ĐỌC MARGUERITE DURAS

Bảy năm trước đây, năm 1985, nhân một chuyến đi Paris, tôi có mua ở một tiệm sách kiệu Saint Michel cuốn L'Amant của nhà văn Pháp ra đời ở Việt Nam, Marguerite Duras. Nhớ năm đó cuốn sách vừa được nhà Editions de Minuit xuất bản đã tức khắc gây chấn động lớn, vùn vụt đạt tới số bán kỷ lục, đứng hàng đầu những cuốn best-sellers cùng một mùa sách, sau đó được trao tặng giải thưởng Goncourt, với Marguerite Duras là một trường hợp vô cùng đặc biệt, gần như chưa từng có trong lịch sử giải thưởng văn chương danh tiếng này. Vì chủ trương của Goncourt là chỉ tìm trao tặng cho một tài viết mới, về một tác phẩm đầu, như một khám phá mới. Tài viết đạt tới tột đỉnh khi đó ở "lão bà" Marguerite Duras, với kiệt tác L'Amant, đã cho cả một thế hệ những nhà văn mới của văn chương tiểu thuyết Pháp "đi chỗ khác chơi". Và đã tạo bà thành một ngoại lệ không tiền khoáng hậu.

Tôi đọc L'Amant trên chuyến bay trở về. Rồi quên đi. Cuốn sách cũng bỏ mất đâu đó. Một phần vì những cái đọc thích hợp với đường xa ở tôi, và để quên lãng đường dài, thường là loại truyện gay cấn, hồi hộp, căng thẳng. Như tiểu thuyết giả tưởng của Robert Ludlum hoặc gián điệp của John Le Carré. Mà cõi văn bác học, trí tuệ, với một nghệ thuật xử dụng từ ngữ độc đáo và bậc thầy của Duras thì không phải vậy mà trái lại. Nó đòi hỏi một cái đọc thông minh và có suy nghĩ, để lĩnh hội được cái hay ở từng giòng, từng chữ, với điều mà những nhà phê bình thán phục và nói đến trước nhấ ở Duras là bút pháp, là cách viến của Duras.

Bây giờ đọc lại L'Amant, vẩn nguyên bản chữ Pháp, Kiều Chinh cho mượn, Kiều Chinh vừa sang Paris đầu năm nay và cũng mua cuốn sách ở một tiệm sách khu Saint Michel như tôi, tôi vào được với tiểu thuyết hơn lần đọc đầu. Vì cái đọc lại kỹ lưỡng hơn. Tuy vậy tôi nghĩ văn chương tiểu thuyết của Duras vẫn còn nhiều điểm tinh lọc nằm tiềm ẩn và vô hình giữa hai hàng chữ, gọi đó là những "vùng im lặng" ghê gớm của ngôn ngữ Duras mà tôi chưa thấy được hết. Ðể có đủ tư cách và thẩm quyền nói về bà, như một nhà văn nói về một nhà văn. Nên chỉ có thể có ít điều khiêm nhượng và khái quát về Duras. Như một người đọc Duras bình thường và còn đang tìm đọc.

Quy định tầm vóc và kích thước Marguerite Duras, đặt trong số những tác giả lớn của thời hiện đại, những sử gia văn học thường nói tới trước hết hai điểm hơn người của Duras. Một là trong ngót 50 năm ngồi trước bàn việt, bằng một thể lực sáng tác tươi tốt và sung mãn ở ngoài mọi tưởng tượng, từ truyện dài thứ nhất Les Imprudents xuất bản năm 1930 đền cuốn La Douleur mới đây nhất (cũng là một best-seller) năm 1985 và sau L'Amant, Duras đã là tác giả của một số lượng tác phẩm vĩ đại như hiếm có một nhà văn cùng thời với bà có được: trên 50 tác phẩm. Tính đổ đồng, mỗi năm Duras một cuốn sách Duras. Văn chương nữ giới Pháp cũng có những tài năng hiển lộng lâu dài với những tác phẩm số nhiều. Như Simone de Beauvoir, Francoise Mallet Jorris. Như Francoise Sagan, Nathalie Sarraute. Nhưng so sánh, không ai bằng được Duras. Qua hình ảnh một giòng sông đầy ắp và chảy xiết, chảy xiết không ngừng, người ta thấy cái vóc dáng trái núi của Duras, một nhà văn, bằng đời sống và văn chương mình, đã sống nóng bỏng và tận cùng với thời đai mình. Như bây giờ đã 78 tuổi và là bạn thân của Tổng Thống Pháp đương nhiệm Francois Mitterrand, bà vẫn còn đang sống bằng một thế sống rất mạnh mẽ, cái thế sống của một trái núi. Vị lão bà này hết xảy thật. Với những thế kiếm, mà kiệt tác L'Amant là một bằng chứng, càng tới cuối đời càng lấp lánh. Và như thế, trong tư thế độc lập nhất của một nhà văn độc lập.

