Chương 1
Những chuyện lạ tiếp diễn ở Bedford Place
Anh ta không phải loại người nàng thường chọn. Đối diện với chiếc bàn rulet, nàng quan sát anh ta. Anh ta còn trẻ, đúng, trẻ hơn nàng thích. Một điều phân vân là liệu có phải anh ta đã cạo râu không. Màu ửng hồng non trẻ vẫn còn lưu lại trên đôi má của anh chàng người Anh dễ thương, và khung xương của anh ta cũng thanh nhã như của nàng. Nhưng anh ta không ngây thơ. Và nếu anh ta mảnh mai, thì thật quá tệ. Người chia bài tựa lên bàn. “Các quý ông quý bà,” anh ta nói bằng thứ tiếng Pháp bập bẹ. “Xin mời đặt cược.” Nàng phẩy tay xua làn khói từ một chiếc xì gà gần bên và đặt cược ở góc. Đẩy ba tấm thẻ qua mặt vải len tuyết với đầu ngón tay được cắt tỉa hoàn hảo. Ngay lúc đó, người đàn ông ngồi giữa họ đứng lên, bỏ lại phần thắng của mình khi rời đi. Sau một cuộc trao đổi sốt sắng và thận thiện. Tốt. Giờ anh chàng trẻ tuổi còn lại một mình. Trong ánh sáng mờ ảo, nàng vén một phần tấm mạng che mặt màu đen che khuất tầm nhìn của nàng, và ném cho anh ta một cái nhìn thích thú. Anh ta đẩy một chồng thẻ lên con số hai mươi hai màu đen, và đáp trả lại cái nhìn, một bên mày nhướng lên. “Không ai đặt cược nữa,” người đứng bàn thông báo. “Đã đặt cược xong!” làm một cử chỉ tao nhã, anh ta xoay cái khay và búng nhẹ quả bóng. Nó nảy lên và kêu lóc cóc một cách vui vẻ, làm ngắt quãng tiếng nói chuyện đều đều. Rồi nó lọt vào một khe! Kêu lách cách! Và bật vào ô số 22 màu đen. Người đứng bàn đẩy phần tiền thắng cuộc ra trước khi vòng quay dừng laị. Anh chàng người Anh thu chúng lại và chuyển xuống cuối bàn ngồi cạnh nàng. “Bonsoir! (Xin chào!), nàng khàn khàn thì thầm. “Màu đen xem ra là điềm tốt cho anh tối nay.” Đôi mắt màu xanh nhạt của anh ta lướt xuống bộ váy màu đen của nàng. “Tôi hi vọng nó là sự bắt đầu của một khởi đầu mới?” Nàng nhìn anh ta qua tấm mạng và hạ mi mắt xuống. “Ai cũng có quyền hi vọng, thưa ngài.” Anh chàng người Anh bật cười, phô ra hàm răng trắng bóng. “Tôi không nghĩ là tôi quen cô, thưa tiểu thư,” anh ta nói. “Cô lần đầu đến Lufton?” Nàng so vai. “Mọi sòng bạc đều giống nhau thôi, đúng không nhỉ?” Ánh mắt anh ta nồng nhiệt. Lại một ý nghĩ ngớ ngẩn cho nàng là một người đàn bà phóng đãng. Cũng dễ hiểu thôi, vì nàng ngồi một mình và không có ai tháp tùng trong một căn phòng không đứng đắn. “Francis Tenby,” anh ta nói, chìa tay ra. “Còn tiểu thư đây là?” “Phu nhân Noire,” nàng trả lời, ngả người về phía trước để đặt những ngón tay mang găng của nàng vào tay anh ta. “Đúng là trùng hợp đúng không?” “Ha ha!” ánh mắt anh ta nhìn chòng chọc vào cổ áo được cắt một cách táo bạo của nàng. “Hắc phu nhân, thực vậy. Nói cho tôi, nào cưng, tên thánh của em là gì?” “Những người thân quen gọi tôi là Cerise,” nàng đáp, cái tên phát âm trầm đục và đầy khêu gợi. “Cerise,” anh chàng người Anh nhắc lại. “Một cái tên kì lạ. Điều gì mang em đến London, em yêu?” Lại một cái so vai. Một cái liếc tình tứ. “Đừng hỏi nhiều nữa!” nàng nói. “Chúng ta đang chiếm chỗ ở bàn quay này đấy, thưa ngài, và tôi thấy hơi khát.” Anh ta đứng bật dậy ngay lập tức. “Tôi lấy gì đó cho cô