Hồi 1

Một Mình Tìm Thù Mười Sáu Năm Trải Cơn Sóng Gió
Quần Hùng Cùng Ra Tay Trên Núi Ngũ Đài Chấn Tam Quân

Một bài từ cũ mùa thu nam quốc hồn chơi vơi Mười năm li tán phòng thêu một mình kiếm khí lạnh Tiếu giang hồ lãng tích thập niên du, không phụ thiếu niên đầu. Đối đồng đà hạng mạch, ngâm tình miểu miểu, tâm sự du du! Tửu Lãnh thi tàn mộng đoạn, Nam quốc chính thanh thu. Bả kiếm thê nhiên vọng, vô xứ chiêu quy châu.

Minh cựu thiên nhai lộ viễn, vấn thùy lưu sở bội, lộng ảnh trung châu? Số anh hùng nhi nữ, phủ ngưỡng cổ kim sầu. Nan tiêu thụ đăng hôn la trướng, đàm hoa nhất hiện hận nan hưu! Phiêu linh quán, kim qua thiết mã, bính táng hoang khâu!

Theo điệu “Bát thanh Cam Châu”.

Tạm dịch:

Giang hồ biền biệt mười năm, phụ lòng chàng trẻ tuổi. Gặp nhau xứ khách tình mong manh, tâm sự mênh mang! Rượu lạnh thơ tàn mộng đà dứt, trời đang lúc thu. Buông kiếm nhìn xa xăm, biết về đâu chốn nao.

Mai kia chân trời vẫn nơi xa, hỏi có ai người giữ chút tình? Anh hùng nhi nữ, nghiêng ngả cùng sầu thiên cổ. Khó tan khối u sầu, hoa đàm vừa nở hận khôn nguôi! Trôi dạt mãi, qua vàng ngựa sắt chôn vùi gò hoang!

Đêm thu miền Nam trời không gợn mây, vầng trăng sáng ngời treo giữa bầu trời. Lúc này trời đã khuya, vạn vật chìm vào giấc ngủ vùi, chỉ có phủ Tổng Binh Hàng Châu là vẫn còn nghe tiếng cười nói ồn ào.

Hôm nay là đêm trước ngày xuất giá của con gái quan Tổng Binh. Quan Tổng Binh người Kỳ (Mãn Châu), họ Nạp Lan, tên Tú Cát, là một trong những khai quốc công thần của nhà Thanh, năm xưa theo Đa Nhĩ Cổn nhập quan, chinh chiến hơn hai mươi năm mới được thăng lên đến chức Tổng Binh Hàng Châu.

Con gái của ông ta tên gọi Minh Tuệ, danh rất hợp với thực, nổi tiếng thông minh xinh đẹp trong chốn quyền quý. Nạp Lan Tú Cát không có con trai, bởi vậy xem nàng như viên ngọc quý, từ nhỏ đã mời thầy giỏi dạy dỗ, ban ngày tập võ, ban đêm học văn, đúng là một bậc kỳ nữ văn võ toàn tài.

Từ sau khi Nạp Lan Tú Cát được thăng làm Tổng Binh, một vị thân vương có họ xa với hoàng gia mến tiếng con gái của ông ta nên đã cầu thân cho con trai của mình. Con trai của thân vương này tên gọi Đa Thích, kể ra tên tuổi cũng lừng lẫy, là một trang hảo hán nổi trội trong người Kì, từ nhỏ đã có thể cỡi ngựa bắn cung, tài cỡi ngựa hay thuật đánh kiếm đều hơn người, năm hai mươi hai tuổi đã từng theo quân tây chinh, bình định Chuẩn Cát Nhĩ và Đại, Tiểu Kim Xuyên, năm nay vừa tròn hai mươi tám tuổi nhưng đã được phong làm Đề Đốc, có thể nói là một viên tướng trẻ tuổi nhất trong chốn quyền quý. Nạp Lan Tú Cát có được một đứa con rể như thế đúng là thêm hoa trên gấm, mừng càng thêm mừng.

Nhưng trong đêm trước ngày xuất giá, Nap Lan tiểu thư lại nước mắt lưng tròng, tay cầm mảnh giấy chép bài từ, khi đọc đến câu “Nan tiêu thụ đăng hôn la trướng, đàm hoa nhất hiện hận nan tu,” thì nàng không kìm được nữa, nước mắt tuôn ra lả chả, một lúc lâu sau mới gắng gọi được hai chữ “nhũ mẫu”.

Người nhũ mẫu này chính là bảo mẫu của nàng, chính bà ta đã chăm sóc Nạp Lan tiểu thư ngay từ khi còn nhỏ, bởi vậy thân hơn cả cha mẹ ruột. Lúc này nhũ mẫu đang ngủ ở phòng ngoài, nghe tiếng nàng gọi bước vào, thấy nàng như thế thì không khỏi nói:

“Tiểu thư, sao phải khổ thế? Phu nhân biết sẽ đau lòng.

Tiểu thư, tôi khuyên tiểu thư nên quên chuyện xưa đi thôi...”.

Nạp Lan tiểu thư cắt lời bà:

“Nhũ mẫu, cứ mặc con, con cầu xin người hãy mang tiểu Bảo Châu đến đây, con muốn nhìn lại nó!”.

Nhũ mẫu lắc đầu thở dài, cuối cùng vẫn nói một tiếng “vâng” rồi lui ra ngoài.

Ngay lúc này chỉ thấy ánh đèn bên cạnh cửa sổ chao nghiêng, có gió lướt tới, một bóng người phóng tọt vào bên trong.

Đó là một thiếu niên anh tuấn, dưới ánh đèn có thể thấy khóe mắt chàng thoáng hiện nỗi bi phẫn, chàng nhìn thấy trên tay Nạp Lan tiểu thư chính là bài từ mà chàng đã viết, trên mảnh giấy lấm tấm nước mắt.

Chàng cười buồn rồi nói:

“Muội muội, hôm nay là ngày đại hỉ của muội!”.

Nạp Lan tiểu thư nhìn lên, nước mắt tuôn rơi lả chả, nói:

“Chả lẽ huynh cũng không thể hiểu cho nỗi khổ của muội, còn hờn trách muội sao?”.

Chàng thiếu niên bước tới, nói nhanh:

“Chả lẽ chúng ta không thể bỏ đi.

Nam xuống Bách Việt, Bắc lên Thiên Sơn, bốn biển rộng lớn lẽ nào không có nơi cho chúng ta náu thân sao?”.

Nạp Lan tiểu thư không ngẩng đầu lên, nàng buồn bã nói:

“Ai bảo huynh là người Hán?”.

Thiếu niên ấy biến sắc, cười ha hả nói:

“Tôi còn tưởng cô nương là nữ trung hào kiệt, té ra cô nương là một nữ nhi hiếu thuận của hoàng triều họ Ái Tân Giác La!”.

Nói chưa dứt lời chợt nghe tiếng tù và rúc lên, trong vườn tên bay loạn xạ.

Chàng thiếu niên trừng mắt, đột nhiên buông tay, cười lạnh nói:

“Nếu cô nương muốn lấy mạng tôi thì cần gì phải dùng quỷ kế như thế? Tôi sẽ xuôi tay cho cô nương bắt trói, coi như là tặng một món quà lớn trong ngày tân hôn của cô nương!”.

Nạp Lan tiểu thư vốn đang cúi đầu khóc thút thít, lúc này nàng cũng hoảng lên, hoa dung thất sắc, run rẩy nói:

“Huynh... huynh sao lại nói những lời như thế!”.

Chàng thiếu niên tiến sát đến cửa sổ nhìn ra, chỉ thấy có mấy mươi ngọn đèn Khổng Minh sáng trưng như ban ngày, tiếng người quát tháo ồn ào chạy dồn ra cửa đông như nước triều, nhưng lại không ai chạy về hướng mình, rõ ràng chẳng phải đối phó với mình, chàng thiếu niên cũng ngạc nhiên. Không lâu sau tiếng người dần dần nhỏ lại, từng ngọn đèn Khổng Minh tắt phụt.

Chàng thiếu niên quay đầu lại toan lên tiếng thì chợt nghe bên ngoài cửa có tiếng bước chân vọng tới, chàng xoay người nấp sau màn, chỉ thấy cửa mở ra, nhũ mẫu của Nạp Lan tiểu thư cõng một đứa bé gái hớt hải chạy vào nói:

“Tiểu thư, nghe nói đại lao có người cướp ngục, đêm nay đa số vệ binh đều ở đây, phía bên đó người không đủ, một số tù phạm đã chạy thoát, nên lúc nãy người ta mới vội vàng điều người ở đây đi, tiểu thư có sợ không?”.

Nạp Lan tiểu thư im lặng không đáp, nàng đưa tay đỡ lấy đứa trẻ. Đứa trẻ khóc òa lên, chàng thiếu niên ở sau màn nhảy tót ra.

Nhũ mẫu giật mình, khi nhìn rõ lại thì nói:

“Dương công tử, xin ngài tha cho, mai đã là ngày đại hỉ của tiểu thư”.

Chàng thiếu niên gật đầu nói:

“Ta biết!” rồi chàng thở dài ngâm nga rằng:

“Minh nhật thiên nhai lộ viễn, vấn thùy lưu sở bội, lộng ảnh trung châu?” ngâm chưa dứt thì chợt đẩy một chưởng về phía Nạp Lan tiểu thư!

Nạp Lan tiểu thư cả kinh, vốn có thể né tránh, nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, đứa trẻ trong tay nàng đã bị thiếu niên cướp đi. Nạp Lan tiểu thư hoảng lên hỏi:

“Huynh... huynh làm gì thế?”.

Chàng thiếu niên lui người, tiến sát đến cửa sổ gằn giọng nói:

“Từ hôm nay trở đi, nó không còn là của cô nương nữa, cô nương không xứng hỏi đến nó!”.

Đứa trẻ kêu khóc một hồi thì đã ngủ say nhưng lúc này lại mở mắt ra, thấy Nạp Lan tiểu thư đầu bù tóc rối, tựa như đang nhảy bổ tới thì sợ lắm, miệng mếu, tay với về phía trước như sắp khóc tới nơi, thiếu niên vội vàng xoay nửa người cô bé vỗ nhè nhẹ, nhìn ra cửa sổ chỉ thấy sao trời lấp lánh, vầng trăng sáng đang ở giữa không trung, trong vườn im lặng như tờ, chàng nghiến răng ôm đứa trẻ phóng vọt ra cửa sổ, phía sau lưng chỉ nghe tiếng gọi thảm thiết của Nạp Lan tiểu thư, chàng không quay đầu lại, trổ khinh công vượt qua khu vườn rồi biến mất trong đêm tối.

Trong vườn rất yên tĩnh, nhưng ngoài đường phố thì rất ồn ào, chàng thiếu niên đưa mắt nhìn chỉ thấy phía bên phủ Tổng Binh lửa cháy ngất trời, người trên đường phố hớt hải chạy, trẻ con gào khóc. Chàng thiếu niên bế đứa trẻ lẩn vào trong đám người, chẳng ai để ý đến chàng.

Chàng thiếu niên biết quân lính đang trấn áp tù vượt ngục, trong lòng lo lắng không khỏi nhìn lại, chỉ thấy ở mấy ngã đường gần phủ Tổng Binh đã bị binh lính phong tỏa, hình như tù phạm đã chạy ra một hướng khác, bởi vậy một đội nhân mã đã phóng vọt về phía ấy. Nơi ấy tối om om chàng chẳng thấy rõ. Chàng lại nhìn đứa trẻ trên tay mình thở dài, tuy phía ấy vẫn nghe tiếng binh khí chạm nhau vọng lại văng vẳng, chàng cũng chỉ đành hòa vào dòng người chạy ra ngoại ô.

Chạy ra đến ngoại ô dòng người đã tản mát khắp nơi, vừa thoát khỏi nơi nguy hiểm ai cũng mệt lả, có người nằm xuống đất, có người ngồi thành từng nhóm, chẳng ai buồn cất bước nữa. Chỉ có chàng thiếu niên vẫn ôm đứa trẻ chạy một mình trong đồng trống.

Đến nửa đêm, vầng nguyệt dần dần dời về phía tây, đứa trẻ đã say ngủ.

Chàng thiếu niên định tìm một nơi nghỉ ngơi, chợt nghe tiếng vó ngựa lộc cộc vọng tới, có lẽ đó là quân lính đuổi theo tù phạm đến đây. Tiếng vó ngựa nghe rất gấp, tựa như truy binh đuổi rất nhanh!

Gần nơi chàng thiếu niên đứng có một nấm mồ, trên mồ có bãi cỏ dại cao đến nửa thân người, chàng liền ôm đứa trẻ ẩn mình sau nấm mồ. Khi nhìn kỹ lại thì thấy có hai thớt ngựa đuổi theo một đôi nam nữ tuổi khoảng đôi tám, chàng thiếu niên không khỏi kinh ngạc.

Đôi thiếu niên nam nữ ấy chạy đến cách nấm mồ khoảng hai mươi bước thì đột nhiên ngừng lại, mỗi người đều rút kiếm ra. Lúc này hai thớt ngựa cũng đã đuổi tới, người trên ngựa nhảy xuống, một kẻ rút ra Thiết Liên, một kẻ rút Khảm Đao. Đó là hai đại hán Mãn Châu cao lớn, cả hai nhảy bổ tới quát bảo bọn họ mau mau bó tay chịu trói. Hai thiếu niên nam nữ chẳng hề ngó đến, thế là múa tít đôi kiếm cự với hai đại hán!

