Chương 1

Buổi sáng, tôi bóc một tờ lịch theo thói quen. Tờ giấy mỏng in những giòng chữ và những con số đánh dấu cho một khoảng thời gian ngắn ngủi bị rơi ra nằm gọn trong lòng bàn tay tôi. Như vậy là gần hết tháng tám. Gần hết một tuần lễ này để sang tuần lễ của một tháng mới. Hình như tôi có một lời hẹn trên tờ lịch, có những điều để nhớ mong và để nghĩ ngợi trên những dòng chữ và những con số đó. Đồng thời, tôi cũng mơ hồ thấy được rằng, tờ lịch được tôi bóc ra khỏi tập giấy dày, như là chiếc lá rơi, mang theo những điều phải lỗi hẹn. Tôi vu vơ vo tròn tờ giấy mỏng manh đó trong lòng bàn tay và ném qua khỏi cửa sổ. Buổi sáng hình như trời đang sửa soạn cho một cơn mưa lớn. Tôi bắt gặp cái vẻ ẩm thấp của những mái nhà chen chúc nhau trong tầm mắt và dáng trời nghiêng xuống. Tờ lịch rơi hút xuống con hẻm nhỏ chạy cặp bên hông nhà. Vài đứa trẻ con nhà hàng xóm đang ngồi rải rác từng góc, nhai chậm chạp mẩu bánh mì cầm ở tay hay chụm đầu, kẻ những đường phấn trắng cho một trò chơi ăn thua bằng những tấm bìa cứng có hình màu mè đẹp mắt.

Nơi những ngọn cây vút cao lên trong khoảng trời mù mù là hướng con sông lớn. Chạy theo những đường dây điện kia là một khu phố khác, rất nhiều những mái nhà ngói cổ. Ở phía đó cũng có màu xanh của cây, của những cánh cửa sổ mở. Và cái tháp chuông nhà thờ bao giờ cũng cao sừng sững, cố định cheo leo bên một góc trời.

Tôi bỗng nhớ ra những buổi sáng gần đây, ít nhất là trong những ngày gần hết tháng tám, hình như tôi không còn được nghe tiếng chuông đổ cho từng buổi lễ sớm. Tôi vẫn thức vào khoảng năm giờ sáng, khi bóng đèn trong phòng bắt đầu hâm nóng khoảng không khí lạnh từ khuya cho tới gần sáng. Bóng đèn ngủ trong phòng tôi như một cái đồng hồ báo thức êm đềm nhất, đúng nhất, và dễ thương nhất cho một người và một đời sống yên lặng như tôi. Ngôi nhà này được khởi công xây cất vào khoảng tháng ba, đầu mùa mưa và hoàn tất vào khoảng những ngày hết tháng tám, của một năm trước. Tôi bỗng ngẩn ngơ nghĩ rằng, chính hôm nay hoặc ngày mai, hoặc đã qua một hai hôm rồi ngôi nhà của tôi đầy một năm, đúng một tuổi. Một năm qua trong ngôi nhà chưa phai màu sơn ở cửa sổ, chưa hết mùi vôi ở những bức tường, đã có những điều gì xảy ra?

Mẹ tôi, người đàn bà coi như góa bụa một đời, đã bỏ đi tới một căn nhà khác, và hiện đang có một đời sống khác. Tôi không thể hình dung ra gương mặt người đàn ông mang tới cho mẹ tôi một mùa xuân gần cuối một đời người (Hay thêm một lần khổ đau nữa cho cuối một đời người).

Đứa em gái tôi cũng mới theo chồng khoảng hai tháng.

Rồi những mối tình trôi qua, tan mất như những chiếc bong bóng mưa của tôi, của một người cuối cùng ở lại để nhìn thấy căn nhà không còn ai, chỉ có một mình. Những sự ra đi cho dù ra đi vì một nguyên cớ nào, hình như cũng đều để lại ít nhiều nỗi buồn.