nhé?” anh ta nói. “Và có thể tôi nên đưa cô đến một góc yên tĩnh hơn chăng?” “Sâm panh.” Nàng thì thầm. Sau đó nàng đứng lên, nghiêng đầu, và đi về phía chiếc bàn mà anh ta chỉ. Một chiếc bàn đặt trong góc khuất. Rất riêng tư. Rất hoàn hảo. Anh ta quay trở lại trong nháy mắt, một người phục vụ theo sau với một cái khay và hai ly rượu. “Chết thật!” nàng lẩm bẩm, nhìn quanh quất khi người phục vụ đã rời khỏi. “Tôi hẳn đã bỏ quên túi xách ở bàn rullét mất rồi. Ngài có thể đi lấy hộ tôi được không?” Anh ta quay đi, và nàng vội mở cái lọ nhỏ của nàng ra. Một cách khéo léo, nàng trút nó vào ly của anh ta. Những hạt tinh thể nhỏ xíu chìm xuống đáy và sủi bọt. Anh ta quay lại ngay khi nàng liếc nhanh sang chiếc đồng hồ cài ở mép chiếc khăn quàng của nàng. Thời gian là yếu tố rất quan trọng. Anh ta mỉm cười khiêu gợi, và nàng nâng ly với anh ta. “Chúc cho tình bạn mới nảy nở giữa chúng ta.” Nàng thì thầm, nhỏ đến mức anh ta phải rướn người lại gần hơn. “Thực vậy! một tình bạn mới.” anh ta uống cạn ly sâm banh, và cau mày. Nhưng anh chàng rất dễ sao lãng. Chỉ mười phút sau, nàng cười nhẹ, tiếng cười của nàng vang lên như tiếng chuông leng keng, và nói vài câu rất sâu sắc với đức ngài Francis Tenby, người chẳng có não trong cái đầu xinh đẹp của anh ta.Tiếp đó là những câu hỏi thông thường. Nàng nói những lời nói dối đã được tập luyện kĩ càng. Cảnh goá bụa. Sự cô đơn. Về người bảo hộ giàu có đã đưa nàng tới đây tối nay, lớn tiếng với nàng, rồi tàn nhẫn bó nàng theo người đàn bà khác. Nhưng c’est la vie - đời là thế, nàng thừa nhận với một cái nhún vai nữa. Đại dương thiếu gì cá. Dĩ nhiên, nàng không đề nghị gì. Anh chàng mới là người làm vậy. Họ luôn thế. Và nàng chấp nhận, lại liếc nhìn đồng hồ. Hai mươi phút rồi. Họ đứng lên. Anh ta hơi chuếnh choáng, lắc lư đầu, và chìa tay cho nàng. Bàn tay nàng đặt lên ống tay áo khoác của anh ta, họ bước ra khỏi địa ngục cùng với nhau, và hoà vào ánh đèn lờ mờ và bầu không khí ẩm ướt của phố St. James. Một chiếc xe ngựa trờ tới như thể đã được định sẵn. Nó đã được định sẵn. Ngài Francis cho người đánh xe địa chỉ, suýt nữa thì bị vấp ngã khi vào sau nàng. Nhờ ánh sáng yếu ớt của ngọn đèn trong xe, nàng có thể nhìn thấy mồ hôi đang túa ra trên mặt anh ta. Nàng chúi người tới trước, biểu lộ cho anh ta một cái nhìn rộng lượng. “này thưa ngài,” nàng thì thầm, áp bàn tay lên gò má hồng hào của anh ta. “Ngài trông không được khoẻ.” “Tôi ổn mà,” anh ta đáp, cố hết sức dựng thẳng người lên. “Chẳng sao đâu. Nhưng tôi muốn…Tôi muốn nhìn thấy…” anh ta hoàn toàn mất mạch suy nghĩ. Nàng cởi bỏ chiếc khăn choàng bằng lụa ra và tựa người sát hơn. “Gì nào, thưa ngài?” nàng thì thầm. “Ngài muốn nhìn thấy gì?” Anh ta lắc lắc đầu như thể xua đi màn sương. “Đôi mắt… đôi mắt của em.” Anh ta cuối cùng cũng thốt ra được. “Muốn ngắm đôi mắt của em. Và cả khuôn mặt nữa. m..mu..mũ của em. Mạng che mặt…bỏ ra đi.” “Ah, việc đó tôi không làm được đâu,” nàng thì thào, bắt đầu tuột ống tay áo bên trái của nàng xuống. “Nhưng tôi có thể cho ngài ngắm thứ khác, ngài Francis. Nói tôi nghe, ngài có muốn nhìn ngực tôi