Chương 1

Mở đầu

Luân Đôn _ 1820

Luân Đôn có lẽ chẳng bao giờ thật yên tĩnh. Tiếng bánh xe ngựa lóc cóc nghiến trên những viên đã đã kéo giật mọi người đang ngủ ra khỏi những giấc mơ. Tiếng cãi cọ om sòm của đám bụi đời, tiếng rao của những cô gái đẩy xe hàng, tiếng trẻ khóc, tất cả hành động cứ như là những người lính canh báo hiệu một ngày mới đang tới.

Luân Đôn gần đây trở nên đông đúc. Người ta từ những miền quê đổ vào thành phố để được lên một trong số những con tàu đang đợi họ ở ngoài cảng. Nước Anh dường như đang di cư. Ngay cả khi còn mơ màng, Margaret Esterny vẫn thấy ghen tỵ với những người ra đi tìm một cuộc sống mới ngoài kia.

Buồng ngủ của vợ chồng nàng trên gác, nhỏ xíu, phía bên trên hiệu sách, bầu không khí như ngột ngạt trong bình mình mùa thu. Tay nàng với ra chạm vào gối của Jerome. Chồng nàng đi đâu nhỉ?

Chắc anh ấy lại đang chong nến ở dưới nhà ngồi xem xét đống sổ sách. Thời gian gần đây trong ánh mắt anh chẳng giấu được những lo lắng.

Nàng trở mình nằm ngửa ra, cánh tay vắt che ngang mắt.

Nàng chẳng thể giúp gì được nữa. Hiệu sách hoạt động tồi tệ trong mấy tháng qua. Ngày tháng trôi đi, nhưng tiếng chuông cửa dưới nhà vẫn cứ im lìm, bướng bỉnh.

Jerome càng ngày càng trở nên lãnh đạm và ít khi nói chuyện với nàng. Chồng nàng chẳng hào hứng gì với các gợi ý của nàng. Có lẽ anh muốn tránh nói đến một tương lai đầy bấp bênh. Có nên đến với anh lúc này không? Trước đây nàng đã thử một lần, nhưng anh đã gấp sổ lại, tắt nến và chẳng chịu nói gì cả.

Nàng lấy tay xoa mặt. Có cái gì đó rung động trong không khí, tối đen, ngột ngạt. Một cơn ác mộng chăng, nàng trở mình hết bên này đến bên kia, như thể muốn thoát ra.

Nàng bắt đầu ho, nó làm cho nàng trở nên tỉnh táo hoàn toàn. Mở mắt, nàng nhìn chung quanh và cảm thấy sợ hãi. Đâu phải đám mây trong giấc mơ, mà là khói.

Jerome! Trời ơi, anh đang ở đâu?

Nàng đứng lên đinh với tới cánh cửa. Nó chỉ cách nàng vài bước chân, mà dường như rất xa trong làn khói mờ mịt. Chộp lấy cái then, nàng kéo và mở hé cánh cửa ra. Ngọn lửa đang từ thang gác tuôn lên, bịt mất hành lang. Nàng vô cùng kinh hãi.

“Jerome!”. Phía dưới có tiến động của cửa sổ vỡ. Sàn nhà rung lên như thể ngôi nhà đang co rúm lại. Chẳng có tiếng trả lời nào trong đám khói lửa đang cuộn lên.

Nàng vội kéo cánh cửa đóng lại khi thấy ngọn lửa đang liếm lên tường. Không có lối nào thoát được xuống dưới qua cầu thang. Nàng quỵ xuống, cố thở qua đám khói đen kịt, rồi bò vào một cái buồng nhỏ xíu liền kề với phòng ngủ.

Vào được trong, nàng nằm lăn ra một lúc, mặt chạm vào mặt sàn nóng giẫy. Mắt nàng nhức nhối, ngực tức thở vì hít đầy bụi.

Cô giúp việc đang ngủ ở cái phòng nhỏ này. Nàng kêu to, Penelope không trả lời. Nàng với cái võng và lay mạnh. Không có tiếng đáp. Nàng lay mạnh hơn, ngón tay chạm vào mặt Penelope, nàng đập mạnh bàn tay vào má cô gái.

