Chương 1
R
a khỏi nhà anh đã đi qua hai bến trên xe ô-tô điện, một chiếc ô-tô điện mới, rộng rãi sơn màu xanh - vàng, - loại xe chưa hề có ở Moskva hồi trước chiến tranh. Những chiếc ghế ngồi thoải mái, được bọc bằng loại da mềm màu sôcôla và loại nhung kẻ. Xe chạy êm như lướt trên mặt nước. Mà anh thì đã năm năm nay không hề đi ô-tô điện. Và cũng đã năm năm rồi anh không thấy người bán vé xe khách của Moskva.
Năm năm rồi anh không còn hỏi bằng một câu bình thường, vội vã của người Moskva: “Bác có xuống bến sau không ạ?“ Và bây giờ đây, khi anh hỏi như vậy, thì giọng của anh vang to và đượm vẻ hân hoan không đúng lúc, đến nỗi những hành khách đứng trước anh - vào tầm trưa số hành khách này cũng không đông lắm - đều ngạc nhiên ngoái lại và lặng lẽ nhường đường cho anh.
Cánh cửa mở ra trước mặt anh, và anh nhảy xuống vỉa hè.
Và bây giờ thì anh đang đi trên đường phố Moskva…
Mặt trời tháng Bảy nấu chảy lớp nhựa trải đường phẳng lỳ. Chỗ này mặt nhựa đường như có màu xanh, nhưng xa xa ở phía trước mặt dưới ánh mặt trời nó sáng ánh lên như được quét bằng một lớp phấn. Dãy nhà bên trái in xuống mặt đường nhựa những bóng ngắn tối thẫm, còn dãy nhà bên phải thì ngập trong ánh mặt trời. Những ô cửa sổ phía bên này sáng loá mắt.
Từ góc phố, một con cánh cam xanh to kềnh có đôi cánh nước xoè rộng đang bò ra. Ở mỗi bên cánh được dệt bởi muôn ngàn tia nước hiện lên những sắc cầu vồng lấp lánh. Mặt đường nhựa nóng chảy đen bóng và bốc hơi nghi ngút. Nhưng một con mưa vẫn đang từ từ bò trên những chiếc bánh xe làm toả ra xung quanh một lớp mây mát rượi.
Moskva!
Anh đang đi trong lòng Moskva!
Nơi đây mọi thứ từ nhỏ vẫn quen thân và không thể quên được, nơi đây là quê hương anh, chốn quê bình thường ấm tình người mà ở mặt trận những người chiến sĩ đều nhớ tới, mỗi người hướng về một vùng quê của mình. Ở khu rừng thành viên tranh tối tranh sáng và ở những dãy núi hoang vu vùng Khin-gan anh vẫn thường nhớ tới Zamoskvoresie. Yakimanka, nhớ tới những bờ sông có kè đá hoa cương, những cây bồ đề cổ thụ của vườn Neskutnyi…
Và giờ đây tất cả đang trở về với anh. Tất cả, tất cả những gì đã được ký ức trân trọng giữ gìn. Đằng kia, trong toà biệt thự, bên cạnh nhà thờ Spaso Nalivkovsky, vào mùa thu năm đầu chiến tranh, anh đã tham gia đội cứu hoả của quận Lenin. Tham gia thực sự! Một chú bé mười sáu tuổi… Bây giờ cũng như hồi trước chiến tranh, trước cửa toà biệt thự vẫn có tấm biển: “Vườn trẻ số 62”. Từ những ô cửa sổ rộng mở ló ra những chiếc lá cây vạn niên thanh xanh bóng và vang lên tiếng hát qua máy thu thanh.
Anh đi mỗi lúc một nhanh, gần như là chạy.
Anh bước lên chiếc cầu bắc qua con sông đào Kanava nổi tiếng của Moskva. Bên cạnh rạp chiếu bóng Udarnik có một đám đông, hầu hết là thanh niên - bây giờ đang là kỳ nghỉ hè mà.