Tôi bắt gặp điều đó nơi thềm cửa, trên những cánh hoa dại nở sau một đêm mưa nơi lối đi trong khoảng sân, ở những bậc thang dẫn lên tầng trên, thấp thoáng một khoảng vườn nhỏ phía sau nhà dưới. Một người tưởng sẽ bỏ đi trước nhất không ngờ là người ở lại sau cùng. Nhiều lúc tôi hơi bâng khuâng nghĩ lại điều đó, nhưng tôi thích ở lại trong một căn nhà vắng, đi về một mình, tắm dẫm trong nỗi buồn của người khác để lại. Bây giờ hình như tôi không còn người thân nào, không khí của gia đình cũng mất. Tôi sống trong căn nhà và căn nhà đó có tôi. Cảm giác chỉ gọn gàng như thế.

Như sáng hôm nay tờ lịch mỏng báo cho tôi biết đã gần hết tháng tám. Nơi cánh cửa sổ nhìn ra một khoảng trời mỗi ngày, tôi cũng có cảm tưởng như đàn chim đang bay kia, báo hiệu một mùa tàn phai.

Tôi rời cánh cửa sổ ra đứng ngoài bao lơn, chậu cúc vàng hôm qua mới nở mấy bông, nay như đã sắp tàn. Tôi nhớ tới đứa bé gái nhà bên cạnh thích có một bông cúc vàng gắn lên mái tóc vừa chấm vai. Tôi mong thấy được đứa bé để hái những bông cúc sắp tàn cho nó. Nhưng cửa nhà bên cạnh đóng kín. Chưa tám giờ, chắc mọi người còn ngủ. Tôi đứng ngắm vu vơ những ngọn cây rất xa trong thành phố, đến một lúc mưa bắt đầu bằng những giọt nhỏ, kéo giăng giăng, mờ mịt những ngọn cây kia. Vừa lúc cánh cửa sổ phòng nhà bên cạnh cũng xịch mở, tôi thấy đứa bé gái ló đầu ra nghiêng mắt nhìn trời. Thấy tôi, cô bé nhoẻn miệng cười, bao lơn nhà cô bé đâu với bao lơn nhà tôi, khoảng cách thật gần. Tôi có thể nói chuyện từ bên này sang cho cô bé nghe. Nhưng cô bé vừa thấy tôi đã hỏi chuyện trước.

- Sao ông dậy sớm thế?

Tôi nhìn đồng hồ mỉm cười:

- Gần tám giờ, tôi không ngủ muộn được.

- Quen rồi sao?

- Ông như con chim kêu sau vườn lúc người ta đang ngủ.

- Chim gì?

- Em không biết tên.

- Trong nhà có ai biết không?

- Chị Truyền chắc biết.

- Sao lại bảo tôi giống con chim, không giống một con gì khác được sao hả?

- Ông muốn giống con gì?

Tôi cười. Cô bé như chồm cả người qua cửa sổ để nghiêng mắt nhìn qua khoảng trời mưa giăng mờ. Tôi đưa tay ra hứng nhũng giọt nước lạnh, những bụi nước tung tóe lên mặt. Cô bé bỗng cười lên:

- Ông cũng giỡn nước nữa sao? Tưởng ông là người lớn rồi chứ.

- Tôi là người lớn.

- Không, Ông chưa là người lớn.

- Nhưng cũng lớn hơn cô bé, được không?

- Cái này thì được.

Tôi cười, hái một bông cúc vàng đưa ra trước mặt nói:

- Cho cô bé cái này.

- Trời ơi sao ông ngắt nó?

- Không sao, nó sắp tàn rồi. Tôi sẽ hái hết cho cô bé cài lên tóc.

- Uổng quá.

- Uổng gì đâu. Không hái rồi nó cũng rụng.

- Thà nó rụng.

Tôi cười:

- Không thích cài hoa lên tóc nữa phải không?