Thiếu nữ ra tay rất nhanh nhẹn, nàng đột nhiên hạ người, mũi kiếm đâm hất lên nhanh như điện chớp vào cổ họng của đại hán sử dụng Khảm Đao, người ấy lui một bước, đánh ra một đao Thiết Tỏa Hoành Giang chặn lại. Nàng thiếu nữ chợt thâu chiêu rồi đâm trở ra một kiếm vào ngực của đối thủ. Đại hán lại thối lui một bước, đột nhiên chém tròn thanh đao vẽ ra một vòng ngân hồng đâm xéo tới, kiếm chiêu triển khai như cuồng phong quét lá.

Kiếm chiêu của thiếu niên không lanh lẹ như thiếu nữ, cách đấu cũng khác hẳn. Chỉ thấy trên tay chàng ta tựa như cầm một vật nặng, mũi kiếm lúc chỉ đông lúc đâm tây, kiếm quang liền lạc, môn hộ kín kẽ. Đại hán Mãn Châu múa sợi Thiết Liên kêu lên vù vù mà chẳng chạm vào được thân kiếm của chàng ta.

Chàng thiếu niên nấp ở sau nấm mồ là một đại hành gia, từ năm mười tám tuổi chàng đã phiêu bạt giang hồ, đến nay đã mười năm, bởi vậy đã từng gặp chiêu số của các nhà các phái. Vừa nhìn kiếm pháp của đôi nam nữ thì biết ngay họ tuy tuổi còn trẻ nhưng đã được danh sư truyền thụ. Chỉ là kiếm chiêu của thiếu nữ tuy nhanh nhẹn, có thể chiếm tiên cơ nhưng công lực thì lại không đủ, nếu đối phương du đấu với nàng một thời gian dài chắc nàng sẽ chẳng có sức chống trả.

Còn kiếm chiêu của thiếu niên tuy chậm rãi nhưng đó là tinh túy của Vô Cực Kiếm Pháp. Bề ngoài xem ra lọt xuống thế hạ phong nhưng chẳng hề gì. Chàng thiếu niên ở sau nấm mồ ôm đứa trẻ, nhìn kỹ cuộc đấu, trong tay đã cầm sẵn ba viên Thiết Bồ Đề, định rằng hễ nàng thiếu nữ gặp nguy hiểm thì sẽ ra tay tương cứu.

Một hồi sau quả nhiên thiếu nữ dần dần lọt xuống thế hạ phong, nàng đánh ra một chiêu Phong Quyển Lạc Hoa, mũi kiếm cầm xéo xuống rồi quét ngược lên, toan chém vào cổ tay của kẻ địch. Đại hán sử dụng Khảm Đao chợt quát lớn một tiếng bước dấn tới đánh ra một chiêu Thuận Thủy Hành Châu, chẳng những không né tránh kiếm chiêu của nàng thiếu nữ mà trái lại còn chém ngang ra, ánh đao loang loáng tấn công ba mặt của nàng thiếu nữ. Nàng thiếu nữ luống cuống lướt người ra, có lẽ nàng muốn nhờ thân pháp lanh lẹ mà né tránh những chiêu số dồn dập của đối thủ.

Nhưng đại hán ấy tựa như đã đoán được ý đồ của nàng, khi chém ngang tới thì cũng phóng ra hai cây Sũy Thủ Tiễn, sau khi phóng tiễn, mũi đao thừa thế cắm xuống đất rồi lộn người lên, khi đang lơ lửng trên không trung thì đao đánh ra một chiêu Độc Phách Hoa Sơn bổ xuống đầu nàng thiếu nữ.

Trong khoảnh khắc sinh tử, ba viên Thiết Bồ Đề của chàng thiếu niên ở sau mộ đã phóng ra, đại hán sử dụng Khảm Đao chỉ thấy hai cây Sũy Thủ Tiễn của mình sắp trúng vào nàng thiếu nữ thì tự nhiên rơi xuống, y vừa ngạc nhiên thì cổ tay lại đau nhói lên, lúc này đang bổ xuống như chim ưng bắt thỏ nhưng lại bị ám toán, suýt nữa đã buông cây đại Khảm Đao. Y đau đến nỗi kêu lớn một tiếng, cây đao lại chém tới như cuồng phong. Ngay lúc này, bối tâm chợt mát rượi, một mũi kiếm đã đâm tới, bên tai chỉ nghe tiếng quát:

“Đừng hòng đả thương muội tử của ta!” Y chưa kịp quay đầu thì vai trái đã bị chém một mảng thịt!

Vô Cực Kiếm Pháp của thiếu niên vốn cao hơn đối thủ rất nhiều, tuy hỏa hầu chưa đủ, trong nhất thời vẫn không thủ thắng nổi nhưng đã chiếm được thượng phong, chàng vừa đánh vừa để ý thiếu nữ bên cạnh mình, thấy nàng thiếu nữ thất thế thì tấn công gấp, chàng đánh ra một chiêu Trừu Triệt Liên Hoàn, đâm ra một mạch ba nhát kiếm, điểm vào ngực, đâm vào hai vai vừa dữ vừa chuẩn.

Đại hán sử dụng sợi Thiết Liên buộc thối lui ra sau, chàng thiếu niên cũng không đuổi theo mà xoay gót lộn người trở tay đâm ngược về phía đại hán đang truy kích nàng thiếu nữ.

Đây đúng là bọ ngựa bắt ve không biết chim sẻ phía sau, đại hán sử dụng Khảm Đao chưa kịp quay đầu thì vai đã bị mất một mảng thịt lớn, trong khoảnh khắc này nàng thiếu nữ cũng xoay người lại nhảy bổ tới. Đại hán sử dụng Khảm Đao đã bị thương, làm sao có thể chịu nỗi đòn tấn công như mưa bão của hai người, chỉ thấy hai luồng kiếm quang chém ngược hướng nhau tạo thành một cây kéo, đại hán đã bị chém làm ba đoạn, máu văng tung tóe.

Đại hán sử dụng Thiết Liên thì rất tinh ranh, vừa thấy đồng bọn mất mạng thì lập tức phóng lên ngựa bỏ chạy, con chiến mã còn lại không có chủ cũng hí dài rồi chạy theo.

Thiếu niên ở sau mộ thấy đôi nam nữ chưa phát hiện rằng mình phát ám khí tương cứu, không khỏi cười thầm:

“Té ra là bọn nhãi nhép vừa mới xuất đạo”.

Lúc này đôi thiếu niên nam nữ đã đút kiếm vào vỏ, nắm tay nhau tựa như đang thủ thỉ điều gì đấy, thiếu niên ở sau mộ thấy họ mấp máy môi nhưng không nghe họ nói được gì. Đột nhiên nàng thiếu nữ buông tay, cao giọng hỏi:

“Vậy là huynh đã nói đấy nhé?” Chàng thiếu niên gật đầu vâng một tiếng, thiếu niên ở sau mộ tuy không nghe rõ nhưng vẫn biết chàng ta đã thừa nhận.

Sau khi vâng một tiếng, nàng thiếu nữ đột nhiên nhảy ra, tựa như né tránh thứ gì rất đáng sợ, nàng chợt nhảy tới vung tay tát bốp một tiếng nghe rõ to vào mặt của chàng thiếu niên. Chàng thiếu niên đang đứng hướng mặt về phía ngôi mộ hoang, dưới ánh trăng sáng ngời, thiếu niên ở sau mộ chỉ thấy mặt chàng ta trắng bệt, chẳng hề nhúc nhích, trông rất đáng sợ!

Nàng thiếu nữ đánh xong, thấy bộ dạng chàng ta như thế thì ôm mặt khóc òa lên, nàng xoay người vừa chạy vừa khóc. Chàng thiếu niên cứ đứng ngây người ở đấy, đến khi nàng ta khuất dạng thì mới lê từng bước tiến về phía trước.

Thiếu niên sau mộ toan lên tiếng gọi nhưng thấy chàng ta hai mắt dại đi, đờ đẫn bước về phía trước tựa như một hồn ma, chàng ta bất giác rùng mình không kêu thành tiếng. Thiếu niên ấy bước về phía ngôi mộ, chui thẳng vào bụi cỏ mà chẳng hề để ý đã có người nấp sau ngôi mộ.

Chàng ta chứng kiến tấn bi kịch ấy thì liên tưởng đến tình cảnh của mình với Nạp Lan tiểu thư, lòng không khỏi bùi ngùi. Lúc này chàng nghe có tiếng ào ào tựa như gió mà chẳng phải gió. Chàng nhìn mặt trăng mới nhớ Trung Thu đã qua được ba ngày, đây là mùa sông Tiền Đường nổi thủy triều. Chàng ngơ ngác đứng dậy, bước lần về phía bờ sông.

Sông Tiền Đường rộng khoảng mấy mươi dặm, mặt sông bàng bạc ánh trăng. Lúc này triều vẫn chưa lên, chàng đưa mắt nhìn ra xa chỉ thấy trời nước một màu, mây mù tỏa kín mặt sông, nhìn chẳng thấy bến bờ. Chàng thiếu niên ôm đứa trẻ lặng lẽ bước một mình, nghe tiếng thủy triều mà lòng trăm mối tơ vò, cho đến khi chợt nghe có tiếng gọi:

“Dương Vân Thông!” chàng mới như sực tỉnh cơn mộng quay đầu lại.

Trước mặt chàng là một ông già mũi khoằm mắt sâu hoắm, bên cạnh lão còn có hai thiếu niên. Dương Vân Thông nhận ra lão chính là võ sư người Mãn Châu tên gọi Thiết Chưởng Nữu Cô Lư, sư thúc của Đa Thích. Lúc mới xuất đạo, Dương Vân Thông đến vùng bồn địa Tử Đạt Mộc ở Hồi Cương giúp người Cáp Tát Khắc chống quân Thanh đã từng gặp mặt lão.

Nữu Cô Lư mặt như phủ một lớp sương, cười mà không phải cười, thần tình rất đáng sợ, y giơ tay chặn trước mặt Dương Vân Thông nói:

“Dương Vân Thông, vẫn mạnh giỏi chứ! Những chuyện ngươi làm mấy năm nay giấu được Nạp Lan Tổng Binh, giấu được Đa Thích Đề Đốc nhưng chẳng giấu nổi lão phu! Đa Thích Đề Đốc là bậc anh hùng của Mãn tộc, Nạp Lan tiểu thư là đệ nhất mỹ nhân của người Kì bọn ta, ngươi không những đã làm mất mặt Nạp Lan tiểu thư mà còn sỉ nhục Mãn tộc bọn ta. Ta phải thay Đa Thích rửa nỗi nhục này!”.

Dương Vân Thông nghe y nói như thế thì vẫn không hề nhúc nhích, mặt cũng chẳng tỏ vẻ gì cả. Lúc này hai thiếu niên đứng bên cạnh Nữu Cô Lư không dằng được nữa, nhảy bổ tới. Dương Vân Thông cười lạnh, xoay người nửa vòng rồi đột nhiên quát lớn một tiếng, tay phải tiếp hai chưởng của thiếu niên ở bên phải rồi chụp cổ tay phải của y. Chàng chỉ nhẹ nhàng ấn một cái thì y đã la lên như lợn bị chọc tiết, thiếu niên đã bị Dương Vân Thông ném ra xa đến mấy trượng.

Lúc này thiếu niên bên trái cũng đã đánh tới, Dương Vân Thông đột nhiên hạ người, né cú đấm của kẻ địch rồi chàng chợt vươn người vỗ một chưởng vào mặt của y, lập tức tròng mắt màu đen vọt ra, máu tươi chảy xuống mặt ròng ròng, ngất ngay tại chỗ. Lần này đứa trẻ trên tay Dương Vân Thông cũng giật mình, khóc òa lên.

Nữu Cô Lư thấy hai học trò vừa ra tay đã bị đánh ra nông nỗi như thế thì gầm lớn một tiếng, phóng vọt người tới, chưởng phải dùng mười thành công lực đánh ra một chiêu Lực Phách Hoa Sơn bổ xuống đầu Dương Vân Thông. Dương Vân Thông cũng không lùi bước, chưởng phải lật lên dồn ra đủ mười thành công lực đánh lên. Hai chưởng giao nhau kêu binh một tiếng, lúc này chỉ nghe đứa trẻ thét lớn một tiếng bay ra khỏi tay Dương Vân Thông! Dương Vân Thông vội vàng lướt ra mấy trượng tựa như chim nhạn đỡ lấy đứa trẻ.

Dương Vân Thông đã chịu một áp lực không nhẹ nhưng Nữu Cô Lư thì càng thê thảm hơn. Y chạm với Dương Vân Thông một chưởng, chịu không nổi nên thối lui mấy bước. Đôi thiết chưởng của y nổi tiếng miền quan ngoại, thế mà không chịu nổi chưởng lực của đối phương, trong lòng tức giận vô cùng, rút ra một cái tam giác tỏa sáng lấp lánh, cái tỏa này là binh khí độc môn của y, tên gọi là Táng Môn Tỏa, có thể dùng như trủy thủ, cũng có thể dùng như đoản kích, lại có thể dùng để đánh huyệt, cực kỳ lợi hại. Lúc này Dương Vân Thông cũng ngừng lại, dùng dây đai buộc đứa trẻ lên lưng của mình, rồi rút ra một cây đoản kiếm sáng lấp lánh.