Chưa thấy sông Moskva đâu, nhưng anh đã cảm thấy hơi thở tươi mát của nó, và đã hình dung ra khoảng rộng bao la của nó sau các dãy nhà. Ngày trước anh đã sống ở nơi đây, ở phố bờ sông Bershenevskaya, và học ở trường phố bờ sông Sophiskaya, đối diện với điện Kreml. Anh thường đi học dưới những nhịp cầu cuốn - ở đó lúc nào cũng tối mờ mờ và âm vang, chỉ cần động nhẹ cũng gây ra những tiếng dội lớn. Còn sau các buổi học thì học sinh chơi trò “rèn luyện ý chí“ - chúng đi trên mép tường chắn bằng đá dọc bờ sông, hai tay dang ra để giữ thăng bằng, về sau có một thầy giáo trông thấy và cả lớp đã bị kỷ luật.
Anh dừng lại tại nhịp uốn cong bằng bê tông lớn ở giữa cầu.
Cầu Đá Lớn!
Chiếc cầu đẹp nhất thế giới. Giờ đây anh không còn nghi ngờ gì điều đó nữa. Anh đã từng thấy những chiếc cầu ở Praha, ở Vienna và nhiều cầu khác nữa ở nhiều nước.
Từ khu này trở ra, thành phố có vẻ chật chội một cách vô tổ chức - phố xá thiên thẹo, nhà cửa cái nọ gối cái kia trong đám lộn xộn của những bức tường màu cháo lòng, những mái nhà màu hồng và những ngọn tháp, những khu nhà mới xây dựng còn ngổn ngang giàn giáo và những ô cửa sổ lấp lánh dưới ánh mặt trời.
Nhưng căn cứ từng ngôi nhà quen thuộc ta có thể đoán ra các đường phố đằng kia lấp lánh mái lợp bằng kính của nhà bảo tàng Puskyn, chếch bên trái, ngay bên bờ sông là một bãi xây dựng chạy dài - ở đây người ta đã khởi công xây dựng Cung Xô-viết, những khối trụ của móng nhà đứng sừng sững như những hàng răng cưa khổng lồ.
Còn phía bên phải, trên một ngọn đồi cao là điện Kreml. Những ngôi tháp cổ kính phủ một lớp rêu xám gần như trắng mốc dưới chân, và một hàng cây xanh sau dãy tường, trong sân điện Kreml, nổi lên trên đó là một toà cung điện cân đối có bộ ngực trắng với lá cờ đỏ trên nóc nhọn.
Trước chiến tranh đã bao lần anh nhìn thấy những ngôi tháp, những cây thông này và cả cung điện đầy kiêu hãnh này nữa, anh thấy chúng cả vào mùa đông và mùa hè, cả vào những ngày trời nắng và lúc trời mưa, từ cửa sổ ô-tô điện và từ đường bờ sông, - giờ đây anh lại có cảm giác tựa như mới nhìn thấy tất cả những thứ đó lần đầu tiên. Và lần đầu tiên anh nhìn thấy vẻ đẹp thần thoại của điện Kreml, một vẻ đẹp có một không hai trên trái đất này.
Sau đó anh đi qua quảng trường gần cổng Borovisky dẫn tới thư viện Lenin.
Anh nhìn vào khuôn mặt của những người đi ngược chiều và anh thấy ngạc nhiên: tại sao lại không gặp những người quen nhỉ? Anh có cảm giác rằng, chính ngày hôm nay anh phải được nhìn thấy tất cả mọi người, được gặp họ ở trên đường phố.
Bây giờ anh đang bước lên Quảng trường Đỏ. Đã gần lắm, gần lắm rồi… Anh đứng ở trung tâm Moskva. Thành phố ôm gọn anh trong tiếng ồn ào không lúc nào tắt, trong muôn ngàn giọng nói và tiếng cười của mọi người. Trước mắt anh sừng sững bức tường đá trắng của khách sạn “Moskva”, và phía bên trái, vươn lên sườn đồi với những toà nhà nhiều tầng nhấp nhô là phố Gorky đông người và nhộn nhịp nhất, hai bên là hai dãy tủ kính lấp lánh.
Anh đã từng mơ ước biết bao được có ngày hôm nay!