Ngọn lửa đang rít lên, nổ lốp bốp, xé tan bầu không khí. Nàng hét vào tai Penelope, rồi tiếng kêu nhỏ dần như một lời cầu nguyện thầm thì.

Xin hãy cứu giúp Jerome.

Penelope bắt đầu ho, ít nhất tiếng ho cũng làm cho nàng yên lòng.

Một lúc sau, họ bò đến cửa sổ. Gọi là cửa sổ nhưng nó chỉ là một cái ô màu xám ở trên cao, may mà vẫn còn nhìn thấy được trong đám khói. Hai người cùng nhau đẩy cái chân nến đến phía dưới. Magaret lùi lại phía sau và giúp Penelope trèo lên cái bàn nhỏ. Cô ta với lên nắm được bậu cửa sổ và đu mình lên an toàn.

Magaret dứt cơn ho được một lúc. Nàng cảm thấy như có một cái dải đang siết chặt lấy cổ họng.

Penelope đã thoát ra được qua ô cửa sổ.

Không khí trở nên quánh lại.

Những tấm ván dưới chân nàng như đang cháy, ngọn lửa dường như đang săn nàng trong bóng tối.

Có ai đó gọi tên Penelope và tiếng cô gái đáp lại. May phúc, vậy là cô gái đã an toàn. Có thể Jerome cũng đã thoát ra khỏi đám cháy và đang đợi nàng phía dưới kia.

Khi trèo lên cái chân nến, ngón chân nàng chạm phải một cái hộp nhỏ chắc chắn mà vợ chồng nàng dùng nó như một cái két. Nàng nhặt lên và đẩy nó qua cửa sổ. Nàng trèo lên, tay cố quờ quạng tìm chỗ bấu víu, nhưng vẫn bị trượt xuống. Ngọn lửa thè ra từ cửa sổ phía dưới làm chân nàng bỏng rộp. Những bàn tay chờ sẵn phía dưới kéo nàng ra chỗ an toàn. Có ai đó kêu lên và dập những chỗ cháy trên áo nàng.

Nàng nằm trên mặt đất một lúc, ép hai tay lên mắt. Nàng thấy nhói đau từ những vết sây sát ở bàn tay, khuỷu tay, bàn chân nhức nhối. Mở mắt ra nàng thấy những chỗ đó đỏ và phồng rộp lên.

Nàng đang kinh hoàng nhìn vào đám cháy thì tầng trên của hiệu sách đổ sụp vào trong. Yên lặng. Chỉ còn sự yên lặng chết chóc.

\"Jorome?\" Nàng đứng dậy và nhìn quanh. Một cái áo choàng ai đó đặt vào vai nàng.

Nàng xô vào đám đông. \"Jerome, có ai nhìn thấy anh ấy không? Chồng tôi đâu? Jerome?\" Nàng kéo áo, túm lấy những cánh tay để hỏi nhưng không có ai trả lời. Những người đàn ông dập lửa cúi đầu xuống. Những người hàng xóm của nàng nhìn đi nơi khác. Còn vợ chồng nhà Plodgett, bạn của nàng thì đng khóc, Samuel lúc lắc đầu đau khổ.

Không thấy Jerome trong đám đông. Nàng hi vọng anh sẽ đưa tay ra nắm chặt lấy tay nàng, cười với nàng để làm yên lòng nàng. Mọi người bắt đầu quay lại như muốn chia xẻ nỗi đâu với nàng. Nàng đau đớn nhìn ngôi nhà đang bị thiêu rụi.

\"Hãy đi khỏi đây thôi cô Margaret\"-Penelope nói, vòng tay qua vai nạng

Magaret run lên, cứ nhìn đám cháy như một nấm mồ thiêu.

Nàng đang cầm một cái áo choàng ai đó đưa để đợi Jerome, nhưng anh chẳng bao giờ còn xuất hiện nữa. Anh ấy đã chết trong đám cháy thật rồi.

Một cảm giác mơ hồ đang xâm chiếm lấy nàng, cứ như lúc này không phải là thực. Nàng sẽ nhanh chóng thoát ra khỏi trạng thái này chăng.