Táng Môn Tỏa của Nữu Cô Lư dài hai thước tám tấc, còn kiếm của Dương Vân Thông ngắn hơn của y vài phần. Trong đạo binh khí có câu “Một tấc ngắn một tấc hiểm”. Trường thương đại kích giao chiến với nhau sẽ có một khoảng cách ở giữa, còn kiếm tỏa giao nhau thì khoảng cách rất gần, chẳng khác gì đánh xáp lá cà, chỉ thấy ánh tinh quang loang loáng, nếu bên nào chỉ hơi sơ xuất thì sẽ thấy máu rơi cát vàng.

Nữu Cô Lư lao bổ về phía trước, toàn dùng những chiêu số tấn công. Dương Vân Thông cõng đứa trẻ, đứa trẻ lại cứ khóc không thôi, chàng không dám nhảy vọt, lại cứ phân tâm bảo vệ cho đứa trẻ, nên toàn thân toát đầy mồ hôi, rất mất sức. Chỉ là kiếm thuật của chàng rất cao cường, chàng cứ đứng vững như núi, hễ thấy thức phá thức, thấy chiêu phá chiêu, thanh đoản kiếm quét ngang bổ dọc, chém trái đâm phải, chẳng hề lui bước.

Hai người càng đánh càng gấp, càng lúc càng nguy hiểm, đến lúc sinh tử, Nữu Cô Lư đột nhiên dời bước lướt đi như sao xẹt, phóng ra sau lưng Dương Vân Thông đâm vào đứa trẻ.

Lẽ ra Dương Vân Thông phải nhảy vọt ra nhưng chàng lo cho đứa trẻ nên chỉ đành xoay người rồi phóng vọt lên, cây đoản kiếm đánh ra một chiêu Cử Hỏa Thiêu Thiên đè vào Táng Môn Tỏa, mượn thế của Nữu Cô Lư đoạt binh khí của y, chàng chỉ hất một cái thì cây tỏa ấy đã vuột ra khỏi tay Nữu Cô Lư bay ra ngoài.

Thân pháp của hai người đều nhanh, cả hai thâu thế lại kịp, Nữu Cô Lư bị hất văng mất cây tỏa, thế là nhảy bổ tới, Dương Vân Thông chưa kịp hạ người xuống đất thì đã bị y táng trúng. Đứa trẻ phía sau lưng lại thét lên một tiếng, lần này thanh âm của nó nghe khàn đặc. Dương Vân Thông hoảng hốt, chưa kịp né tránh thì ngực đã trúng một chưởng, còn cây đoản kiếm của chàng thuận thế đẩy về phía trước đâm vào be sườn của Nữu Cô Lư lút đến cán.

Dương Vân Thông đâm xong một nhát kiếm cũng chẳng thể cầm cự được nổi, chàng chỉ cảm thấy mắt hoa lên, trời xoay đất chuyển, chàng vội vàng phục người xuống đất để khỏi ngã ra sau đè đứa trẻ.

Nữu Cô Lư cũng trọng thương ngã xuống đất, đôi mắt đỏ ngầu trợn trừng.

Hai người cách nhau chỉ khoảng bốn năm thước nhưng cũng chẳng thể nhảy bổ tới nhau được nữa. Thế là cả hai cứ trợn mắt nhìn nhau, trong gió đêm văng vẳng tiếng khóc khàn đặc của đứa trẻ, cảnh tượng ấy thật khiến cho người ta kinh tâm động phách.

Một hồi sau Nữu Cô Lư gắng gượng ngồi dậy, chống tay xuống đất, từ từ lê người về phía Dương Vân Thông. Dương Vân Thông cả kinh cũng thử nhúc nhích nhưng toàn thân mềm nhũn, chỉ hơi dùng kình thì máu từ dưới ngực dội ngược lên miệng. Nữu Cô Lư vốn được người ta gọi là Thiết Chưởng, Dương Vân Thông bị y đánh trúng ngực, vết thương bởi chưởng nặng hơn vết thương bởi kiếm.

Dương Vân Thông thấy Nữu Cô Lư từ từ lết về phía mình mà mình chẳng có cách nào đối phó, trong lòng vừa lo vừa giận, bất giác ngất đi, một hồi sau bên tai nghe có người gọi liên tục:

“Dương đại hiệp! Dương đại hiệp!” lúc này chàng mới tỉnh dậy, chỉ thấy trước mặt là chàng thiếu niên lúc nãy. Dương Vân Thông ngạc nhiên khẽ hỏi:

“Làm sao ngươi biết ta? Ngươi ở đây làm gì?”.

Thiếu niên ấy không đáp lời, đôi mắt đờ đẫn, đột nhiên nói lớn:

“Tôi muốn nhảy xuống sông!”.

Dương Vân Thông lạnh lùng hỏi:

“Tại sao ngươi vẫn chưa nhảy?”.

Thiếu niên nói:

“Ngài ra nông nỗi này, tôi làm sao có thể nhảy? Dương đại hiệp, tôi nhận ra ông, nhiều năm trước ông đã đến nhà Đà Chủ của chúng tôi, tôi đã gặp ông. Nhưng lúc đó tôi còn bé lắm!”.

Dương Vân Thông chống tay xuống đất, gật gù nói:

“Đúng thế, giờ đây ngươi không thể nhảy xuống sông, sau này càng không nên làm chuyện khờ dại nữa, ngươi chịu thiệt thòi nhảy xuống sông là xong chuyện. Nhưng rất nhiều người thân của ngươi vì sự nghiệp quan phục Hán tộc chịu oan khuất nhiều hơn, hoặc chết hoặc bị thương, bọn người trẻ tuổi các ngươi không màng đến mà chỉ vì một chuyện nhỏ đã tìm đến cái chết thì làm sao ăn nói với họ?”.

Dương Vân Thông hơi ngẩng đầu lên, nheo mắt nhìn chàng thiếu niên, vẻ mặt rất nghiêm nghị. Giọng nói của chàng nghe phều phào nhưng mỗi câu nói đều như tiếng trống chiều chuông sớm, chấn động cõi lòng chàng thiếu niên.

Chàng thiếu niên nhìn Dương Vân Thông, một bậc đại hiệp lừng danh giang hồ đã sức cùng lực kiệt sắp chết tới nơi. Thiếu niên lộ vẻ hổ thẹn, nói:

“Tôi xin nghe lời đại hiệp”.

Dương Vân Thông cố gắng xé một mảnh áo, chàng đột nhiên đưa ngón tay lên miệng cắn, máu tươi tuôn ra, rồi dùng máu tươi viết lên tấm vải khiến chàng thiếu niên ngẩng người ra.

Dương Vân Thông viết xong thì đưa mảnh vải cho chàng thiếu niên, thều thào nói:

“Ngươi hãy cầm lấy bức huyết thư, cùng cây đoản kiếm của ta, bế đứa trẻ này lên Thiên Sơn gặp sư phụ của ta là Hối Minh Thiền Sư, người sẽ dạy cho ngươi kiếm pháp độc bộ thiên hạ!”.

Dương Vân Thông nói vừa dứt lời, tựa như đã làm xong một chuyện lớn, hai mắt khép lại, đầu ngẹo sang một bên.

Lúc này sao đã thưa trăng đã tàn, trời sắp sáng, trên sông Tiền Đường đã có thủy triều buổi sáng, tiếng ầm ầm vọng tới từ xa, thiếu niên cất bức huyết thư, dắt thanh đoản kiếm rồi bế đứa trẻ, nhìn ra mặt sông, cũng không biết trong lòng có cảm giác gì. Ngay lúc này từ xa có tiếng vó ngựa vọng tới, từ xa đã có tiếng nàng thiếu nữ trong trẻo kêu lớn:

“Đại ca!” Chàng đột nhiên thở dài, cởi áo và giày ném xuống dòng nước rồi nấp vào rặng liễu.

Té ra bọn người đang đến là hai nam một nữ, người nữ chính là nàng thiếu nữ đã đánh chàng ta lúc nãy, nàng vỗ ngựa phóng tới không ngừng gọi:

“Đại ca, huynh trốn ở đâu thế? Huynh ra đây đi!” Hai người nam kia thì đang khuyên lơn nàng.

Cả ba người đến bên bờ sông thấy xác người ngổn ngang thì đều ngẩn cả ra.

Một người nam chợt kêu lớn:

“Đây không phải là Dương đại hiệp sao? Ôi chao!

Dương đại hiệp, Dương đại hiệp, ông làm sao thế?” Y vội chạy đến cúi xuống nhìn, chỉ thấy Dương Vân Thông đã đứt hơi, không khỏi kêu hoảng lên, lòng thầm nhủ:

“Dương Vân Thông là truyền nhân của Hối Minh Thiền Sư, kiếm thuật hiếm thấy trên võ lâm, sao lại chết thê thảm như thế?”.

Lúc này nàng thiếu nữ lại kêu thảm một tiếng, vuột chạy về phía bãi cát, tựa như toan nhảy xuống sông Tiền Đường. Hai người nam nhìn ra phía trước, chỉ thấy trên mặt sông có tấm trường sam trôi lềnh bềnh, trên bãi cát là một đôi giày!

Đột nhiên thủy triều sông Tiền Đường trỗi lên, sóng vỗ vào bờ ầm ầm như sấm dậy. Bọt bắn tung tóe trên bạch đê, thủy triều như vạn mã bôn đằng trong chốc lát đã dồn tới ven đê. Hai người nam kêu hoảng phóng người tới trước, kéo nàng thiếu nữ lui ra phía sau. Dù bọn họ thối lui rất nhanh nhưng vẫn bị nước bắn ướt cả người!

Đến khi họ đã lui ra phía sau, chàng thiếu niên mới bước ra khỏi rặng liễu, thong thả đi về hướng Bắc.

Muốn biết đôi nam nữ ấy là ai? Dương đại hiệp và Nạp Lan tiểu thư có mối quan hệ gì, mời xem phần sau sẽ rõ.

Núi Ngũ Đài ở Sơn Tây là thánh địa Phật giáo nổi tiếng, nghe nói chùa Thanh Lương trên núi được xây dựng vào thời Đông Hán, hơn ngàn năm nay nhang khói không suy. Hoàng Đế Khang Hy đã mấy lần lên núi lễ Phật, tham quan chùa cổ, dựng lại tượng Phật, núi Ngũ Đài càng thêm hưng vượng.

Nay là năm Khang Hy thứ mười ba, đại điển khai quang Văn Thù Bồ Tát trong chùa Thanh Lương sẽ diễn ra, đại điển cử hành vào ngày hai mươi chín tháng ba nhưng vừa mới sang năm mới, thiện nam tín nữ từ các nơi đã kéo tới, năm tòa tháp đồng trên núi, mỗi tầng đều khảm Phật đăng.

Sắp đến đại điện khai quan, không cần nói nơi đây cũng càng thêm náo nhiệt, mới sáng sớm người ta đã tụ tập đầy ở trên núi, trong rừng tùng, dưới thung lũng, ngoài suối, có người là tín đồ Phật giáo, có người đến đây chỉ để xem náo nhiệt.

Trong số những người này có một ông già râu để ba chòm, sắc mặt hồng hào, ăn mặc theo kiểu nho sinh, đi cùng với ông ta là một thiếu niên anh tuấn nhưng nói giọng như nữ nhi. Kể ra hai người này cũng có lai lịch lắm. Ông già mặc theo kiểu nho sinh tên gọi Phó Thanh Chủ, không những y thuật tinh diệu trong thiên hạ chẳng ai bằng mà còn giỏi võ công, tinh thông Vô Cực Kiếm Pháp.

Ngoài ra ông ta còn là một danh gia thư họa, là một vị kỳ nhân cuối Minh đầu Thanh.

Còn chàng thiếu niên anh tuấn là một cô gái cải nam trang tên gọi Mạo Hoàn Liên. Cha của nàng tên là Mạo Tị Cương, cũng là một danh sĩ cuối Minh đầu Thanh, năm xưa nàng danh kỷ Đổng Tiểu Uyển mến mộ tài năng của ông ta, tự nguyện làm nàng hầu. Đổng Tiểu Uyển cũng là một tài nữ giỏi thi từ thêu thùa, cả hai người tâm đầu ý hợp, rất thương yêu nhau. Không ngờ vì tiếng tăm của Đổng Tiểu Uyển bay xa, bị Hồng Thừa Tụ cướp đi tiến cung, dâng cho Hoàng Đế Thuận Trị, được phong làm Qúy Phi. Từ sau khi Mạo Tị Cương mất Đổng Tiểu Uyển, suốt ngày rầu rĩ chẳng vui, sau đó chết trong trầm uất.

Phó Thanh Chủ là bạn thân thiết của Mạo Tị Cương, khi Mạo Tị Cương chết đi, Mạo Hoàn Liên chỉ mới được ba tuổi, vì thân thế của nàng phức tạp, Mạo Tị Cương sợ nàng bị người trong tộc coi thường nên nhờ Phó Thanh Chủ chăm sóc.

Bởi vậy từ nhỏ Mạo Hoàn Liên đã đi theo ông ta, học được một thân võ nghệ.

Sáng sớm hôm nay, cả hai người cũng đến vãn cảnh chùa. Phó Thanh Chủ nhìn trái ngó phải tựa như rất thích thú, còn Mạo Hoàn Liên thì mặt mày ủ ê, tựa như trong lòng đang chất chứa tâm sự. Phó Thanh Chủ chợt kêu ồ lên một tiếng rồi nói:

“Liên nhi, con nhìn hai người kia!”.

