Người ta gọi ông thế vì ông nghèo và không có nhà cửa. Thực ra, ông chưa hề chìa tay ra xin ai một đồng Bảo- Đại.
Có lẽ ông chưa ngoài bảy mươi tuổi. Nhưng mưa gió, công việc khó nhọc, sự đói rét đã làm ông già hơn ngày tháng. Lưng ông hơi còng, tóc ông mới bạc độ quá nửa, nhưng đôi má hóp làm sao, mà chân tay thì khô đét và đen sạm. Riêng mắt của ông còn tinh sáng.
Người ta không rõ ông ở đâu lại và đến Phủ Lý từ bao giờ.
Ngày, ông nay đây mai đó. Đêm, ông ngủ trong hiên trường con trai Phủ Lý, trước cửa lớp tự Sáng nào dậy, ông cũng quét sạch chỗ ông nằm, rồi mới ra đi. Cũng trong hiên ấy, còn ba bốn người nghèo khổ khác đến ngủ nhờ. Nhưng họ không được cẩn thận như ông. Sau khi người ta mang bị gậy ra khỏi chỗ nằm, người ta thường thấy sót lại nào cơm khô, nào giẻ rách, nào rác bẩn từ nón mê, áo tơi thủng của họ rơi ra. Đã nhiều lần, ông trách mắng họ:
- Trường học của người ta chứ nhà mình đâu mà bày ra như thế!
- Làm quái gì có nhà... , đôi khi họ đáp lại lời ông.
ông làm thinh, thở dài, yên lặng. Nhưng lời ông bao giờ cũng có kết quả. Không phải bọn họ sợ Ông - nào ông có quyền gì đâu! - họ chỉ lo người coi trường đuổi họ. Chỗ ngử cao ráo, kín gió quá, họ còn tìm đâu được một nơi như thế để qua đêm, nhất là những đêm đông gió buốt thấm vào tận xương tủy. Họ rùng mình khi nghĩ đến những bờ hè ướt át của nhiều nhà trong phố ; muốn xua đổi họ, người ta đã nghĩ được một cách rất giản dị và hiệu nghiệm: đổ nước lêng láng ra trước cửa nhà.
Tôi được biết ông lão trong một sáng đông đầm ấm. Ở trường về, từ đằng xa, tôi đã thấy ông ngồi ro ro trước cửa nhà tôi. Nghe tiếng gót giày tôi đi trên thềm gạch, ông ngẩng lên chào, giọng nhỏ và hơi run:
- Bẩm ông!...
- Tôi không dám.
- Chỗ này nắng, cháu ngồi nhờ ông một lúc cho ấm.
- Được, cụ cứ ngồi.
- Cháu sẽ quét cẩn thận, không dám để rác bẩn đâu.
- Thế thì hay lắm.
Rồi ông lại cắm cúi xuống chiếc rổ tre đương đan dở.
Tôi vào nhà ăn cơm
ông đi lúc nào, tôi không để ý đến, chắc lúc ấy mặt trời lên cao đã xế, ánh nắng ra khỏi cửa nhà tôi. Chỗ ông ngồi đan, đố ai tìm thấy một nút lạt, một tơ tre, một sợi mây nhỏ.
Buổi chiều, tôi không thấy ông đến. ý hẳn ông đi tìm những nơi kín gió và nắng nhiều. Ông chỉ có một chiếc áo dài thâm và rách nhiều chỗ. Tội nhiệp!
Sau buổi ấy là chủ nhật. Trời hoe nắng từ sáng sớm. Tuy vậy, ngồi trong nhà, tôi mặc áo “len” còn thấy lạnh.
Lúc ra tựa cửa, tôi đã thấy ông lão đương ngồi đan ở chỗ cũ. Tôi gợi chuyện:
- Cụ dậy sớm nhỉ!
ông ngẩn nhìn :
- Bẩm ông! Cháu lại nhờ ông buổi nữa...
- Vâng, nào tôi có thiệt gì!
- Ông xem! Hôm qua cháu có dám để bẩn tí nào đâu.