Nhưng đó không phải là một giấc mơ. Những đám mây hồng mảnh mai như những chiếc lông vũ bay nhanh qua bầu trời xanh. Bình minh đã đến với Luân Đôn.

Jerome, nàng bắt đầu khóc, những giọt nước mắt lặng thầm và đau đớn.

....................

\"Dạ xong rồi, thưa ngài.\"

Alan Stilton, Công tước Tarrant, chăm chú nhìn gã đầy tớ đang đứng trước mặt mình. Thư viện của ông ta là một cái phòng được thiết kế để trưng bầy những thứ quý giá.

Sự có mặt của Peter như làm ô uế căn phòng. Một gã đàn ông xấu xí, trông càng không chấp nhận được với một cái vết thương đỏ, chảy dài xuống một bên má, chứng tỏ Jerome đã có hành động đánh trả lại

Peter, một cựu võ sĩ đẫm bốc, bề ngoài được thuê như là một người đánh xe ngựa. Thực tế anh ta phục vụ dưới nhiều lớp vỏ khác nhau. Thân hình to lớn của anh ta và bộ mặt méo mó làm cho mọi người phải chú ý.

Ông ta đã thuê người đàn ông này gần 10 năm trước đây, sau khi chứng kiến anh ta gần chết khi đánh một kẻ thù. Sự quyết liệt của anh ta lúc đánh nhau, ngay cả khi thua đã rõ ràng, đã gây ấn tượng mạnh. Sự tuyệt vọng ấy đã kích thích tính tò mò của Tarrant. Ông ta đã thuê anh chàng và không bao giờ hối hận về quyết định của mình. Peter còn có một giá trị nữa, đó là lòng trung thành cuồng nhiệt.

“Hắn chết rồi chứ?” Tarrant hỏi, nhìn chằm chằm lên mặt bàn. Ông ta dịch chuyển lọ mực bằng vàng sang trái, dùng tay vuốt phẳng bức thư mà người quản lý vừa trao. Những động tác thừa ấy chỉ để che giấu cái tâm trạng sốt ruột chờ nghe câu trả lời.

“Vâng, thưa ngài.” Peter nói một cách lễ phép.

“Thế còn những cuốn sách?” Tarrant liếc nhìn hắn.

“Không tìm thấy chúng ạ.” kẻ đầy tớ trả lời, đầu cúi xuống như thể xấu hổ. Một hành động hối lỗi hay hành động của kẻ tôi tớ luôn biết được chỗ của mình trong cuộc đời.

Tarrant gật đầu, tự nhủ nên coi đây là một ngày tồi tệ. Một con quỷ. Ông ta đã ra lệnh giết người em của mình và bây giờ ông ta đang đứng nghe người ta kể lại. Thật lạ là ông ta chẳng có một chút ân hận nào.

Ông ta đứng lên, đi tới cửa sổ, chú ý vào khung cảnh trước mặt. Không để lộ cho Peter biết ông ta đang bực mình như thế nào khi mất những cuốn nhật ký. Chúng là bản in duy nhất, một gia tài cần được giữ gìn và bảo vệ qua hàng chục năm tới.

“Thế còn cửa hàng sách?”

“Nó chẳng còn gì, ngoài đống tro, thưa ngài.”

Thế vẫn là hơn, nếu không tìm thấy những cuốn sách đó.

“Còn con mụ Margaret?” Bụng ông ta cuộn lên khi nói đến cái tên đó. Một cái gai, con vợ của thằng em hoang.

“Chị ta còn sống, thưa ngài. Tôi đã đợi và nhìn thấy.”

Thật đáng tiếc. Ông ta giơ tay lên, ngoắc ngoắc ra hiệu xua hắn đi. Peter không cần lời nói. Ngay lúc đó, Tarrant nghe thấy tiếng cửa khẽ khép lại sau lưng.

Từ phòng này có thể nhìn ra một quảng trường yên tĩnh. Một nơi đầy màu xanh với những ngôi nhà chung quanh. Một địa chỉ danh giá, một khu phố dành cho những bá tước và hai vị công tước. Ông ta thích Wickhampton hơn so với Luân Đôn, nhưng ngôi nhà này cũng khá dễ chịu. Ông ta mơ màng trở lại tuổi 15, khi nghe kể về cái điều dại dột của bố mình.