Mạo Hoàn Liên ngẩng đầu nhìn lên, bất giác giật mình, té ra hai người trước mặt, một người tựa như thây ma, mình cao khoảng bảy thước, gầy như cây sào, sắc mặt trắng bệt trông rất gớm chết; người kia thì béo nung núc, đầu to như cái đấu, trên đỉnh đầu thì trọc lóc.

Mạo Hoàn Liên vốn đang rầu rĩ, thấy bộ dạng quái dị của hai người ấy thì bật cười. Hai người ấy nghe tiếng cười quay lại đảo mắt tìm, Phó Thanh Chủ vội vàng kéo ống tay áo nàng lẩn vào trong đám người sau đó khẽ nói:

“Hai người này là nhân vật có tiếng tăm trên giang hồ, người cao tên là Táng Môn Thần Thường Anh, kẻ thấp là Thiếc Tháp Trình Thông. Con đang có chuyện quan trọng, đừng để ý đến hai tên yêu ma này!”.

Hai người đi một hồi thì Mạo Hoàn Liên chợt quay sang nói với Phó Thanh Chủ:

“Bá bá, người hãy nhìn nhà sư kia!” Phó Thanh Chủ nhìn theo hướng nàng chỉ, chỉ một nhà sư mặt vuông tai lớn đứng trong đám người, người xung quanh tuy chen lấn nhưng vẫn không tiến sát đến nhà sư ấy, y vừa dời bước những người xung quanh tựa như tự động nhường lối cho y. Phó Thanh Chủ thấy thế thì không khỏi kêu ồ một tiếng nhỏ rồi nói:

“Sao tên hòa thượng này lại đến, xưa nay y không niệm kinh lễ Phật, cũng chẳng ăn chay, chuyên môn lo chuyện bao đồng trên giang hồ, người ta gọi y là Quái Đầu Đà Thông Minh Hòa Thượng”.

Lúc này ở con dốc phía đông lại có một đám người nữa, có mấy hán tử dắt theo một đám khỉ, mang theo đao thương, đánh la gõ trống trông giống như đám nghệ nhân mãi nghệ kiếm sống. Đi đầu là một người đàn bà, tuy ăn mặc thô kệch nhưng trông rất oai nghiêm, dung quang rạng rỡ, rất có phong thái của một qúy phụ. Phó Thanh Chủ liếc nhìn rồi khẽ nói với Mạo Hoàn Liên:

“Người đàn bà này chẳng phải là kẻ mãi nghệ tầm thường, từ ánh mắt có thể thấy bà ta có công lực nội gia trên dưới hai mươi năm”.

Phó Thanh Chủ và Mạo Hoàn Liên vừa đi vừa nói, bất giác đã vượt qua nhiều người. Quái Đầu Đà ở phía trước cũng vừa đi vừa ngó nghiêng. Phó Thanh Chủ không muốn chạm mặt y, định kéo Mạo Hoàn Liên rẽ sang lối khác, chợt thấy một thiếu niên tựa như không ưa Quái Đầu Đà ấy nên cố ý lao thẳng về phía trước. Phó Thanh Chủ thầm kêu:

“Hỏng bét!” chỉ thấy Thông Minh Hòa Thượng hích hai vai, chàng thiếu niên không gượng lại được nên loạng choạng lao về phía trước, kéo theo vài người lao về phía Mạo Hoàn Liên. Thiếu niên ấy không kịp suy nghĩ toan chụp lấy Mạo Hoàn Liên để kìm người lại. Không ngờ chàng ta đưa tay tới chộp trúng ngực Mạo Hoàn Liên, Mạo Hoàn Liên đỏ mặt giơ tay gạt ngang qua, hai cánh tay chạm nhau chỉ thấy khí lực của người ấy rất mạnh, nàng vốn muốn dùng thủ pháp cầm nã trong Vô Cực Chưởng, quật ngã y, nào ngờ bị y trở tay chụp lại cánh tay, Mạo Hoàn Liên hổ thẹn vung hai tay, vận nội lực ném chàng thiếu niên ra.

Chàng thiếu niên đã mượn lực kìm người lại, tuy bị Mạo Hoàn Liên đẩy lui nhưng cũng không loạng choạng nữa. Chỉ là lúc nãy chàng ta chụp được cánh tay của Mạo Hoàn Liên chỉ cảm thấy trơn mát mịn màng, tựa như là một nàng thiếu nữ, trong lòng cả kinh, khi kìm được người lại thì vội vàng quay lại toan lên tiếng tạ lỗi, thấy Mạo Hoàn Liên là một thiếu niên mới yên tâm. Lúc này Mạo Hoàn Liên mới nhìn rõ thiếu niên ấy, chỉ thấy khuôn mặt chàng ta đẹp như ngọc, trong vẻ nho nhã có mấy phần anh khí, nàng không khỏi đỏ ửng mặt, thấy chàng thiếu niên tạ lỗi cũng chỉ đành trả lại một vái.

Lúc này hòa thượng quay đầu lại, cười ha hả với chàng thiếu niên:

“Ngươi không ngã coi như có bản lĩnh, sau này chúng ta sẽ gặp lại”. Khi hòa thượng ấy quay đầu thì Phó Thanh Chủ đã quay sang hướng khác bởi vậy mới không chạm mặt nhau.

Mọi chuyện trôi qua, hai người Phó, Mạo vừa đi vừa trò chuyện. Không lâu sau thì lên đến nơi. Chỉ thấy trước chùa có một đội kỳ binh chia nhau đứng hai bên trái phải, khoảnh sân trước chùa thì trống trơn chẳng có ai.

Mạo Hoàn Liên đang lấy làm lạ, chỉ nghe người bên cạnh xì xào bàn tán.

Một ông già nói:

“Xem ra lần này Hoàng Thượng không thể đích thân đến đây.

Không có gấm vàng phủ lối, cũng chẳng có đội nghi trượng, cả thủ vệ ở cửa chùa cũng chỉ có vài người!” Một người khác trông có vẻ là một hương thân hừ nói:

“Chuyện này phải hỏi chúng ta mới biết, mấy lần trước Hoàng Thượng đến dâng hương, hương thân chúng tôi tiếp giá. Lần này là Ngạc Thân Vương Đa Thích thay mặt Hoàng Thượng đến đây. Ngạc Thân Vương xưa nay không thích phô trương, khi người xuất tuần có lúc cũng chỉ mang theo vài thân binh!” Lại có một người nói giọng Triết Giang hỏi:

“Ngạc Thân Vương Đa Thích mà ông nói lúc nãy có phải là Đề Đốc Lưỡng Giang Đa Thích hơn mười năm trước hay không? Tôi còn nhớ ngày đại hôn của ông ta ở Hàng Châu rất náo nhiệt. Có điều trong đêm trước ngày đại hôn, dư đảng của Lỗ Vương tiền triều cướp ngục, gây cơn sóng gió trong thành, bởi vậy hôm sau dân tình không dám đi xem”. Thân sĩ kia cười nói:

“Ông nói khoác mà lại có sơ hở, nếu không dám đi xem thì làm sao biết ngày đại hôn của ông ta rất náo nhiệt? Này, chuyện cướp ngục trước ngày đại hôn của ông ta là thế nào? Ông nói thử xem”. Người kia đỏ mặt rồi trả lời:

“Là tôi lớn gan, đứng trong kẹt cửa nhìn ra”. Rồi thấy hương thân ấy để ý đến chuyện cướp ngục nên cũng đắc ý kể lại.

Mạo Hoàn Liên thấy họ bàn chuyện chẳng ăn nhập gì nên cũng không để ý.

Lúc này lại nghe bên cạnh có hai người ăn mặc theo kiểu tú tài bảo:

“Không biết cớ sao Hoàng Thượng lại thích lên núi Ngũ Đài đến thế, nối ngôi không lâu mà đã lên đến mấy lần, thế nhưng trong đại điển khai quan lần này lại không tới. Này, nghe nói nhà thơ Mai Ngô Thôn có một bài thơ vịnh chuyện Hoàng Thượng lên núi Ngũ Đài dâng hương, huynh đài có còn nhớ không?” Người kia nói:

“Tôi từ kinh thành đến đây sao mà không biết. Người trong kinh thành đều biết bài thơ này, chỉ là mọi người không hiểu nên thấy rất lạ. Bài thơ viết rằng:

\'Song Thành xinh xắn bóng bồi hồi, ngọc làm bình phong bích làm đài. Sáng sớm tinh sương ngàn dặm cỏ, dưới núi Thanh Lương sáo rồng lai.\' Song Thành là tì nữ của Tây Vương Mẫu trong truyền thuyết. Bài thơ này vịnh việc dâng hương, nhưng không biết sao lại có liên quan đến nàng tiên nữ xinh đẹp trong đó? Song Ngô Mai Thôn là người được tiên đế sủng ái, có thể bài thơ này cũng có lý lẽ nào đó”.

Mạo Hoàn Liên nghe xong thì giật mình, bất giác đứng ngẩn ra nhìn họ, hai tú tài ấy mỉm cười với nàng. Mạo Hoàn Liên ấp úng hỏi:

“Sao lúc này cửa chùa vẫn đóng chặt, vả lại trước sân chùa chẳng có bóng người nào?” Ông già bên cạnh chen vào đáp:

“Có lẽ tiểu ca lần đầu tiên đến xem đại điển như thế này nên không biết quy củ. Cây nhang đầu tiên trước cửa chùa phải do Ngạc Thân Vương đích thân dâng lên, sau đó mới mở cửa chùa. Ngạc Thân Vương lại dâng cây nhang đầu tiên trước Văn Thù Bồ Tát mới làm pháp sự, lúc đó thiện nam tín nữ các phương mới được vào”.

Mọi người đang trò chuyện chợt nghe tiếng chiêng trống khua rền, cờ quạt phất phới, một đội kỳ binh hộ tống một chiếc kiệu tám người khiêng từ chân núi đi lên, trước kiệu có hai cái đèn lồng lớn viết bốn chữ “Ngạc Thân Vương Phủ”.

Lúc này ở nơi sườn núi lại có người ồn ào, Phó Thanh Chủ, Mạo Hoàn Liên quay đầu lại nhìn, chỉ thấy một võ quan vẹt đám người ra, phóng lên núi, phía sau là một Lạt Ma mặc tăng bào màu đỏ, Phó Thanh Chủ vừa nhìn thì nhướng mày, lẩm bẩm:

“Sao tên ma đầu này cũng vượt đường xa muôn dặm đến đây xem lễ?”.

Mạo Hoàn Liên thấy Phó Thanh Chủ lộ vẻ nghi hoặc, hỏi:

“Đây là ai, chả lẽ còn lợi hại hơn cả Thông Minh Hòa Thượng?” Phó Thanh Chủ khẽ đáp:

“Con đừng hỏi, lát nữa ta sẽ nói cho con biết, hôm nay chắc chắn có tuồng hay!”.

Lúc này mặt trời vừa mới mọc, mây mù trên không trung tựa như bị một bàn tay to lớn xua tay. Muôn ngàn tia nắng lan tỏa khắp nơi, trên không trung vẫn còn vài áng mây đỏ. Vầng mặt trời đỏ như máu xuất hiện trong đám mây màu, ánh nắng lan tỏa khiến nơi nơi đều là xuân ý. Lúc này chiếc kiệu đã ngừng trước chùa Thanh Lương.

Trong lúc mọi người nín thở chờ đợi Ngạc Thân Vương bước ra thắp cây nhang đầu tiên, đột nhiên bên cạnh lư hương trước sân chùa có một thiếu nữ mảnh mai xuất hiện, nàng che mặt bằng một tấm khăn mỏng, trong tay cầm một cây nhang, nàng cắm cây nhang vào trong lư, quỳ xuống lạy tựa như bên cạnh chẳng có ai. Biến cố bất ngờ ấy khiến cho bọn quan quân đều lúng túng, tiếng quát nạt vang lên, có vài tên chạy đến tóm hai tay nàng, nàng cũng chẳng hề phản kháng, cứ để mặc cho chúng lôi đến chiếc kiệu của Ngạc Thân Vương. Hình như bọn lính muốn để Ngạc Thân Vương đích thân xử lý.

Chuyện lạ ấy khiến Phó Thanh Chủ cũng thót tim, đang chần chừ có nên ra tay cứu hay không thì chợt thấy nàng thiếu nữ ấy vung hai tay, hai tên lính văng xa cách đó một trượng. Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, nàng thiếu nữ quát một tiếng rút ra một thanh đoản kiếm sáng chói, tay trái vỗ một chưởng đánh vỡ cánh cửa kiệu, tay phải đâm kiếm vào, quát lớn:

“Đa Thích, hôm này là ngày chết của ngươi!”.

Người trong kiệu khẽ hừ một tiếng, trở tay chụp tóm tay nàng thiếu nữ, nàng đang dùng lực đâm vào, đột nhiên kêu hoảng lên, vội vàng rút kiếm thối lui ra sau.

Cũng ngay lúc này lại có một thiếu niên từ trong đám người phóng vọt ra nhảy bổ tới, người chưa tới tiêu đã phát, chàng ta vừa vung tay thì ba cây Liên Châu Tiêu đã bay thẳng vào trong kiệu!

