Chương 1

DOWER HOUSE

“Niềm kiêu hãnh có thể giết chết anh ta nhưng anh ta vẫn sống vì niềm kiêu hãnh đó”, niềm kiêu hãnh là nghị lực để con người phấn đấu đi lên hoàn thiện chính mình.

Ẩn sau hàm ý sâu xa “niềm kiêu hãnh”, nhà văn Viectoria Holt đã đưa chúng ta trở về nước Anh thế kỷ 19 với dòng họ quý tộc lâu đời Clavering, đã bị phá sản phải bán đi lâu đài Oakland, đó là một bi kịch định mệnh đã trả qua nhiều thế hệ. Cô gái xinh đẹp, thông minh Opal Jessica, sinh ra từ trong bi kịch đó, không chịu nổi cuộc sống tù túng, giả dối, hợm hĩnh đã quyết tâm tìm ra sự thật, lao vào cuộc sống mạo hiểm. Chính trong sự mạo hiểm ấy cô đã tìm ra tình bạn, tình yêu đích thực, đó mới là vật báu quý giá nhất cuả cuộc đời đả bảo cho “Thời kỳ tốt đẹp” mới bắt đầu của dòng họ Clavering ở lâu đài Oakland.

Người bạn lớn của Jessica, ông Henniker, một con người kiên định đầy bản lĩnh vươn lên từ nghèo khổ. Ông là tác nhân của tấn bi kịch trong gia đình Clavering già cỗi nhưng ông cũng là người xây dựng lại nó mới hơn, tốt đẹp hơn với cả một tấm lòng hào hiệp và hiểu biết. Ộng thật xứng đáng với “Niềm kêu hãnh Con Công”, ông đã xây dựng nên lâu đài Con Công mơ ước giống Oakland, sáng suốt dìu dắt Jessica và Joss tìm thấy nhau, xứng đáng là chủ nhân mới của Oakland.

Người yêu của Jessica chính là con nuôi của ông Henniker, họ đến với nhau từ lòng quý mến, thương yêu, kính trọng ông Henniker. Nhưng của cải giàu sang của ông là một hàng rào ngăn cản họ xa cách nhau, niềm kiêu hãnh của hai trái tim non trẻ đã đẩya họ ngày một xa hơn, tưởng chứng không bao giờ có thể gần nhau được. Bản chất của tình yêu là dâng hiến, trong hoạn nạn, nguy hiểm bản chất đó đã tỏa sáng, đốt cháy hàng rào kiêu hãnh giữa hai người và đem lại hạnh phúc đích thực cho đôi trai gái trẻ trung đáng yêu ấy.

Tôi đã lớn thật sự, khi tôi cảm nhận được những điều bí ẩn có trong tôi. Tôi có khả năng phán đoán những điều sắp tới có liên quan và cả những điều không liên quan đến tôi nữa. Tôi rất khác với mọi người trong Dower.

Đã trở thành một thói quen, tôi thường đi dạo bên dòng sông nhỏ nối giữa hai nhà Dower và Oakland, thả lòng mình vào không khí trong lành của dòng sông êm ả, với hy vọng tìm ra câu trả lời. Có một lần tôi không bao giờ quên được, sự hoảng hốt hiện lên trong mắt người vú nuôi của tôi, dì Maddy, khi dì tìm thấy tôi ở đây.

- Tịa sao cô lại tới đây, cô Jessica? – Dì gặng hỏi và răn tôi. - Nếu cô Miriam biết được, cô ấy sẽ cấm không cho cô đi chơi nữa đâu.

Lại một điều bí ẩn! Có cái gì không tốt ở dòng sông nhỏ êm đềm này, với cây cầu xinh xắn bắt qua kia chứ? Nó đặc biệt quyến rũ với tôi, bởi vì từ bờ sông bên này có thể ngắm nhìn lâu đài Oakland tráng lệ.

- Tôi thích ở đây – tôi bướng bỉnh đáp lại – tôi ấm ức không biết tại sao các điều cấm kỵ cứ nhè vào tôi, mà không nhè vào ai khác, có lý do gì mà tôi bị cấm tới đây, còn các nơi khác thì không.

-Cô thật sự không được tới nơi đây – dì Maddy nhấn mạnh.

Trong lúc tôi cần được lời giải thích, thì dì Maddy lại cứ căn vặn hỏi tôi “Tại sao? Cái gì? ở đâu?”

- Điều đó ghê sợ lắm – dì đành phải hé mở trước sự bướng bỉnh của tôi – Tôi đã nghe cậu Xavier và cô Miriam đều nói vậy. Ghê sợ lắm!

-Tại sao?

-Chúng ta đi nào!-Dì thúc giục-Ghê sợ là ghê sợ, cô đừg có hỏi tại sao nữa.

-Ở đây có ma?

-Có thể là vậy.

Tuy nhiên, sau đó tôi vẫn tới dòng sông, ngồi trên bờ thẫn thờ ngắm nhìn đồi núi mờ xa nơi bắt nguồn của dòng sông, những làng quê mênh mông xanh thẳm nơi dòng sông chảy qua, rồi đổ vào sông Mẹ - sông Thame rộng lớn bao la nơi hòa nhập của nó… và cuối cùng là biển cả, nơi kết thúc của dòng sông.

Có cái gì nguy hiểm ở đây?- tôi tự hỏi. Nhìn dòng sông trong veo lấp đầy chổ cạn, sau trận mưa lớn, tôi chỉ thấy những viên sỏi chuyện động dưới đáy. Một cây dương liễu tha thướt rủ xuống ven bờ. Chẳng lẽ chúng làm cho ta ghê sợ?

Chính trong lúc mơ màng một mình bên dòng sông thầm lặng, chợt một ý nghĩ kinh ngạc lóe lên: Cô không phải người nhà Dower House.

Có lẽ, điều đó chắc chắn không phải là một suy nghĩ nông cạn.Tôi rất khác với mọi người, ngay cả cái tên thôi cũng làm cho tôi phải nghĩ ngợi. Opal-Opal Jessica. Đúng ra mọi người phải gọi tôi là Opal thì chỉ gọi Jessica, còn Opal thì gần như bị lãng quên, hay cố tình không bao giờ muốn gọi. Có lẽ trong giây phút hân hoan, người mẹ của tôi muốn đặt cái tên đó cho tôi để gợi nhớ tới kỷ niệm nào đó, để rồi bây giờ lại muốn chôn nó vào dĩ vãng. Hành động của người lớn đôi khi đã vô tình để lại vết sẹo trong tâm hồn của trẻ thơ. Mẹ tôi và mọi người đang tung hỏa mù xung quanh, để cho tôi không phát hiện ra. Nhưng, chính sự giấu giếm đó lại càng kích thích tôi tò mò hơn, chớp lấy mọi cơ hội hiếm hoi, dù đó có thể là chút ít sai lầm của dì Maddy, tuy chỉ là những tia sáng yếu ớt, chưa đủ xuyên qua bức tường sương mù dày đặc, mà kết quả chỉ mang lại cho đầu óc tôi thêm rối mù.

Đầu tiên, tôi có một cái tên mà không ai gọi. Phải chăng là mẹ tôi đã quá già? Mà tại sao mẹ tôi lại sinh ra tôi vào lúc quá già như thế, này nhé, chị Miriam hơn tôi những 15 tuổi, mà anh Xavier chỉ hơn chị có gần 5 tuổi? Tại sao chị Miriam lịa nghiêm khắc với tôi như một gia sư, không bao giờ thân thiện với tôi? Tất cả mọi người trong nhà của tôi cũng gần như vậy. Phải chăng sự ngheo khổ đã làm mọi người trở thành ích kỷ và tàn nhẫn với nhau? Từ lâu tôi đã nghe sự tụt dố của gia đình tôi, từ đỉnh cao của xã hội thượng lưu xuống dưới đáy mà mẹ tôi thường gọi là hạ lưu.

Không hiểu tại sao mỗi khi nhắc tới “thời kỳ tốt đẹp” đã qua, bố tôi lại co rúm người lại nnhư đỉa phải vôi, khiến tôi vừa thất vọng, vừa thấy thương hại ông. Còn mẹ tôi thì tỏ vẻ luyền tiếc những ánh hào quang lộng lẫy đã tắt, những bữa tiệc linh đình và những vũ hội thâu đêm suốt sáng, xung quanh kẻ hầu người hạ tấp nập. Cũng chính nhờ sự giáu có ấy, gia đình tôi bây giờ vẫn khá đầy đủ, vẫn còn chú Jarman chăm sóc vườn, dì Maddy phụ việc nhà và bà Cobb làm bếp. Thật ra, chúng tôi cũng không đến nỗi nghèo khổ như lời phàn nàn của mẹ tôi đã đươc phóng đại lên. Tuy nhiên, bà còn có dụng ý muốn ca ngợi những ngày tươi đẹp đã qua, khiến tôi càng nghi hoặc, tò mò tìm hiểu về những bữa tiệc linh đình, cùng với những dạ hội tưng bừng của họ trong quá khứ.

Khi vào tuổi lên 10, tôi được chứng kiến một sự kiện khá đặc biệt, lâu đài Oakland tổ chức săn bắn. Tiếng người,ngựa ồn ào, náo nhiệt cả một vùng. Tôi háo hức nhìn họ cưỡi ngựa phóng ngang qua bằng cái ô cửa sổ nhỏ bé.

Tôi ao ước được làm khách mời đề có cơ hội ngắm nhìn thỏa thích lâu đài Oakland mà không cần đợi tới mùa đông khi rừng sồi trụi lá. Thường thì lúc này ở bờ sông tôi cũng chỉ nhìn thấy bức tường đá xám của Oakland, tôi cố tìm ra một vị trí nhìn thẳng vào cổng lâu đài, nhưng cái cối xay gió quái ác cách đó nửa dặm đã che khuất tầm nhìn. Tôi tự an ủi, thầm hứa có ngày tôi sẽ đàng hoàng bước chân vào lâu đài Oakland.

Ngày hôm sau, khi khách lâu đài Oakland cưỡi ngựa đi săn ngang qua, tôi chạy vụt ra cửa sổ ngắm nhìn, ngay lập tức chị Miriam kêu lên:

- Jessica, em làm cái gì thế?