“Mày có một thằng em trai, Alan.”

“Dạ?”

Ông bố có cái mũi khoằm, cằm nhô ra, nhìn chòng chọc như là một bức tượng đá. “Mày hỏi lại lời của tao hay là hỏi về việc có một đứa em trai?”

“Con chẳng hỏi gì cả,” nó nói một cách thận trọng vì luôn luôn bị bố giận dữ.

“Nó kém mày một vài tháng,” ông bố tuyên bố, như hãnh diện về cái năng lực đàn ông. Sinh ra được hai thằng con trai trong một vài tháng dường như với ông ta là một chiến công vĩ đại. Điều đó chỉ làm cho Alan thấy khó chịu. “Tao đã chuẩn bị chu cấp cho nó theo ý nguyện của tao, tao muốn mày quản lý món tiền đó của nó.”

Nó đã mỉm cười, Alan nhớ lại. Chỉ là một thỏa thuận mập mờ. Nhưng lúc đó nó đã có một biểu lộ khá thích hợp để che đậy những ý nghĩ thật sự của mình.

Bố nó đã muốn nó chào đón người anh em cùng cha khác mẹ và cho rằng cái sự thật bất ngờ đó ít nhất cũng phù hợp với nó.

Hắn đã thực hiện điều đó trong 12 năm. Ngay lúc bố hắn chết, hắn đã khoác cái vỏ trách nhiệm, kìm nén sự cuồng bạo mà hắn đã cảm thấy cùng với sự căm ghét. Trong vòng 12 năm, hắn đã làm đúng như bố hắn muốn, một người quản gia đối với một đứa con hoang, kết quả của mối quan hệ giữa người hầu gái và vị công tước.

Cho đến ngày hôm nay, hắn nhìn bầu trời xám xịt như chì và tự hỏi tại sao không có ánh sáng mặt trời. Đó là một ngày rực rỡ, cuối cùng hắn đã được tự do. Không chỉ thoát khỏi bản tính khó chịu và luôn nhã nhặn của Jerome mà cả cái bóng của bố hắn luôn thì thầm bên tai hắn về một sự thật mơ hồ. Lão luôn cảm thấy yêu quý đứa con hoang hơn đứa con thật sự hợp pháp.

Alan cảm thấy thật sung sướng. Những cuốn Nhật ký đã bị thiêu hủy, nhưng chưa phải là mất hết. Hắn sẽ chẳng bao giờ phải lo ngại về Jerome và cả con vợ của anh ta, Margaret.

Gã Công tước mỉm cười.

***

Nhật ký của Augustin X

Wiltshire Downs, England

Đầu xuân 1822

Chàng trai khoả thân, ngồi khoanh chân trên một tấm thảm màu sắc rực rỡ, với một người con gái đầy khêu gợi trong lòng. Cặp chân trần của nàng quặp lấy hông chàng, hai bàn chân ngoắc chặt vào nhau sau lưng chàng. Bàn tay đàn ông với những ngón tay mạnh mẽ dang rộng, bám chặt vào đùi nàng, tay kia ghì lấy quanh eo. Nàng ngửa đầu ra phía sau, hai mắt nhắm lại, khuôn mặt nàng lộ rõ niềm hoan lạc tột cùng. Đầu chàng cúi xuống, khoé miệng đầy ham muốn và háo hức, lưỡi chàng mơn man bầu vú, cứ như muốn chiếm đoạt nàng mãi mãi.

Người hoạ sĩ đã vẽ người đàn ông ở một trạng thái thật khêu gợi, nổi bật sự không cân xứng. Không có một người đàn ông nào, Margaret Esterly nghĩ, có thể to như vậy.

Cái nhìn của nàng lại quay về thời gian của bức hoạ và rồi lại cảm giác như có cái gì đó bừng bừng dâng lên cổ. Một khung cảnh của khoái lạc và buông thả. Một cảnh thật kích thích. Đó là lý do duy nhất nàng xem với sự tò mò khao khát, Margaret tự nhủ.