Nàng thiếu nữ còn kinh hoảng, thấy phi tiêu bay tới liên tiếp thì chợt vung đoản kiếm gạt ra, lẽ ra với võ công của nàng, nàng có thể đánh rơi toàn bộ số phi tiêu nhưng chỉ vì nàng vừa kinh hãi, thần trí bất định bởi vậy chỉ gạt được hai cây phi tiêu còn cây thứ ba vẫn bay vào người trong kiệu.

Giang hồ hảo hán thấy nàng đột nhiên chuyển địch thành bạn, ra tay cứu Đa Thích thì thắc mắc. Lại thấy cây tiêu thứ ba đã bay vào trong kiệu mà chẳng hề có tăm hơi tựa như đang biến vào biển khơi. Lúc này Thông Minh Hòa Thượng đã chen tới phía trước, lão đột nhiên vung tay quát lớn:

“Đừng để Đa Thích chạy!”.

Bọn người mãi nghệ và Táng Môn Thần Thường Anh, Thiếc Tháp Trình Thông cũng chạy ra khỏi đám người.

Lúc này chàng thiếu niên phóng ám khí cũng đã chạy đến trước kiệu, chàng ta đột nhiên kéo tấm rèm kiệu, một cây phi tiêu từ bên trong phóng ra như điện chớp sao xẹt, chàng thiếu niên ấy kêu lớn, té ra đã trúng tiêu! Lúc này vài trăm tên lính một nửa bao vây chiếc kiệu, một nửa chống địch, có vài võ tướng võ công cao hơn, chạy đến toan bắt sống chàng thiếu niên vừa mới phóng ám khí.

Mạo Hoàn Liên nhìn thấy rõ rành rành, chàng thiếu niên phóng ám khí chính là người va vào mình lúc nãy. Khi nhìn lại thì chỉ thấy nàng thiếu nữ che mặt múa kiếm như gió, phá được vòng vây kéo chàng thiếu niên ra. Chàng thiếu niên trúng tiêu ở tay trái, máu tuôn ra không ngừng, may mà đó không phải là chỗ yếu hại bởi vậy vẫn còn cầm cự được.

Lúc này trước chùa Thanh Lương đã diễn ra một cuộc hỗn chiến, đám đông đến vãn cảnh chùa bỏ chạy tứ tán, Thông Minh Hòa Thượng múa thanh giới đao kêu vù vù, uy thế chẳng gì chặn được, chỉ là bọn thân binh đều là những kẻ trải qua chinh chiến, tuy bị bọn họ đánh vào nhưng cũng không rối loạn.

Táng Môn Thần Thường Anh và Thiếc Tháp Trình Thông, một người sử dụng gậy táng môn, một người sử dụng búa ngũ hoa, vừa đánh tới vừa thét:

“Thằng giặc Đa Thích, còn chưa ra nạp mạng!” quát chưa dứt thì ở ngay cổng chùa có một thiếu phụ bước ra hỏi:

“Các người tìm Ngạc Thân Vương có chuyện gì?”.

Bà ta vừa lên tiếng thì cơn bạo loạn trước chùa chợt lặng xuống hẳn.

Thường Anh, Trình Thông không quát tháo nữa, Thông Minh Hòa Thượng hạ cây giới đao, bọn lính cũng giơ ngang đao chờ đợi. Bọn Thông Minh Hòa Thượng là thuộc hạ cũ của Lỗ Vương, lần này đến đây tìm Đa Thích trả thù. Té ra sau khi Mãn Thanh nhập quan, chính quyền Nam Minh vẫn cầm cự thêm một thời gian, nghĩa quân kháng Thanh đã lần lượt lập tông thất của nhà Minh gồm Phúc Vương, Lỗ Vương, Quế Lỗ Vương ương lên làm vua. Lỗ Vương là do bọn chí sĩ của miền đông nam như Trương Hoằng Ngôn, Trương Danh Chấn lập nên. Lỗ Vương dựng đô ở Thiệu Hưng Triết Giang, tự xưng là Nam Quốc, duy trì được cục diện của một triều đình nhỏ trong vòng năm sáu năm, sau đó đã bị đại tướng của Đa Thích là Trần Cẩm san bằng. Số bộ hạ còn lại của Lỗ Vương mật mưu phục quốc ở Hàng Châu, nhưng vì bí mật bị tiết lộ, bởi vậy có hàng trăm người bị bắt nhốt vào trong đại lao Tổng Binh Hàng Châu, sau đó trước ngày hôn lễ của Đa Thích, đám người này vượt ngục tháo chạy, sau một cuộc hỗn chiến, lại có nhiều người hy sinh. Bởi vậy thuộc hạ của Lỗ Vương có thù sâu như biển với Đa Thích, việc đã qua mười sáu năm mà vẫn tụ tập ở núi Ngũ Đài toan bắt Đa Thích để tế sống cho người chết.

Họ đều là những bậc anh hùng có tiếng tăm, oan có đầu nợ có chủ. Bọn họ không thể tàn hại người thân của Đa Thích. Họ đột nhiên thấy trong kiệu có một qúy phụ, dù biết đó là Vương Phi của Đa Thích nhưng cũng ngừng lại.

Hai bên ngừng một lát, tình thế rất căng thẳng, Ngạc Vương Phi mỉm cười nói:

“Nếu không có chuyện gì, các ngươi hãy giải tán đi thôi!” nói xong thì đẩy cửa chùa bước vào. Thường Anh múa cây gậy táng môn nói lớn:

“Kẻ phóng tiêu đả thương Trương công tử chính là mụ giặc cái này, mụ đã là kẻ địch của chúng ta, các huynh đệ đừng tha cho mụ!” rồi vung tay, mấy mảnh Táng Môn Đinh bay thẳng đến sau lưng bà ta. Ngạc Vương Phi cũng không thèm ngoái đầu lại, nghe phía sau có tiếng gió thì trở tay bắt trọn mấy mảnh Táng Môn Đinh, thủ pháp bắt ám khí của bà ta rất thuần thục, bọn Thông Minh Hòa Thượng cả giận múa binh khí xông tới, nhưng Ngạc Vương Phi đã vào chùa!

Lúc này dưới chân núi chiêng trống vang rền, một đôi quân mã phóng lên rầm rập.

Tiếng trống và tù và cùng trỗi dậy, binh khí sáng chói dưới ánh mặt trời, ngọn núi chìm trong hỗn loạn, toán đầu tiên của đội quân mã ấy đã phóng lên trước chùa Thanh Lương. Đội quân mã khôi giáp sáng ngời, tay phải cầm binh khí, tay trái cầm thiết thuẫn, hễ gặp binh khí chém tới thì giơ thuẫn lên đỡ rồi đâm binh khí ra, chỉ nghe tiếng keng keng vang lên chấn động lỗ tai, trong khoảnh khắc đã bao vây cả chùa Thanh Lương. Đội quân mã này là Cấm Vệ Quân của triều đình, chuyên bảo vệ cho hoàng cung và vương phủ, tinh nhuệ hơn Ngự Lâm Quân rất nhiều.

Nàng thiếu nữ che mặt, tay cầm đoản kiếm đang yểm hộ cho thiếu niên bị thương vượt khỏi vòng vây, nàng luồn bên trái lách bên phải, lúc trước lúc sau, chợt trái chợt phải, kẻ địch ở xa thì nàng phóng ám khí, kẻ địch ở gần thì tấn công bằng kiếm, đúng là lanh như linh viên, lẹ như li miêu, bởi vậy mới thoát ra ngoài được, nào ngờ lại chạm phải đội quân mã ấy, nàng định đi vòng lối khác chợt nghe một tiếng quát:

“Chạy đi đâu cho thoát!” rồi một thanh trường kiếm đâm tới nhanh như điện xẹt.

Nàng thiếu nữ hụp người xuống, cây trường kiếm chém vù qua đầu. Nàng đột nhiên vươn người dậy, thanh đoản kiếm chợt hất lên trên chém vào cổ tay kẻ địch. Chiêu này rất hiểm hóc, không ngờ võ công của kẻ địch cũng cực kỳ thâm hậu, không thèm rút kiếm về chống trả mà cổ tay xoay một vòng, dùng chui kiếm gõ vào cổ tay của nàng thiếu nữ, hai người vừa chạm nhau đã phân ra, mỗi người đều lấy công làm thủ để né tránh hiểm chiêu, đôi bên đều kinh ngạc.

Nàng thiếu nữ ngẩng đầu lên, chỉ thấy kẻ địch của mình trông hiên ngang, thân hình cao lớn, biết đó chẳng phải là nhân vật tầm thường, đang suy nghĩ thì chợt nghe tiếng quát:

“Đó chính là thằng giặc Đa Thích!” nàng thiếu nữ thất kinh, chỉ nghe kẻ ấy cười đáp:

“Phải thì thế nào?”.

Kẻ phát hiện ra Đa Thích chính là Táng Môn Thần Thường Anh và Thiếc Tháp Trình Thông, hai người cách Đa Thích tương đối gần, bởi vậy mới liều mạng xông tới. Lúc này cây đoản kiếm trong tay của nàng thiếu nữ càng đánh càng gấp, nhưng Đa Thích võ nghệ cao cường, nàng thiếu nữ vừa bị chạm một kiếm thì trên tay đau nhói, chàng thiếu niên đã bị thương bên cạnh không còn người yểm hộ nên bị nha tướng của Đa Thích đánh ngã bắt sống.

Lúc này Thường Anh, Trình Thông cũng đã phóng tới, kêu lên:

“Cô nương hãy tạm lui!” nàng thiếu nữ che mặt trừng mắt nhìn Đa Thích, biết rằng khó thắng nổi trong tình thế như thế này nên cũng rút kiếm lui ra cứu chàng thiếu niên trước.

Thường Anh và Trình Thông phóng đến rất hung mãnh, cả hai đánh ngã mười mấy tên Cấm Vệ Quân. Đa Thích cả giận, quát:

“Các tướng lui ra sau đợi ta bắt sống hai thằng giặc này!” rồi y gạt cây trường kiếm tới phía trước, tia lửa bắn tung tóe, cây gậy táng môn của Thường Anh bị chặt đứt mất đầu, nhưng thiếc thuẫn của Đa Thích cũng bị búa của Trình Thông đánh vỡ, Đa Thích đánh liều ném cả thiếc thuẫn, triển khai Phong Lôi Kiếm Pháp của phái Trường Bạch ở quan ngoại đại chiến với hai người!

Sau khi Đa Thích xuất hiện, tình thế đã thay đổi, bọn Thông Minh Hòa Thượng cũng lần lượt phóng về phía Đa Thích, Cấm Vệ Quân tuy lợi hại nhưng cũng không thể cản trở được, bị bọn họ dần dần tiến đến...

Hai người Trình Thông và Thường Anh là những hảo hán nổi tiếng trên giang hồ, đánh nhau với Đa Thích đúng là kẻ tám lạng người nửa cân. Cây gậy táng môn của Thường Anh bổ ngang quét dọc như quái mãng độc long. Hai cây búa của Trình Thông múa tít như núi dời non động, công lực của Đa Thích cũng rất ghê gớm, y triển khai cây trường kiếm tựa như sấm sét, lúc như chim ưng phóng vút lên trời, lúc như mãnh hổ hạ mình xuống đất, một màn kiếm quang hộ trước thân khiến hai người kia không thể nào tiến tới nổi.

Trong cuộc ác đấu, Thông Minh Hòa Thượng chợt quát lớn một tiếng, giơ đao bổ tới. Trường kiếm và giới đao chạm nhau kêu keng một tiếng, tia lửa bắn ra, cả hai người đều thấy hổ khẩu nóng ran, Thông Minh Hòa Thượng không đổi chiêu mà lướt về phía trước, thuận tay chém một đao vào cổ tay của Đa Thích, Đa Thích hơi lắc người, kiếm chiêu chợt thay đổi, vòng ra sau lưng Thông Minh Hòa Thượng, giơ kiếm đâm tới. Thông Minh Hòa Thượng trở tay chém ngược vào cổ tay của kẻ địch. Nếu Đa Thích không thâu chiêu chắc chắn sẽ lưỡng bại câu thương.

Rốt cuộc Đa Thích là một thân vương, Thông Minh Hòa Thượng dám liều mạng dùng hiểm chiêu nhưng y thì không. Y đột nhiên xoay người rút kiếm về, lòng hơi kinh hãi.

Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Cấm Vệ Quân cũng đã dồn tới như nước triều, chặn bọn hảo hán giang hồ lại. Lúc này người của Đa Thích đã kéo lên núi, từ chân núi cho đến lưng chừng núi người dày đặc, có lẽ đến hai ba ngàn người, chiêng trống vang rền, khắp núi chỉ nghe tiếng quát tháo, thanh thế cực thịnh tựa như sắp xung phong đánh trận đến nơi.

Thiếu phụ mãi nghệ đột nhiên phóng vút ra một cây tụ tiễn, cây tụ tiễn bốc lửa bay thẳng lên trên trời. Cây tụ tiễn này vốn là tín hiệu rút lui.

Đa Thích quay đầu nhìn lại, chạm mặt với nàng thiếu phụ mãi nghệ, y vốn muốn chặn đường Thông Minh Hòa Thượng nhưng lại đổi ý, phóng về phía nàng thiếu phụ mãi nghệ.