Anh đi giữa mọi người, chạm vai vào họ, trìu mến nhìn vào mắt họ, lắng nghe những câu chuyện của họ. Chính tất cả những người Moskva đó là những người đồng hương của anh, mà hôm nay đây anh mới trở lại với họ sau năm năm trường xa cách. Cả người đàn ông vai rộng mặc áo mưa và đội mũ màu xám, cả chú bé mặt đầy tàn nhang mặc áo may ô thể thao, cả người phụ nữ hồng hào tay bế con nhỏ, cả một chị khác mang kính, nách cắp một chiếc cặp có thò ra một chai sữa, cả những cô thiếu nữ - sao họ đông đến thế! Những cô thiếu nữ mặc áo dài trắng, hồng và tím nhạt, da rám nắng dáng điệu nhanh nhẹn, mắt sáng long lanh, tất cả các cô đều mỉm cười với anh, còn anh cũng mỉm cười với họ. Anh cười đáp lại các cô gái đó và cảm thấy rằng tất cà những người đó là những người quen cũ của mình, anh chỉ mới hơi quên họ đi trong khoảng năm năm nay. Có lẽ cả bản thân anh cũng đã thay đổi. Nhưng họ sẽ nhớ ra nhau, rất nhanh! Mặt đường lát đá ở Quảng trường Đò cũng mang sắc xanh hầm hập của nền trời. Anh bước đi hiên ngang, đầu ngẩng cao. Ở đây mọi thứ vẫn như hồi trước chiến tranh - vẫn hàng thông xanh đứng trang nghiêm đọc theo chân tường điện Kreml, vẫn hai người lính đứng yên vị bên cửa ra vào lăng mộ vĩ đại. Những khuôn mặt trẻ trung của họ thật là trang nghiêm.
Chân bước chậm rãi, lòng đầy xúc động, anh đi qua quảng trường và luôn luôn nhìn về bên phải. Anh nhìn thấy chiếc kim vàng nhảy nhảy trong chiếc đồng hổ trên tháp Xpaskaya, và mặt trời, trong một thoáng chói mắt, rực lên trên mặt kim.
Khi anh bước xuống bờ sông, có một chàng trai trẻ, lưỡng quyển cao, mắt đen, cũng mặc áo va-rơi và đi cùng bước về phía anh. Anh ta hỏi vẻ lúng túng như có lỗi:
- Xin phiền hỏi anh bạn, anh có biết đường đến Viện bảo tàng hội hoạ Trechiakov đi lối nào không?
Mình biết chứ! - anh gần như kêu lên, bỗng dưng vui mừng quá đỗi về một điều gì đó. - Tất nhiên là mình biết chứ! Lẽ ra mình sẽ đích thân đưa cậu đến, nhưng mình đã đặt kế hoạch là đến mai mình mới tới Viện bảo tàng Trechiakov. Thế này vậy: cậu hãy đi qua cầu Đá, không, tốt nhất là qua cầu Moskovoresky…
Rồi anh đã chu đáo và tỉ mỉ hướng dẫn cho chàng trai nọ đường đi đến Viện bảo tàng Trechiakov. Chàng trai gật đầu cảm ơn và bước đi. Còn anh vẫn đứng nhìn theo và mỉm cười hạnh phúc, ngỡ ngàng: anh cũng vừa nghĩ rằng ngày mai cả anh cũng sẽ đến thăm Viện bảo tàng Trechiakov! Còn nếu anh muốn, anh sẽ đến cả ngày hôm nay nữa. Chỉ cần anh muốn - là mười lăm phút sau anh đã có mặt ở bảo tàng Trechiakov rồi!
Và thế là anh đang ở phòng ngoài của ga xe điện ngầm tràn đầy ánh sáng điện toả đều, do đó mà những tường đá hoa cương, quần áo và khuôn mặt mọi người đều có màu da cam nhạt.
Một dòng người kiên trì theo một hướng nhất định đã đưa anh tới một trong hai chiếc cầu thang máy.
Anh cảm thấy rõ ràng rằng anh vừa xuống chiếc cầu thang này cách đây không lâu - mới tuần trước hay ngày hôm qua đây thôi. Ở đây mọi thứ đều quen thuộc, không có gì thay đổi so với cái ngày hôm qua cách đây đã năm năm…
Mọi người nhẹ nhàng rời cầu thang và toả về mọi hướng. Trong tiếng rì rì đơn điệu của thang máy và tiếng ồn ào của những câu trò chuyện, đột nhiên ập đến tiếng chuông đều nhịp mỗi lúc một gần và tiếng bánh xe lăn. Đó là một đoàn tàu còn chưa nhìn thấy đang tiến vào ga.
Có ai đó khẽ chạm vào cánh tay anh - đó là một bà cụ già đội khăn tiều nông thôn.