Đoạn chú thích kèm theo bức họa vừa gây khó hiểu, vừa tạo sự liên tưởng: Khuôn mặt, đôi tai, cặp vú đầy xúc cảm. Nhưng phải thật chăm chú để có thể thì thầm dịu dàng, âu yếm trong sự mong đợi niềm hoan lạc đang dần đến.

Nàng nhắm mắt lại, rồi ngước lên, mặt dần nóng bừng.

Phía bên kia bàn, Penelope đang ngồi thái hành và nhăn mặt nhìn nàng. Hai năm trôi qua kể từ khi họ rời khỏi London, cuộc sống của họ đã có nhiều thay đổi. Nhưng quan trọng nhất có lẽ là tình bạn mà cả hai đang cùng chia xẻ. Chẳng có gì ngạc nhiên vì họ cùng sinh ra và lớn lên ở London.

Margaret rất muốn thoát khỏi London, muốn chạy trốn khỏi những hồi ức của mình. Điều làm nàng ngạc nhiên là Penelope sẵn sàng theo nàng về vùng thôn quê.

Với cái chết của Jerome, nàng đã không còn gia đình. Bố mẹ nàng đã hết vì bệnh cúm khi nàng còn là một đứa trẻ. Bà nàng, nguyên là một bảo mẫu, đã nuôi nầng nàng, nhưng bà đã qua đời một năm sau khi nàng lấy Jerome.

Túp nhà tranh mà nàng thuê từ một chủ đất ở Tippett hai năm trước chẳng phải là một chỗ dễ chịu gì. Đồ đạc duy nhất chỉ là một cái tủ ngăn kéo, hai cái giường con, hai cái ghế và một cái bàn gỗ nhỏ mà nàng chẳng thể nào làm nó đứng thẳng được, dù nàng đã kê một miếng gỗ nhỏ ở một bên chân nhưng nó vẫn cứ còn bập bênh, xiêu vẹo. Một cái lò sưởi kề bên một bức tường còn nguyên vẹn, mang đến sự ấm áp trong mùa đông xứ Downs.

“Tốt nhất chị nên giấu các cuốn sách đó khi các cô bé đến học. Chị cứ thử hình dung xem mẹ chúng nó ở trong làng sẽ nói như thế nào khi họ biết chị đọc những loại sách như vậy.” – Penelope càu nhàu.

Làng Silbury, ngôi nhà mới của họ nằm trên một thung lũng ven sông, có thể nhìn thấy rất rõ một khu đá phấn trên đồi cao, với màu trắng thuần khiết cắt ngang sườn đồi. Khu đá có kích thước hùng vĩ, khác xa với khu Ngựa trắng ở Westbury, nên khó thấy được hình dạng đẽo tạc của nó, trừ khi mùa xuân đến khi dân làng cắt đi lớp cỏ trên bề mặt. Lúc đó có thể thấy rất rõ những góc cạnh và đường cong tạo nên hình ảnh của một cái vương miện. Dường như đã có một sự hiện diện nào đó của một vua chúa ngày xưa đã đánh dầu xứ này để ghi nhớ mãi tên tuổi của ngài.

Con sông Bristol gần như ôm trọn ngôi làng. Dòng xoáy của nó tung bọt lên khi chảy qya hai cái cối xay. Phía trên đồi, bên cạnh làng Silbury là khu để hài cốt của một tu viện. Trong thị trấn đầy những lối đi đan quyện nhau, những bậc thang bất ngờ, những ngôi nhà xây bằng đá đã hư hại làm cho bộ mặt của chúng trở nên già nua, ảm đạm.

Samuel đã bảo nàng rằng đó là một nơi không phải để con người ta có thể hướng ra bên ngoài. Những người dân làng cảm thấy hài lòng khi làm nên những cái đồng hồ đã làm họ nổi tiếng và chẳng cần để ý đến thế giới. Có lẽ cũng do có Samuel nên nàng đã đến đây ở. Bạn nàng đã sinh ra trong làng này và biết người chủ đất mà nàng đã thuê ngôi nhà tranh nhỏ.

Penelope đứng dậy, đổ những thứ trong bát vào món đang nấu trên bếp. Món ăn chính hàng ngày của họ chẳng có thịt, nhưng luôn có hành. Margaret bắt đầu cảm thấy chán ghét mùi vị của chúng.