không?” “Ngự..ngực?” anh ta say nhưng vẫn liếc mắt một cách dâm dật. Một inch áo nữa tuột xuống. “Một ít thôi, đúng thế,” nàng trả lời. “nhìn bên này cơ mà, ngài Francis. Đúng, đúng thế đấy. Tập trung vào, cưng à. Anh có thấy cái này không?” Anh ta mắc một sai lầm chí tử khi rướn người tới gần. “Một hình…hình xa…xăm à?” anh ta nói, hếch đầu sang một bên. “đên…không phải, là màu đen, một thiên thần…màu đen?” bất thình lình, mắt ngài Francis trợn ngược lên trên, miệng anh ta trễ xuống uể oải, và đầu anh ta dộng đánh thịch vào cánh cửa xe, khiến anh ta thở hổn hển khi nhìn vào nàng như một con cá chép ở chợ. Vì sự an toàn của anh ta, nàng nâng cằm anh ta lên và đẩy anh ta vào trong chiếc ghế dài. Anh ta ngồi phịch yếu ớt trên ghế khi nàng lục lọi túi quần. Ví tiền. Chìa khoá. Hộp đựng xì gà--bằng bạc, không phải bằng vàng, tức thật. Đồng hồ, dây chuyền, dây đeo đồng hồ bỏ túi. Một lá thư từ trong túi áo khoác. Của người tình chăng? Hay là của kẻ thù? Ôi, thưa ngài chánh án! Nàng chả có thời gian cho chuyện tống tiền! nàng nhét nó trở lại và thay vào đó giật chiếc gài áo bằng saphia khỏi chiếc cà vạt trắng như tuyết của anh ta. Xong rồi, nàng nhìn anh ta một cách hài lòng. “Ôi, tôi thực sự hi vọng đó là vận may của anh, thưa ngài Francis.,” nàng lẩm nhẩm. “ nó đương nhiên là vận may của tôi.” Miệng vẫn há hốc, ngài Francis phát ra một tiếng ngáy sâu từ trong cổ họng. “Tôi rất hài lòng khi được nghe ngài,” nàng trả lời. “và tôi dám nói chắc rằng cô tình nhân xinh xắn đang có mang mới bị đuổi việc ở nhà trọ của ngài cũng sẽ sớm được hài lòng thôi.” Nói xong, nàng thả những thứ vừa lột được vào trong túi, dậm hai lần lên trần xe, rồi đẩy cửa ra. Cỗ xe chậm rãi rẽ vào góc phố Brook. Thiên thần Đen nhảy ra, và tan biến vào ánh sáng mờ ảo màu xám của Mayfair. Đầu của ngài Francis ngật ngưỡng trước sau khi cỗ xe ngựa chạy rầm rập vào trong màn đêm. *** Hầu tước Devellyn đang có tâm trạng tốt hiếm có. Quá tốt. Chàng đang hát bài “O God Our Help in Ages Past” suốt đoạn đường lên phố Regent, bất chấp là chẳng thuộc lời. Tốt đến mức, chàng bỗng có ý tưởng bất ngờ là bảo người đánh xe cho chàng xuống gần góc phố quảng trường Vàng để chàng có thể đi dạo trong bầu không khí trong lành của buổi tối. Theo hiệu lệnh của chàng, cỗ xe ngựa màu đen bóng loáng chạy nghiêm chỉnh tới chặng nghỉ. Ngài hầu tước nhảy ra khỏi xe, hoàn toàn không hề lảo đảo. “Nhưng giờ ngoài trời đang mưa, thưa đức ngài.” Người đánh xe ngựa của chàng nói, nhìn xuống chỗ chàng từ phía trên thùng xe. Ngài hầu tước ngó xuống đường. Mặt đường ướt đẫm sáng lấp lánh. Chết tiệt nếu anh chàng đó nói sai. “Trời có mưa không, Wittle, lúc chúng ta rời khỏi nhà Crockford ấy?” chàng hỏi, không hề nói líu nhíu dù chàng đã say bí tỉ như con lợn nái của Davy và đủ khôn ngoan để nhận ra điều đó. “Không, thưa đức ngài,” Wittle nói. “chỉ mới nhiều sương thôi ạ.” “Hmph!” Devellyn nói, ấn vành mũ của chàng thấp hơn một chút. “Được rồi, dù sao cũng vẫn là một tối đẹp trời để đi dạo,” chàng phản bác. “dễ làm tỉnh rượu, không khí buổi tối thì tươi mát.” Wittle cúi người xuống