Chương 1

Nàng công chúa gỗ đàn hương

Một tác phẩm của

Loretta Chase

Giải thưởng Romance Writer of American Award for Best Regency năm 1990

***

“Tôi thấy rằng tán tỉnh đúng là bệnh của anh, anh Brentick, nhưng anh phải cố gắng chứng tỏ với người có khả năng ấy. Nếu tôi là đàn ông, anh sẽ không cố tán tỉnh tôi chứ? Sao không giả vờ tôi là đàn ông.

Anh nhìn cô một lúc, rồi phá lên cười. “Nhiệm vụ cô đề nghị, cô Cavencourt, là không thể được.”

“Thế thì anh cứ tán tỉnh một mình đi.”

“Cô không biết là cô khiêu gợi à?” anh hỏi, giọng anh nhỏ, rối tung.

Hoảng sợ, Amanda quay phắt đi. Đó là một sai lầm. Cô chỉ còn cách ngực anh ta vài inch. Tia nhìn của cô chiếu vào mặt anh “Anh đang làm gì thế?” cô hỏi.

“Tán tỉnh. Một mình. Tôi đang cố giả vờ cô là đàn ông.” Mặt anh nghiêng gần hơn. “Tôi đang cố gắng nhớ ra vị trí của mình.” Đôi tay anh nhấn xuống lan can hai bên cô. “Nó không được rồi,” anh thì thầm, hơi thở ấm áp phả trên gương mặt cô khi miệng anh áp xuống miệng cô.

***

Dành tặng Walter, chồng tôi

***

Mở đầu

1811

Mặc cho ngôi nhà Hemu đang rất lo lắng bồn chồn đi vào đẹp hơn bất cứ thứ gì anh ước muốn, nhưng thoạt đầu nó có vẻ quá khiêm tốn cho một phụ nữ đầy quyền lực sống ở đó. Nhưng có lẽ nơi ẩn dật ấy lại hợp với Rani Simhi. Bà là nàng công chúa bí ẩn. Ngay cả tên thật của bà giờ cũng không ai nhắc tới nữa. Sư tử cái vĩ đại, người đàn bà nguy hiểm nhất Ấn Độ, sống đúng tại nơi bà chọn. Vậy nên người đưa tin hèn mọn Hemu của bà cứ đứng trầm ngâm suy nghĩ, đầu cúi xuống, kiên nhẫn chờ đợi ý chỉ. (Rani: công chúa)

Những khoảnh khắc trôi qua. Gã đầy tớ to lớn giữ chiếc quạt đu đưa một cách uể oải qua đầu bà, và khói từ chiếc tẩu của bà cuộn lại rồi run rẩy theo những làn biếng nhác.

Cuối cùng bà nói. “Ngươi mang tin đến cho ta à, Hemu.”

“Vâng, thưa công chúa.”

Bà ra hiệu cho anh ta nói. “Ông chủ của tôi hai ngày trước đã viết một lá thư cho bạn ông tại nước Anh,” Hemu nói. “Ông chủ muốn bày tỏ sự đau buồn khi người vợ bạn ông ấy không còn.”

Rani giơ ngón tay trỏ lên khoảng một inch. Ngay lập tức mọi người hầu biến khỏi căn phòng, chỉ còn lại gã đàn ông to lớn vụng về vẫn tiếp tục phe phẩy chiếc quạt trong bầu không khí nặng nề.

“Đó là cái tên ta đã đưa ngươi phải không?” bà hỏi Hemu.

Anh ta đưa ra một mẩu giấy mà anh đã tỉ mẩn sao chép những chữ cái tiếng Anh: Hedgrave.

Công chúa liếc nhìn mẩu giấy, và rồi nhìn lên người hầu của mình.

“Đây là một gã đàn ông thông minh, Padji,” bà nói “Chúng ta sẽ cho hắn năm trăm ru pi.”

Hàm Hemu rớt xuống,

“Ngươi thấy lợi ích của việc biết chữ rồi đấy,” bà nói với người đưa tin. “Giờ ngươi thành giàu có rồi. Ta khuyên ngươi nên rời bỏ ông chủ mình.”

Khi bà nói, chiếc quạt ngừng chuyển động. Padji rút ra một túi đồng tiền và đưa nó cho Hemu đang choáng váng.