- Con ơi, già đứng đây chờ tàu đến ga Sokolniky được không?
- Không được, không được, cụ ạ! Cụ đi không đúng hướng rồi ạ! cụ cần quay ngược lên và đi đến ga khác kia! Bây giờ cụ hãy…
Nhưng có một giọng trầm trầm của ai đó ngắt lời anh:
- Không cần phải thế. Cụ cứ đi xuống dưới này và đi theo đường ngầm mới làm để chuyển sang ga Quảng trường Cách mạng.
- Đường ngầm nào? - anh hỏi bằng giọng làm cao của một người cảm thấy bị xúc phạm vì có một người nào đó dám nghĩ đến chuyện sửa lại lời mình. - Anh nhầm đấy. Chỉ ở ga Thư viện Lenin mới có đường ngầm chuyển ga thôi.
- Tôi không bao giờ nhầm đâu, đồng chí ạ. Đã không biết thì đừng dạy khôn người khác. Còn cụ, xin cụ đừng nghe anh ta, cụ cứ yên tâm đi theo lối ngầm mới là sẽ đến nơi.
Đúng, đúng như vậy đó! Anh đã đọc trên báo chí tiết về những ga mới mở trong chiến tranh và về lối ngầm mới ở trung tâm. Cần phải nhanh chóng đến thăm những nơi đó.
Sau cái oi bức của tháng Bảy, thì hơi mát của lớp đá hoa cương dưới đường ngầm thật dễ chịu biết bao! Anh đi theo lối ngầm mới, tò mò ngắm nhìn những bức tượng hoặc phù điêu bằng thạch cao, nền đường lát bằng những phiến đá màu, và khoan khoái hít thở cái mùi vị quen thuộc, hơi nồng nồng bao giờ cũng có trong đường xe điện ngầm - mùi vôi mới quét hoặc mùi mạt cưa ẩm.
Anh đi chậm rãi, và mọi người đều vượt lên trước anh. Dường như anh là người nhàn rỗi duy nhất trong dòng người hối hả này.
Một giờ sau, nhìn ngắm đã mỏi mắt, anh đi lên phố từ sân ga yêu thích của anh. Quảng trường Mayakovsky làm anh loá mắt bởi mặt trời và bầu trời xanh ngắt, đồng thời khiến anh thấy nực người.
Anh đọc các tấm biển quảng cáo: chương trình biểu diễn của Đoàn văn công đường sắt… Họp xướng Armenia… Biểu diễn của nghệ sĩ vĩ cầm Ba Lan, giáo sư nhạc viện Warsawa… Dạ hội hài hước… Giải quán quân đấu vật… biết bao nhiêu là tên tuổi mới mà anh chưa quen biết!
Bỗng nhiên có ai đó nắm vai anh.
Vadim!
Quay ngoắt người lại, anh nhìn thấy Sergei Palavin, người bạn xa xưa hồi còn học phổ thông của anh. Thật là hữu duyên thiên lý! Dường như anh cảm thấy là cuộc gặp gỡ nhất định phải diễn ra lúc này.
Họ vụng về ôm chầm lấy nhau và trong giây phút đầu tiên, cả hai đều không nói nên lời.
- Mình đã gọi điện cho cậu sáng nay, - Vadim nói.
- Mình biết, mình biết rồi! thế nào, cậu thế nào? Đồ quỷ! - Sergei ôm ghì lấy Vadim, lắc lắc anh và cười khà khà. - Cậu khỏe lên đấy! Không, cậu thấy đấy, khỏe ra khỏe! chắc cậu phát phì lên vì những món ăn bộ đội, phải không?
- Còn cậu thì cũng chẳng còm cõi gì.
- Ồ, mình thì còn phải nói! Trên mặt cậu vẫn còn nhiều nét từng trải, chinh chiến… Mà làm sao chúng mình lại đứng đực ra thế này nhỉ? Quỷnh thật!
- Mình định chiều nay sẽ đến…
- Thế là chúng mình đã gặp nhau!. Thế là cậu được một huân chương Sao Đỏ và hai hàng huy chương, - tốt quá!