thấp hơn. “nhưng…nhưng đã là buổi sáng rồi, thưa ngài,” anh ta trả lời. “gần sáu giờ rồi ạ.” Ngài hầu tước nhấp nháy mắt. “Anh nói gì hả?” chàng đáp lại. “Không phải ta đã hẹn ăn tối với tiểu thư Lederly tối nay sao?” Wittle nhìn chàng một cách thông cảm. “Tối qua cơ, thưa ngài,” anh ta nói. “và hình như, tôi tin, là ở nhà hát phải không ạ? Nhưng ngài đã không… hay là câu lạc bộ không…” Devellyn dụi một tay lên mặt, cảm nhận sự trôi qua của một ngày nhờ bộ râu lún phún. “Ah, ta nhớ rồi,” cuối cùng chàng cũng trả lời. “Không ra về khi đến giờ hẹn, hả?” Wittle lắc đầu. “Không, thưa ngài.” Devellyn nhướng một bên mày lên. “Lại đi nhậu, phải không? Và ta chơi súc sắc nữa?” Khuôn mặt người đánh xe vẫn giữ vẻ bình thản. “Tôi tin là có liên quan đến một tiểu thư, thưa ngài.” Một tiểu thư à? Ồ, phải rồi. Giờ thì chàng đã nhớ ra. Một cô nàng tóc vàng hoe có bộ ngực bự. Và chắc chắn không còn là tiểu thư. Chàng tự hỏi liệu cô ta có thoả mãn không. Chết tiệt, chàng tự hỏi liệu chàng có thoả mãn không nhỉ. Có thể là không. Và chàng chẳng màng đến, thực sự. Nhưng còn vụ nhà hát thì sao nhỉ? lạy chúa, Camelia sẽ giết chàng lần này mất. Chàng cuộn đôi vai rộng bồn chồn dưới tấm áo choàng và ngước lên nhìn Wittle. “này, ta sẽ đi bộ đến Bedford Place,” chàng lặp lại. “không cần ai khác nữa chứng kiến sự mất mặt của ta khi ta đến đó. Anh quay về phố Công tước đi.” Wittle chạm vào vành mũ. “xin hãy mang theo gậy của ngài, thưa ngài,” anh ta khuyên. “ở Soho đầy rẫy bọn cướp đấy ạ.” Devellyn cười toét miệng với anh ta. “một tên cướp lặt vặt thôi hả?” chàng quở trách. “cướp của Con quỷ phố Công tước à? anh nghĩ hắn dám làm thế sao?” Nghe thế, Wittle cười nhăn nhở. “không khi hắn nhìn thấy mặt ngài, thưa ngài.” Anh ta đồng tình. “không may, chúng có xu hướng tấn công từ đằng sau.” Devellyn bật cười và vỗ nhẹ lên mũ. “Vậy thì gậy phải nhuốm máu thôi, anh đúng là đồ gà mái già.” Chàng đồng ý, thò vào trong để lấy nó ra. Wittle cúi chào lần nữa, rồi quất ngựa. Cỗ xe bắt đầu chuyển bánh. Devellyn hất cái gậy vào trong không khí với một cú ném, rồi duyên dáng bắt lấy nó trước khi nó chạm xuống đất. Vậy là chưa say quá mức. Ý nghĩ kì quặc đó động viên chàng. Chàng đi dọc theo vỉa hè, lại tiếp tục cất tiếng hát khi sải những bước dài. Đội ơn Chúa, người đã giúp chúng ta qua nhiều năm tháng, niềm hi vọng của chúng ta suốt bao năm qua đã đến! che chở cho ta khỏi de-da-dum (chỗ này là Devellyn không thuộc lời) và da-de-da-dum của chúng ta! Chẳng có tên cướp nào dám xáp đến gần chàng trên suốt đoạn đường ngắn qua Soho và rẽ vào phố Bloomsbury. Có lẽ là vì giọng hát cùng cực của chàng. Hoặc có lẽ vì thực tế chàng là một hầu tước cao to, và với cái mũi gẫy của chàng, không hề có vẻ chào mời nào cả. To lớn và vụng về, chàng đã nghe người ta nói thế. Chàng chả thèm để tâm người ta gọi chàng là quái gì. Với giá nào, thì chàng cũng chả cần đến gậy khi đi bộ. Nhưng khi chàng bước qua những cánh cổng của căn nhà riêng của chàng, vẫn rống lên vui vẻ, mọi chuyện thay đổi. Một ngàn năm trong con mắt của Người Chỉ như một buổi tối đã đi qua! Ngắn