Hemu rời đi, dâng những lời cầu nguyện đầy kích động lên vị công chúa thông thái và hào phóng mà anh ta cầu nguyện sẽ sống mãi tới một nghìn nghìn năm nữa. Khi tiếng bước chân anh ta tắt dần, rani đứng dậy.

“Padji,” bà nói, “ta đi Calcutta.”

1814

Tại nước Anh, trong phòng làm việc chật ních đồ đạc của Nhà Hedgrave, vị hầu tước Hedgrave giận run người. “Tôi thật không thể hiểu nổi,” ông nổi cơn thịnh nộ. “Cuối cùng mụ quỷ cái đó cũng ra khỏi chỗ nấp, và anh nói với tôi là không thể chạm tới mụ.”

“Về mặt mưu mẹo, cách tính toán thời gian của mụ ta hoàn hảo như mọi khi,” quý ngài Danbridge đáp lời. “Ranjiit Singh sẽ phải đầu hàng, sớm hay muộn, và hắn ta cũng chẳng tử tế gì mà không bán các đồng minh của mình. Mụ ta đủ khôn ngoan để chuyển đi trước khi hắn làm điều đó. Mụ biết Bengal sẽ an toàn cho mụ hơn Punjab rất nhiều, đặc biệt là với sự bảo vệ của bọn Công ty. Chắc chắn thế. Tôi phải công nhận. Dù anh nghĩ gì về mụ thì Rani Simhi cũng là vô giá. Bộ có thể làm việc tốt với vài bộ óc như vậy. Sao chứ, do thám của mụ- ”

“Tôi biết. Cả cái tiểu lục địa chết tiệt này bị phá hoại cùng với họ.” Hầu tước Hedgrave đứng dậy và hùng dũng tiến tới lò sưởi. Nhìn chăm chú vào những ngọn lửa, ông nói, nửa như với chính mình, “Tôi đã bảo chúng trả mụ ta hai mươi lăm ngàn. Đó là tiền của tôi, con mụ đáng nguyền rủa, nhưng tôi sẵn lòng trả. Lẽ ra tôi phải biết điều đó chẳng ăn thua gì. Mụ ta biết ai cần nó. Còn ai khác biết mụ có nó ngoài gã đàn ông mụ ta thó được chứ?”

Hedgrave luôn luôn bận tâm đến người đàn bà Ấn Độ ấy, bạn ông nghĩ. Song trong những năm tháng sau cái chết của phu nhân Hedgrave, điều đó lại càng trở nên ám ảnh. Che giấu sự quan tâm của mình, quý ngài Danbridge nhẹ nhàng nói, “Có lẽ mụ ta không giữ nó lâu hơn được đâu. Đã quá lâu rồi.”

“Thế mụ ta giấu gì chứ?” ông chủ nhà nạt lại. “Chính anh đã gửi tin. Sáu điệp viên khác được giao nhiệm vụ. Ba tên giờ thành vô dụng, hai tên mất tích bí ẩn, một tên ngỏm.”

“Ấn Độ có thể là một nơi nguy hiểm.”

“Chính thế.” Hầu tước Hedgrave quay đầu lại với vị khách. “Đó là lý do tại sao tôi muốn anh liên hệ với Chim ưng”

Khi Danbridge mở miệng định phản đối, hầu tước lắc đầu. “Tôi biết anh định nói gì, Danbridge. Đừng phí sức. Tôi vô tình hay rằng hắn sẽ làm việc cho ta.”

“Tôi chỉ muốn chỉ ra rằng đó không phải là dạng công việc hắn ta thường thực hiện.”

“Hắn sẽ thực hiện mọi thứ, khi phần thưởng đủ lớn. Anh có thể trả hắn năm mươi nghìn bảng – thêm, tất nhiên rồi, cho phí tổn. Hắn sẽ có tiền ngay khi hắn đặt vật đó vào trong tay tôi.”

“Ở đây hả?” Danbridge hoài nghi hỏi. “Anh muốn hắn tới nước Anh sao?”