- Có. Tôi biết.
_ Cháu nghèo đói thật, nhưng không muốn để ai chê trách mình.
_ Cụ nghĩ thế phải lắm. Quê cụ Ở đâu?
- Cháu ở Bắc Ninh
Tôi cảm thấy lòng nao nao. Tôi đi làm xa đã lâu, gặp người cùng tỉnh đã nhiều, nhưng chưa bao giờ tôi thấy lòng tôi xúc động như lúc ấy. Tại ông lão ở trong tình cảnh đáng thương? hay ảnh hương của gió đông vi vút? Nào tôi biết. Lòng tôi có bảo tôi đâu!
ông vừa rút chặt sợi dây, vừa thủng thẳng:
- Cháu xa làng từ khi còn bé. Cháu đã đi ở, kéo xe, làm bếp, bán hàng rong, nhưng không bao giờ được mát mặt. Bây giờ có tuổi, không làm nổi việc nặng nhọc, cháu làm việc nhẹ.
- Đan thế này, mỗi ngày cụ kiếm được bao nhiêu?
- Dăm bảy xu, có khi một hai xu.
- Đủ ăn sao được?
- Cháu già rồi, ăn hết mấy. Vả lại, sức chỉ có thế, thì làm thế nào?
- Thế cụ có con không?
_ Cháu được một đứa. Hiện nó đang làm phu mỏ ở Uông Bí.
- Hắn không gửi tiền về giúp cụ à?
- Lấy của nó làm gì. Đẻ nó ra, phải nuôi nó. Nó có cơm ăn việc làm thì may cho mình rồi... Xin ông tha lỗi, cháu không nghĩ như người khác : đẻ con ra để nhờ con. Còn có thể kiếm đủ ăn nuôi miệng, cháu còn kiếm.
- Thế lỡ khi cụ đau yếu?
- Đã có nhà thương. Chết là cùng. Chẳng nói dấu gì ông, trong họ cháu cũng có nhiều người làm nên, nhưng cháu không muốn nhờ. Cháu làm lấy cháu ăn. Khi nào không làm được nữa thì chết, chết đói hay chết rét cũng được..
Tôi đang lấy làm lạ về lời nói của ông thì đằng xa có tiếng rên rỉ não nuột. Tiếng ấy to dần. Đó là lời kêu xin thê thảm của người mù, già , gầy, đen, không quần áo. Hắn lê qua trước mặt chúng tôi, tay trái chống xuống đất, tay phải cầm mảnh giá mất cạp. Ai thấy hắn mà không động lòng thương, tôi chịu là người can đảm.
Thấy tôi cho hắn tiền, ông lão cũng sờ vào vành quần, lấy ra một đồng Bảo Đại, ném vào vành rá người ăn mày. Ông ngậm ngùi bảo tôi:
- Sao thiên hạ lắm người khổ thế, ông nhỉ!
Tôi còn biết trả lời ông ra sao?!
Tôi gọi thằng nhỏ đem rổ rá cũ ra để ông cạo hộ.
ông làm cẩn thận và đẹp lắm. Những nút mây nhỏ gần sát sau ; đầu nút lẩn cả vào bên trong.
Tôi đưa ông một hào:
- Trả tiền công cụ.
- Cháu không có xu trả lại.
- Biếu cụ cả đấy.
- Ông cho, cháu xin vâng; chứ ông trả tiền công thì đắt quá, cháu không dám nhận.
ooOoo
Cách đó hai hôm. Trời đang ấm, bỗng nổi rét. Từ sông Châu, gió lạnh lùa qua phố Khách đến phố Châu Cầu. Lá vàng lác đác rụng. Tầng mây nặng trĩu và xám ngắt. Cảnh vật âm ụ Lòng tôi buồn man mác.
Cái lạnh như từ trong người đưa ra. Tôi kéo cổ áo tơi lên khỏi gáy, nhưng vẫn run hoài. Hai tay trong túi áo còn thấy buốt. Một người đi bên cạnh tôi, nói nhỏ một mình:
- Tiết tiểu hàn có khác! Hôm nay rét nhất cả.