- Em xem người ta cưỡi ngựa thôi mà – tôi trả lời.

Chị thô bạo vồ lấy cánh tay tôi, kéo tôi ra khỏi cửa sổ và hạ giọng: -Họ có thể nhìn thấy em đấy! - Dường như chị quá xúc động, cho rằng hành động vội vàng của tôi có thể làm mất phẩm giá của nhà Dower.

- Nếu như họ nhìn thấy em thì sao/ Ngày hôm qua họ đã gặp em và đã vẫy tay chào em.

- Đừng có nói lại điều đó nữa đấy.

- Tại sao không?

- Bởi vì mẹ sẽ nổi giận.

- Chị cứ làm như họ là bọn người mọi rợ không bằng, trong khi họ chào em một cách vui vẻ.

- Jessica,em chẳng có hiểu gì hết.

-Em biết hiểu như thế nào khi mà chẳng có ai nói với em một điều gì cả.

Chị do dự, cân nhắc, sau đó mới dè dặt hé mở một chút bí ẩn. Chị nói:

- Lâu đài Oakland đã từng là của chúng ta. Đừng bao giờ quên điều đó.

- Tại sao bây giờ nó không còn là của chúng ta nữa?

- Bởi vì bọn họ đã lấy của chúng ta.

- Họ đã lấy của chúng ta ư?Họ đã lấy như thế nào?

Ngay lập tức trong đầu tôi đã tưởng tượng ra một trận chiến đấu quyết liệt của gia đình tôi chống lại kẻ thù đến cướp Oakland, mà mẹ tôi chính là chỉ huy, anh Xavier và chị Miriam là chiến sĩ,còn bố tôi là tham mưu. Từ trên tường thành, mẹ tôi ta lệnh đem dầu sôi đổ xuống đầu kẻ thù, còn cha tôi thì phân van suy nghĩ những điều sắp xảy ra.

- Họ đã phải bán Oakland.

-Tại sao chúng ta phải bán nó đi?

- Bởi… chúng ta không thể tiếp tục sống trong lâu đài đó được… - Miệng chị như cứng lại, ngập ngừng trả lời.

- Ôi! Chúng ta đã bị tụt dốc sau Thời Kỳ Tốt Đẹp – Tôi kêu lên luyến tiếc

-Em chưa bao giờ biết những ngày đó ra sao, nhưng chị thì đã biết tất cả nhũng gì đã xảy ra ở Oakland, khi chị còn nhỏ.

- Em chưa bao giờ biết Thời Kỳ Tốt Đẹp ở Oakland như thế nào nhưng tại sao chúng ta lại nghèo như vậy?

Chị phân vân vừa như muốn trả lời vừa như không muốn, cuối cùng chị đành phải nói:

- Chúng ta phải bán nó đi … cho bọn người mọi rợ. Chúng ta chỉ giữ lại được có Dower, chúng ta bị mất tất cả. Cho nên, bây giờ em không được gặp gỡ bọn chúng, bọn đã lấy nhà của chúng ta.

-Họ thật sự là loại người mọi rợ…không có văn hóa ư?

- Không, còn tệ hơn thế nữa cơ.

-Nhưng nhìn họ, họ cũng giống như nguời bình thường.

-Ôi, Jessica, em đúng là một đứa trẻ! Em chưa thể hiểu hết mọi chuyện, nhưng sau này khi lớn lên em sẽ hiểu biết nhiều hơn. Còn bây giờ em chỉ cần biết chúng ta đã từng sống ở Oakland, đừng bao giờ thân thiện gặp gỡ những người ở đó. Thôi, vào học môn đại số đi, nếu em muốn trở thành người có giáo dục thì em phải học nhiều hơn nữa.

Nhưng bây giờ tôi không sao tập trung suy nghĩ được vào các trục tọa độ X và Y,sau những điều khám phá đó tôi càng khao khát đến liều lĩnh muốn tìm hiểu bọn người mọi rợ ấy hơn. Cuộc thám hiểm mới lại bắt đầu tôi quyết tâm lao vào điều tra với nhiều mưu mẹo khôn khéo.

Sự thành công có thể bắt đầu với việc điều tra những người giúp việc. Ngươi đầu tiên là chú Poor Jarman, người làm vườn của Dower House. Quanh năm, suốt tháng, mùa hè ngày dài cũng như mùa đông ngắn ngủi, chú luôn cần mẫn chăm sóc cho những vườn hoa của mẹ tôi tươi tốt. Poor Jarman! – là một ngươi nghèo khổ, chú thường nói với tôi vậy, bởi Tạo Hóa - người đã ban tặng cho vợ chú mỗi năm một em bé.

“Tạo hóa, người đã ban phát cho tôi cái nghèo”.- Câu nói cửa miệng của chú khiến tôi chạnh lòng bất mãn với dòng chữ tôi đã viết trên bảng, dưới sự hướng dẫn của chị Miriam: “Tạo hóa là người mẹ vĩ đại”. Mẹ tôi thường hay giúp đỡ chú, khiến chú xúc động, khúm núm trước tất cả mọi người, nhưng với tôi thì chú chân thành hơn. Chú nói nhẹ nhàng: “Hãy giữ đừng cho hoa bị gẫy, cô Jessica. Nếu bà chủ nhìn thấy sẽ la mắng tôi”.

Tôi trồng hoa ở ven đường trong 1 tuần giúp chú, với hy vọng sẽ moi được ở chú một điều gí đó. Tôi sưu tầm các bông hoa vừa mới nở trong nhà kính, nhìn chú tỉa cành và làm cỏ. Chú nói: “Cô Jessica có khiếu thẩm mĩ tuyệt vời, làm cho tôi ngạc nhiên đấy”.

Tôi mỉm cười đắc ý, không một chút e thẹn.

- Chú đã từng làm việc ở Oakland? – Tôi gợi chuyện.

- À, tôi đã làm ở đó khá lâu rồi.

- Dĩ nhiên cả Thời Kỳ Tốt Đẹp nữa chứ - tôi khơi gợi.

- Ở đó có đồng cỏ xanh rì mênh mông, rộng nhất thế giới. Cỏ có thể cắt miết mà không hết, bởi vừa cắt xong đám này, quay sang đám khác cỏ đã mọc xanh, đến nỗi người ta cảm thấy như cỏ cứ đang mọc lên mãi.

- Tạo hóa vốn hào phóng. Người phì nhiêu màu mỡ vì chính Người và cả chú nữa.

Chú nhìn tôi ngạc nhiên nghi hoặc

- Tại sao chú lại bỏ Oakland ra đi? – tôi háo hức muốn biết ngay tất cả.

- Tôi đã ở cho bà chủ, dừong như đã quá thân thuộc từ lâu rồi… Đó là những ngày thật tốt và vui, không ai có thể nghĩ nó kết thúc bất ngờ như thế - chú đưa mắt mơ màng nhìn về quá khứ, chính những ngày đó, lòng hào phóng của Tạo Hóa đã làm ra một Poor Jarman trung thành.

- Vâng, nhưng tại sao lại bất ngờ như vậy?

- Ôi, đúng thế, bà chủ bất ngờ gọi tôi và nói: “Jarman, chúng tôi đã bán Oakland rồi. Chúng tôi dời đến ở Dower House. Nếu cậu đi cùng chúng tôi, chúng tôi sẽ cho cậu một gian nhà tranh để cậu cưới vợ”. Thế là một cuộc sống mới bắt đầu, bởi tôi đã là một ngừoi bố trứoc đó một năm… Còn nhiều chuyện nữa đã xảy ra, nếu tôi kể ra e rằng sẽ xúc phạm nhiều người và cả cô nữa.

- Chú cứ kể đi…

- Thôi được, tôi sẽ kể. Tôi đã biết điều đó thế nào cũng xảy ra. Vì cờ bạc là trò ưa thích của gia đình cô, nhất là ông Clavering. Họ bảo rằng ông đã thua bạc với một số tiền rất lớn và đành phải thế chấp văn tự nhà cửa. Điều đó không tốt một chút nào cho gia đình và mọi người. Thật là không tốt chút nào.

- Vậy là họ cũng đã biết giông bão đang đe dọa ập xuống đầu họ

- Thật kỳ lạ, tất cả mọi người chúng tôi đều biết đến sự vỡ nợ, vì số tiền không thể trả nổi trong 2 tháng là như thế nào. Nhưng ông Clavering lại chưa bao giờ rơi vào hòan cảnh đó, hoàn cảnh cùng cực của kẻ vỡ nợ mà nhiều gia đình đã mắc phải. Thế rồi người đàn ông ấy tới, một ông chủ mỏ, một kẻ đã hốt được một cú may mắn trong chốc lát, ông ta từ nước ngoài trở về để lấy Oakland.

- Tại sao chú không ở lại làm việc cho ông ta?

- Tôi thì ai chẳng kiếm ra, nhưng ngôi nhà tranh đối với tôi thì…kiếm đâu ra.

Chú có tất cả 11 đứa con, vậy là những điều xảy ra cách đây 12 năm. Một khoảng thời gian làm người ta khó nhớ chắc chắn tất cả những gì đã xảy ra.

- Tôi đã sinh ra sau tất cả những chuyện đó? – Tôi hỏi ngay vào trọng tâm vì sợ hồi ức của chú lan man sang vấn đề khác.

- Đúng như thế, cô sinh ra sau đó hai năm.

Vậy là suy luận của tôi là đúng.

Qua chú Jarman, tội chơi bạc của cha tôi đã lộ ra. Tôi không còn phải ngạc nhiên về sự đối xử khinh miệt của mẹ tôi đối với ông nữa. Bây giờ tôi mới hiều hết ý nghĩa những lời đay nghiến chua cay của mẹ tôi đối với ông. Vậy mà người cha khốn khổ của tôi thì vẫn ngồi lì ở trong phòng riêng tiêu phí thời gian cho các ván bài mà ông không sợ thua bất kỳ 1 đối thủ nào, không phải thanh tóan bất kỳ món nợ nào trước khi ông chơi tiếp con bài khác làm ông si mê, dẫu rằng ông đã bị loại trừ ra khỏi sự kính trọng của gia đình.