Vadim nhìn vào gương mặt rạng rỡ của bạn mình: nhìn chung Sergei không thay đổi gì, chỉ có cao hơn và vai rộng thêm, vẫn mái tóc tơ màu hạt dẻ sáng, vẫn cặp mắt xanh với nét vui nhộn của người Tarta, còn vầng trán dồ rám nắng có hơi hằn những nếp nhăn mà năm năm trước chưa có. Trông anh chững chạc hẳn ra và có phần diêm dúa: bộ lễ phục mùa hè màu kem và đôi xăng-đan bằng da màu trắng, vẫn thế đấy: Sergei bao giờ cũng thích ăn vận chỉnh tề.
Họ đi dọc theo phố Sadovaya, cả hai vẫn còn thấy ngỡ ngàng và xúc động cao độ trước cuộc gặp mặt hằng mong đợi từ lâu, nhưng lại vô cùng bất ngờ này. Phút lúng túng ban đầu đã qua đi, và lúc này họ tranh nhau nói, cướp cả lời của nhau.
Có thể kể cho nhau nghe những gì trong những giây phút đầu tiên này? Hình như chẳng có gì cả. Họ kể về những điều mà họ đã biết từ lâu qua thư từ. Sergei làm việc cho tới cuối năm bốn mươi ba ở Svedlovsk, trong Viện nghiên cứu khoa học, sau đó anh được động viên và được điều đến mặt trận Tây Bắc, anh phục vụ ở đó cho tới cuối chiến tranh. Từ tháng Mười Hai năm bốn mươi nhăm - tức là đã hơn một năm rưỡi - anh ở Moskva.
- À, thế tụi bạn của chúng mình đâu cả ấy nhỉ? - Vadim hỏi. - Roman, Lyuda ở đâu? Michia Zaresnyi nữa?
Sergei chỉ gặp mỗi một mình Roman, cậu ta ở Moskva, làm việc ở xí nghiệp đồng hồ, Lyuda theo chồng đến một vùng nào đó, hình như ở Kazakhstan thì phải. Michia Zaresnyi phục vụ trong một đơn vị đóng giữ ở Berlin. Còn Pechia Kirsanov thì đã hy sinh từ hồi năm bốn mươi hai.
- Có, mình có biết, các bạn có viết cho mình, Thương Pechia thật… - Vadim lặng đi. - Còn cậu thì làm gì, Sergei? Học à?
- Bắt đầu từ năm nay.
- Ở đâu thế.
- Còn chưa định. Hoặc là ở đại học tổng hợp Moskva, hoặc là ở một trường nào đấy. - Sergei thở dài và lắc đầu vẻ lo lắng. - Đã đến lúc, đã đến lúc bắt đầu rồi! Mình đã thơ thẩn hết nửa năm nay rồi, chán…
Vadim thì đã quyết định từ lâu - anh sẽ vào học khoa văn trường đại học sư phạm. Nhưng lúc này anh chưa muốn nói gì về mình.
- Hy vọng là cậu chưa vợ con gì chứ? - đột nhiên Sergei hỏi.
- Chưa, lấy đâu ra…
- Ừ, đúng thế, - Sergei nói giọng dạy đời. - Mình với cậu, ông anh ạ, không nên nặng gánh gia đình vội. Hoàn toàn không nên. Bây giờ chúng ta phải bắt tay vào học, lo chuyện tiến bộ, như người ta thường nói, và nếu không nặng gánh, một thân một mình thì sẽ dễ dàng hơn…
Vadim nghe không rõ, đúng hơn là hiểu không rõ những điều Sergei nói. Cảm xúc hân hoan của một ngày rực rỡ mặt trời hôm nay vẫn quyện chặt lấy anh và làm anh ngây ngất.
Sau đó họ đến nhà Sergei, một ngôi nhà lớn kiểu cổ ở phố Frunze, có những bốn đỉnh tháp ở góc nhà, những cột chạm hình người và những hàng hiên nhỏ. Bốn tầng trên được xây thêm theo kiểu hiện đại bằng gạch đỏ, nhưng vẫn còn chưa ướt.
Bà Irina Viktorovna, mẹ Sergei ra đón họ. Bà già đi, trông người còng xuống, mái tóc đen của bà đã phai màu, nhưng bà vẫn như trước - vẫn lanh lẹ khác thường so với thân hình phốp pháp của bà, vẫn có thói quen nói chuyện ồn ào không biết mệt cướp cả lời người khác. Bà Irina Viktorovna đón Vadim như đón con trai mình, - bà hôn anh, nhìn anh bằng cái nhìn sắc sảo và hơi ghen tị, rồi thốt lên vẻ xúc động:
- Lạy Chúa, cháu đúng ra dáng là một trang nam nhi! Đôi vai này, giọng nói này!