Cô bé nói gần như hốt hoảng:

- Không phải vậy đâu, em thích lắm chứ.

- Vậy bắt bông hoa này.

Tôi ném bông cúc vàng qua cho cô bé. Bông hoa rơi vào khoảng trống giữa những chấn song. Cô bé cười bảo:

- Nó rơi trên bàn học của em.

- Tôi không biết ở đó là cái bàn học. Tưởng chỉ có khung cửa sổ. Cô bé thường ngồi học bài ở đó?

- Dạ. Em thường nhìn thấy ông đi ra đi vào ngoài bao lơn. Nhưng lúc ấy thì em đã đóng cửa sổ.

- Đóng cửa sổ làm sao thấy tôi.

- Em nhìn qua những kẻ hở. Sao những lúc đó ông buồn vậy?

- Sao cô bé biết tôi buồn?

Cô bé chỉ cười. Tôi thấy cô bé cài bông hoa lên tóc. Hình như cô bé đi tới một tấm gương để ngắm mái tóc của mình. Một lúc cô bé trở lại với khung cửa sổ. Tôi bảo:

- Cô bé tên gì, ra ngoài bao lơn nói chuyện phải vui hơn không. Ở trong đó hoài vậy?

- Tên em buồn cười lắm, không đẹp như tên chị Truyền đâu. Ông đừng cười thì em mới dám nói.

- Tôi không dám cười.

- Ông hứa đi.

- Em tên là... Tí Bo.

- Sao vậy? Nhưng cũng dễ thương đấy. Tí Bo, chắc là một cái tên dễ nhớ.

- Tên đó là tên trong nhà gọi thôi cơ. Em đi học có tên khác. Tên là Trâm.

- À Trâm. Tên đẹp.

- Nhưng ông thích tên nào nhất?

- Tôi thích cả hai tên. Nhưng nếu gọi em tôi gọi là Tí Bo.

Cô bé cười:

- Dạ, em thích như thế. Vì trong nhà ai cũng gọi em như vậy cả.

- Nếu thế tôi phải gọi khác đi chứ. Tôi gọi tên thật của em. Trâm. Nhưng mà cái gì Trâm.

- Bảo Trâm.

- Em ra ngoài này nói chuyện vui hơn. Biết mở cửa không?

- Biết chứ. Nhưng em phải đi rửa mặt. Nói chuyện với em bằng gương mặt mới ngủ dậy ông cười chết.

Nói dứt lời, cô bé biếng mất khỏi khung cửa sổ. Mưa bắt đầu nặng hạt và một lúc sau đó, tôi nghe tiếng nước ròn rã, mạnh bạo chảy trong các ống máng trên mái nhà, và nhìn những giọt nước mờ mịt tung tóe trên bao lơn nhà cô bé Bảo Trâm. Lúc này chắc cô đang rửa mặt, đang có cái bàn chải nhỏ trét đầy kem, và những chiếc răng xinh xắn trong miệng. Tôi bắt đầu làm quen với cô bé từ ngày đứa em gái tôi có chồng và những người trong nhà này lần lượt bỏ đi. Tôi thường ra đứng ngoài bao lơn nhìn về một phía thành phố, ngắm những bông cúc vàng nở, và bắt gặp cô bé phía bên kia với một nụ cười. Ngày trước tôi đi khỏi nhà rất sớm và về rất tối. Tôi không hay bên cạnh nhà mình có hai chị em cô bé dễ thương như thế. Tôi đang hình dung ra Truyền. Chắc phải giống Tí Bo.

Cô bé đã trở lên. Gương mặt trắng xanh trong màn mưa giăng ngoài cửa sổ. Tôi nói:

- Mưa lớn quá, cô bé thấy không?

- - Dạ.

- - Mưa buồn quá, cô bé thấy không?

- - Dạ, mưa buồn quá. Chắc hôm nay phải đi học trễ, lạnh lắm.

- - Bây giờ mà còn trễ gì nữa?