Đối với bà Cobb, bà cũng có thể kể cho tôi biết chút ít vì bà là người tận tụy, thân thiết với gia đình tôi từ bấy lâu nay, trong đó có cả “Thời kỳ tốt đẹp”. Bà đã theo gia đình tôi đến Dower, chưa bao giờ bà tỏ ra mệt mỏi, bà luôn khoe bà từng được phục vụ ở cả phòng khách, nhà bếp và cả hầm rượu nữa. Điều đó càng thể hiện sự sa sút của gia đình tôi trong việc sử dụng những người giúp việc trong nhà. Nhưng ít nhất việc bà biết về Thời kỳ tốt đẹp cũng khiến cho bà khác hẳn những người “chưa bao giờ được làm một việc gì như thế”.

Cha của tôi dĩ nhiên vẫn đánh bài, đọc sách, đi dạo 1 mình với tâm trạng nặng nề và mặc cảm về tội lỗi khiến cho khong một ai dám tới gần. Đối với tôi, ông dường như bí ẩn, âm thầm trong 1 cái vỏ bọc. Ki ông làm tôi chú ý, chính là lúc tôi phát hiện sự đau khổ hiện lên trên khuôn mặt của ông đang bị mẹ tôi đay nghiến, sự thấp kém của ông đã đưa gia đình đến chỗ khánh kiệt. Ông đúng là một người vô tích sự, tôi có cảm nhận về người cha của mình vừa kỳ cục, vừa nặng nề, ngoại trừ lòng trắc ần đôi khi gợi nhớ đến ông.

Với mẹ, tôi lại càng khó gần hơn, dù hồi bé tẹo tôi đã từng nghe bài hát thánh ca trong nhà thờ:

“Lời cầu nguyện cua mẹ dành cho con

Có thể nào tắt đi theo năm tháng?”

Bỗng nhiên tôi hình dung ra 1 con thú nhỏ được mẹ nó sinh ra, hiển nhiên điều đó có thể xảy ra lắm chứ. Tôi đem vấn đề đó nói với chị Miriam, chị tỏ ra sửng sốt, vội giả nghĩa lời ca cho tôi hiểu. Nhưng tôi vẫn thắc mắc, tôi cho rằng lời cầu nguyện của mẹ chẳng bao giờ tắt bởi lời cầu nguyện không bao giờ được thỉnh cầu. Chị Miriam trở nên tức giận, chị mắng tôi là đứa trẻ bất hiếu, bất hiếu với một gia đình tử tế. Tôi thật sự kinh ngạc khi nghe chị nói “một gia đình tử tế”. Sau tất cả những điều thị phi khinh miệt, tôi đành phải cố nhịn để mong khám phá ra “Thời kỳ tốt đẹp” mà tôi còn chưa biết.

Anh trai Xavier của tôi là một người lãng mạn hơi xa cách, ít khi tôi gặp được anh bởi anh còn trông coi trang trại và mấy sào đồng cỏ nằm trên đất Oakland mà chúng tôi được phép giữ lại. Những lúc gặp anh, tôi cảm thấy anh rất tốt trong cái vỏ bề ngoài lãnh đạm lịch thiệp. Tôi nghe nói anh yêu chị Clara, chị ở cách đó 20 dặm. Chị là người giàu có, trong khi chúng tôi đang sống ở mức mà mẹ tôi thường gọi là tồi tệ. Anh cảm thấy khó đáp ứng nổi cuộc sống sung túc của chị nên chưa dám cưới. Còn 1 lý do nữa khiến cho 2 người vẫn phải xa nhau là bà Cobb vốn là người nhà của Clara. Theo lệnh của mẹ chị, bà đã đến thẳng nhà tôi để làm công việc bếp núc, điều này phải giữ kín không được nói ra cho anh Xavier biết. Nhưng chủ yếu vì lòng tự trọng, anh Xavier đã cấm không cho chị Clara đứng ra tự tổ chức lễ cưới, thế la họ vẫn đàng phải chịu xa nhau. Anh Xavier đúng là 1 ngưới cao thượng, anh đã bỏ qua 1 cuộc sống đầy đủ, âm thầm chịu đựng đau khổ. Vậy là tôi cũng chẳng hỏi được anh thêm điều gì.

Chị Miriam có thể lộ ra một số chuyện khi rơi vào bẫy của tôi, nhưng chuyện riêng của chị thì không thể. Đó là chuyện tìm hiểu giữa chị và người phụ trách nhà thờ Rev Jasper. Đám cưới của họ chưa thể tiến hành chừng nào người phụ trách chưa trở thành mục sư chính thức, hình bóng anh ấy đối với chị vẫn xa vời vợi.

Về chuyện này, dì Maddy đã nói với tôi:

-Nếu chúng ta vẫn còn Oakland, vẫn còn các đêm vũ hội khách khứa đến đầy nhà chắc hẳn không có vị phụ trách nào dám đến gần cô Miriam. Ôi, không có cái gì bằng thế giới của các đại điền chủ, thế giới của các vị chúa tể thật sang trọng.

Tôi có ý định quay trở lại bà Cobb. Nhưng những câu chuyện của bà về Thời Kỳ Tốt Đẹp cũng chẳng có gì mới mẻ và hấp dẫn. Tôi không còn hy vọng khai thác ở bà nữa.

Tôi suy ngẫm, có lẽ chỉ còn dì Maddy là có thể giúp tôi nữa mà thôi. Dì Maddy đích thực là người đã sống ở Oakland từ năm 11 tuổi, bắt đầu với vị trí người giúp việc. Dì năm nay đã 35 tuổi, hơn anh Xavier 5 tuổi. Dì có một ham thích là nói dai và dài. Tôi thầm mong có 1 ngày dì sẽ lộ ra vài mẩu nhỏ tin tức cho tôi.

-Ngày đó, tất cả đều rất sang trọng, cả những người hầu cũng dễ thương. – Dì kể với tôi.

- Xavier hẳn là 1 cậu bé ngoan – Tôi bình luận

- Cậu ta ư? Cậu ta không phải là một trong những đứa trẻ tinh nghịch.

-Chị Miriam kế theo cũng thế?

- Không, cô ấy không phải.

- Vậy, còn 1 người nữa mới tới chị Miriam…?

- Không, tôi không nói như thế. Ôi, cô y như vị quan tòa soi mói: Cái này là gì? Cái kia tại sao?...

Dì im bặt, môi dì mím chặt lại.Dù sao câu hỏi của tôi cũng đã làm cho dì bối rối, mãi sau này tôi mới hiểu tại sao.

Có 1 lần tôi nói với chị Miriam:

- Vậy là chị sinh ra ở Oakland, còn em thì sinh ra ở Dower.

Chị do dự:

- Không, em không phải sinh ở Dower. Thật ra… em sinh ra ở… nước ngoài.

- Tuyệt vời!Nhưng ở đâu?

Chị lúng túng như gà mắc tóc, còn tôi thì xúc động.

- Mẹ đi du lịch ở Italy và sinh em ở đó.

Mắt tôi tròn xoe kinh ngạc. Venice, Godolas, Pisa với tháp nghiêng kỳ thú. Florence tuyệt vời, nơi chứng kiến mối tình trong trắng của Beatrice và Dante. Vậy là chị Miriam đã lộ ra một điều quan trọng.

- Nơi nào hả chị? – Tôi thúc giục.

- Nơi ấy là…Rome.

Tôi ngây ngất reo lên:

-Julius Caesar… Ôi, em có nghe nhầm không đấy? Thật là lãng mạn.

Chị Miriam không hài lòng nhìn tôi:

- Em bất ngờ sinh ra khi họ còn đang ở đó

Tôi cười:

- Cha đã đi cùng với mẹ?... Hẳn khá tốn kém? Có lẽ họ nghèo đi sau tất cả những chuyện đó?

Vẻ đau đớn của chị hiện rõ qua vẻ mặt nhợt nhạt với giọng nói yếu ớt - Họ cũng có đủ… không đến nỗi nào.

- Dù sao họ cũng bị bất ngờ khi sinh ra em. Có thể họ không thích, nếu như…

- Thôi, đó là những chuyện xảy ra đã lâu lắm rồi, chúng ta nói huyên thuyên như thế là đủ.

Chị Miriam của tôi quả là nghiêm khắc. Thật đáng tiếc cho vị phụ trách nếu ông ta lấy chị ấy chỉ vì muốn có những đứa con.

Nhưng dù sao tôi cũng có vấn đề mới để suy ngẫm. Thật đặc biệt! Có lẽ do họ đã sinh ra tôi ở Rome nên mới đặt tên cho tôi là Opal. Tôi thử tìm hiểu ý nghĩa của từ Opal. Khi tra từ điển tôi mới hiểu: “Opal là 1 hợp chất hữu cơ, thành phần chính cuả nó bao gồm Hydro và Silica”. Song điều đó cũng chẳng có gì đáng tự hào và có vẻ lãng mạn cả. Tuy nhiên tôi lại khám phá ra rằng, quang phổ vạch của nó gồm có: màu đỏ, màu xanh, màu xanh da trời… tất cả được thay đổi và sắp xếp rất hài hòa. Điều này hẳn là vượt quá xa trí tưởng tượng của mẹ tôi, nhưng trong giây phút thăng hoa say sưa trượt tuyết ở Italy, trong đầu của mẹ tôi cái tên Opal chợt lóe lên cùng với cái tên thường dùng Jessica chăng.

Có 1 cơ hội, ngay sau khi tôi nghe lỏm được từ khách của lâu đài Oakland, chủ nhân của lâu đài phải đi ra nước ngoài 1 thời gian. Vậy là chỉ còn người hầu trông coi lâu đài. việc vượt sông lúc này thuận lợi hơn bao giờ hết cho 1 vị khách không được mời mà đến như tôi.Lẽ dĩ nhiên,viêc quan hệ với những người giúp việc lại là việc hòan tòan không dễ dàng vượt qua.

Cuộc sống vẫn trôi đi như cũ – Cha tôi vẫn cô độc đi dạo, chơi bạc 1 mình, mỗi ngày ông càng bị đẩy ra xa gia đình hơn. Mẹ tôi uy quyền ngày 1 lớn hơn, bà bận rộn với các công việc từ thiện của nhà thờ, chăm sóc những người nghèo của cộng đồng và thường nhắc nhở chúng tôi phải cùng tham gia. Bởi dù sao cuộc sống của chúng tôi ít nhất cũng đầy đủ hơn họ, thuộc tầng lớp không phải nhận cứu trợ.