ngủi như đêm gì gì đó trước khi the de-da-dum! “Anh là đồ con hoang.” chiếc đĩa chẳng biết được quăng ra từ đâu. “Lạy chúa, tôi sẽ cho anh thấy thế nào là một tối đã qua!” Ngài hầu tước cúi đầu né thật nhanh. Cái đĩa sứ va vào chiếc rầm đỡ và vỡ tan tành rơi xuống đầu chàng. “Cammie hả…?” chàng nói, ngó vào trong phòng khách. Cô tình nhân của chàng bước ra từ bóng tối, vung vẩy một thanh sắt nung đỏ. “Không có Cammie gì cả, anh là đồ con lợn!” cô ta gào lên. Cô ta vớ một bức tượng nhỏ của Meissen và ném mạnh nó vào đầu chàng. Devellyn hụp xuống tránh. “Đặt thanh sắt nung xuống đi, Camelia,” chàng nói, kẹp chặt chiếc gậy của chàng sang bên khi bước đến, như thể nó sẽ có thể thắng được thứ đồ vật sắp sửa bay tới nữa. “Đặt nó xuống đi, anh nói rồi đấy.” “Đi mà tự làm lấy.” Cô ta ré lên như một người đàn bà đanh đá xuất thân từ Spitalfield mà cô ta đã bí mật giữ kín. “Đi xuống địa ngục đi, đồ to xác, quá khổ, đồ con hoang bất lịch sự.” Ngài hầu tước làm một âm thanh suỵt suỵt. “Camelia, em lại làm lộ ra vốn từ có hạn của mình rồi đấy,” chàng nói. “Em giờ còn lai căng gấp hai lần anh ý chứ. Rót cho chúng ta một chút Brandy, em yêu. Rồi chúng ta sẽ làm rõ chuyện.” “Không, anh đi mà làm rõ chuyện,” cô ta nói, khua thanh sắt nung. “vì tôi sẽ đóng nó vào mông anh, Devellyn ạ.” Ngài hầu tước nhăn nhó. “Cammie, dù anh có làm gì, thì cho anh xin lỗi. Ngày mai, anh sẽ xuống cửa hàng của Garrard và mua cho em một sợi dây chuyền nhé, anh thề đấy.” chàng quay đi một nhoáng để đặt gậy và mũ xuống. Một quyết định rất tệ hại. Cô ả quăng thanh sắt lên đầu chàng, rồi xông vào chàng như một con chó săn chuột điên cuồng, nặng 8 xtôn (khoảng 50kg) đá đấm, cào cấu liên tục. “Đồ con hoang!” cô ta rú lên, nhảy lên lưng chàng và dộng một nắm tay vào đầu chàng. “Đồ con lợn! Con Lợn! con lợn ngu ngốc!” Camelia chẳng là gì ngoài một diễn viên sân khấu. Những người hầu giờ đang lấp ló nhìn trộm từ hành lang. Devellyn quay tròn, cố thoát ra khỏi cô ta, nhưng Camelia bám chặt lấy cổ chàng, cố bóp nghẹt cổ chàng bằng một tay, trong khi vẫn ra sức đấm chàng gần chết với tay kia. “Đồ khốn ích kỉ, vô tình,” cô ta gào lên, mỗi âm tiết đi liền với một cú đánh. Anh không bao giờ chịu nghĩ đến tôi. Anh! Anh! Luôn luôn chỉ biết đến anh thôi!” Và rồi chàng nhớ ra, những cú đấm hình như đã nhồi một ít nhận thức vào đầu chàng. “Ôi, mẹ kiếp!” chàng nói. “Vở Cleopatra!” Chàng rốt cục cũng tóm được cái váy của cô ta và kéo cô ta ra. Cô ta ngã đập mông xuống sàn nhà và ngước lên nhìn chàng một cách độc địa. “Đúng, vở Cleopatra của tôi!’ cô ta xác nhận lại. “Buổi ra mắt của tôi! Đêm mở màn của tôi! Tôi cuối cùng đã thành một ngôi sao---và tôi đã thu phục nhà hát, anh, đồ chó ích kỉ! Anh đã hứa, Devellyn! Anh đã hứa là sẽ có mặt ở đó.” Chàng hầu tuớc tuột người ra khỏi áo khoác, và người quản gia của chàng rụt rè trườn tới đón lấy nó. “anh thề là anh rất hối tiếc, Cammie,” chàng thốt lên. “Thực đấy mà. Anh sẽ đến đó lần tới. Anh sẽ đến…sao không là tối nay luôn nhỉ! thế có được không?” Camelia sửa lại váy xống và đứng lên với sự duyên dáng hết mức mà cô ta