“Chị chưa bao giờ đọc quyển thứ ba,” – Margaret nói dè dặt, - “ Ông ấy viết hấp dẫn về phương Đông, Penelope à”.

Penelope quay lại nhìn nàng, một bên cặp mày nhướng lên. Một cái nhìn quở trách hoàn hảo, Margaret nghĩ. Nàng chưa bao giờ làm thế với học sinh của mình.

ĐÓ là một sự thay đổi nữa trong đời nàng. Hơn một năm qua, nàng đã bắt đầu dạy một vài cô bé trong làng. Việc đó đã làm cho nàng có cơ hội dùng đến những bài học mà bà nàng đã dạy cho nàng.

Nàng sẽ chẳng bao giờ sinh được những đứa con, cuộc hôn nhân năm năm với Jerome đã cho thấy điều đó. Nhưng mỗi tuần ba buổi sáng, bảy cô gái nhỏ, tuổi từ năm đến mười, đi đến ngôi nhà tranh của nàng. Vào những giờ ấy nàng chẳng nghĩ gì về tình cảnh túng bấn, hoặc nỗi cô đơn của mình. Nàng chỉ nghĩ đến những năng khiếu và nhu cầu của mỗi cô gái. Sự nhiệt tình của Annie thật thú vị, hoặc DOrothy cố gắng làm sao để có thể đọc tốt hơn. Nàng trả lời chúng những câu hỏi và khuôn mặt rạng rỡ khi chúng cười.

Ngược lại, nàng cũng học được nhiều từ những học sinh của mình. Dạo chơi với chúng, nàng biết rằng làm thế nào để nghe được tiếng gà gô, hoặc nhìn trăng non mà đoán mùa gieo trồng. Nàng đứng trên đồng cỏ, nghe chúng sôi nổi giảng giải, chăm chú nhìn lên những đám mây, cảm thấy thật nhỏ bé và chẳng có ý nghĩa gì dưới bầu trời bao la. Có lẽ trước kia nàng chưa bao giờ thực sự ngắm bầu trời London.

Xét cho cùng, đó là một cuộc sống khá hài lòng. Một cuộc sống mãn nguyện, chỉ trừ có hai thứ, đó là sự cô đơn và tình cảnh tuyệt vọng về tiền bạc của nàng,

Nàng lại liếc nhanh xuống quyển sách trên bàn. Người họa sĩ phải là một nghệ sĩ có tài. Những ngón tay của nàng lần theo bức vẽ, từ đôi vai cơ bắp đi xuống tầm lưng thon và xoa trên bắp đùi. Người đàn ông này xuất hiện ở một loạt bức minh họa nhỏ nằm rải rác khắp cuốn Nhật ký của Augustin X. Trong bức nào anh ta cũng tham gia vào những hành động xác thịt – những hành động chắc chắn bị cấm đoán. Anh ta có đôi vai rộng, tấm lưng thuôn xuống eo. Cặp mông hoàn hảo cứ như khiến người ta muốn úp tay vào. Một người xa lạ, có thể chỉ là sáng tạo của người nghệ sĩ thôi, nhưng nàng còn biết tường tận hơn so với người chồng quá cố của mình.

Những tưởng tượng thỏa sức của nàng, thậm chí còn kích động hơn những bức tranh. Rất nhiều lần nàng mường tượng như mình là người đàn bà trong cánh tay anh ta. Thỏa mãn những hoan lạc, rồi uể oải khi nhớ lại. Đôi mắt nàng giữ kín những bí mật, nụ cười của nàng thể hiện một niềm vui thuần khiết.

Một vài ngày sau đám cháy, nàng đã tìm thấy ba cuốn sách được nhét dưới đáy của cái hộp nhỏ. Hàng tháng trời, những cuốn Nhật ký của Augustin X cứ nằm yên trong đó. Nhưng trong mùa đông đầu tiên, buồn chán và cô đơn, nàng đã lấy ra tập đầu tiên để đọc.