Thân pháp của nàng ta rất nhanh, Đa Thích vừa dợm bước đuổi theo, bọn Ngự Lâm Quân hai bên nhường lối, chỉ trong chốc lát nàng đã leo lên đến đỉnh núi. Đa Thích nhìn lại, chỉ thấy đỉnh núi quái thạch lô nhô, đường đi gập ghềnh ngoằn ngoèo. Ngự Lâm Quân đang đuổi theo kẻ địch ở sườn núi, trên đỉnh cao chỉ có Đa Thích và nàng ta. Y vừa nghĩ thế thì không khỏi chần chừ, nàng ta hình như cũng biết y suy nghĩ như thế, nàng quay đầu mỉm cười vung tay phóng một cây Xà Diệm Tiễn về phía y, Đa Thích lách người, bùm một tiếng, một trái cầu lửa lướt qua người y, thiêu cháy mảng cỏ dại gần đó, nàng thiếu nữ giơ ngang kiếm đứng nhìn, tựa như chẳng hề coi Đa Thích ra gì.

Đa Thích nổi giận trong lòng, nghĩ bụng mình đã trải qua hàng trăm trận chiến, chẳng trận nào thua, chả lẽ sợ một người đàn bà, nhưng khuôn mặt của nàng ta khẽ giống nữ phỉ đồ Lưu Úc Phương ở miền Triết Nam, trừ được nàng ta thì sẽ có lợi cho triều đình.

Đối với Đa Thích, tàn phỉ miền Triết Nam chính là số thuộc hạ còn lại của Lỗ Vương. Chính Đa Thích đã tiêu diệt tiểu triều đình của Lỗ Vương, vì vậy sau này tuy y trở thành Đề Đốc Lưỡng Giang nhưng hễ có chuyện liên quan đến hoạt động của bọn người này, các quan đại phương đều đến hỏi ý kiến của y. Nữ phỉ đồ Lưu Úc Phương mới có tiếng tăm gần đây, Lưu Úc Phương là con gái của Lưu Tinh Nhất, một viên đại tướng dưới trướng của Lỗ Vương. Theo các quan địa phương báo cáo, từ sau khi Lưu Tinh Nhất chết đi, bọn người thuộc hạ cũ của Lỗ Vương đã tôn Lưu Úc Phương làm thủ lĩnh, lúc đó nàng chưa tròn ba mươi tuổi, thế nhưng bọn người này rất nghe lời nàng. Đa Thích đã thấy hình vẽ của nàng trong sổ sách, bởi vậy vừa gặp đã thấy rất quen mặt.

Lúc này Đa Thích đã vung kiếm chém tới, nàng chỉ hơi lách người, cây kiếm thép chém sang bên trái, Đa Thích lướt người tới dùng lực vỗ một cái, nghĩ bụng sẽ đánh rơi kiếm của Lưu Úc Phương, không ngờ y vỗ kiếm tới thì bị kiếm của Lưu Úc Phương chặn vào thân kiếm, nàng chỉ hơi dẫn nhẹ, mượn lực đánh lực, Đa Thích phải dời đến hai bước. Đa Thích mượn thế chồm người về phía trước, hóa giải nội kình của Lưu Úc Phương, múa ra một vòng hàn quang bao bọc binh khí của nàng.

Vô Cực Kiếm Pháp của Lưu Úc Phương gồm thâu sở trường của hai phái Thái Cực và Võ Đang, lanh lẹ đến cực điểm, khi Đa Thích xoay trường kiếm, nàng cũng đã mượn thế quét ngược về, đánh ra một chiêu Hồi Phong Khí Liễu, keng một tiếng, cây trường kiếm của Đa Thích bật ra. Nàng lại rút kiếm lui người, đúng là chưa bại đã chạy trước.

Đa Thích bốc cao lửa giận, dấn bước đuổi theo trước. Đột nhiên chỉ thấy Lưu Úc Phương phóng vọt người như chim én, bay lên một cây cầu đá ở giữa hai hẻm núi. Cây cầu đá này chỉ không đầy ba thước, dài khoảng mười trượng, phía bên kia là đỉnh núi hiểm trở, phía dưới là vực sâu muôn trượng. Đa Thích đang đắc ý đuổi theo, thâu thế không kịp, bất giác đã phóng người lên cây cầu đá. Lưu Úc Phương quát lớn, xoay người lại chặn Đa Thích ngay trên cây cầu.

Lưu Úc Phương hơn ở chỗ thân pháp lanh lẹ, Đa Thích hơn ở chỗ công lực thâm hậu. Lần giao thủ này chỉ nghe kiếm phong vù vù, hai người đều bị kiếm khí lạnh lẽo bao trùm, đấu được hơn trăm chiêu mà vẫn chưa thắng bại. Lúc này Cấm Vệ Quân và bọn Thông Minh Hòa Thượng đã đuổi lên đến đỉnh núi, mọi người thấy Đa Thích liều mạng đấu kiếm với một nữ nhân ở nơi hiểm trở thì đều không khỏi kinh hãi, người của hai bên đều vừa hỗn chiến vừa để ý đến cuộc ác chiến quên cả sinh tử trên cây cầu đá!

Hai người Phó Thanh Chủ, Mạo Hoàn Liên lúc này cũng đã trèo lên một tảng đá đứng xem, nhìn một hồi thì Mạo Hoàn Liên nói:

“Phó bá bá, người hãy xem có phải thiếu phụ mãi nghệ kia đã sử dụng Vô Cực Kiếm Pháp của bổn môn hay không?”.

Phó Thanh Chủ tựa như đang ngẫm nghĩ, một lát sau mới đáp:

“Ta đã nhớ, tính ra nàng là sư tỷ của con. Hơn hai mươi năm trước, sư huynh đệ của ta là Đơn Tư Nam rất thân thiết với đại tướng của Lỗ Vương là Lưu Tinh Nhất, đã nhận con gái của Lưu Tinh Nhất làm con nuôi, từ năm sáu tuổi đã truyền dạy võ công cho nàng, lúc đó kiếm pháp của Đơn Tư Nam rất cao cường, y dùng Vô Cực Kiếm Pháp dung hợp với Võ Đang Kiếm Pháp, cương nhu tương tế, thiên hạ đều cho rằng y và Hối Minh Thiền Sư ở Thiên Sơn là hai bậc danh gia kiếm thuật đương thế. Đây chắc là con gái của Lưu Tinh Nhất, đáng tiếc công lực của nàng còn kém hơn Đa Thích, song luận về kiếm pháp thì đã hơn một bậc”.

Khi họ đang trò chuyện thì phía dưới cuộc đấu càng lúc càng khốc liệt, đột nhiên Lưu Úc Phương trao kiếm sang tay trái, đánh hờ ra một chiêu, Đa Thích chém tới một kiếm, Lưu Úc Phương đảo ngược người lướt ra sau ba trượng, tay phải vung lên, một vật màu đen chụp xuống đầu, đó là ám khí kỳ môn của nàng tên gọi Cẩm Vân Đâu (túi mây gấm), đây là một tấm lưới được kết bằng tơ sắt, xung quanh mép lưới có tua râu móc. Đa Thích không cẩn thận, vai đã bị Cẩm Vân Đâu chụp trúng, tua móc sâu vào da thịt, Lưu Úc Phương dùng lực kéo một cái, máu tươi tuôn ra, Đa Thích hơi hừ một tiếng, cây trường kiếm trong tay chặn trên gạt dưới, che kín môn hộ.

Lưu Úc Phương múa kiếm như gió đánh tới. Đa Thích đang nguy cấp, chợt nghe vách núi bên trái có người kêu lớn:

“Ta đến đây!” rồi một giọng nói nữa quát:

“Sở Chiêu Nam, ngươi làm gì thế?” chưa dứt lời thì chợt có một người phóng xuống như sao xẹt, hạ ngay trên cây cầu, người chưa đứng vững thì đã đâm thoắt tới một kiếm, chém đứt sợi dây buộc Cẩm Vân Đâu, chặn trước mặt Đa Thích rồi giao thủ với Lưu Úc Phương. Đa Thích rút tua móc ra, định thối lui ra sau thì chợt thấy có một hòa thượng cười hì hì chặn trên cây cầu, Đa Thích vừa nhìn thì nhận ra đó là Quái Đầu Đà Thông Minh Hòa Thượng, trong lòng vừa kinh vừa giận, lia cây trường kiếm tới liều mạng với Thông Minh Hòa Thượng!

Sở Chiêu Nam đột nhiên hiện thân khiến tất cả mọi người đều giật mình.

Phó Thanh Chủ cũng nhíu mày, nói với Mạo Hoàn Liên:

“Tên ma đầu mà ta nói sáng nay chính là kẻ này, người trên giang hồ gọi y là Du Long Kiếm Sở Chiêu Nam, y là học trò của Hối Minh Thiền Sư, hai mươi năm trước cùng đại sư huynh của y là Dương Vân Thông được gọi là Thiên Sơn Nhị Kiếm, đáng tiếc tính cách của hai người ngược nhau. Dương Vân Thông hào khí ngất trời, suốt đời bôn ba vì chuyện phục quốc còn Sở Chiêu Nam thì ham mê lợi lộc, cuối cùng bị Ngô Tam Quế mua chuộc, làm Tổng Giáo Đầu cho y, sau khi Dương Vân Thông chết đi, chỉ có một mình y là biết được tuyệt nghệ của Thiên Sơn bởi vậy y càng ngang ngược hơn.

Lúc này hỗn chiến đã diễn ra trên cây cầu đá, bốn người đấu kiếm nên chẳng thể xoay người được, tình hình càng hiểm nghèo hơn. Kiếm pháp của Sở Chiêu Nam quả nhiên thần kỳ, cây kiếm thép của Lưu Úc Phương vốn lanh lẹ không gì bì kịp, những người khác nhìn vào thì tựa như thấy rõ ràng rằng nàng sắp đâm trúng vào chỗ yếu hại của Sở Chiêu Nam nhưng không biết thế nào mà đều bị y hóa giải, chẳng thể nhìn ra y đã né tránh hoặc phản công như thế nào. Phó Thanh Chủ nhìn một hồi thì nói với Mạo Hoàn Liên:

“Xem ra ta phải ra tay mới được!” nói chưa dứt lời thì chỉ thấy kiếm chiêu của Sở Chiêu Nam cuồn cuộn đánh tới như sông dài biển rộng, Lưu Úc Phương chống đỡ cũng rất khó khăn. Phó Thanh Chủ dặn Mạo Hoàn Liên:

“Con đừng đi bừa!” rồi vung tay phóng vọt xuống như chim én.

Lúc này Sở Chiêu Nam đã dùng một chiêu Cực Mục Thương Ba, chĩa vào ngực của Lưu Úc Phương, cây kiếm thép của Lưu Úc Phương bị y gạt ra, không kịp rút về. Cũng trong lúc này Phó Thanh Chủ tay phải đâm kiếm xuống, tay trái kéo tay Lưu Úc Phương vận công lực nội gia ném ra phía sau, Lưu Úc Phương mượn lực ném lộn người nửa vòng trên không trung, hạ xuống nhẹ nhàng như chim én bên bờ vực.

Sở Chiêu Nam chặn một kiếm, cảm thấy nội kình của người này rất mạnh. Y vốn nhân lúc Phó Thanh Chủ chưa kịp đứng vững thì đẩy ông ta xuống vực sâu, không ngờ hai kiếm chạm nhau thì chỉ cảm thấy một luồng đại lực đẩy tới, chấn động thối lui hai bước, trong lòng không khỏi thầm kinh. Nhưng y cậy Thiên Sơn Kiếm Pháp độc bộ võ lâm, dù người này công lực thâm hậu cũng khó thoát. Vì thế y không thèm suy nghĩ, múa tít thanh kiếm đánh tới, chiêu nào cũng hiểm hóc, toàn là đâm vào chỗ yếu hại của kẻ địch!

Phó Thanh Chủ dùng công lực nội gia mấy mươi năm từ trên không đánh xuống mà chẳng đánh ngã được Sở Chiêu Nam, trong lòng thầm kinh. Chỉ trong chốc lát, hai người đã đấu đến năm bảy mươi chiêu, cả hai bên đều không lùi bước. Hai thanh kiếm phiêu hốt bất định, càng đánh càng gấp, từ xa nhìn vào chỉ thấy ánh ngân quang loang loáng bao bọc hai bóng đen, lúc trồi lúc hụp, cả những hảo thủ như Thông Minh Hòa Thượng mà cũng kinh hãi, căng thẳng đến nỗi chẳng thở ra hơi!

Sở Chiêu Nam càng đánh càng mạnh, kiếm chiêu càng lúc càng nhanh.

Phó Thanh Chủ thì đã thay đổi kiếm chiêu, càng đánh càng chậm, nhưng dù Sở Chiêu Nam lanh lẹ đến mức nào cũng không đánh tới nổi, dù mũi kiếm điểm đến đâu cũng bị một nguồn lực đẩy về, cây kiếm trong tay Phó Thanh Chủ như trở nên nặng ngàn cân, mũi kiếm chỉ đông vạch tây, tựa như rất hao sức nhưng kiếm quang vẫn cứ liền lạc, xung quanh thân ông ta tựa như có một bức tường đồng vách sắt vô hình. Sở Chiêu Nam biết đã gặp phải loại kiếm pháp nội gia thượng thừa nhất, y không khỏi thầm lo.