tập trung được. “Không, không được,” cô ta nói, quay đi và nói một cách kịch cỡm qua vai. “Bởi vì tôi sẽ rời bỏ anh, Devellyn ạ.” “Bỏ anh ư?” Camelia đi đến chỗ lò sưởi. “Đúng, xua anh đi,” cô ta tiếp tục. “Vứt bỏ anh. Ném anh ra khỏi đời tôi. Có cần tôi nói nữa không?" “Nhưng Cammie, tại sao chứ?” “Bởi vì ngài Edmund Sutters đã gửi đến cho tôi một đề nghị rất tử tế tối nay.” Camelia nhìn xuống chàng, và cô nàng từ Spitalfield biến mất. “ Trong khi chúng tôi cùng thưởng thức rượu sâm panh ở hậu trường khi buổi diễn kết thúc.” “Ở sau sân khấu?” “Nơi mà lẽ ra anh nên có mặt.” Camelia giờ đang ve vuốt bức tượng Meissen, lướt những ngón tay thon dài của cô ta trên nó theo cái cách mà chàng từng nghĩ là rất gợi tình, nhưng bây giờ trông có vẻ khá là nguy hiểm. “Dĩ nhiên,” cô ta tiếp, “Nếu anh ở đó, anh ta sẽ không dám, đúng không? Nhưng anh lại không ở đó. Và anh ta đã làm thế.” Bất thình lình, cô ta xoay tròn. “Và tôi đã nhận lời, Devellyn. Anh nghe rõ chứ? Tôi đã nhận lời rồi.” Cô ta thực sự có ý đó lần này. Đúng là một sự phiền phức chết tiệt. Ồ, mà dù sao vẫn luôn có những người đàn bà khác. Chàng nên biết thế. Ah, mà chàng biết thế. Chàng chỉ không có tham vọng đi kiếm một cô khác. Nhưng chàng biết từ kinh nghiệm đã qua rằng khi một người đàn bà đã chán ngán chàng, chẳng gì ngăn được cô ta gói ghém hành lý và bỏ đi. Devellyn thở dài và giang hai tay một cách truyền cảm. “Này, chết tiệt, Cammie, anh ghét sự việc đến mức này.” Cô ta hất cằm lên khinh khỉnh. “Tôi sẽ chuyển đi ngay sáng nay.” Ngài hầu tước nhún vai. “Được thôi, không cần phải vội vã,” chàng nói. “Tôi muốn nói là, tôi không cần gấp ngôi nhà này, và tôi sẽ ra ngoài hai tuần lễ hoặc ghé qua chỗ ai khác, vì vậy em cứ từ từ…” Bức tượng Meissen cuối cùng trúng ngay góc vuông trên trán chàng. Những mảnh vỡ rơi lả tả. Devellyn loạng choạng bước lùi lại, nhưng cô ta đã tóm được chàng trước khi chàng ngã nhào xuống sàn. “Đồ con hoang! Đồ con lợn!”những nắm tay nhỏ nhắn lại vung lên. “Đồ con lợn! Đồ con hoang! Tôi lẽ ra phải treo cổ anh như một con gà Chủ nhật gầy trơ xương.” “Ối, phiền thật!” Devellyn nói mệt lử. May mắn là Camelia không viết tên cô ta lên dụng cụ của cô ta. “Đồ con hoang! Đồ con lợn!” Devellyn đổ nhào ra sàn, Camelia vẫn vung vẩy trên cổ chàng. *** Sidonie Saint-Godard là một phụ nữ theo chủ nghĩa độc thân, không chịu phụ thuộc, và vừa đủ tiền bạc để thanh toán các hoá đơn. Lúc đầu, sự độc lập của nàng đã rất phù hợp như một đôi giày mới với một cái gót cao nguy hiểm; một thứ gì đó mà người ta phải loạng choạng lúng túng khi bước trên nó, với hi vọng sẽ không trượt chân và ngã dập mặt trên tấm thảm của xã hội thượng lưu. Rồi nàng quay trở lại London, nơi chôn rau cắt rốn, và nhận ra rằng chiếc giày sẽ sớm bắt đầu làm đau chân. Không như nước Pháp, quyền độc lập của phụ nữ ở Anh bị bó buộc và thắt nút với một đống những trách nhiệm và nghĩa vụ. Nàng phải mất một năm tròn mặc đồ tang trước khi Sidonie nhận ra giải pháp là tháo quách giày ra và chạy chân trần vào đời.Giờ, với tuổi tác tuyệt vời là hai chín, nàng chạy nước rút để đạt được