Năm tháng trôi đi, cái ý nghĩ tôi là một đứa con hoang cứ lớn dần, mà lý do giải thích thì ngày 1 bí ẩn khiến cho sự khao khát khám phá trong tôi càng mạnh mẽ hơn.

(BỎ QUA 1 ĐOẠN HƠI DÀI MIÊU TẢ NGHI THỨC CẦU NGUYỆN MÀ THEO Ý JESSICA LÀ ĐÃ TRỞ NÊN CHÁN NGẮT, SẲN TIỆN BỎ QUA LUÔN ĐOẠN NÓI VỀ CÀNH SẮC TƯƠI ĐẸP VÀ KHÔNG KHÍ ĐẶC BIỆT CỦA NGÀY LỄ PHỤC SINH, SAU ĐÓ LÀ CHUYẾN ĐI THĂM MỘ TỔ TIÊN CỦA NHẢ CLAVERING

LÚC NÀY JESSICA ĐƯỢC 16 TUỔI VÀ CÔ ĐÃ CẦU NGUYỆN TRONG NGÀY LỄ PHỤC SINH NHƯ THẾ NÀY: “ÔI LẠY CHÚA!HÃY CHO CON TÌNH YÊU”

VÀ TÌNH YÊU CỦA CÔ SẼ DẦN XUẤT HIỆN TRONG CHƯƠNG 2…CÒN LÂU LẮM, XIN CÁC CHỊ EM HÃY KIÊN NHẪN, KHÔNG CHỜ ĐỢI UỔNG CÔNG ĐÂU VÌ MỐI TÌNH CỦA OPAL JESSICA THỰC SỰ RẤT ĐẸP, RẤT LÃNG MAN VÀ CŨNG VÔ CÙNG GAY CẤN..)

Quay trở lại với CHƯƠNG 1

Men theo bờ sông tôi có thể đi tới cuối khu đất nhà Dower. Nơi có một đồng cỏ chạy dài, rộng khoảng chừng 1 sào, cỏ ở đây mọc tốt um tùm. Ngay hàng rào là cỏ thiên thần, cùng với cây tầm gửi trắng đang trổ hoa. Trước tháng 12 người ta còn có thể tới đây nhưng sau đó thì khó có thể tới gần vì cỏ dại mọc lút đầu. Mảnh đất này rất ít người qua lại, người ta gọi nó là vùng Đất Hoang.

Trong lúc tôi vượt qua vùng Đất Hoang, tôi bỗng để ý đến 1 khoảnh đất nhỏ sạch sẽ có chùm hoa violet trắng rải chung quanh. Tôi nhặt chùm hoa lên, nơi ấy lộ ra 1 lớp đất mới lấp sơ sài, dà khoảng 6 feet rưỡi

- Giống như 1 ngôi mộ - tôi thầm nghĩ.

Có thể nào đây là 1 ngôi mộ? Có lẽ trưa nay tôi vừa ở nhà mồ nên trong đầu tôi còn bị ám ảnh chăng. Tôi quì xuống gạt cỏ sang 1 bên. Xung quanh đều là đất. Một ụ đất. Nó đúng là 1 ngôi mộ, và đã có ai đặt hoa violet lên đúng vào ngày hôm nay.

Ai là người đã được mai táng trong vùng Đất Hoang? Tôi thầm hỏi chính mình cùng dòng sông đang chảy…

Tôi trở về nhà, người đầu tiên tôi chạm trán là dì Maddy, người giữ thông điệp của mọi việc, dì đang di lấy tấm ra trải giường ở trong tủ.

- Dì Maddy, hôm nay tôi nhìn thấy một ngôi mộ - tôi nói.

- Hôm nay là ngày lễ Phục Sinh, vậy là cô đã đi thăm mộ? – Dì hỏi lại.

- Ôi, không phải là những ngôi mộ ở trong nghĩa địa mà là ở vùng Đất Hoang cơ. Tôi chắc chắn đó là một ngôi mộ.

Dì quay đi, nhưng trước đó tôi đã kịp nhìn thấy vẻ hoảng sợ ở dì. Chắc chắn dì biết ngôi mộ ở vùng Đất Hoang.

- Người nằm trong đó là ai hả dì? – Tôi năn nỉ hỏi.

- Tại sao cô lại hỏi tôi?

- Bởi vì dì biết.

- Cô Jessica, cô hãy thôi ngay đi, đừng có bắt tôi làm nhân chứng. Cô đã được 1 nửa của kẻ tọc mạch rồi đấy.

- Ham hiều biết chỉ là bản tính tự nhiên (cô nàng này giỏi lấp liếm ghê!)

- Tôi cho rằng cái mũi cô dài ra nhúng vào mọi chuyện rồi đấy. Đó là 1 cái mũi xấu!

- Tại sao tôi không được biết ai là người đã được mai táng ở Đất Hoang?

- Mai táng ở Đất Hoang- dì nhại lại tôi như muốn lẩn tránh, nhưng không dễ dàng 1 chút nào khi gặp phải 1 “con đỉa” như tôi.

- Có 1 chúm violet đặt trên mộ dù sao cũng phải có ai đó tưởng nhớ người chết vào ngày lễ Phục Sinh chứ.

- Ôi! – Dì thốt lên thật trống rỗng.

- Hay đó là mộ 1 con chó cưng của ai đó?

- Điều này lại càng không phải. – Dì dịu giọng nói.

- Ngôi mộ của chó thì quá to. Không, đó chính là mộ của người… Đã có người đặt hoa lên mộ để tưởng nhớ.

- Cô Jessica, có lẽ cô sẽ tìm thấy duấ chân của tôi ở đó đấy.

Dì hối hả quay ra nhưng không sao giấu được sắc ửng đỏ khác thường trên mặt, nó đã phản bội dì. Dì biết người mai táng trong mộ, nhưng than ôi, dì đã không dám nói ra.

Quấy rấy dì suốt mấy ngày mà tôi cũng chưa moi được của dì một điều gì.

- Hãy để cho tôi yên – dì bực bội kêu lên – Trong mấy ngày qua cô đã tìm ra người mà cô cần biết chưa?

Điều bí ẩn ấy tôi đã ghi nhớ vào trong đầu, không có một cái gì có thể kìm hãm sự tò mò của tôi. Tất cả mọi việc của lúc này tôi đều bỏ vào trong ngôi mộ.

Khi tôi hăm hở vượt sông vào Oakland, tạm thời không nghĩ tới bí ẩn của ngôi mộ. Tôi có 1 linh cảm ở đây sẽ có chuyện xảy ra. Có 1 số người như các chủ buôn không ngớt gọi cửa nhà Oakland. Một lát sau những người hầu trong nhà ùa ra, reo hò vang dậy cả bờ sông. Họ mang từng tấm thảm ra đập. Họ cười nói huyên náo có cả tiếng phụ nữa tru tréo, hòa trong đ1o cũng có giọng nói dõng dạc của 1 người sang trọng. Tôi đã nhìn thấy người đó, ông ta luôn cư xử với mọi người với phong cách của 1 ông chủ, ông hẳn là chủ nhân của Oakland. Chắc chắn, ông không bị ám ảnh bởi bóng ma của Thời Kỳ Tốt Đẹp.

Sau ngày đó, khi phát hiện có chiếc xe ngựa đi tới, tôi lén ra khỏi Dower. Nhìn chăm chú vào trong xe, tôi nhận ra người xà ích của Oakland, tôi vội quay về hăng hái vượt sông. Tôi cẩn thận bò về phía ngôi nhà, kín đáo nấp vào bụi cây ngay khi ông ngồi vào chiếc xe lăn, chuẩn bị ra khỏi xe ngựa. Mặt ông đỏ gay, la hét ầm ĩ với tất cả mọi người xung quanh. Điều đó càng khẳng định ông- người cầm lái của Oakland hậu Thời Kỳ Tốt Đẹp.

“Hãy đưa tôi vào trong!” – Ông ra lệnh. “Wilmot, đi ra giúp Banker đi”.

Tôi mong ước được nhìn ông rõ hơn. Tôi không biết sẽ kinh ngạc ra sao nếu bị phat 1hiện và buộc pahỉ nhìn vào khuôn mặt đỏ gay của ông. Tôi tự nhủ phải cẩn thận và kín đáo hơn.

“Hãy đưa cho tôi cái thang”. – Ông nói- “Thôi, tôi có thể tự xoay xở được rồi. Thế nào…e…hèm, Banker”.

Đám rước nhỏ đang đi vào trong nhà, trong lúc đó tôi thận trọng quay lại cầu với trí tưởng tượng mình cũng được đi theo. Tôi xấu hổ vì hành vi lén lút, vụng trộm của mình. Tôi không thèm nhìn xung quanh, lao nhanh vội qua cầu. Qua khỏi cầu tôi mới dám ngoái nhìn trở lại. Tôi chỉ nhìn thấy giữa những cây sồi đung đưa, những con người không rỏ đàn ông hay phụ nữ. Tôi cố quan sát với niềm xúc động, hiếu kỳ, với chút ít e ngại ai đó bất chợt bắt gặp. Tôi lì lợm, bất chấp tấ cả. Dù cho có những ngăn cấm đáng tiếc nhưng tôi cũng phải cố tìm ra sự thực rõ ràng chứng minh mẹ tôi,hoặc ông ta đúng. Dĩ nhiên, chỉ cần có thế thôi giông bão giận dữ cũng sẵn sàng đổ xuống đầu tôi rồi.

Tôi quay về nhà, khi vào phòng tôi bất chợt gặp Miriam.

- Chủ nhân của Oakland đã trở về. – Tôi nói với chị.

- Có thể Chua đã che chở chúng ta! - Chị kêu lên – Bây giờ tôi sẽ chiêu đãi ăn mừng vì điều này.

Tôi cười:

- Điều này đáng được khích lệ thế sao?

- Đúng vậy, thật kinh tởm! - Chị đáp.

- Em nghĩ, ông ta bị tai nạn – tôi liều lĩnh nói.

- Ai?

- Đó… là người đã lấy Oakland của chúng ta.