- - Em học tám giờ rưỡi cơ. Bây giờ em phải xuống nhà ăn sáng rồi Ba đưa tới trường.

- Ông không đi học sao?

Tôi muốn bật cười khi nghe cô bé hỏi thế. Chắc cô bé sẽ ngạc nhiên vô cùng nếu tôi nói rằng tôi đã thôi học, không còn là học trò như cô bé nữa. Nhưng tôi chỉ cười:

- - Không. Hôm nay tôi không đi học.

- - Thích ghê. Em chỉ ước được ở nhà để nhìn mưa thôi.

- - Trong lớp cô bé nhìn mưa cũng được vậy. Cô bé ngồi gần cửa sổ chứ?

- - Gần. Nhưng đâu có dám nhìn ra ngoài. Cô giáo sẵn sàng cho một cặp trứng vịt vào vở học. Ông có thích ăn trứng vịt không? Trong vở em toàn là trứng vịt. Em học dở lắm.

Tôi nghĩ là cô bé không học dở. Nhưng tôi cũng cười. Cô bỗng nhìn gôi chăm chú rồi hỏi:

- Ủa, ông ở nhà một mình hoài vậy sao?

Tôi ở nhà một mình hoài.

- - Không có bạn chi hết?

- - Có. Nhưng ít ai tới lắm. Tôi thích sống mình tôi.

- - Lúc trước nhà ông có nhiều người mà?

- - Đúng. Bây giờ đã đi hết rồi. Chỉ còn lại mình tôi.

Cô bé chớp mắt:

- - Rồi bao giờ ông đi?

- - Chưa biết.

- - Thôi ông ở đây đi, đừng bỏ đi nữa.

- - Chi vậy?

- - Không thấy ông chắc cái bao lơn bên này buồn lắm.

Tôi sững sờ một lúc. Cố bật lên một tiếng cười:

- - Việc chi cái bao lơn bên ấy phải buồn?

- - Không biết nữa. Nhưng em cảm thấy như vậy.

- - Tôi bỏ đi. Cô bé có buồn như cái bao lơn không?

Cô bé mỉm cười không trả lời. Chỉ nhìn chậu cúc vàng rồi đưa tay ra ngoài hứng mấy giọt mưa. Và cô bé bỗng giật mình hốt hoảng:

- Thôi chết, em phải xuống nhà ăn sáng rồi đi học kẻo trể. Ông có ăn sáng không?

Tôi lắc đầu. Cô bé cười giòn tan:

- - Ông hút thuốc nhiều quá.

Rồi cô bé vụt rời khỏi cửa sổ. Tôi thấy cánh cửa khép lại, bàn tay cô bé nhỏ nhắn như bàn tay con búp bê. Cửa đóng kín, và mưa bên ngoài. Tôi đứng lặng thêm một lúc rồi vào nhà tự làm những công việc quen thuộc buổi sáng. Nhưng tôi bỗng nhiên bỏ ý định làm một bữa ăn sáng ở nhà. Tôi thay nhanh quần áo, khoác áo mưa, dắt xe, khóa cửa ra đường. Tôi thấy hai chị em cô bé vừa bước lên một chiếc xích lô. Rồi tấm bạt che kín lại phía trước. Chắc cô bé không ngờ có tôi đang chạy xe theo phía sau.