“Vào trong tay tôi. Chúng ta đã cách Calcutta và mụ đàn bà cực kỳ ranh mãnh ấy một quãng xa rồi. Sai sót dọc đường đi sẽ là quá mức chịu đựng. Tôi sẽ không để cho anh ta đưa vật đó cho ai. Anh ta sẽ lấy nó – Tôi không quan tâm bằng cách nào – và đặt vào trong tay tôi,” ông lặp lại, như thể nó là một câu niệm chú vậy. Đôi mắt xanh của ông lấp lánh một tia sáng lạ.

Quý ngài Danbridge quay đầu khó nhọc khi ông cân nhắc yêu cầu của bạn mình. Rõ ràng khi Hedgrave được yêu cầu thì ông ta sẵn sàng dời non lấp bể. Đối đầu với Ấn Độ - mà nói thẳng ra – Công ty Đông Ấn – đúng là một trường hợp dời non: Ban quản lý, Ủy ban Bí mật, Chỉ huy, Hội đồng, Toàn quyền, Văn phòng chính phủ lại còn chưa kể tới Quốc hội nữa. Rất nhiều gã đàn ông cứng đầu, song cực kỳ ít người thực sự đánh giá được sự giàu có của tiểu lục địa bao la mà nước Anh giờ miễn cưỡng quản chế, nhờ công Clive, Wellesley và đồng sự.

Ngoại trừ trong vấn đề rối rắm này, ít ra Hedgrave cũng thờ ơ hành động. Ông là một trong những người thực sự nắm bắt được những khó khăn của việc lơi là chuyện nội bộ tại Ấn Độ và cô gắng thâu nhận những đề nghị mâu thuẫn từ nước Anh và từ đất nước Ấn Độ đa văn hóa.

Để ý tới những nhân công được đối xử hào phóng của Hedgrave, người ta hiếm có thể đáp lại ông bằng sự ghen tị.

Người đàn bà Ấn Độ rõ ràng đã đánh cắp của ông một vật có giá trị đáng kể. Giờ thì mụ ta đang lẩn trốn. Hedgrave muốn lấy lại nó. Với những thất bại lúc trước, giờ Chim ưng là niềm hi vọng duy nhất của họ. Trong bất cứ trường hợp nào, hắn là người đàn ông duy nhất mà Danbridge có thể tin rằng sẽ không bị giết chết trong lúc hành động.

Quý ngài Danbridge bắt gặp tia nhìn màu xanh bồn chồn. “Tôi sẽ liên hệ với hắn,” ông nói, “nhưng sẽ mất một thời gian.”

“Tôi đã đợi ba mươi năm,” tiếng trả lời căng thẳng. “Tôi có thể đợi.”

***

1816

Có nhưng nơi tệ hơn và cũng có nơi tốt hơn để sống ở Calcutta. Trong khu phố đông đúc này, như những nơi khác, những con đường bị ngập lụt bởi gió mùa và giá tiền thuê kiệu đội lên như một hậu quả tất yếu. Bệnh sốt cũng bùng phát ở đây như chúng từng ở những cung điện lớn ở Garden Reach và trong các khu ổ chuột tồi tàn.

Mùi hôi thối bốc lên, cả Calcutta cũng hôi thối. Trong nhà, mùi bơ sữa trâu trộn lẫn đầy kinh tởm với mùi nồng nặc của ruồi nhặng. Ngoài cửa, mùi xác chết hôi thối lấn áp mùi hôi của động vật và rác rưởi khi khói từ những giàn thiêu bên bờ sông Hooghly quây đặc bầu không nóng như thiêu đốt. Mùi hương trầm càng làm nặng nề thêm chướng khí. Trong cái nóng gần một trăm độ (Fahrenheit) giữa trưa, những hỗn hợp đầy khó chịu ấy đông đặc và quánh lại như nồi thuốc chế của lão phù thủy độc ác. Tất cả hương liệu xứ Ả rập cũng không làm dịu nổi nơi này và khiến nó sạch sẽ trở lại như đã từng.