những gì nàng xứng đáng. Và khi nàng mất, nàng sẽ nói lại với ông anh trai George, nàng muốn bia mộ của nàng khắc: Đã Sống một cuộc sống trọn vẹn. Đó là dự dịnh của nàng, cho cuộc sống, nàng hiểu rõ, nhưng không chắc chắn, và bất chấp những câu cách ngôn cũ trái ngược nhau, cả người tốt lẫn người xấu đều thường chết trẻ. Sidone thậm chí còn không chắc nàng rơi vào loại nào. Tốt? Hay xấu? hay cả hai một ít? Như nhiều cô gái Pháp xuất thân danh giá khác, Sidonie đã rời khỏi mái ấm che chở của bà mẹ tới với những bức tường cao cứng đờ của trường dòng. Tuy nhiên, ở đó, nàng đã tìm được chỗ ẩn náu cho những khoảnh khắc tinh quái hơn nhiều. Nàng đã bỏ trốn với một anh chàng đẹp trai người chẳng có lấy một mái nhà hay bức tưòng nào—không theo một thói thường nào cả. Thay vào đó, Pierre Saint-Godard sở hữu một tàu buôn mới, lớn, rộng rãi với hai buồng thuyền truởng và một dãy những ô cửa sổ nhỏ để có thể ngắm nhìn thế giới khi nó lướt qua. Nhưng Sidonie đã sớm nhìn ngắm đủ thế giới. Nàng đã bán thuyền, gói ghém quần áo và con mèo, rồi chuyển tới London. Giờ nàng sống trong một căn nhà trên phố nhỏ xíu ở Bedford Place, bao quanh bởi những ngôi nhà nhỏ khác tương tự của các thương nhân, nhân viên nhà băng, và hầu hết không phải có địa vị cao. Và thời điểm này, nàng đang dành vài phút để ngắm cảnh từ ô cửa sổ trên cầu thang của nàng. Một cánh cửa đã hạ xuống, và phiá bên kia đường Bedford Place, một xe chở hành lý đã đỗ lại, và hai người đàn ông đang chuyển những cái hòm vào thùng vào xe với sự hoạt bát khẩn trương. “Giờ số cô nhân tình đã lên đến bao nhiêu rồi ý nhỉ, Julia?” Sidonie hỏi, dựa người lên đầu chị bạn và ngó qua tấm màn che. Julia tính nhẩm trên những ngón tay. “Cô tóc vàng nhạt hồi tháng Mười hai là bảy,” chị đáp. “Vậy nên cô này là tám.” “Và đây mới là tháng Ba.” Sidonie tiếp tục lau khô những giọt nước bám trên mái tóc đen dài của nàng. “Em rất muốn biết gã này là ai, mà lại đối xử với những người đàn bà tội nghiệp quá mức cao ngạo như thế. Như thể anh ta nghĩ họ là những cái áo khoác cũ, bị ném bỏ đi khi không vừa nữa.” Julia đứng thẳng người lên khỏi cửa sổ. “Không có thời gian cho việc đó đâu, bạn thân mến,” chị cảnh cáo, đẩy Sidonie về phía lò sưởi. “Cô sẽ bị muộn mất. Ngồi xuống, và để tôi chải mớ tóc ướt rối bù này cho khô, hoặc không cô sẽ chết khi đi xuống phố Strand mất.” Nghiêm chỉnh, Sidonie khời ngọn lửa. Thomas, con mèo của nàng, nhảy ngay vào lòng. “Nhưng đó quả thực là một lối cư xử đê tiện, Julia,” nàng nói, vuốt ve một tay lên lớp lông đen mượt của con mèo.“Chị biết mà. Có lẽ người quét đường có thể nói cho chúng ta tên của gã? em sẽ hỏi xem sao.” “Được rồi, có thể,” Julia nói lơ đãng khi cô kéo chiếc lược xuống. “Cô biết không, bạn thân mến, tóc cô rất giống tóc mẹ cô đấy.” “Chị nghĩ thế sao?” Sidonie hỏi, với một chút hi vọng. “Claire có một bộ tóc rất đẹp.” “Khiến tôi xanh xao vì ghen tị ý chứ,” Julia thú thật. “và nghĩ đến nó, tôi ở trên sân khấu với bộ rơm khô màu nâu như chuôt này! Nếu chúng tôi đứng cạnh nhau---như chúng ta vẫn thưòng làm—bà ấy sẽ lấn áp tôi vào bóng râm.” “Nhưng