Augustin hiển nhiên là một người đàn ông rảnh rỗi và giàu sang, ông đã đi du lịch nhiều. Ông ta viết một cách chi tiết về phong cảnh của những vùng đất mà ông ta đã đặt chân tới. Những ngón tay nàng lại lần theo một đoạn văn.

Chuyến đi của tôi qua Trung Quốc, bắt đầu từ Thanh Hải trên cao nguyên Tây Tạng, lưu vực sông Hoàng Hà. Tại chỗ sông Vị chảy vào Hoàng Hà ở trung tâm tỉnh Sơn Tây, chúng tôi được tiếp đón nồng nhiệt. Tôi đã gặp Minh Vũ và đã có những đên đáng nhớ nhất trên đất Mãn CHâu.

Bản chất thực sự của cuốn Nhật ký của Augustin X , tất nhiên không phải là về một cuộc thám hiểm. Thay vào đó là một ghi chép sinh động về những cuộc phiêu lưu tình ái của Augustin ở khắp nơi trên thế giới. Mỗi một cuốn Nhật ký của Augustin X như là một sách hướng dẫn về thú vui nhục dục, được ông mô tả thật chi tiết. Ông dường như đặc biệt mê đắm với những với những cô gái làng chơi mà ôn gặp, nhiều người trong số họ đã dạy ông biết tận hưởng những sung sướng hơn của thú vui xác thịt. Ông thậm chí đã nghĩ rằng mình đã yêu một người và khi đọc đến cảnh chia tay, Margaret đã rơi nước mắt.

Trong mùa đông đầu tiên ấy, nàng đã tự nhủ tốt hơn nên vứt các cuốn sách đó đi. Nhưng chúng là sợi dây kỷ niệm duy nhất của hiệu sách và cuộc đời nàng với Jerome. Ngoài ra, đọc các cuốn sách này thỉnh thoảng làm cho nàng còn có việc để làm, còn hơn là cứ ngồi lo về cái hoàn cảnh bi đát của mình.

Lương tâm của nàng cười thầm trong im lặng. Rất tốt, có lẽ là nàng đã quá mê hoặc vì các cuốn sách. Cuốn Nhật ký của Augustin X đã tiết lộ cho nàng biết về một thế giới mà nàng chưa từng biết, một trong những cuộc gặp gỡ say đắm và hành động tình dục mà nàng chưa bao giờ nàng nếm thử.

“Chúng là những thứ tội lỗi, chị Margaret,” – Penelope nói, liếc qua vai nàng vào cuốn sách trên bàn, “Ghê quá !”ư

“Không có gì ghê gớm cả, đơn giản chúng chỉ là những cuốn sách thôi”, Margaret nói một cách kiên nhẫn, “Chỉ là tập hợp của những chữ mà thôi.”

“Và cả những bức tranh nữa,” – Penelope nói , “Bất cứ người đàn ông nào đụng vào em theo cách ấy cũng sẽ bị em đẩy ra”.

Hai má của Penelope tròn và hồng hào cả ngày, giờ đây như bừng bừng lên. Cái cằm nhọn của cô chĩa vào Margaret. Ngay cả mái tóc nâu thẳng của cô dường như cũng quăn lại với vẻ giận dữ. Cặp mắt đen của cô bắt gặp cái nhìn chằm chằm của Margaret. Trong mắt cô thể hiện sự ngay thẳng rõ ràng.

Margaret thừa nhận rằng nàng chẳng trong t rắng gì trong ý nghĩ. Nhiều đêm nàng nằm trên giường và muốn cuộc đời nàng sẽ khác đi. Đồng thời nàng cũng nhận ra rằng những năm qua đã dạy nàng nhiều. Sự biến động của cuộc đời nàng đã đến với nàng trong cái lốt của ngọn lửa và cái chết của chồng nàng. Nhưng giờ có lẽ khôn ngoan hơn là cầu xin một sự bình yên và những biến động đừng đến với nàng nữa.

Margaret gập cuốn sách lại, có một trang bị lệch, nàng mở ra và kéo thẳng lại, nhưng đấy lại là một trang riêng. Nàng cau mày khi thấy có thể kéo nó ra một cách dễ dàng.

Đó là một cái danh sách có khoảng mười cái tên, tất cả có chú thích bên cạnh với những dòng chữ nguệch ngoạc khó đọc của Jerome…

“Chị có nghĩ đó là danh sách gì không?”

