khóa cửa lại mà không bước vào. “Các em biết đấy, chúng ta còn có nhiều thử thách phải vượt qua mà.”

“Hú hồn hú vía,” Kate thì thào khi tiếng bước chân Rhonda nhỏ dần. “Tớ đã kịp nghĩ đến việc trốn đằng sau cánh cửa rồi đấy, nhưng cục nam châm của tớ sẽ làm bọn mình lộ tẩy mất.”

“Trừ tớ ra nhé, thậm chí tớ sẽ chẳng kịp đứng lên ấy chứ, nói gì đến chuyện trốn sau cánh cửa.” Sticky nói.

“Chắc chắn là cậu làm được,” Kate đáp lại. “Vì tớ sẽ giúp cậu mà.”

Sticky nhìn cô bạn chằm chằm vái ánh mắt hãi hùng. Hình ảnh cánh tay bị giật mạnh ra khỏi khuỷu tay vẫn còn hiện lên rõ mồn một trong tâm trí cậu.

“Và tớ đã định dùng sợi dây để giật cục nam châm về phía mình,” Kate thản nhiên nói (như thể hoàn thành tất cả những việc này trong khoảng thời gian một giây là điều mà ai cũng làm được vậy), “nhưng, tất nhiên, cửa sổ sẽ sập xuống, và điều đó chắc chắn không qua khỏi mắt của Rhonda. Vậy nên làm thế cũng chẳng ích gì.”

“Dù sao thì tất cả cũng đều vô ích,” Sticky nói rồi ấn cằm xuống lòng bàn tay. “Chúng ta sẽ không bao giờ có thể thay đổi suy nghĩ của Constance được đâu. Tớ nghĩ là chúng ta chỉ cần phản bội nhau và chấp nhận hậu quả thôi.”

“Tớ nghĩ cậu nói đúng,” Kate đáp. “Chà, tớ cũng không ngại rửa bát lắm nếu hội con trai các cậu chịu khó lau khô...” Cô bé kéo dài từ cuối khi thấy Reynie nhìn đăm đăm ra ngoài cửa sổ, lông mày nhíu lại. “Reynie, có chuyện gì thế?”

Lông mày Constance cũng nhíu lại. Nhưng là cô bé đang nhìn dò xét Reynie. “Không biết anh ấy đang nghĩ điều gì nhỉ?” Cô bé nói, khuôn mặt sáng bừ

Reynie lơ đãng liếc nhìn cô bé rồi lại nhìn ra phía cửa sổ. Cậu thường lơ đãng như vậy khi đang mải mê suy nghĩ điều gì đó. Cả Sticky và Kate cũng thế. Lúc này hai người họ đang nghiêng người về phía cậu đầy hứng khởi.

“Sao rồi?” Kate hỏi. “Có chuyện gì thế, Reynie? Cậu đang nghĩ gì vậy?”

“Phương án C,” Reynie đáp, và tặng cho họ một nụ cười ranh mãnh.

Vài phút sau, Rhonda Kazembe gõ cửa phòng, nhưng không thấy ai trả lời. Trong phòng có tiếng chuyển động ầm ĩ thật đáng ngờ. Cô gõ cửa lần nữa, và lần này nghe thấy một giọng thì thào vang lên “Nhanh lên!” và (thậm chí còn khó hiểu hơn) “Đừng nhìn xuống!” Những từ đó đủ khiến cô lật đật mở khóa cửa, nhất là khi giọng nói đó nghe giống giọng Kate. Làm thế nào mà Kate ở trong phòng này được cơ chứ? Khi mở khóa, Rhonda nghe thấy tiếng cửa sổ đóng sập xuống, và với sự cảnh giác cao độ, cô lao vào phòng. Miệng cô há hốc khi thấy căn phòng trống trơn.

Rhonda, cô gái duyên dáng với làn da màu ngăm đen và mái tóc thắt bím bóng mượt, vừa thông minh vừa hết sức xinh đẹp, ngay lập tức hiểu chuyện gì đã xảy ra. Ở bức tường đối diện hiện ra miệng đường ống dẫn há toác, công tơ đã bị tháo ra. Điều đó cho thấy cách Kate đã đột nhập vào căn phòng này (và tất nhiên là cả Sticky nữa). “Ồ, phải rồi!” Cô mếu máo, lao ngay ra chỗ cửa sổ. “Không phải chúng đã làm thế đấy chứ!”

Cô đập mạnh vào cửa sổ để mở nó ra rồi ngó qua bậu cửa nhìn xuống. Không thấy tăm hơi lũ trẻ đâu. Cô ngước lên nhìn mái hiên nhưng cũng không thấy gì.

Vừa cảm thấy nhẹ nhõm bao nhiêu thì giờ lại băn khoăn bấy nhiêu, Rhonda cau mày khi hạ cửa sổ xuống. Vậy chẳng lẽ chúng chui qua đường ống dẫn nhiệt ư? Nhưng cụm từ cảnh báo (“Đừng nhìn xuống!”) và tiếng cửa sổ sập xuống đã khiến cô tin rằng...

Rhonda nhắm mắt lại. Cánh cửa. Chúng đã nấp sau cánh cửa.

Thậm chí trước cả khi quay người lại, Rhonda đã biết cô sắp sửa nhìn thấy điều gì. Hẳn rồi, chúng ở sau khi đã bò ra khỏi phòng và bây giờ đang đứng ở sảnh. Reynie và Sticky đang cười ngoác miệng và vẫy vẫy tay; Constance, như một cô công chúa nhỏ mũm mĩm, vênh mặt lên thể hiện sự tự mãn; và Kate đang đứng tựa lưng vào ô cửa, một tay đặt trên núm xoay, một tay nắm chặt chiếc nam châm hình móng ngựa với một nhúm dây nhợ nhằng nhịt. Với một cái nháy mắt và nụ cười nửa như hối lỗi, cô bé kéo cánh cửa đóng lại. Ổ khóa vang lên một tiếng tách.

Rhonda nhìn chằm chằm vào ổ khóa mất một lúc, rồi chầm chậm lắc đầu, sau đó, bắt đầu vỗ tay và bật cười.