Ðiểm hơn người thứ hai, còn đáng thán phục gấp bội điểm thứ nhất, là tài năng ở Marguerite Duras không chỉ đóng khung trong một lãnh vực duy nhất, thí dụ lãnh vực tiểu thuyết. Mà là một tài năng tổng hợp, đa dạng, với những hiển lộng cùng tốt đẹp như nhau trên nhiều địa hạt văn học nghệ thuật khác biệt. Như một con đường, một giòng sông tự nhân lên và tự phân chia được tới nhiều phương hướng. Nói cách khác, như những lấp lánh nhiều mặt của một hạt kim cương. Văn học nghệ thuật có ba lãnh vực chính. Là tiểu thuyết, sân khấu và điện ảnh. Cả ba lãnh vực này, với Duras và chỉ thấy ở Duras, không có một ranh giới, một phân biệt nào hết. Không có một sở đoản nào hết mà cùng là một sở trường. Do nơi nếu tiểu thuyết có một ngôn ngữ là kỹ thuật riêng, và điện ảnh, sân khấu cũng vậy, thì Duras, như một trường hợp hy hữu, đã có được với bà cả ba ngôn ngữ và kỹ thuật ấy, chúng hòa hợp ở bà thành một ngôn ngữ và kỹ thuật chung và pháp huy tài năng bà thành một tài năng muôn mặt. Khiến bà là một tiểu thuyết gia đại tài còn là một kịch tác gia, một điện ảnh gia lỗi lạc, không chỉ viết tiểu thuyết mà còn viết kịch, dựng kịch, viết truyện phim và dựng tiểu thuyết thành phim.

Ðọc bản liệt kê toàn bộ tác phẩm của Duras, với những ghi chú tường tận về từng thể loại, ta thấy rất rõ sự đa dạng ấy. Như Un Barrage Contre le Pacifique, năm 1950, Moderato Cantabile, hai tiểu thuyết của bà cũng do chính bà chuyển thành phim truyện. Như Hiroshima mon Amour, năm 1960, viết thẳng thành truyện phim và đối thoại. Nhiều tác phẩm điện ảnh khác nữa mà tác giả và người thực hiện cùng là Dura. Như India Song, năm 1973, Le Camion, năm 1977, Les Mains Négatives, năm 1979, vân vân. Mở một dấu ngoặc: Un Barrage Contre le Pacifique, Moderato Cantabile là Hiroshima mon Amour đã được đánh giá như những kiệt tác điện ảnh của thế kỷ này. Còn về kịch nghệ, cũng rất phong phú, là những vở L'Amante Anglaise, năm 1968, L'Eden Cinéma, năm 1977, La Bête danh la Jungle, La Danse de la Mort năm 1984, vân vân.

Tất cả, cùng một dấu ấn Duras. Từ một tài năng tổng hợp rực rỡ thể hiện trên nhiều lãnh vực và chỉ thấy ở Duras, như đã nói ở trên.

Ở mấy giòng mở đầu nói về cuốn La Douleur, viết dưới thể nhật ký, thời kỳ nước Pháp thua trận và bị phát-xít Ðức chiếm đóng, Marguerite Duras tiết lộ rằng tập bản thảo bà chỉ tình cờ thấy lại trong hộc tủ một chỗ ở cũ rất nhiều năm sau, bà kinh ngạc về tập nhật ký viết rồi quên đi, quên hẳn, không mảy may nhớ tới là có nó nếu không có sự tình cờ. Và đọc lại, bà không thể nào hiểu được cái tại sao và cái bởi đâu của những điều do chính tay bà đã viết ra: "Nhật ký ấy tôi viến nó lúc nào, năm tháng nào, vào những giờ giấc nào của ngày, trong căn nhà nào, tôi hoàn toàn không nhớ được gì hết."

Cuốn L'Amant, như một ngược đường trở về một thời gian và một không gian xa thẳm, thời gian ấy là 60, 70 năm về trước, không gian ấy là một vùng trời đất Việt Nam, vừa là nơi chốn ra đời vừa là cửa ngõ vào đời, không phải là một bản thảo nhiều năm sau mới tình cờ thấy lại và bằng một trí nhớ đã bị bôi xóa đến tận cùng như thế. Trái lại. Và tại sao? Tại vì cái xứ sở thuộc địa cũ của "mẫu quốc" Pháp là Le Cochinchine, là miền Nam Việt Nam, tuy đã khuất cách nghìn trùng là không bao giờ trở lại đã có một tầm quan trọng và gắn bó rất lớn lao đối với Duras, không chỉ với tình cảm và nội tâm bà mà còn với văn chương bà nữa. Như Việt Nam đã từng được đề cập tới ở Un Barrage Contre le Pacifique, Le Vice Consul, Eden Cinéma. Tới L'Amant thì hoàn toàn và trọn vẹn hơn, bởi đã là khung cảnh cho truyện từ trang đầu đến trang cuối, như không phải là người con gái Pháp và chàng thanh niên gốc Hoa, mà Việt Nam mới là nhân vật chính. "Tôi không thể giải thích được rõ rệt tại sao, chỉ cảm thất nơi chốn chào đời ấy, với tuổi nhỏ và tuổi trẻ tôi ở đó, càng về cuối đời càng trở thành một hiện tại sáng rỡ trong tôi, như đó là bản mệnh tôi, như chính phần đời xa thẳm ấy tạo ra tất cả những phần đời của tôi sau nó. Và điều lạ lùng, cuốn sách này còn như một chiếu sáng, một cắt nghĩa cho tất cả những cuốn sách tôi đã viến ra. "Marguerite Duras đã trả lời tuần báo Pháp Le Nouvel Observateur như vậy khi bà được phỏng vấn về cuốn L'Amant.

Và chúng ta đã hiểu tại sao L'Amant là một trong mấy tác phẩm chủ yếu nhất của văn nghiệp Duras. Riêng với người đọc Việt Nam chúng ta, cùng được có chung với bà một vùng trời sinh trưởng, tôi nghĩ L'Amant là tác phẩm phải tìm đọc nhất. Do vậy, tôi rất tán đồng cơ sở xuất bản Hồng Lĩnh đã chuyển ngữ kiệt tác này của Duras sang tiếng Việt. Với bản dịch nghiêm chỉnh và trong sáng của Phạm Việt Cường.

MAI THẢO