Margaret lật giở lại cái danh sách đó và xem xét nó một lần nữa. “Chắc anh Jerome muốn bán chúng. Chị đã thấy những cuốn sách loại này trong hiệu sách trước đây, chị tin rằng chúng có thể bán được giá.”

Penelope chăm chú nhìn nàng một cách ngạc nhiên “chị đang nghĩ đên việc bán chúng đó sao, chị Margaret?”

“Theo ghi chép của Jerome, có ít nhất ba người có khả năng mua. Chị nghĩ những người đàn ông sẽ không ngần ngại mua ngay những cuốn sách này. Nếu chúng ta không có ý định bán thì có lẽ phải quay về thành phố và kiếm việc thôi”

Penelope nhìn có vẻ bị tác động mạnh. Quay về London có nghĩa là cô phải xa Tom và xa các lớp học của các bé gái của cô. Tom! Má Penelope đỏ ửng lên.

Chú rể trẻ tương lai làm việc cho điền chủ Tippett và đã tán tỉnh Penelope suốt hai năm qua. Họ rất yêu nhau, đến mức khi nhìn họ ở bên nhau, Margaret cứ cảm thấy đau nhói trong tim. Hôn nhân của nàng với Jerome là một thứ tình cảm nhẹ nhàng. Một sự kết hợp tự nguyện nhưng dù sao vẫn thiếu một cái nhìn khát khao và nụ cười âu yếm như Tom và Penelope dành cho nhau.

“Liệu có thể nhờ đến ngài Công tước không chị Margaret?”

“Không” – Nàng nói nhanh – “Không bao giờ, dù có điều gì xảy ra đi nữa.”

Nàng không bao giờ quên cái lần cuối cùng nàng gặp ông ta, một ngày sau ngày Jerome bỏ mạng và ông ta đã xua đuổi nàng như thể một nỗi xấu hổ, tủi nhục, hoen ố. Nàng cảm thấy ghê tởm…

“Không, không có công tước gì hết!”

Nàng lại nghiên cứu danh sách một lần nữa. Đây là giải pháp thích hợp cho tình thế tiến thoái lưỡng nan của họ. Nếu nàng chỉ bán một cuốn, nàng có thể giữ lại hai cuốn như là một chút bảo đảm cho tương lai của mình.

Nàng lo xa bằng cách ghi tên Jerome lên cuốn sách. Không chỉ bởi vì chỉ có những người đàn ông sẽ từ chối giao dịch với phụ nữ mà còn để bảo vệ thanh danh của nàng. Nàng cũng gửi một lá thư ngắn tới Samuel để nhờ dùng địa chỉ cửa hàng bán vải làm địa chỉ giao dịch. Bằng cách đó, không ai trong làng biết rằng nàng đang chứa những tác phẩm văn học ghê gớm như vậy.

Cuộc sống ở ngôi làng này rất đơn giản và căn bản. Những ai tuân thủ nghiêm khắc các phép cú xử sẽ được tán dương và khen ngợi, người nào không thực hiện sẽ bị tẩy chay. Trong làng có hai phụ nữ mà ý kiến của họ được coi trọng là Sarah Harrington và Anne Coving.

Sarah có ảnh hưởng như kiểu là người phán xét về đạo đức. Ý kiến bà ta có sức thu hút và nói chung là hầy hết các bà đã có chồng trong làng đều nghe theo. bà ta là một trong số những người đầu tiên gửi con gái vào lớp học của Margaret.

Em gái bà ta, Anne đúng là một mụ ngồi lê đôi mách.

Tất cả những gì làm nên giá trị của nàng trong cuộc đời này sẽ bị hủy hoại nếu Sarah biết được nàng có những cuốn Nhật ký của Augustin X , biết nàng đang chuẩn bị bán nó, thậm chí còn đọc nó.

Cuối cùng nàng dường như không còn cách nào khác là phải bán cuốn Nhật ký của Augustin X để ở lại Silbury.

Margaret nhấc cái hộp đựng đồ văn phòng lên, ngồi xuống bàn viết và bắt đầu viết.