- Thật không ngờ ông bị trừng phạt đích đáng như thế - chị nói 1 cách đắc ý.

Chị bỏ đi đã xa, tôi vẫn còn kinh tởm nhìn theo nhưng không giấu nổi sự thú vị riêng của mình.

Tôi hỏi dì Maddy về điều đó, bởi tôi muốn xua đi khỏi dì những ấn tượng không tốt về tôi, bởi dì luôn cho tôi là kẻ hay gây chuyện ồn ào, những chuyện lẽ ra phải được giấu kín mà trong thâm tâm dì muốn nói ra nhưng không được phép.

- Dì Maddy, có người đàn ôn ngồi trong xe lăn đi vào Oakland – Tôi nói.

Dì gật đầu:

- Đó chính là ông ta.

- Ông ta đã lấy Oakland của chúng ta?

- Ông ta đã làm được 1 điều may mắn chư từng có bao giờ. Ông ta là 1 người giàu trong những người giàu mới phất lên.

- Một kẻ giàu mới phất lên – tôi tỏ ra am hiểu lời lẽ của dì.

-Nhờ thú ham chơi của chủ nhân chúng ta. Nhưng chủ yếu đó là công sức của ông ta bỏ ra.

- Ông ta là 1 người tàn tật?

- Ông ta bị tai nạn. Đó là phần thưởng xứng đáng dành cho loại người như ông ta.

- Loại người như ông ta ư? Loại người gì vậy?

- Loại người lừa bịp. Nhờ có lừa bịp mà ông ta mua được Oakland của chúng ta. Bọn họ làm ăn ở đó, của cải đẻ ra nhiều vô kể, ngày càng phất lên rất nhanh chóng.

- Nhà Clavering thì chơi bạc, trong khi ông ta làm việc. Điều đó cũng giống như con bướm và con ong. Không nên đổ hết tội cho ông ta. Họ cũng chỉ lấy mật ngọt của họ mà thôi.

-Đó mà không phải là sâu bọ ư? (Thiệt là bực mình mấy người nhà Clavering này quá) Cô cũng chính là một con bọ chét, cô Jessica. Tiếc là cô đã không ra đời sớm để chứng kiến điều đó, nhưng cô lại ra đời sau những điều tồi tệ khác.

- Như thế mới có đề tài để chúng ta bàn cải. – Tôi phòng thủ. – Tôi thích đi tới nhà Oakland. Không biết ông ta có thích tới nơi này không?

- Người ta không có thể dễ dàng đi tới các nơi với 1 cái chân hỏng. Ông ta vẫn còn may mắn chán, ông ta chỉ phải trả giá cho 1 cái chân – Dì Maddy lắc đầu – Điều đó thể hiện tiền bạc không phải là tất cả… rồi có lúc cô sẽ nhận ra điều đó. Bà Buket nói ông ta trở về và sẽ ở lại Oakland.

- Bà Buket?

- Bà ta làm bếp ở bên đó.

- Buket! Một cái tên thú vị. Oakland có những người hầu thật xứng đáng, làm bếp là bà Buket, hoặc là bà Stewer. Vậy tại sao dì lại biết bà Bucket?

-Bà ta tới Oakland khi tôi còn đang ở đó. Chúng tôi biết nhau là hòan tòan tự nhiên.

- Thỉnh thoảng dì vẫn gặp gỡ bà ta?

Dì Maddy mím chặt môi. Tôi biết dì vẫn bí mật đi thăm bà Buket. cần phải cẩn trọng trong lúc khêu gợi, đó là điều tôi phải ghi nhớ lúc này.

- Làm sao tôi có thể nhúng mũi vào những điều cách đây 20 năm cơ chứ…

- Tất nhiên không phải thế, nhưng chính dì là 1 bằng chứng sống.

- Bà Buket và ông Wilmot không bao giờ ra khỏi Oakland. Dường như nơ đây không có chổ cho họ trừ trường hợp họ tự ném chính họ ra khỏi Oakland…

- Tôi cũng đã iểu điều đó rồi. Nhưng tại sao ông ta bị cụt mất 1 chân vậy?

- Cô lại ẫn chưa vượt qua được câu hỏi của chính cô, cô Jessica. Tôi có thể nhìn qua để biết quả trứng vẫn là quả trứng. Điều đó làm cho tôi và bà Buket thỉnh thoảng còn gặpgỡ nói chuyện được với nhau và nó cũng sẽ làm cho cô khác đi. Vậy cô hãy làm những điều cô cần phải giữ kín ở bờ sông đi, đừng có hỏi nhiều những gì không liên quan đến cô.

Vậy, tôi đã biết chuyện dì Maddy qua lại quan hệ với bà Buket, nhưng tôi cũng chẳng moi được gì nhiều thêm.

Vào 1 ngày tháng 7 oi bức, tôi đang ngồi trên bờ sông nhìn về Oakland, nuối tiếc những gì đã xảy ra. Tôi chợt phát hiện ra 1 người ngồi trên xe lăn. Tôi vội đứng lên, bởi chiếc xe quay về hướng tôi và tôi nhận ra người ngồi trong xe chính là ông – ông chủ. Trên cổ ông chòang 1 cái khăn len khiến ông khác đi và hơi khó nhận ra nếu như ông không có 1 chân. Bỗng tôi nhìn thấy chiếc xe lăn màu trắng dường như đang tăng tốc lao rầm rầm về phía tôi. Tôi linh cảm thấy có điều chẳng lành đang xày ra. Chiếc xe đã bị mất phanh, lao xuống dốc mỗi lúc 1 nhanh. Chỉ trong giây lát nữa thôi chắc chắn nó sẽ bị lật nhào.

Không bỏ phí thời gian, tôi chạy ngay xuống chân dốc, băng qua sông. Thật may dòng sông bị cạn, không có nhiều nước, giúp tôi vượt qua nhanh chóng. Tôi lao lên dốc kịp thời vồ lấy chiếc xe trước khi nó lật nhào xuống sông.

Ngồi trong xe ông ta la lên:

-Banker!Banker! Chúa ơi, ngươi ở đâu, Banker? – Ông chợt nhìn thấy tôi. Tôi bám chặt lấy thành xe, cố đẩy và xoay nó đi với tất cả sức lực nhỏ bé của mình, nhưng dường như nó muốn kéo tôi tuột xuống dốc cùng với nó.

Ông cười rộ lên, mặt ông đỏ gay hơn luc nào hết.

- Dô ta! – Ông ta hò dô ầm ĩ- Nào cố lên. Một chút nữa thôi nào, hãy cố lên!

Thật kỳ lạ, hình như ông đã điều khiền được cái xe vượt qua được vật cản ở phía trước. Cái xe bắt đầu từ từ xoay rồi chuyển động chạy dọc theo bờ sông.

- Đó – Ông nói - Vậy là tốt hơn rồi. Ta không quen bỏ mạng dễ như thế đâu. Tốt rồi, bây giờ chúng ta đã có thể nói chuyện với nhau. Cháu có biết ta quay xe được là vì có cháu không?

- vâng – Tôi nói và đi tới cạnh ông. – Có thể ông đã nói đúng.

- Lúc đó cháu ở đâu?

- Cháu ở ngay bờ sông bên kia…bờ của chúng ta.

Ông gật đầu. - Thật may mắn cho ta, cháu đã kịp thời tới giúp.

- Cháu thường thích ngồi một mình ở chỗ đó.

- Sao ta chưa bao giờ thấy cháu. Chắc là cháu sống ở bên kia.

- Ở Dower House.

- Cháu là người nhà Clavering đấy chứ?

- Dạ đúng. Vậy ông tên là gì ạ?

- Henniker.

- Có phải ông là người đã lấy Oakland của cháu?

- Gần đúng như thế.

Tôi bật cười.

- Thật vui sao! – Ông hóm hỉnh nói.

- Một cuộc gặp gỡ bất ngờ! Sau ngần ấy năm trời… - tôi phù họa.

Ông bật cười to. Tôi không biết, vì sao điều đó dường như lại làm chúng tôi cùng vui như vậy.

- Ta thật vui khi được gặp cháu, một tiểu thư Clavering.

- Ông đang làm gì ở đây vậy, ông Henniker?

- Rất cám ơn cháu. Ta đang lái xe tới một nơi thì vấp phải cái cây… trong chỗ khuất. Hãy đến và làm quen với ta đi.

- Thế ông không muốn tìm ông…Banker?

- Không, không phải bây giờ.

- Ông muốn chúng ta làm bạn với nhau.

- Ta muốn từ lâu rồi…từ trước khi nhìn thấy cháu kia.

Tôi bước bên cạnh xe suy ngẫm về cuộc phiêu lưu tuyệt vời này. Tôi nhiệt thành hưởng ứng lời đề nghị của ông. Ông đã đưa xe vào chổ khuất, còn tôi thì lặng lẽ ngồi xuống bãi cỏ sát bên cạnh ông, chúng tôi cùng quan sát tìm hiều.

- Ông là 1 thợ mỏ? – Tôi hỏi. Ông gật đầu.

- Tôi nghĩ ông khai thác vàng.

Ông lắc đầu trả lời: - Opal.

Tôi rùng mình, một dòng kích thích phóng qua tôi.

- Opal! – Tôi kêu lên. – Opal là tên của cháu..

- Thật tuyệt tên của cháu là Opal – Opal Clavering? Ôi, điều này thật hệ trọng với ta.

- Họ không bao giờ gọi cháu bằng cái tên đó. Cháu thường chỉ được gọi là Jessica. Đấy là cái tên thường dùng sau Opal, ông có thấy lạ không? Cháu thường ngạc nhiên vì sao họ lại đặt cho cháu 1 cái tên mà lại không muốn gọi cháu bằng cái tên đó.

- Không còn có 1 cái tên nào đẹp hơn thế . – Ông nói, hõm má ông nhuốm màu đỏ hơn, mắt ông sáng ngời xanh biếc. – Không có gì đẹp hơn 1 viên opal. Đừng có nói ngay cả kim cương, ruby… cũng không đẹp bằng.

- Cháu không xứng đáng được như vậy.

- Ta đã thấy cháu còn hiều biết hơn là lão già ranh mãnh này suy nghĩ.

- Về cái gì?