Hai hàm răng người ấy chạm nhau cầm cập. Tôi bật cười, góp một câu:
- Rét thật ông nhỉ!
_ Vâng. Rét thật!
Trước cửa trường, học trò đứng tụ lại khác mọi hôm. Họ bàn nhau to nhỏ:
_ Chắc bệnh dịch.
- Thế nào cũng được nghỉ lâu.
- Không khéo họ đốt trường...
- Dễ thế!
- Anh không thấy những nhà có người bị chết về bệnh tả đều bị đốt cả ư? Hôm nọ, người ta chẳng đốt một cái trước cửa trường là gì?
- Anh dốt lắm! Đấy là nhà tranh, nhà tư; đây là trường học, bằng gạch, của nhà nước.
Tôi hỏi họ:
- Cái gì thế?
- Thưa thầy, trong hiên trường dưới có người chết...
- Tự tử?
- Thưa thầy, không. Có lẽ bệnh dịch. Mời thầy xuống xem. Thầy Dụng, thầy Đán cũng ở dưới ấy.
Tôi hồi hộp, tự nghĩ: “ Hay ông lão... ! “
Đến nơi, nhìn vào trong hiên, trước cửa lớp tư, tôi thấy một chiếc chiếu cuộn tròn, gồ lên. Một trẻ em bảo tôi:
- Thưa thầy, đấy. Thầy đừng lại gần, hôi lắm!
ông Đán nói:
- Ông cụ này vẫn ngủ ở đây. Ông cụ sạch sẽ và cẩn thận lắm, sáng nào dậy cũng quét dọn tinh tươm.
- Hay ông cụ vẫn đan rổ rá?
- Phải đấy. Khái đáo để! Tuy già yếu, nghèo đói, ông cụ vẫn kiếm lấy ăn, không thèm đi xin.
- Ông còn làm phúc cho kẻ nghèo hơn là khác!
Thế là ông lão ăn mày qua đời.
Một tiếng còi ô tộ Chúng tôi dãn sang hai bên đường. Chiếc xe đen bóng loáng, lịch sự, từ từ tiến đến, ông y sĩ bước xuống, vào khám tử thi.
Xem xong, ông bảo chúng tôi :
- Người ăn mày chết rét. Các ông cho học trò nghỉ buổi sáng. Chiều có thể học được.
Ba tiếng trống vang. Học trò trường trên vào lớp. Ngoài đường, trước cửa lớp tôi, hai người phu khiêng ông lão xấu số vào nhà thương.
Quả tim tôi như ngừng đập trong giây lát. Tôi thấy lớp học đượm vẻ buồn, vòm trời ảm đảm, cây cồi xờ xạc, ủ rũ. Một chiếc lá vàng khô rời cành, lặng lẽ rơi xuống đất. Hình ảnh của một đời người qua.
ooOoo
Buổi chiều hôm sau, khi tan học, tôi gặp một thằng bé độ sáu bảy tuổi, gầy gò, bẩn thỉu, không quần, áo cánh nâu dài chấm gối. Nó vừa lang thang vừa khóc, vừa giơ tay chùi nước mắt nhỏ giọt hai bên má. Rồi nó vào trong hiên trường, ngồi bưng mặt khóc ở chỗ ông lão vừa mất đêm qua.
Tôi ngạc nhiên. Trông nó buồn quá. Chắc nó là còn cháu người đã khuất. Tôi vào hỏi:
- Sao mày ngồi khóc ở đây?
- Bố mẹ tôi chết cả. Tôi đi ăn mày, vẫn được ông cụ Ở đây cho ăn cho ngủ. Tôi lạc mất mấy hôm, bây giờ về không thấy ông cụ đâu nữa...
Nó thổn thức mãi mới nói được một câu. Hai má đẫm lệ. Tôi muốn bảo nó : “ ông cụ chết rồi!”, nhưng sự thương cảm làm tôi nghẹn lời.