Sở Chiêu Nam chẳng tấn công tới được, mà Phó Thanh Chủ cũng chẳng hạ được Sở Chiêu Nam. Cả hai người đều hơi lo. Đang lúc giằng co, chợt Phó Thanh Chủ rút kiếm, môn hộ mở rộng. Sở Chiêu Nam đâm xuống một kiếm, Phó Thanh Chủ hơi lách người qua, cây kiếm trong tay gạt ngang, chặn lưỡi kiếm của Sở Chiêu Nam lại, tay trái bổ xuống đầu nhanh như điện chớp, Sở Chiêu Nam không kịp đề phòng, cây kiếm trong tay phải rút về, chưởng trái vỗ ra, chỉ nghe ầm một tiếng, tiếp theo là ai nấy đều kêu ồ lên, cả hai người rơi xuống vực sâu muôn trượng như hai con diều đứt dây! Phó Thanh Chủ rơi xuống khoảng mấy chục trượng thì tóm được một cành tùng mọc chìa ra trên vách núi, ông ta tóm lấy nên kìm người lại. Sở Chiêu Nam rơi xuống như tên bắn, khi đang lơ lửng trên không trung y còn lộn người mấy vòng lao thẳng xuống đáy cốc.

Lúc này Đa Thích đã bị Thông Minh Hòa Thượng đẩy lùi từng bước cho tới khi qua tới một bên cầu, nếu cứ lùi nữa thì sẽ là vách núi hiểm trở, mà ở đó lại thì có Lưu Úc Phương cầm kiếm đứng chờ!

Bọn Cấm Vệ Quân đi theo Đa Thích đã kéo hết lên núi, thiện nam tín nữ kêu khóc rầm rĩ, hảo hán giang hồ cũng chưa thoát khỏi vòng vây. Cung tiễn thủ của Thần Cơ Doanh trong Cấm Vệ Quân cũng đã căng cung lắp tên bắn về phía bọn Lưu Úc Phương. Tuy địa thế ở đây hiểm trở, cung tên khó bắn tới nhưng tình thế cũng rất nguy hiểm, Lưu Úc Phương thấy thế chợt quát lên một tiếng, lại phóng ra một cây hỏa tiễn, ra lệnh cho Thông Minh Hòa Thượng ngừng tay.

Thông Minh Hòa Thượng ngạc nhiên ngừng bước, đang thắc mắc chỉ nghe Lưu Úc Phương hỏi:

“Đa Thích, ngươi có muốn sống hay không?” Đa Thích giả vờ hờ hững hỏi:

“Muốn thì thế nào? Không muốn thì thế nào?” Lưu Úc Phương nói:

“Nếu muốn sống thì ngươi hãy bảo Cấm Vệ Quân ngừng tay, hôm nay chúng ta không phạm nhau đồng thời ngươi cũng không được giết một người dân thường nào”. Đa Thích ngẫm nghĩ một hồi rồi nói:

“Sau này thì thế nào?” Lưu Úc Phương nói:

“Sau này sẽ tính. Ngươi đương nhiên không tha cho bọn ta, bọn ta cũng thế!”.

Đa Thích cười ha hả, nói:

“Rất công bằng, được thôi!” rồi giơ cây trường kiếm phát ra hiệu lệnh.

Quả nhiên quân lệnh như núi, truyền đạt xuống thì trong chốc lát đao kiếm đút vào vỏ, cung nỏ treo trên lưng, thuộc hạ của Lỗ Vương đều thoát ra ngoài, người vãn cảnh chùa cũng lũ lượt kéo xuống núi.

Thông Minh Hòa Thượng giở ngang đao đứng chờ, thấy Đa Thích nghênh ngang bước qua cây cầu mà trong lòng hậm hực. Người căm giận Đa Thích hơn chính là nàng thiếu nữ che mặt, nàng đứng dựa vào vách đá, tay cho vào trong áo tựa như muốn rút ra ám khí. Táng Môn Thần Thường Anh đứng sau lưng nàng, vội vàng ngăn cản:

“Cô nương, đừng làm càn! Thủ lĩnh của chúng ta đã ra lệnh, không thể thất kính với người ta”.

Lúc này Phó Thanh Chủ cũng đã bò lên, Lưu Úc Phương lấy lễ ra mắt, tạ ơn vị sư thúc đã nhiều năm không gặp. Đến khi Đa Thích đi qua khỏi cây cầu, nàng mới cùng mọi người xuống núi bằng đường khác. Nàng thiếu nữ che mặt tuy không cùng bọn với họ nhưng họ cũng mời đi theo.

Trên suốt quãng đường mọi người rất ít lên tiếng, lần này ra quân thất bại bởi vậy ai cũng rầu rĩ, thế nhưng mọi người cũng hiểu cho cách giải quyết của Lưu Úc Phương, nàng đã cân nhắc nặng nhẹ, nếu lấy mạng của nhiều người đổi cho một mình Đa Thích thì không đáng. Nhưng Lưu Úc Phương không hề rầu rĩ, nàng thấy Mạo Hoàn Liên xinh xắn sáng ngời, cử chỉ tao nhã thì trong lòng rất thích, vừa đi vừa nói chuyện với nàng. Có điều Mạo Hoàn Liên hình như đang âu sầu, bộ dạng hơi thẫn thờ.

Bọn họ vượt qua đỉnh núi cao, băng qua u cốc bước vào một con đường núi, không lâu sau thì đến một tòa sơn trang, phía trước sơn trang đã có nhiều người chờ đợi.

Lưu Úc Phương nói với Phó Thanh Chủ:

“Đây là trang viên của lão tiền bối Võ Nguyên Anh, chúng ta tạm dừng chân ở nơi này”. Phó Thanh Chủ hỏi:

“Có phải đó là bậc danh túc Võ Nguyên Anh của phái Chung Nam không? Ta cũng là bằng hữu của ông ta”. Lưu Úc Phương nói:

“Chính là người này”. Khi đang nói thì có người trong trang chạy ra báo, người ấy kề tai Lưu Úc Phương nói mấy câu, chỉ thấy Lưu Úc Phương chau mày, nói:

“Ta biết rồi! Phiền ông hãy vào báo với Trang Chủ, chúng tôi sẽ nghỉ ngơi một lát sau đó sẽ đến bái kiến Trang Chủ và Hàn Tổng Đà Chủ”. Thông Minh Hòa Thượng nói:

“Có phải là Tổng Đà Chủ Hàn Chí Bang của Thiên Địa Hội không?” Lưu Úc Phương nói:

“Đúng thế”.

Lưu Úc Phương cùng bọn Thông Minh Hòa Thượng vào bên trong, Phó Thanh Chủ, Mạo Hoàn Liên và thiếu nữ che mặt cũng đi cùng, ngồi xuống xong xuôi Lưu Úc Phương mới nghiêm mặt nó với thiếu nữ che mặt:

“Cô nương, cô nương đừng trách, xưa nay chúng tôi ân oán phân minh, hôm nay cô nương bảo vệ cho Vương Phi của Đa Thích, lại liều mạng cứu Trương công tử của chúng tôi, chúng tôi thật thắc mắc không biết cô nương có thể cho biết nguyên nhân hay không?” Nàng thiếu nữ im lặng, chậm rãi kéo khăn che mặt xuống, mọi người đều đưa mắt nhìn về phía nàng, có người kêu lên ngạc nhiên!

Nàng thiếu nữ kéo khăn che mặt xuống, trong nhất thời ai nấy đều ngẩn người ra. Vẻ mặt của nàng chàng khác gì Vương Phi, chỉ có điều trên người không mặc đồ Mãn Châu. Thông Minh Hòa Thượng kìm không được hỏi:

“Cô nương là người Hán hay người Mãn Châu?” Nàng thiếu nữ liếc nhìn Thông Minh Hòa Thượng rồi nói:

“Đương nhiên tôi là người Hán”. Trường Thông hỏi:

“Cô nương có thể cho biết phương danh, sư môn hay không?” Nàng thiếu nữ cười rằng:

“Mỗi người đều có một cái tên, tên chỉ là ký hiệu để tiện xưng hô mà thôi. Các người hãy gọi tôi là Dịch Lan Châu. Còn sư môn đấy ư, một nữ tử vô dụng như tôi không muốn nhắc đến tên của sư phụ”.

Dịch Lan Châu đưa mắt nhìn mọi người, nàng đương nhiên nhận ra vẻ nghi hoặc của họ, thế rồi cao giọng nói:

“Còn hỏi tại sao tôi bảo vệ cho Vương Phi, tôi nghĩ các vị đều là bậc anh hùng, không cần nói cũng biết đạo lý này, tôi vốn muốn ám sát Đa Thích, nào ngờ gặp phải Vương Phi. Tôi đương nhiên không nỡ giết một người đàn bà trong tay chẳng có tấc sắt! Còn bà ta đả thương Trương công tử là chuyện về sau”.

Khi nàng thiếu nữ đang nói, Phó Thanh Chủ viết một mảnh giấy bảo Mạo Hoàn Liên đưa cho Lưu Úc Phương xem, trên giấy viết rằng:

“Thiếu nữ này ánh mắt rối loạn, thần thái khác thường chắc là đang rất đau”. Lưu Úc Phương biết ông ta tinh thông y thuật, cũng rất hợp với những lời suy đoán của mình. Vì thế khi nàng thiếu nữ nói xong thì an ủi rằng:

“Cô nương, cô nương đừng lo! Chúng tôi hỏi thế chẳng qua chỉ muốn kết bằng hữu với cô nương mà thôi. Nếu cô nương không chê, tôi gọi cô nương một tiếng muội tử”. Rồi bước tới nắm tay Dịch Lan Châu, bảo nàng ngồi bên cạnh mình, Dịch Lan Châu khóe mắt đỏ ửng, khẽ kêu:

“Tỷ tỷ!”.

bọn Thông Minh Hòa Thượng cũng thấy ái ngại cho nàng.

Lúc này Võ Trang Chủ cũng biết Phó Thanh Chủ đến, ông ta mừng rỡ sai người đến mời Phó Thanh Chủ, Phó Thanh Chủ theo bọn trang đinh qua mấy lớp sân, đến một căn thư phòng trang nhã, thấy chỉ có một mình Võ Nguyên Anh ngồi đợi, hai người đã hai mươi mấy năm không gặp, nay gặp mặt thì đúng là cảm khái muôn phần, hai người trò chuyện một hồi thì Võ Nguyên Anh chợt nói:

“Phó đại ca, tôi có việc nhờ vả, mong đại ca có thể nể mặt”. Phó Thanh Chủ nói:

“Chuyện gì?” Võ Nguyên Anh nói:

“Muốn nhờ đại ca làm mai”. Phó Thanh Chủ cười nói:

“Tôi ít quen biết với nữ nhi, còn Mạo Hoàn Liên thì tuổi vẫn còn nhỏ”. Võ Nguyên Anh cũng cười nói:

“Không phải tôi để mắt đến Mạo tiểu thư. Ý tôi muốn nói đó là điệt nữ của đại ca, Lưu Úc Phương cô nương. Cha mẹ và sư phụ của nàng đều đã chết sớm, đại ca là sư thúc của nàng, chắc cũng có thể quyết định được”. Phó Thanh Chủ hỏi:

“Vậy làm mai cho ai?”.

Võ Nguyên Anh uống ngụm rượu rồi vuốt râu nói:

“Đại ca, Lưu cô nương gả cho người này tính ra cũng không uổng phí, y chính là Tổng Đà Chủ Hàn Chí Bang của Thiên Địa Hội. Người này không những lòng dạ hiệp nghĩa mà còn rất trung hậu. Y vốn là Trường Chủ của một mã trường, sau khi quân Thanh đến thì y lập ra Thiên Địa Hội, chỉ vì nhiều năm bôn ba mà đến gần bốn mươi tuổi vẫn chưa thành gia lập thất”. Võ Nguyên Anh nói xong thì thở dài:

“Chúng ta đã già, cũng không biết ý nghĩ của người trẻ tuổi. Lưu cô nương mọi thứ đều tốt, chỉ là tính tình hơi quái lạ, đề thân với nàng, nàng sẽ không vui. Trước đây Hàn Chí Bang cũng đã giúp nàng không ít, cũng từng nhờ võ lâm đồng đạo nói chuyện hôn sự với nàng, thế nhưng nàng vẫn không màng đến. Một người tài sắc vẹn toàn như Lưu cô nương vẫn chưa thành hôn, vả lại hình như nàng ta chẳng muốn kết hôn. Ông nói chuyện này có lạ hay không?”.

Phó Thanh Chủ nghe thế thì ngẫm nghĩ một hồi, nói:

“Tôi có thể thay ông hỏi Lưu cô nương, nhưng có hứa hay không là chuyện của nàng ta”.

Hai người lại trò chuyện một hồi, Võ Trang Chủ nói:

“Chúng ta sẽ cùng đi gặp Hàn Tổng Đà Chủ!” Phó Thanh Chủ gật đầu nói:

“Được”. Rồi cả hai ra khỏi khách sảnh, chỉ nghe tiếng trẻ con cười đùa vọng tới, có tiếng đứa trẻ nói:

“Hàn thúc thúc, người thua rồi, con phải cỡi ngựa đây!” Võ Nguyên Anh đẩy cửa bước vào, chỉ thấy một đại hán bò dưới đất, trên lưng chàng ta là một đứa trẻ đang vỗ tay cười. Võ Nguyên Anh nạt:

“Thành Hóa, đừng làm ồn!”.