Trong phòng bề bộn, cảnh bề bộn thường thấy khi cần chuẩn bị cho người đi xa. Bà Irina Viktorovna cầm một sợi dây, trong chiếc va-li để ngoài hành lang có một chiếc áo khoác mùa hè cuộn tròn, còn trên chiếc bàn con, ngay dưới chiếc máy điện thoại là một chiếc phích nắp mạ kền sáng loáng. Thì ra hôm nay Xasa, em trai Sergei được đi dự trại hè thiếu nhi. Chính em đang chạy ra ngoài hành lang, vừa hát khe khẽ một bài gì đó, vừa đập đập vỏ quả bóng chuyền lên trán. Trông thấy Vadim, Xasa ngượng ngùng đứng nguyên tại chỗ.
- Xasa, đây là anh Vadim. Con không nhận ra à?
Xasa tò mò nhìn Vadim và lắc lắc cái đầu tròn, mới cắt tựa như phủ một lớp bụi vàng. Không, em không nhận ra Vadim. Và cả Vadim cũng không nhận ra Xasa - năm năm trước nó còn là một đứa trẻ bụ bẫm bốn tuổi, còn bây giờ đã là học sinh lớp ba rồi.
Từ trong buồng vang ra một giọng phụ nữ:
- Bác Irina Viktorovna, cái hộp đựng xà-phòng ở đâu ạ? Trong tủ không có!
- Lấy ở trong phòng tắm, Valia ạ! - bà Irina Viktorovna vội vã trả lời - Lấy cái hộp bằng đá của bác vậy.
Ở cửa ra vào xuất hiện một cô gái tóc đen, người gầy, khoảng hai mươi tuổi, cô ta nheo đôi mắt cận thị và khi thấy Vadim, cô gật đầu dè dặt.
- Đây là anh Vadim, em đã biết anh ấy qua những câu chuyện anh kể, - Sergei nói.
- Còn đây là Valia.
-Em hình dung anh hoàn toàn khác kia, - Valia nói và chìa cho Vadim cánh tay trắng nõn, để trần đến tận khuỷu tay.
- Hay thật, thế cô hình dung tôi như thè nào?
-Không hiểu sao em lại hình dung anh đen, thấp bé, rắn chắc. Và đeo kính.
- Tôi cho rằng Sergei đã kề quá nhiều về tôi! - Vadim cười vang.
- Không đâu, anh ấy chỉ nói rằng anh là một người rất chín chắn và tốt bụng. Anh ấy thường nói về anh luôn.
Bà Irina Viktorovna cũng tham gia vào câu chuyện.
- Valia, hai anh ấy chơi với nhau từ thời thơ ấu cơ đấy. Mẹ vẫn còn nhớ lúc đó hai anh còn mới bằng này, - bà khẽ chạm vào bụng Xasa, làm cho em bật cười vẻ hoài nghi. - Thật đấy, Xasa ạ, mẹ nhớ Vadim nhỏ bằng này này! Mọi người cùng sống ở nhà nghỉ ngoại ô. Mẹ còn nhớ, các anh ấy chơi diều, làm cái ống nghe kiểu trẻ con, mẹ nhớ… ừ, lạy Chúa, chẳng còn thiếu trò gì cả! Còn sau đó thì là trường học. Cung thiếu nhi. Rồi thì cũng khóc, cũng cãi nhau - dù là đã mười lăm tuổi! Các con nhỉ, thế là các con lại được ở bên nhau rồi! Đúng không? Chẳng phải là kỳ diệu sao? Cả hai đều vẫn sống, lại có cả huân chương nữa… Nào các con hãy ôm hôn nhau đi!
- Ấy chết, con chưa được huân chương, mà chỉ mới được huy chương thôi, - Sergei mỉm cười lúng túng và nắm vai Vadim ghì chặt vào mình. - Ồ, Vadim, mẹ mình thật khéo là đa cảm! Đúng như là một nhà kể chuyện cổ tích…
- Nào, các con vào trong phòng đi, vào đó mà chuyện trò!