- Một mỏ opal! Đúng vậy, cháu là 1 mỏ opal.

- Ông đã từng làm việc như thế nào? Hãy kể cho cháu nghe đi.

- Ta là một người thợ mỏ, một người luôn phải đánh hơi đât đá, luôn phải tràn đầy khát vọng và ước mơ. Mỗi người thợ mỏ đều ước mơ tìm được những viên đá đẹp nhất thế giới.

- Ông đã đi tìm chúng ở đâu?

- Đúng, đó chính là Nam Australia – Coober Pedy và miền quê Mooka, có cả Wales và Queensland

- Ông ở Australia?

- Đấy là nơi ta tìm ra opal, sự nghiệp opal của ta khởi đầu từ đất nước opal này. Australia rất giàu opal. Chúng ta không có cào bới bề mặt của mảnh đất ngay. Ai là người đã có opal Australia? Cháu có thể hình dung ra một bức tranh sinh động khi họ tìm thấy nó. Cháu có hình dung được không? Một con ngựa tạp nham chỉ biết cào bới mặt đất bằng cái móng của nó … để tìm opal. Ơn Chúa đã cho ta tìm thây! Trong những ngày chúng ta suy ngẫm thì một bọn từ Hungary tới… chúng không bao giờ chịu suy nghĩ bất cứ điều gì. Ngược lại, chúng ta đã dồn hết tâm trí, tất cả lòng kiên trì và say mê vào mảnh đất giàu có này. Cuối cùng dòng sữa của người Mẹ vỉ đại cũng tuôn chảy, trao cho chúng ta những viên đá rất quý, rất đáng yêu… Opal Australia đen.

Ông ngừng nói, ngước mắt nhìn bầu trời trong xanh bao la. Dường như ôn mơ về quá khứ xa xăm, trở về với thời gian, không gian cách xa hàng ngàn dặm với các góc cạnh khác nhau của thế giới tạp nham, với bất kỳ cái gì ông cũng chỉ nói – Opal đen.

- Kim cương… Chà! – Ông tiếp tục noi. – Sao một viên kim cương ư? 1 ngọn lửa lạnh lẽo - màu trắng! Hãy nhìn xem 1 viên opal - thật ấm áp!...

Tôi như bị cuốn hút vào sự ngợi ca opal của ông.

- Opal Australia là tốt nhất. – ông quay lại. – Chúng rất cứng và rất khó vỡ vụn. Chúng là những viên đá may mắn. Người đi xa mang theo opal để gặp những điều may mắn do opal mang lại. Các vị hòang đế và các vị đại thần đều mang theo opal trong người để hộ mệnh, chống lại sự tấn công của kẻ thù. Cháu có biết không? Một viên opal có thể ngăn cản thuốc độc của kẻ thù hãm hại. Ngoài ra người ta còn đồn opal chữa được cả bệnh mù… Cháu có hiểu không?

- Dạ, hiểu ạ.

- Con mắt Mun – Opal còn được gọi như thế. Cháu có biết nghĩa là gì không?

Tôi thú nhận, sự hiểu biết của tôi không đi quá xa như vậy.

- Opal – con mắt của nhân loại. – Ông nói với tôi. – mang theo nó, cháu sẽ không bao giờ phải tự vẫn.

- Cháu còn quá trẻ để nghĩ về điều đó…. Cháu nói, Opal là tên của cháu? Và cả jessica nữa. Cháu có biết ta thích tất cả các tên đó. Jessie. Cái tên nghe thật là thân thiện.

- Ít nhất nó cũng không làm cho ông nghĩ về 1 thư thuốc chữa bệnh mù, hay 1 phương cách bảo vệ chống lại 1 cốc thuốc độc, phải không ạ?

- Đúng vậy. – Ông và tôi cùng bật lên cười rộ.

- Opal còn mang lại khả năng tiên đoán nữa, - ông nói, - Họ thường nói tới sự tiên đoán, hoặc là lo xa.

Ông rút cái nhẫn đeo trên ngón tay ông cho tôi xem. Đó là một viên đá rất đẹp được nạm vàng xung quanh. Ngón tay cái của tôi lọt thỏm trong nó. Ánh sáng phát ra từ viên đá thật lộng lẫy với màu xanh thẫm cùng với các hạt đốm óng ánh màu đỏ, màu vàng và màu xanh biếc. Từ lúc ông rút cái nhẫn đưa cho tôi, dường như ông phải cố chịu đựn xa cái nhẫn hộ mệnh luôn ở trên ngón tay, tôi vội đưa trả lại cho ông.

- Nó thật là đẹp. – Tôi xuýt xoa khen.

- New South Wales… Đó là nơi ta tìm ra nó. Jessica, ta muốn nói với cháu điều này, vẫn có thể tìm ở đó những viên đá to… to hơn cả những viên chúng ta đã có. Ta thì không có thể qua đó được nữa. – Ông kéo cái khăn len . - Mối hiểm nguy của công việc luôn rình mò bên cạnh chúng ta. Nghĩ về phần thưởng có được hôm nay ta không sao quên được cái ngày xảy ra rủi ro ấy. ta tưởng rằng nó đã kết thúc đời ta, một con người phong độ lịch lãm. vậy mà ta phải leo trèo, bám chặt vào các vách hang như 1 con khỉ…Ta chỉ giống như 1 con khỉ. Ta không thể tin vào sự may mắn của ta. Chính trong cái hang sâu, ta đã ở đó cùng với sỏi cát, với các vỉa đá… đá đỏ rực rỡ đáng yêu. Đột nhiên co 1tiếng ầm ầm rung chuyển, cả cái vòm hang sụp xuống. Suốt ba giờ đào bới người ta mới moi được ta ra và đưa ta ra khỏi hang. Dù sao, ta cũng đã kịp chộp lấy 1 viên opal trong đó - thật tuyệt vời, nó là 1 viên opal đẹp có giá trị bằng 1 cái chân của ta. Vậy là ta đã kể chuyện của chính ta cho cháu nghe, nhưng cháu và người nhà của cháu sẽ cho rằng đó là sự tàn lụi của ta, là sự trả giá cho một cái… không phải vì cái viên opal nhỏ bé này. Cầu Chúa, nàng chính là phần thưởng. Hãy cho ta thời gian, ta sẽ tìm lại Tia Sáng Xanh. Dù chưa được công bố rộng rãi nhưng… nó vẫn là 1 omàu xanh tuyệt vời trong những…màu xanh tuyệt vời nhất. Nàng là thứ đầu tiên ta nhìn thấy khi ta tỉnh dậy… ngay sau khi ta bị cắt mất 1 chân ở 1 bệnh viện. Trước đó, chân ta đã bị hoại thư và khi họ đưa ta đến Sydney thì đã quá muộn. Và lời ta nói đầu tiên là: - Hãy cho tôi xem viên opal xanh. – Và nàng đã nằm im trong lòng bàn tay ta,dù ta biết rằng ta chẳng còn bàn chân quen thuộc nằm phía dưới thân thể nữa. Sao ta lại xúc động đến thế, ngay cả cháu có nhìn vào vật thương yêu nhỏ bé này, cháu cũng chưa hiểu ngay nổi được giá trị của nó đâu.

- Điều đó hẳn đã mang lại sức mạnh cho ông chống lại sự nguy hiểm. – Tôi bình luận.

- Đúng vậy, nhưng điều đó còn cho ta nghĩ rằng: Nó chính là cái giá ta phải trả cho phong cách và lòng tự hào của ta.

- Nhưng cũng có thể đó chỉ là tai họa bất ngờ, 1 sự rủi ro đặc biệt.

- Ta đã nhận ra tính chất nghiêm trọng của nó, tai họa đã kết thúc những ngày đào bới của ta. Nhưngt bài học đầu tiên của ta bây giờ là phương pháp sử dụng chân gỗ. Ta cần có 1 cái nạng dài, người ta mách bảo cho ta như vậy.Ta nghĩ ngay tới nơi có gỗ sồi tốt nhất. Ta trở về Oakland, xứ sở của gỗ sồi… Và ở nơi đây ta đang cố sử dụng thành thạo 1 cái nạng, 1 cái chân gỗ và cái xe cũ kỹ này. Rốt cục, cháu đã chứng kiến tất cả những gì xảy ra với ta chỉ vì mải ngắm một cô gái trẻ…

- Cháu thật sự vui mừng vì đã nhìn thấy ông, không phải duy nhất bởi…

- Ồ, Jessie, cháu nói xem, bởi cái gì?

- Bởi cuộc gặp gỡ của chúng ta, bởi opal mà cháu được nghe.

- Đúng vậy, và còn bởi mối thù truyền kiếp giữa hai gia đình chúng ta nữa chứ.

Ông bật cười ầm ĩ và tôi cũng cười theo ông. Dường như có một sợi dây vô hình buộc chặt chúng tôi khiến chúng tôi cười nói thoải mái,vô tư, không một chút gượng ép. Nhưng, ngẫm ra tôi có thể tạo điều kiện cho ngón tay giận dữ của ông chọc vào gia đình tôi.

- Ta đã mua Oakland – lâu đài của họ, như cháu đã biết. Lâu đài của một gia đình trải qua nhiều thế hệ. Bàn tay của Clavering đã đốt cháy 1 nửa gia sản… họ đã nhận được tất cả buồn rầu lo lắng khi bị dồn vào sát chân tường. Lâu đài Oakland của gia đình Clavering đã có từ năm 1507, rồi bị Henniker, một kẻ thô bỉ lấy mất, không phải bằng gươm giáo và lửa, không phải với thuốc nổ và sự đập phá tán nhẫn – mà bằng tiền của ta.

- Dòng họ Clavering có thể không bao giờ quẳng nó đi như thế, nếu họ muốn gìn giữ nó mãi. Còn như ông – ông Henniker là người dũng cảm, cuộc đời của ông phải có nó, và ông xứng đáng được nhận nó… Cháu vui vi điều đó.

- Giọng nói của cháu mới mạnh mẽ làm sao, một tiểu thư Clavering. A…ha, nhưng đây sẽ là một cô gái xứng đáng - một Opal.