Đứa trẻ nhảy xuống đất, đại hán cũng đứng dậy, mặt đỏ ửng, mỉm cười ái ngại. Võ Nguyên Anh không khỏi cười rằng:

“Hàn huynh đệ càng lúc càng giống trẻ con, đã nuông chìu thằng bé Thành Hóa này”. Rồi nói với Phó Thanh Chủ:

“Đây chính là Hàn Chí Bang của Thiên Địa Hội, còn đây là tiểu nhi Thành Hóa của tôi. Thành Hóa hãy mau đến bái kiến Phó bá bá”.

Năm nay Võ Thành Hóa chỉ mới mười một tuổi, đến năm năm mươi tuổi Võ Nguyên Anh mới sinh Võ Thành Hóa bởi vậy cưng chìu như trứng mỏng. Cậu bé tung tăng chạy tới, trong tay cầm một quân cờ, nói:

“Hàn thúc thúc đánh cờ tướng với con, thua con luôn cả ba ván!” Hàn Chí Bang nói:

“Thằng bé Thành Hóa này thật lợi hại, tôi vừa học xong Mai Hoa Phổ, dùng bình phong mã chặn đương đầu pháo tiến chốt bảy của nó, nào ngờ đứa trẻ này không đi theo sách vở, tôi không chống nổi lối đánh không hợp kỳ phổ của nó!” nói xong thì cười ha hả.

Phó Thanh Chủ cũng cười nói:

“Đây gọi là tin sách không bằng đừng đọc sách, cứ giữ rịt qui củ là không được!” đang nói ông ta chợt kêu Võ Thành Hóa:

“Con ném quân cờ về phía ta, ta sẽ dạy con trò biến hình!” Võ Thành Hóa liếc nhìn cha, Võ Nguyên Anh cười rằng:

“Bá bá đã bảo gì thì con cứ làm nấy!” Phó Thanh Chủ nói thêm:

“Con phải dùng thủ pháp đánh ám khí để ta coi thử công phu của con”. Võ Thành Hóa thấy cha không cản, lại còn bảo mình ném tới, lòng cả mừng vì thế hai tay cầm hai nắm cờ ném tới bằng thủ pháp Mãn Thiên Hoa Vũ.

Phó Thanh Chủ cười ha hả, rút tay vào ống tay áo, chỉ thấy quân cờ bay tới, Phó Thanh Chủ vung hai ống tay áo từng quân cờ lọt vào ống tay áo ông ta. Mọi người đều kinh hãi, ông ta đã dùng công phu Thủy Tụ trong Kinh Kịch cuộn lấy ám khí.

Công phu tiếp ám khí này quả nhiên rất hiếm thấy.

Võ Thành Hóa mừng rỡ chạy đến đòi Phó Thanh Chủ dạy cho, Phó Thanh Chủ cười nói với Võ Nguyên Anh:

“Tôi sẽ dạy cho Thành Hóa thủ pháp Thủy Tụ tiếp ám khí làm quà gặp mặt. Có được không?” Võ Nguyên Anh cả mừng, nói:

“Được lắm, được lắm!” rồi vội vàng bảo Võ Thành Hóa dập đầu.

Lúc này một trang đinh vào nói với Võ Nguyên Anh mấy câu, Võ Nguyên Anh trả lời:

“Nếu Lưu cô nương có rảnh thì mời họ vào đây”. Một lát sau bên ngoài khách sảnh có tiếng người ồn ào, bọn Thông Minh Hòa Thượng, Thành Anh, Trình Thông đều bước vào nói:

“Hàn đại ca, huynh cũng đến rồi đấy sao? Chúng tôi đang mong nhớ huynh”. Rồi cả bọn nhảy vào kéo Hàn Chí Bang ra. Phía sau bọn Thông Minh Hòa Thượng là Lưu Úc Phương. Lưu Úc Phương cũng mỉm cười nhìn chàng ta.

Phó Thanh Chủ thấy thế thì thầm khen, nhũ rằng:

“Chuyện giữa nam và nữ thật là kỳ diệu. Trong mắt mình Hàn Chí Bang quả thực là một hán tử đỉnh thiên lập địa, lần này biết Lưu Úc Phương có việc ở Ngũ Đài Sơn nên từ xa cũng đến rút đao tương trợ, tình nghĩa này chẳng tầm thường tí nào”. Nhưng ông ta thấy vẻ mặt của Lưu Úc Phương tựa như vẫn còn giữ khoảng cách với Hàn Chí Bang thì nghĩ bụng hôn sự khó thành. Lúc này bên ngoài lại có hai người, một người bé loắt choắt, đôi mắt lấp lánh có thần. Một người trông cao lớn uy võ. Người bé loắt choắt tên gọi Dương Nhất Duy, là quân sư trong Thiên Địa Hội, người kia là Hoa Tử Sơn, phó Đà Chủ của Thiên Địa Hội. Sắc mặt của hai người đều rất căng thẳng.

Lưu Úc Phương chờ hai người ngồi xuống rồi mới nói:

“Trước đây Hàn Tổng Đà Chủ có nói chuyện hợp tác với tôi. Tôi nghĩ hai bên tông chỉ tương đồng, lòng phục quốc chẳng khác gì nhau, chúng tôi là thuộc hạ cũ của Lỗ Vương, bởi vậy cũng muốn gia nhập vào Thiên Địa Hội của các vị”.

Dương Nhất Duy nói:

“Thật là tốt, Tổng Đà Chủ và chúng tôi đều rất hoan nghênh”. Hàn Chí Bang vội nói:

“Dương Nhất Duy, đừng nói thế!” Thông Minh Hòa Thượng ngạc nhiên hỏi:

“Ý của Hàn Tổng Đà Chủ là...” Hàn Chí Bang nói:

“Không phải chúng tôi có ý khác, tôi muốn nói Lưu cô nương cứ làm Tổng Đà Chủ!

Tôi chỉ là một người thô lỗ, hì hì!” Hàn Chí Bang cười hai tiếng, chưa nghĩ được sẽ nói tiếp thế nào, Lưu Úc Phương đã nói:

“Chi bằng Hàn Tổng Đà Chủ cứ tiếp tục thì hơn, Thiên Địa Hội đã có căn cứ ở tây bắc, nhân số của phía chúng tôi cũng tương đối ít hơn”. Dương Nhất Duy nói:

“Đúng thế! Chúng tôi đều bội phục Lưu cô nương, Lưu cô nương nói rất có lý”. Hàn Chí Bang trừng mắt nhìn y. Dương Nhất Duy lại mong Lưu Úc Phương từ chối thêm lần nữa. Nào ngờ Lưu Úc Phương đã có tính toán, nàng không hề từ chối mà nói:

“Nếu Hàn Tổng Đà Chủ đã coi trọng như thế, tôi chỉ đành không tự lượng sức mình”. Hàn Chí Bang cả mừng, Thông Minh Hòa Thượng cũng hớn hở. Chỉ có một mình Dương Nhất Duy chẳng hề vui.

Thế rồi mọi người bàn bạc chọn ngày tốt để làm lễ khai sơn lập đà. Trước tổng đà, Hàn Chí Bang tự nguyện ra lệnh cho người Thiên Địa Hội nghe lệnh Lưu Úc Phương.

Tiếp theo mọi người nhắc đến chuyện Đa Thích và Sở Chiêu Nam. Lưu Úc Phương nói:

“Tên ma đầu này thực sự rất khó đối phó, ngoài Phó sư thúc, chúng tôi đều chẳng phải là đối thủ của y! Lần này y bị Phó sư thúc đánh rơi xuống vực sâu, tôi mong có thể trừ được y”. Phó Thanh Chủ nói:

“Ta cũng chế phục không nổi y, có lẽ các người đừng quá vui mừng, với võ công của y, rơi xuống chưa chắc đã chết”.

Hàn Chí Bang lẳng lặng lắng nghe, chợt vỗ tay nói:

“Ta nhớ đến một người, có lẽ sẽ chế phục được ma đầu này”. Thông Minh Hòa Thượng vội vàng hỏi là ai, Hàn Chí Bang nói:

“Tôi cũng chưa gặp y, chỉ biết người ta gọi y là Thiên Sơn Thần Mãng Lăng Vị Phong”. Lưu Úc Phương nói:

“Ngoại hiệu này thật lạ!” Hàn Chí Bang nói:

“Thiên Sơn Thần Mãng một loại gai trông giống như đoản tiễn, chỉ mọc ở Thiên Sơn, sắc bén vô cùng, cứng rắn như sắt đá. Kiếm pháp của y cao cường, lời lẽ lại sâu cay. Nên người ta mới gọi y như thế. Y nổi tiếng ở vùng Hồi Cương, dân ở đây rất khâm phục y, có điều y thường độc lai độc vãng, bởi vậy không dễ tìm. Lần này trước khi đến Sơn Tây tôi đã từng sai vài huynh đệ biết y đi tìm”. Mọi người nghe nói có một nhân vật truyền kì như thế thì đều ngạc nhiên.

Hàn Chí Bang lại kể một số chuyện về Thiên Sơn Thần Mãng, ai nấy đều say xưa lắng nghe, Phó Thanh Chủ hỏi:

“Kiếm pháp của người này lợi hại như thế, chả lẽ cũng là truyền nhân của Hối Minh Thiền Sư? Sao lão hủ chưa từng nghe?”.

Lưu Úc Phương vỗ nhẹ tay, cắt lời mọi người:

“Tạm thời đừng nhắc đến Thiên Sơn Thần Mãng gì nữa, chúng ta hãy nói đến chuyện chính. Điều đầu tiên là nếu không cứu Trương công tử, chúng ta sẽ có lỗi với phụ thân của y. Thứ hai là hôm nay Đa Thích dắt theo nhiều Cấm Vệ Quân, không giống hành vi thường ngày của y, trong đó chắc có điều bí ẩn. Người Mãn Thanh nhập quan đã được ba mươi mốt năm, Trung Nguyên đã định. Chỉ có Đài Loan và vùng Hồi Cương Mông Tạng là chưa nhập vào bản đồ. Đài Loan là hòn đảo trơ trọi ngoài biển khơi, chẳng thể làm nên trò trống gì, nếu có thể liên kết với dân ở miền tây bắc và tái ngoại chống lại quân Thanh, lại liên kết với Đài Loan có thể sẽ làm nên chuyện lớn. Ta nghe phong thanh triều đình nhà Thanh đang có ý đồ xâm lấn miền tây bắc, Đa Thích đến đây chắc là liên quan đến chuyện này, chúng ta không thể không dò thám hư thực.

Phó Thanh Chủ hỏi:

“Trương công tử là...” Lưu Úc Phương nói:

“Đó là công tử của đại tướng quân Trương Hoàng Kỳ, cũng là sư điệt của Võ Khánh Chủ, đệ tử đời thứ ba của phái Chung Nam. Y vừa mới xuống núi thì đã lọt vào tay kẻ địch, bởi vậy phải tìm cách cứu ra mới được”. Trương Hoàng Kỳ là danh tướng kháng Thanh, cũng là chủ soái của toàn quân Lỗ Vương, mọi người nghe thì đều áy náy.

Phó Thanh Chủ đứng dậy nói:

“Nếu các anh hùng không chê lão hủ, đêm nay tôi sẽ cùng Mạo tiểu thư đi dò thám!” Võ công của Phó Thanh Chủ cao siêu, đương nhiên là người hợp nhất, có điều mọi người không biết Mạo Hoàn Liên như thế nào, bởi vậy nhất thời vẫn chưa lên tiếng. Thông Minh Hòa Thượng nói:

“Không biết tôi đi cùng Phó tiền bối được không?” Mạo Hoàn Liên mỉm cười, nói:

“Võ công của tôi tuy còn kém, nhưng đi cùng với Phó bá bá chắc cũng chẳng hề chi”. Lúc này bên ngoài sân có tiếng quạ kêu, Phó Thanh Chủ cười nói:

“Trên cây hòe bên ngoài có một con quạ kêu thật khó chịu, Hoàn Liên, con hãy ra bắt nó xuống đây!” Mạo Hoàn Liên vâng một tiếng rồi đứng dậy, nàng đột nhiên vung tay phóng ra giữa sân rồi bay lướt lên trên cành hòe, con quạ kêu òa một tiếng tung cánh toan bay lên, Mạo Hoàn Liên đã điểm mũi chân vào cành cây phóng lướt lên mấy trượng như tên bắn, con quạ vừa bay lên đã bị Mạo Hoàn Liên tóm lấy phóng xuống. Mọi người đều ngẩn người ra, Thông Minh Hòa Thượng giơ ngón tay cái nói:

“Hảo khinh công!” mọi người đều cười ha hả.

Đêm ấy Phó Thanh Chủ và Mạo Hoàn Liên thay đồ dạ hành, nhân lúc trăng mờ, từ phía bắc núi Ngũ Đài chạy thẳng lên đỉnh núi. Ngọn núi này lớn có tiếng, mấy ngàn quân cấm vệ của Đa Thích chỉ có thể canh ở xung quanh chùa Thanh Lương chứ chẳng thể để ý đến toàn ngọn núi, hai người Phó, Mạo lướt đi như gió, đêm nay trời lại tối như mực nên chẳng ai phát hiện.

Khi họ đang từ trên đỉnh núi len lén chạy xuống, chưa tới lưng chừng núi thì Phó Thanh Chủ chợt nói khẽ bên tai Mạo Hoàn Liên:

“Cẩn thận!” rồi phóng vút người lên đến mấy trượng, Mạo Hoàn Liên cũng tung mình nhảy theo. Chỉ thấy một bóng người che mặt chợt quay đầu lại.

Mỉm cười người đó là ai, mời xem hồi sau sẽ rõ.