Valia xin lỗi, nói rằng cô cần giúp bà Irina Viktorovna thu dọn nhà cửa, và cô đi ra ngoài hành lang.
- Valia là ai đấy? - Vadim hỏi lúc chỉ còn hai người ở trong phòng. - Cô ta có họ với nhà cậu à?
- Không, chỉ là người quen… Cô ấy học ở trường Y. Rất biết điều và thông minh.
Trong phòng của Sergei mọi thứ đều rất sạch sẽ và ngăn nắp - trên bàn của anh ta những năm còn học phổ thông cũng luôn luôn như vậy. Trong chiếc tủ sách lớn có lắp cửa kính sách vở được xếp cẩn thận. Các bìa sách chiếc nọ sát chiếc kia đẹp không chê vào đâu được, các màu sắc của bìa tươi đến nổi tủ sách trông giống như ở triển lãm, - có lẽ, chỉ còn thiếu bảng đề: “cấm sờ vào hiện vật” là đủ.
- Thì ra là cậu chuyển sang phòng làm việc của bố cậu đây chứ gì, - Vadim nói, thích thú ngắm nhìn căn phòng quen thuộc, - chính đây là phòng làm việc của bác Nikolai Stepanovich phải không? Thế các khẩu súng săn đâu rồi, mình nhớ là chúng vẫn treo ở đây kia mà? - Anh chỉ lên chỗ tường bây giờ đang treo mấy bức ảnh các nghệ sĩ, trong đó có chân dung Lermontov. - Chắc là bác Nikolai Stepanovich đang đi công tác? Bác vẫn đi luôn đấy chứ?
Sergei hơi cau mày.
- Ba mình không còn ở với mẹ con mình nữa! Cậu quên rồi sao?
- Ừ nhỉ! Mình quên, - Vadim lắp bắp vẻ bối rối. Thật thế, làm sao anh lại quên chuyện đó chứ!
Trước chiến tranh bố mẹ Sergei đã li dị nhau. Vadim nhớ lại một ngày tháng Sáu oi bức - hôm thi môn đại số lớp chín, - khi Sergei đến trường, người tái nhợt, mắt đỏ hoe và nói với tụi bạn rằng, cậu ta phơi nắng lâu quá và bị ốm. Môn thi đó cậu ta bị điểm ba. Còn sau đó thì cậu ta thú nhận với Vadim rằng, tối hôm qua cậu ta đi tiễn chân bố và rồi suốt cả đêm không ngủ được. Bố cậu ta đi hẳn đến một thành phố khác ở Kavkaz… Ba tuần lễ sau hôm thi môn đại số đó thì chiến tranh bắt đầu.
Vadim và Sergei ngồi đối diện nhau và hút thuốc. Cả hai cùng im lặng, dường như họ đã nói hết với nhau mọi chuyện. Và hình như cũng chẳng có gì mà nói.
Vadim nhìn thấy dưới tấm kính ở mặt bàn có một bức chân dung vẽ bằng bút chì một chú thiếu niên mặc áo cài kín cổ, tóc cắt cao, và đang mỉm cười. Đó là Sergei, không nhớ vào năm học lớp tám hay lớp chín, và do chính tay Vadim vẽ. Dưới bức tranh có ghi “Keks“ và dưới nữa, không hiểu sao lại viết bằng chữ la tinh: “Pinx. w. B.”.
- Keks! - Vadim mỉm cười nhìn xuống bức tranh. - Thế là chúng mình lại gặp nhau rồi. Keks nhỉ… Minh cũng quên không hiểu vì sao người ta lại gọi cậu như vậy đấy?
Cả mình cũng không nhớ nữa. Bao nhiêu năm nay có ai gọi mình như thế nữa đâu. Đúng thế, sao lại là Keks nhỉ?
Vadim nhún vai vẻ thắc mắc.
Lạ thật. Quên sạch cả…
- Đúng thế, nhiều chuyện đã bị lãng quên… Còn mình vẫn nhớ cái lúc cậu vẽ bức chân dung này - vào năm học lớp tám, cho số báo chào mừng Năm Mới.
- Mình cũng nhớ như vậy thì phải.