Một khoảng đường ngắn. Chiếc xích lô chở chị em cô bé quẹo vào một con đường khác. Tôi chạy thẳng tới quán nước quen thuộc. Mưa làm tóc tôi ướt rũ xuống trán. Quán vẫn còn thưa người. Buổi sáng trước tám giờ hay sớm hơn nữa, những hôm chán một bữa ăn sáng ở nhà do chính mình làm lấy, tôi lại ra ngồi ở quán này. Vào lúc đó quán mới vừa mở cửa, hoặc đôi khi tôi phải chờ. Người hầu bàn là một cô gái bé nhỏ, người Tàu như quen thuộc với tôi lắm. Những hôm như thế cô mở cửa cho tôi vào với môt nụ cười. Cô bỏ tôi ngồi ở chiếc bàn trong góc, nhìn ra ngoài đường phố lớn, rồi cầm tấm gẻ lau cửa kính. Những người hầu bàn khác cũng làm như vậy. Khi công việc thường ngày của họ vào lúc quán mới mở cửa đã xong, cô hầu bàn quen mới đến bàn tôi hỏi uống gì, ăn gì. Và lúc đó bữa sáng của tôi mới bắt đầu theo cái sinh hoạt bắt đầu sống động của quán. Bữa nay tôi tới trễ, nhưng không phải là trễ so với mọi người. Bởi vì sau tám giờ, khách sẽ đến đông nghẹt, ăn uống, nói chuyện nhởn nhơ và nhả khói thuốc. Lúc đó tôi phải đứng lên. Tôi không chịu được không khí ồn ào của quán sau tám giờ. Tôi chỉ yêu cái không gian lúc mới mở cửa quán, ngọn đèn vàng trên tường vừa mới bật lên, hơ ấm cái lạnh từ ngoài đường tràn vào, cái hương lạnh có pha chút hương thơm của cây lá, hoa dại. Tôi ngồi một mình, một góc quán, và nhìn ra hiu hắt một góc đường. Ở đó, cái sinh hoạt của thành phố bắt đầu, những gương mặt, những ánh mắt, những nụ cười còn giữ chút hơi lạnh của đêm vừa tan. Tôi ngồi như thế và chờ giờ rời khỏi quán. Lúc đó thành phố cũng bắt đầu ngợp thở.

Chiếc bàn quen thuộc của tôi vẫn chưa có người ngồi. Tôi tới ngay đó, ngồi xuống. Người hầu bàn tiến tới và bỗng nhiên hỏi ngay một câu không như lệ thường.

- - Mấy hôm nay ông đi đâu sao không thấy tới?

Tôi hơi ngạc nhiên vì câu hỏi bất ngờ này. Bình thường đến đây, tôi chỉ nghe – ông ăn gì, uống gì? Và cô bé im lặng chờ đợi câu trả lời của tôi một cách kiên nhẫn. Tôi cười:

- - Tôi có đi đâu đâu. Vẫn ở đây mà.

- - Sao ông không tới?

- - Đôi lúc trong túi mình cũng hết tiền chứ.

Cô bé tưởng tôi đùa nên cười khúc khích. Tôi gọi thức ăn và nước uống. Tôi nói thêm:

- - Đừng tưởng tôi nói đùa nghe, tôi nói thật đó. Mấy hôm không thấy tôi là tôi hết tiền.

Nhưng cô bé vẫn nghĩ là tôi nói đùa. Cô bước đi mà tiếng cười khúc khích còn lại. Tôi mỉm cười, ngó ra đường phố. Công viên ở trước mặt tôi. Những tán cây cao vút khỏi mái nhà, cỏ xanh vây lấy những lối đi trải sỏi. Tôi chưa hề bước chân vào công viên ấy. Hôm nay chợt tôi nhận ra điều đó với một chút ngạc nhiên. Mưa vẫn còn, nhưng không lớn như lúc tôi mới bước vào quán. Mọi người không cần khoác áo mưa vẫn có thể chạy băng qua đường mà không sợ ướt. Tôi nhìn mưa giăng phía công viên, những giọt nước kéo xuống trên những thân cây vỏ mốc trắng. Giờ này trong công biên không có ai. Ghế đá buồn thiu, những bãi cỏ hiu quạnh và những lối đi như chưa hề có dấu chân người. Tiếng động trên mặt bàn làm tôi quay lại. Cô bé hầu bàn đã mang thức ăn ra. Tôi ngồi ăn và cảm thấy buồn buồn. Lúc tôi uống cà phê thì mưa bên ngoài ngớt hột. Tôi lắng nghe một đoạn nhạc trong quán. Tự nhiên sáng nay tôi nghĩ nhiều về trường hợp của Mẹ tôi. Tôi không hiểu. Tôi lù mù trước một hoàn cảnh và thấy gia đình như một cái gì sắp rã tan, trôi giữa dòng sông mông mênh. Tuổi nhỏ của tôi là một khoảng thời gian luôn làm tôi bàng hoàng mỗi lần nhớ lại. Tôi không hiểu tại sao tôi có đủ can đảm sống tới bây giờ. Trong khi những người bạn thân thiết thường bảo tôi (như là họ không tin) nếu không phải là một người can đảm nhất thế giới, chắc tôi đã tự tử hay trở thành một tay anh chị giang hồ nào rôi. Tôi không dám nhìn lại quãng đời nhỏ bé đó. Tôi không dám nghĩ về nó. Bởi mỗi lần nhớ tới, tôi lại muốn khóc. Ba tôi là một người đàn ông. Mẹ tôi là một người đàn bà, và anh em chúng tôi là những đứa con, trai có, gái có. Giản dị thế thôi sao?