- Cháu chưa bao giờ có thể nghĩ ra tại sao họ cho cháu một cái tên như thế, ngoại trừ cháu sinh ra ở Italia. Nhưng cháu lại nghĩ mẹ cháu rất khác cơ, không thể như vậy sau tất cả những gì đã xảy ra.

- Con người ta luôn thay đổi, - ông giải thích – khi có cái gì đó xảy ra, họ mới chợt nhớ… - Ông im lặng trong giây lát. –Ôi, ta đã nhận lời hẹn của một người bạn vào lúc 4 giờ 30 phút, vậy ta phải đi bây giờ. Nhưng hãy chú ý, chúng ta còn phải gặp lại nhau nhiều nữa đấy.

- Ôi vâng, thật vui lòng, thưa ông Henniker.

- Thê nào, ở đây… chỗ này… vào giờ này ngày mai nhé?

- cháu cũng muốn như vậy.

- Chúng ta sẽ có nhiều chuyện nói với nhau. Tương tự vào giờ này ngày mai đấy, nhớ nhé.

Tôi nhìn ông điều khiển chiếc xe đi về Oakland với một tinh thần phấn chấn vui vẻ. Tôi chạy dưới bờ sông cho tới đầu cầu, tôi bước lên và quay lại nhìn rặng cây che khuất lâu đài – Oakland bây giờ là của ông. Tôi đã hinh dung ra một bức tranh có ông trong đó cùng với Banker đang cười đắc ý bởi một tiểu thư Clavering đã trở thành bạn của ông.

Ông là một người liều lĩnh. Tôi cũng liều lĩnh không kém gì ông.

Tôi cố giữ kín đáo cuộc gặp gỡ đặc biệt ấy, nhưng dì Maddy đã cảnh báo với tôi bằng những lời bóng gió xa xôi, dì không thể làm giống như tôi.

- Tôi đã nói với cô, chúng ta hãy hài lòng với những gì chúng ta đã có. – Dì tỏ ra nghi ngại.

- Nhưng, đúng là 1 ngày thú vị! – Tôi vô tình đáp lại.

- sấm sét rồi sẽ nổ ở trên đầu cô cho mà xem. – Dì lầm bầm.

Điều đó làm cho tội phải bật cười. Thật sự đúng là áp thấp đang dồn nén, quyết định tạo ra 1 cơn bão dữ dội nếu điều bí mật của tôi bị phát giác.

Tôi nóng lòng chờ đợi buổi gặp gỡ ngày mai.

Khi tôi đến, ông đã c1 mặt ở đó. Ông tiếp tục kể chuyện, ông càng kể tôi càng bị thu hút và dồn hết tâm trí lắng nghe. Ông đã kể tôi nghe cuộc đời của ông khi còn rất nghèo, trong những ngày niên thiếu ở London.

- London! – Ông cười chua chát. – Đúng là một thành phố! Ta chưa bao giờ có thể quên được. Nơi đây không có bất kỳ công việc nào mà ta không trải qua với bao kỷ niệm khắc nghiệt. Gia đình ta nghèo, không giống những gia đình khác, gia đình ta chỉ có 1 đứa con… chính là ta. Mẹ ta không thể làm gì khác hơn là một người cầu phúc. Ta học vỡ lòng tại 1 trường nữ sinh, sau đó tới 1 trường tiều học tồi tàn rách nát để học đủ thứ trên đời dành cho lứa tuổi 11 nhưng ta đã chuẩn bị ý chí quyết tâm, sẵn sàng cho cuộc chiến đấu của ta. Lúc này cha ta bỗng lăn ra chết. ông là kẻ nghiện ngập, nên điều đó cũng chẳng có gì là mất mát lớn và ta bắt đầu chăm sóc mẹ ta, với cố gắng tạo cho bà 1 cuộc sống thoải mái hơn trước.

Tôi ngạc nhiên không biết tại sao ông lại kể tất cả điều đó với tôi. Ông như 1 diễn viên kịch có tài, giọng ông khá diễn cảm thay đổi theo từng con người. Khi ông kể về người bán khoai nướng, ông rao : - Hãy tới đâ, hỡi những người đẹp, khoai nóng và bở đây. Hai củ 1 xu. Ăn vào ấm người no ngay đây.

- Đó, Jessica. – Sau đó ông đã có thể trở lại với chính ông. – Lúc bấy giờ ta là một kẻ tầm thường, nhưng đấy là các đường phố của London, khi ta còn là một thằng nhóc. Cuộc đời! Không baiờ được nhìn cuộc đời như thế… không, không bao giờ. tất cả điều đó diễn ra ở khắp các đường phồ London. Điều đó chẳng đáng để cháu để tâm nhiều, nhưng đừng bao giờ quên ý chí mới là quan trọng, hãy để cho nó thấm vào máu của cháu.

( LẠI TIẾP TỤC XIN BỎ QUA 1 ĐOẠN ÔNG HENNIKER KỂ VỀ NHỮNG CÔNG VIỆC ÔNG ĐÃ LÀM QUA CHO ĐÊN KHI HAI MẸ CON ÔNG CÓ ĐƯỢC 1 CỬA HÀNG NHO NHỎ)

Nhờ kinh doanh phát đạt chúng ta đã có được 1 cái cửa hàng kinh doanh nho nhỏ, ngay trên đại lộ Ratcliffe. Dĩ nhiên, chúng ta sống cũng sung túc hơn. Sau đó mẹ ta chết, chết vào một ngày mưa, mưa to và dài, mưa kéo dài sang tận ngày hôm sau. mẹ của ta gục ngã trên nền nhà, trong tay vẫn còn cầm cái bánh gừng mà bà yêu thích.

- Ông đã làm gì sau đó?

- Ta đã kiếm 1 người bạn gái. Cô ta khồng hề được đụng chạm tới. Một cô gái rực lửa, đẹp như tranh nhưng không biết làm hình búp bê cũng như các kiều bánh ta muốn. Kinh doanh thất bại, cô ta bỏ đi mất tam, khi đó ta 15 tuổi. Sau đó ta buộc phải làm việc cho 1 quý tộc với công việc chăm sóc ngựa. Ôi! Khi ấy ta khá bảnh trai, cháu không biết ta bảnh chọe như thế nào đâu. Lúc nào ta cũng mặc 1 bộ trang phục màu xanh thẫm có nẹp viền bạc, khiến tất cả các cô gái trên đời này phải ngắm ta nhiều hơn, ta có thể tự hào nói với cháu như vậy. Điều kỳ lạ đã xảy ra, đó là ngày chúng ta đi thăm vùng ở làng quê, tới 1 lâu đài nhỏ ở Hartingmond, cháu có nghĩ đó là đâu không?... Đó chính là Oakland mà chúng ta đã gọi.

- Ông đã tới nhà của Clavering?

- Với một tư cách hèn mọn, cháu có thể nghĩ như vậy. Ta chưa thấy một ngôi nhà nào giống như thế, nó đẹp nhất khu vực này thì phải. Ta vội vòng ra sau chuồng ngựa với người đánh xe, cha9m sóc ngựa và noi chuyện với những người nhà Oakland. Họ thật là hơm hĩnh! Ta có thể nói với cháu như thế.

- Thú vị biết bao! – Tôi cười. – Ngày gặp gỡ đầu tiên của ông với Oakland xa xưa.

- Jessica, ngày đó còn trước thời gian cháu sinh ra khá lâu. Khi đó ta 17 hoặc 18 tuổi. Đó là những năm tháng trẻ trung, khao khát của đời ta, nhưng nó trôi qua mất rồi. Cháu thử đoán xem, bây giờ ta bao nhiêu tuổi?

- Ông già hơn anh Xavie… về tuổi, nhưng không hiểu sao nhìn ông trẻ hơn.

Câu trả lời dường như làm cho ông hài lòng.

- Hơn 40 năm trôi qua kể từ lần đầ tiên mắt của ta nhìn thấy Oakland, ta không bao giờ quên nó. Ta nhớ, khi đứng ở chuồng ngựa, ta đã cảm nhận được tuổi của nó cũng như tất cả các viên đá trên tường đã nói cho ta biết con người đã từng sống ở đây hàng trăm năm ra sao. Cuối cùng ta ngầm nói với chính ta: Sẽ có ngày ta có 1 ngôi nhà giống như Oakland… Không môt ai ngăn cản được ta, 6 tháng sau ta lên đường đi tới Australia.

- Đi tìm opal! – tôi cười.

- Không, ta chưa nghĩ tới Opal. Ta tìm những cái mọi người thường tìm, đó là vàng. Ta thầm nghĩ: Ta sẽ không ngừng tìm vàng, sao cho ta có một khối vàng đủ lớn để mua ngôi nhà như Oakland. Đó chính là mục đích chính ta đi tới Australia… Một cuộc hành trình đầy gian nan! Ta đã làm xong công việc chuẩn bị cho một chuyến đi biển mà ta không bao giờ quên. Ta nghĩ, nó suýt nữa kết thúc cuộc đời ta. Chúng ta đã gặp 1 cơn bão dữ dội khủng khiếp. Con tàu bị quay đi và gần như lật nhào, ta nghĩ, trước hết phái tát nước, cứu phụ nữ và trẻ em… Ta đã không thể tin nổi lúc chúng ta bước lên thang để vào bờ là sự thật. Mặt trời! Ruồi! Chưa bao giờ ta nhìn thấy mọi cái lại khác như thế, mới lạ như thế.Nhưng trong đầu ta vang lên tiếng thì thầm, nơi này là dành cho ta, ta thề không được thối lui khi chưa đủ tiền mua nhà, một ngôi nhà giống như Oakland.

- Ông Henniker, ông đã làm tất cả đúng như ông đã nghĩ phải không?

- Jessica, cháu nên gọi ta là Ben. Gọi là ông Henniker khiến ta trở nên xa lạ.

- Bắt buộc cháu phải gọi thế sao? Ông là người lớn tuổi kia mà.

- Không phải thế, đây là kiều xưng hô khi chỉ có ta và cháu. Jessica, bêncháu ta càm thấy ta trẻ khỏe ra, như trở lại cái tuổi 17 vậy.

- Giống như khi ông đặt chân lên thang bước vào bờ ở Sydney.

- Đúng như vậy. tất nhiên, ta đang đi tới nới làm giáu. vậy là ta đi tìm khắp nơi từ New South Wales đến Ballarat… Ta đã có rất nhiều vàng, có lúc ta phải đem vàng đi cân.