Họ im lặng một lát, và cả hai lại càng chăm chú và thận trọng ngắm nghía bức tranh. Tờ giấy xé từ một quyền vở có kẻ ô, vết mực ở đầu ngón tay giây ở góc tờ giấy thoáng làm sống lại trong ký ức họ rất nhiều, rất nhiều chuyện trong quãng đời sáng sủa, ồn ào và đã lùi xa vào dĩ vãng, quãng thời gian được gọi là đời của học sinh…
- Cậu vẽ khá lắm, giá mà cậu học môn đó nhỉ, - Sergei đăm chiêu nói. - Cậu có những phác hoạ trên đường hành quân đấy chứ?
- Cũng có, nhưng ít thôi.
- À, hiểu rồi. Vậy là cậu đã đến Praha rồi phải không? Cậu thuộc tập đoàn quân Ukraina Ba chứ?
- Không, tập đoàn quân Hai. Bọn mình đã đi qua Rumania. Hungary…
- Và đã chiếm Budapest?
- Bọn mình không được tham gia đánh những trận đánh đầu tiên ngoài đường phố. Bọn mình được tung lên miền Bắc, vùng Komarno, trong khi đó thì tập đoàn quân Ukraina Ba mở màn ở Budapest. Còn sau đó… Cậu nhớ là bọn Đức đã đưa thêm mười một sư đoàn đến Budapest chứ?
- Đúng, đúng, đúng! Mình như nhớ lại…
- Và thế là, bọn mình quay ngược lại Budapest. Bằng xe tăng. Nhìn chung đó chính là cuộc đột kích vào Komarno…
- Cậu ở xe tăng suốt à?
- Ừ, mình ở xe tăng…
Thế rồi bắt đầu câu chuyện miên man về chiến tranh.
Bên ngoài là một buổi chiều hè Moskva, bầu trời xanh thẳm pha vàng, ngột ngạt, buổi chiều hôm đó hai người đã kể cho nhau nghe biết bao nhiêu chuyện mà vẫn thấy ít! Câu chuyện sẽ còn tiếp tục ngày mai, ngày kia và cả nhiều ngày sau đó nữa. ^.
Vadim ra về. Ngày mai anh sẽ cùng Sergei đến thăm Viện bảo tàng Trechiakov. Và cũng cẩn phải chuẩn bị hồ sơ thi đại học, phải đến trường tìm hỏi mọi chuyện, xin chương trình, mua sách vở…
Đường phố đông nghịt người - đó không phải là những khách bộ hành hối hả buổi ban ngày, mà là dòng người chuyển động nhịp nhàng ban tối. Những khuôn mặt hân hoan, tươi trẻ, tràn đầy sức sống của mọi người sáng bừng lên dưới ánh sáng của những ngọn đèn chùm, đèn quảng cáo và cả những vì sao la liệt trên đỉnh đồi cao xanh.
Một làn hương thơm mát của cỏ cây, hoa lá thoảng lan về từ phía đại lộ Gogol. Một chuyến xe điện không người rung chuông chạy qua quảng trường - vào những buổi chiều như hôm nay người dân Moskva thường thích đi bộ.
Và Vadim cũng đi bộ về nhà.
Anh đi dọc theo đại lộ, đi qua phố Metrostoroevskaya và cầu Krymsky…
Anh thấy lâng lâng, và thậm chí cũng khó nói được lý do vì sao. Do ly vodka anh uống bữa tối ở nhà Sergei hay do chén trà đường, hoặc do buổi chiều Moskva thân yêu đang bồng bềnh lướt trên thành phố trong đám mây ấn áp, trong ánh sáng của những ngọn đèn đường, và trong những tiếng cười, giọng nói, những bước chân khô khốc gõ trên mặt đường nhựa, những nốt nhạc vang ra qua những ô cửa sổ rộng mở?
Chàng thượng sĩ Vadim Belov của ngày hôm qua lâng lâng chủ yếu là do hạnh phúc.
Anh hạnh phúc là vì anh đã trở về thành phố quê hương, về với những người bạn cũ và cả những người bạn chưa quen biết, về với cuộc sống mới. Về với cuộc sống hoà bình và lao động mà anh hằng mơ ước khi ở mặt trận, về với cuộc sống mà vì nó anh đã phải chịu biết bao mất mát, đã vượt qua vô vàn khó khăn và đã đi qua nửa vòng trái đất trong đôi giày vải.
Ngày mai là bắt đầu một cuộc sống mới! Xin chào!