Hôm nay tôi mới nghĩ rằng mình đã thật sự rời bỏ cổng trường. Tôi bỏ học từ bao giờ? Hình như là một khoảng thời gian xa xôi, ở ngoài trí nhớ. Tôi không còn là học trò với sách vở mùa thi. Năm cuối cùng ở Luật tôi thi rớt, và từ đó tôi bước vào đời sống với hai bàn tay trống không.

Đời sống. Đó là nơi cuối cùng đón nhận tôi. Tôi không rời tuổi nhỏ của mình với tâm trạng hoài nghi, cũng như tôi đã lớn lên, sống qua những năm tháng dài với thành phố này như một kẻ vô gia đình. Không một chút gắn bó. Không một chút hy vọng. Tôi đơn độc, tội tình. Mẹ tôi chọn một con đường khác. Ba tôi ở phương trời nào. Em tôi ra khỏi nhà này để tới một ngôi nhà khác. Chỉ còn tôi ở lại nhìn thấy rõ ràng những điều đã vơi đi, đã mất và cuối cùng, đã vĩnh biệt. Ánh nắng bây giờ đã hé lên, xuyên qua phía công biên, lướt trên một vài ngọn cây với màu lá non tươi rói. Tôi thấy quán đã bắt đầu đông khách. Tiếng nhạc bị tiếng nói, tiếng cười lấn át không còn nghe thấy nữa. Tôi gọi người hầu bàn tính tiền rồi bước ra khỏi quán. Con đường trước mặt tôi được che bằng tàn cây rậm lá non. Hơi mưa phủ xuống mát lạnh. Tôi trông thấy hai đứa con gái xách cặp da đi về hướng ngôi trường nữ trung học ở vào một khu phố có nhiều cây và hoa cỏ nhất. Nhìn hai đứa con gái đi học tôi có cảm tưởg mình là một tên lang bạt, nỗi buồn từ đâu ùa về, tôi chợt thèm gõ lại những bước chân rộn ràng xưa trên con đường dẫn vào lớp cũ. Tôi quẹo xe về một con đường khác, tới thẳng chỗ làm. Đó là một tòa báo lớn, phòng làm việc của tôi ở trên lầu ba. Tôi khóa xe và nghĩ tới những bậc thang dài cao ngất sẽ dẫn tôi tới một cái ghế ngồi. Từ đó nhìn qua cửa kiếng tôi có thể thấy lại thành phố qua những mái nhà rêu mốc bám trắng trên màu ngói xưa.

Người bạn làm khác phòng với tôi nhưng quen thân đứng ở cửa cười hỏi:

- - Bữa nay tới trễ?

Tôi gật đầu:

- - Ngồi quán.

- Lúc nãy có hai cô bé tới hỏi. Chờ một lúc rồi bỏ đi. Hình như có để lại cái thư. – Quen không?