- Rồi ông đã trở nên giàu có.

Ông im lặng, đưa hai bàn tay lên ngắm nghía, rồi nói: - Hãy nhìn vào bàn tay ta mà xem, chúng giống như nững đốt xương xẩu ghép lại, e…hèm? Không phải là bàn tay nhàn hạ của bọn người hào hoa phong nhã. Bàn tay xương xẩu này không xứng đáng với người nhà Oakland, những người không phải làm bất cứ cái gì, chỉ đứng nhìn chỉ tay năm ngón. Nhưng trong ta có cái ta xứng đáng tự hào… Ông vỗ ngực. – Có một cái ở trong đây, vì cuộc sống mãnh liệt, nó không có chỗ cho các quý bà quý ông. Lâu đài Oakland, họ có nó chỉ vì sự sang trọng và kiêu ngạo. Ta đã muốn có nó vì ta yêu nó, đó là tất cả. Không bao giờ ta lấy bát cứ cái gì vì sự phù phiếm, Jessica ạ. Nếu cháu vì sự phù phiếm, cháu sẽ đánh mất tất cả những gì tốt đẹp nhất trong cuộc sống. nếu đó là sự thương yêuc hân thành thì cháu hãy hết lòng hy sinh vì nó. Ôi, ta giận nhà Clavering biết bao!

- Cháu sẽ suy nghĩ thêm về điều đó, - tôi nói.- Vậy là ông đã trở nên giàu có.

- Đó là điều ta không thể làm trong một đêm mà phải làm trong nhiều năm, với tất cả sự chán nản, thất vọng luôn đeo bám lấy số phận của ta. Ta phải đi lùng sục khắp nơi… sống lang bạt trên hắp cánh đồng hoang, lo lắng tiền ăn uống, tiền cọc khai thác mỏ. T anhớ mãi chuyến di cư bằng xe bò tới Melbourne. Đó là đội quân rách rưới, một lũ người tơi tả hành quân đi tới miền đất hứa. Trong chúng ta có một số người trở nên giàu có, đó là những người kiên cường bền bỉ, còn 1 số khác thì chết trong thất vọng chán chường. Còn ta thì sao? Hy vọng theo ta suốt chặn đường hành quân đã chọn. Một số đầy xe cút kít chở đồ nặng, một số cõng đồ nhẹ hơn ở trên lưng… vượt Keiler Plain, vượt qua những cánh rừng, nơi phải đốt đuốc để đi nhưng vẫn có cảm giác rờn rợn. Vì lần đầu tiên đi trong rừng rậm, những cảm giác lo âu do ngọn lửa chập chờn mang lại, không biết bao giờ mới ra khỏi bóng tối âm u của rừng cây rậm rạp để được nhìn thấy ánh sáng mùa xuân… Nhưng cái gay go hơn hết là miếng ăn của chúng ta ngày càng cạn dần. Cho tới tận đêm trại mới được hạ. Ôi, một giọng ca cất lên từ lửa trại…tất cả chúng ta cùng hát những bài hát quê hương quen thuộc và không có ai là không xúc động trào nước mắt, nhưng cũng chẳng người nào nhìn được nước mắt của ai rơi trong đêm. Và sau đ1o chúng ta tới Bendigo… sống trong một túp lều vải. tất cả phải chịu đưng cái nóng oi ả của mùa hè kéo dài cho tới tận mùa đông giá lạnh… Mùa đông tới, mưa dai dẳng, bùn nhão nhoét, lạnh lẽo… tiếp tục kéo dài cho đến mùa hè năm sau. Thật không may, ở Bendigo trong những ngày khắc nghiệt đó ta chẳng tìm được gì… Mãi tới Castlemaine ta mới tìm thấy vàng, số vàng khá lớn, song vẫn chưa đủ, nhưng nó lại là niềm khích lệ lớn đối với ta. Ta gửi vàng vào một nhà băng đáng tin cậy ở tận Melbourne. Ta không thể hy sinh vàng cho rượu và phụ nữ giống như nhiều người đã từng làm rồi sau đó kinh ngạc bởi trong 1 thời gian ngắn đã nướng sạch tất cả. Ta đã biết khá rõ về điều đó. Nó không mang lại cho ta nười phụ nữ biết yêu ta. Người phụ nữ vì tình yêu, không phải vì tiền. Đó là một phương pháp khôn ngoan, đừng hoang phí của cải mà ta kiếm được một cách khó nhọc… Ông ngừng kể và quay sang hỏi tôi. – Cháu có biết tại sao người nhà Clavering đã không muốn quen biết ta không?

- Đấy là điều nhà Clavering đã quen làm . – Tôi quả quyết trả lời.

- Đúng vậy, ta đã khám phá ra cháu là một cô gái trẻ hiếm thấy. Bây giờ ta sẽ kể tiếp, ồ ta kể đến chỗ nào rồi nhỉ?

- Người phụ nữ biết yêu ta.. vì tình yêu, không phải vì tiền. – Tôi nhắc.

- Ồ, thôi, chúng ta cho chuyện đó qua đi. Đấy là Heathcote và sau đó tới Ballarat, ta đã không còn là một kẻ nghèo và cũng chưa hơn được bất kỳ kẻ giàu nào. Ta xúc động khi đọc quyển sách “Đi tìm khòang vật quý trong lòng đất” – nó chính là kinh nghiệm quý báu, là máu thịt của biết bao con người tạo nên. Cháu cần phải hiểu, ẩn nấp sâu trong lớp vỏ cứng của trái đất là tiềm tàng những báu vật. Nó không phải chỉ là tiền. Khi con người nói đến tiền thường nghĩ ngay đến… vàng! Nhưng còn có nhiều những cái khác hơn vàng. Có cái quý hơn vàng, và ta phải tìm cái đó.

- Opal! – Tôi nói.

- Đúng, opal. Lần đầu tiên ta chỉ mới được nhìn một mẩu đá hóa thạch. Một mẩu hóa thạch nhỏ và đẹp trong nhà băng Melbourne Ta suy nghĩ tới 1 chuyên đi gian khổ tới New South Wales. Ta lặn lội tới Bush…cắm trại trong đêm… rồi nhập hội ới 1 bọn người đi tìm opal. Ôi, opal đích thực không có một hình thù nào hết, nó chỉ là một miếng trong khá ngộ nghĩnh, những miếng hóa thạch hiếm hoi thưa thớt. Ta phải cầu vận may mới gọi chúng tới được. Ta cũng chuẩn bị đủ dụng cụ như họ, đó là cái xẻng để xúc, cái cuốc chim để đào bới, 1 cuộn dây thừng và 1 cái giá đỡ giống như 1 con nhện. Con nhện đó thực ra được làm bởi 1 cái giỏ được những cái càng cong quắp lấy thật chặt… đó là công cụ để đảm bảo thật chắc chắn cho người thợ mỏ đào ở dưới hang sâu. Ôi, ta đã tìm thấy đá quý, ta phải chuẩn bị mọi thứ để moi nó từ dưới lòng đất lên.

- Opal? – Tôi reo lên. (có vẻ như Jessica hơi nghèo từ ngữ, suốt từ nãy đến giờ chỉ nói mỗi từ này).

- Đúng, opal. – Không có cái gì sánh được với nó.. đá hóa thạch. Nó đã cho t nêm mùi khó nhọc trong 1 tháng, để ta trở thành cái đục thật sự. May mắn sao, khởi đầu ta đã tìm thấy miếng đầu tiên vừa đặt nó lên tay nó lấp lánh nháy mắt với ta, ta đã biết ngay nó là opal. Thật vui biết bao. Mỗii viên đ1 là 1 câu chuyện… một bức ảnh của thiên nhiên tuyệt vời. ta cho cháu xem… - Ông nhìn vào tôi và cười. – Khi nào cháu tới nhà ta, cháu sẽ được xem bộ sưu tập opal của ta. Hãy đến với ta nhé Jessica?

- Thưa ông, cách đó dường như là tốt nhất cho cả 2 chúng ta. – tôi trả lời bỏi tôi không thể hình dung nổi điều gì sẽ xảy ra với cha mẹ tôi,anh Xavier và chi Miriam nếu chuyện của chúng tôi bị lộ ra.

Ông dường như đắc ý lắm. – Đúng vậy, hãy tìm cách đến với ta bất kỳ lúc nào. – Ông lại nhìn tôi cười. – không hiểu vì sao ta lại nói đến ta nhiều như thế? Cháu nghĩ về ta ra sao?

-Cháu nghĩ, ông là người mạnh mẽ nhất mà cháu chưa từng gặp.

- Ta! – ông cười- Thật sự đã đến lúc ta phải về. Lần sau hãy đến nhà ta. Ta sẽ chỉ cho cháu viên opal quý nhất. Cháu có thích không, Jessica?

- vâng, cháu rất muốn nhưn chỉ e rằng nếu họ biết…

- Có ai tới mà biết?

-Những người hầu sẽ nói.

- Cháu cho rằng họ nói. vậy cháu để việc đó cho ta.

- Cháu sẽ bị cấm.

Ông lạ tỏ ra đắc ý. - Người ta thích cấm cái mà chúng ta quan tâm phải không? Chúng ta sẽ không đi tới chỗ mà họ bắt chúng ta dừng lại, được chứ?

- họ có thể cấm cháu gặp ông.

- Thôi cứ để việc này cho ta.

- Khi nào cháu sẽ gặp lại ông?

- Ngày mai ta có khách, những người bạn kinh doanh, họ phải làm việc với ta 1 thời gian. Ta hẹn với cháu đúng thứ tư nhé. Cứ mạnh dạn đi thẳng và trước cổng, ta sẽ cho người ra đón chau 1vào gặp ta. Ta sẽ đón tiếp 1 cách thật xứng đáng với tiểu thư Clavering.

Vậy là tôi đã yên tâm, chắc chắn tôi không phải cám ơn ông, bởi sau đ1o chúng tôi đã không thể giữ kín được cuộc hẹn bí mật ấy, việc đó coi như tạm thời kết thúc, nhưng dù sao tôi cũng đã có 1 tuần lễ khám phá ra nhiều vấn đề quan trọng đối với tôi.