Mọi nơi ở Ấn Độ đều không giống Calcutta, Philip biết thế. Những địa danh tồn tại nơi những ngọn gió lành thổi ngọt ngào và trong lành. Song đã lâu rồi anh học được cách khép lại các giác quan trước những gì không thể chắp vá hay cải thiện nổi. Mười lăm năm ở Ấn Độ đã dạy anh nếu không phải là đức tính kiên nhẫn kiểu phương đông thì cũng đủ là chủ nghĩa khắc kỷ phương tây. Khí hậu, mùi hôi thối quá mức chịu đựng của anh. Do vậy anh chỉ đơn giản chấp nhận chúng. Mà theo những người hàng xóm, thừa nhận đi, người sẽ sống xa hoa hơn nhưng mặt khác cũng không đến mức nặc danh.

Anh thuê một ngôi nhà thôn dã kiểu stucco cho phù hợp với vai người lái buôn tẩu hiện tại. Trong khu phố bận rộn nay, việc đến và đi của anh không gây nhiều sự chú ý. Ngôn ngữ mệnh lệnh cũng như các nghi thức xã giao của anh là không phải luật. Ánh mặt trời dữ dội của Ấn Độ đã làm da anh sậm màu, và việc sử dụng dầu hạt phỉ cũng gây tác dụng tương tự lên mớ tóc vàng của anh. Ngay cả màu mắt xanh cũng không tiết lộ anh. Rất hiếm người lai Âu Á ở vùng đất này.

Người thành lập Calcutta, một người Anh tên Job Charnock đã kết hôn với một tiểu thư Bà la môn. Giống như Job những người Anh đến vào thời kỳ đầu cũng tự do kết hợp với người bản địa. Người ta thấy con cháu của họ không chỉ trên khắp tiểu lục địa mà cả Eton và Oxford.

Do vậy Philip Astonley, con trai út của tử tước Felkoner – dòng dõi quý tộc Anh rõ rành rành – dễ dàng vào Ấn Độ như một người con lai. Theo quan điểm của Philip, đó không phải là sự giả trang ghê gớm gì. Trong quá trình tống tiễn người con trai út ra khỏi gia đình, ngài tử tước đã gọi cậu bé mười tám tuổi là đồ du thử du thực vô ơn. Philip nhận ra sự khác biệt rất nhỏ giữa Không tên tuổi và Nặc danh. Dù theo cách nào thì nếu giờ anh thôi vô danh cũng coi như anh sắp thôi sống.

Ý nghĩ đó không phải là một ý nghĩ vẩn vơ. Khi anh rẽ vào một con phố hẹp, bản năng nắm bắt tinh tế của anh bỗng rung lên báo động. Con phố vắng vẻ như thường thấy trong một buổi chiều nóng nực khi gần như cả Calcutta đều ngủ vùi. Nhưng anh bắt gặp một chuyển động, một bóng thoáng qua ở phía đằng cuối kia của con phố lát gạch. Bước chân anh nhanh dần.

Tay anh đã cầm sẵn chìa khóa nhà khi với tới cửa. Trước khi mở, Philip liếc nhìn lần nữa. Con phố vẫn vắng vẻ và yên lặng. Trong khắc tiếp theo, anh trượt vào nhà và khóa cửa lại phía sau. Căn nhà nhỏ được lắp cửa chớp che ánh mặt trời tối tăm nhưng lại không đi cùng với yên tĩnh. Từ căn phòng phía trên có một tiếng rên rỉ nghèn nghẹt. Im lặng. Rồi một tiếng rên, cao hơn.

Philip rút dao ra và bò êm thấm lên phòng ngủ. Một tiếng kêu đau đớn xé toạc sự yên lặng, và anh thấy một người đàn ông trên sàn nhà bên giường co giật dữ dội. Lẩm bẩn một câu chửi thề, Philip vội tiến lên và quỳ gối bên cạnh thân hình người hầu đang thắt lại.

Khuôn mặt hắn ta vừa nóng vừa đẫm mồ hôi, mạch đập dữ dội. Ngay khi Philip chạm vào, Jessup co giật rời rạc và bắt đầu lảm nhảm. Những lời nói nửa tiếng Anh nửa tiếng Hin tuôn ra thành một dòng huyên thuyên đều đều, chấm ngắt ở những tiếng kêu nghèn nghẹn đầy thống khổ. Nó giống như bệnh sốt, nhưng không phải.

“Đồ chết tiệt,” Philip gào lên. “Đừng có chết trên tay ta, chiến binh.”