- - Chưa thấy bao giờ.

Chỗ làm của tôi không ngày nào mà không có người tới. Nhiều hôm phòng không còn một cái ghế ngồi, tất cả đều phải đứng. tôi không lấy làm lạ chuyện có người tới chờ không được rồi bỏ đi. Vẫn như mọi ngày, vẫn như mọi người. Tôi lững thững đi lên những bậc thang dài. Người đàn bà đang quét dọn phòng thấy tôi bước vào ngẩng lên nói:

- Có người vừa mới tới tìm ông. Họ chờ một lúc rồi ra về.

Tôi gật đầu, tới bàn. Một mảnh giấy nhỏ gấp lại nhét dưới mặt kính bàn viết. Tôi thoáng thấy một nét chữ lạ. Người quét dọn phòng hỏi:

- - Đóng cửa sổ lại không ông?

- - Không. Chưa cần thiết.

- - Phòng dơ quá, tôi quét cả buổi mới sạch.

Tôi cười:

- - Biết làm thế nào được. Chị phải cho tôi xin thêm mấy cái giỏ đửng giấy vụn.

- Mấy cái rồi cũng mất.

- - Tại ở phòng khác họ lấy. chị thấy thì đổi lại giùm tôi.

- - Thư từ gì đâu mà phát khiếp.

Người đàn bà vừa nói vừa cười và bước ra khỏi phòng. Ngày nào cũng vậy, trước khi bắt đầu công việc của mình, tôi cũng đều nghe chị than phiền một chút về công biệc của chị. Có lẽ chị cũng nói để mà nói thế thôi chứ chị biết hơn ai hết rằng tôi chẳng dính dáng gì ngoài chuyện mấy cái giỏ rác giấy vụn ở phòng tôi luôn luôn biến mất. Bây giờ mỗi buổi chị phải thanh toán hàng lô giấy vụn, bì thư bỏ bừa bãi trong phòng. Tôi mỉm cười nhìn quanh, căn phòng lại được dọn sạch sẽ để chuẩn bị cho một ngày mới.

Những cánh cửa sổ mở ra một không gian đầy nắng. Cơn mưa biến mất không để lại chút dấu vết nào. Tôi ngồi xuống chiếc ghế rộng, rút mảnh giấy chèn dưới mặt kính ra xem. Một bức thư ngắn.

“Chú,

Cháu ở Đà Lạt về nghỉ hè ở Sài Gòn sau khi thi xong. Tìm chú bao nhiêu lần rồi mà không gặp. Xui ghê. Hôm nay đến, lại không gặp nữa. Tìm chú khó quá. Bây giờ nhờ nhỏ Thanh Chi nhắc, cháu mới để lại giấy này cho chú biết. Vậy chú rảnh vui lòng ghé lại địa chỉ: 040F đường Tú Xương gặp cháu. Hoặc gọi điện thoại cho cháu số 40205.

Thân kính

Tường Vân

TB: Mai mốt cháu về rồi. Chắc cháu rớt quá chú ơi.”

Bức thư làm tôi ngạc nhiên không ít. Và những dòng chữ hồn nhiên nhỏ bé như thế cũng làm tôi nghĩ ngợi. Tôi nhìn chiếc máy điện thoại ở trước mặt, có nên gọi đến số đó hay không? Tường Vân là một cô bé hoàn toàn xa lạ đối với tôi, chỉ biết nhau bằng một ngày của tháng 12 năm nào tình cờ tôi tới thành phố đó, ghé nhà mà không gặp. Về lại Sài Gòn tôi cũng quên mất, cô bé đang ở Sài Gòn, trong một ngôi nhà nào đó. Chắc là cũng xinh xắn như ngôi nhà của cô bé ở Đà Lạt. Chiều nay tôi quyết định tới tìm cô bé vừa mới thi tú tài xong, trách cô bé một trận về một ngày xa xôi của tháng 12 năm nào.