chị có công việc tuyệt vời, julia! Chị nổi tiếng. Được nâng ly chúc mừng ở Drury Lane, không phải sao?” “Ôi, chỉ một thời gian thôi,” chị trả lời. “nhưng đã là quá khứ rồi.” Sidonie rơi vào im lặng. Nàng biết đã nhiều năm kể từ khi Julia diễn một vai xuất sắc trong những nhà hát ở West End. Và còn lâu hơn thế nữ khi những người đàn ông giàu có đã từng tranh nhau để được sự ưu ái của chị chuyển sang những người phụ nữ khác trẻ trung hơn. Bất chấp việc trẻ hơn vài tuổi, Julia đã trở thành bạn thân với mẹ của Sidonie, vì họ đã từng đứng trong cùng một giai cấp; gái giang hồ. Và tất cả những kẻ đeo bám khác. Và những kẻ đeo bám đó luôn bao gồm cả những kẻ ăn chơi trác táng ở tầng lớp cao hơn, giàu và có sở thích là những phụ nữ không thuộc dòng dõi quý phái. Nhưng Claire Bauchet đã từng thuộc dòng dõi quý phái. Bà cũng có vẻ đẹp làm tê tái lòng người. Lợi thế trước nhất đã nghiệt ngã và tàn nhẫn trôi tuột khỏi bà. Lợi thế thứ hai bà đã trau dồi như một cây phong lan trong nhà kính, như Julia, Claire đã sống nhờ vào sắc đẹp. Nhưng trong khi Julia trở thành một diễn viên tài năng, nguời đôi khi có may mắn được giữ lại bởi một người hâm mộ giàu có, thì Claire đã đơn giản trở thành một gái điếm hạng sang. Tài năng của bà là sự duyên dáng và sự quyến rũ, và một ít những thứ khác nữa. Rồi, có lẽ không được công bằng cho lắm. Cả cuộc đời, Claire chỉ được giữ lại bởi một người đàn ông duy nhất. Khi sidonie quay trở lại London, người bạn cũ của mẹ nàng đã là người đầu tiên đến rung chuông và chào đón nàng vào nhà. Và rõ ràng đến đau lòng là Julia rất cô đơn. Khi chuyện đó xảy ra, Sidonie đang rất cần một người hầu. Chưa kể đến một người đồng hành, một đầu bếp, và một bạn tâm tình. Không may, nàng không thể chi trả cho tất cả những thứ đó. Người đầu bếp nàng đã nhanh chóng thuê đuợc. Julia, nữ diễn viên tài giỏi, đã chứng tỏ là giải pháp tuyệt vời cho mọi việc còn lại. Và mặc dù Sidonie không hỏi đến, nhưng nàng nghi là Julia đã sống cạn kiệt đến xương tuỷ, như những người đàn bà sống nhờ sự thông minh và vẻ ngoài thường rơi vào. “Cô nhớ bà ấy không?” Julia hỏi. Sidonie nhìn qua vai và cân nhắc. Nàng có nhớ Claire không nhỉ? “Có, một ít thôi. Bà ấy luôn tràn trề sức sống.” Ngay khi đó, một âm thanh va chạm khủng khiếp vang lên. Thomas bắn khỏi lòng nàng và chui tuột xuống gầm giường. Julia và Sidonie vội vã quay trở lại cửa sổ, táo bạo mở rộng tấm rèm ra. Chiếc xe chở đồ đã đi khỏi, và trên sàn của ngôi nhà đối diện, một ai đó vừa ném một khung kính. Một cô nàng tóc đỏ xinh xắn đang thò nửa người qua cửa sổ, giữ chặt một cái bô tiểu trong phòng ngủ. “Đồ con lợn!” cô ta gào lên, quăng nó xuống đất. “Đồ con hoang!” “Lạy chúa.” Julia nói. Một khung kính khác bay vèo lên. Cô nàng tóc đỏ lại xuất hiện. Một cái bình nữa. “Đồ con hoang! Con lợn!” nó rơi xuống, những mảnh vỡ của món đồ sứ trắng rơi loảng xoảng xuống vỉa hè. Sidonie nổ ra một tràng cười rũ rượi. Julia nhún vai. “Thế đấy, dù anh chàng hào hoa bí ẩn của cô là ai đi chăng nữa,” chị lẩm bẩm. “Thì anh ta sẽ không còn bô mà đi tiểu khi cô ta xong việc với anh ta.”