Túm lấy người hầu dưới vai, Philip kéo hắn ta lên giường. Thân hình đó lại quằn quại và run rẩy, rồi thắt lại lần nữa trong đau đớn. Lời cầu nguyện đầy kích động của – những bọ cạp, những rắn hổ mang, những đoạn Sách Kinh Giáo Dân, những khúc chiến đấu, những tên phụ nữ, những lời thề nguyền – bị vỡ vụn chỉ bởi tiếng khóc đau đớn đang nghẹn lại.

Hiển nhiên là chất độc đang kích hoạt từ từ, mang lại ảo giác cũng như đau đớn. Do không biết chính xác loại chất độc, Philip không dám đưa cho người hầu thứ gì, ngay cả nước uống.

Anh bóp tay Jessup. “Ta sẽ để ông lại một phút, ông già,” anh thì thầm. “Ta đi nhờ giúp đỡ. Hãy đợi nhé, được không? Hãy đợi.”

Bà già Philip tìm kiếm sống bên kia đường. Thầm cầu mong bà ta ở nhà, anh đẩy tung cánh cửa.

Anh thấy bà ta đang đợi bên ngưỡng cửa nhà mình.

Anh không hoàn toàn ngạc nhiên. Sharda già cả là thầy thuốc và bà đỡ trong vùng. Rất có thể bà ta ngửi thấy bệnh tật và chết chóc.

“Người hầu của tôi, mẹ à -” anh bắt đầu.

“Ta biết,” bà nói. “Anh có rắc rối to đấy, Dilip sahip.”

Sahib? Dẫu Philip cúi đầu tôn kính khi bà ta bước vào, đôi mắt anh vẫn nheo lại nghi ngờ

“Jasu -” anh lại bắt đầu.

Bà ra hiệu cho anh im lặng. “Ta biết,” bà nói.

Trong căn phòng trên, Jessup la hét rồi lại chìm trong lảm nhảm điên cuồng. Cái sau này tệ hơn la hét. Philip nghiến răng. Đó là tất cả những gì anh có thể làm để lôi bà già tới giường bệnh. Tuy nhiên, bà ta có những cách riêng.

Anh thấy cái nhìn của bà chiếu lên mình.

“Ta sẽ đi xem hắn,” bà nói. “Hãy kiên nhẫn.”

Bà xem xét kỹ lưỡng cái không gian nhỏ với bếp, phòng khách và phòng ăn. Một đĩa bánh ngọt ở trên bàn. Bà lấy một chiếc, bẻ làm đôi, nhìn chăm chú vào cái quả ở giữa, rồi hít ngửi nó.

“Quả vả, anh thấy đấy,” bà nói, chỉ tay vào phần hột màu sẫm. “Để thêm vào một loại hạt khác không phải là khó, và ta nghĩ bột bị nhiễm độc rồi. Ông ta có những ảo giác kinh khủng phải không?”

“Vâng,” Philip nói thẳng thắn, “và đau đớn nữa. Nhưng tôi đã ngần ngại đưa cho ông ta bất cứ thứ gì.”

“Thuốc phiện, chúng ta có thể đưa cho ông ta giảm đau,” bà nói. “Cái khác thì phải kê đơn, ta e là thế.” Việc kiểm tra của bà đã xác nhận chẩn đoán sơ bộ. Do vậy bà ước lượng một lượng cồn thuốc phiện Philip đưa cho. Sau một khoảng thời gian dường như vô tận, Jessup bắt đầu yên lặng phần nào. Ông ta vẫn lảm nhảm, nhưng giống một gã say rượu hơn, và cơn đau cùng những tiếng kêu nghẹn đã dừng. Có lẽ ông ta sẽ ngủ, Sharda bảo Philip. Dù thế nào chăng nữa, người hầu cũng sẽ không chết cho dù ông ta ước thế. Ông ta có thể còn lâu mới hồi phục và rất đau đớn.

“Một hỗn hợp phức tạp, vừa mang đến điên loạn lại đau đớn điên cuồng,” Sharda nói khi họ rời khỏi phòng bệnh, “và không có cái chết giải thoát. Nhưng nó không định dùng để giết ông ta.” Bà vỗ cánh tay anh một cách buồn bã nhưng ân cần. “Chỉ là để gây ra sự chịu đựng vô cùng, để cho anh biết được sự cảnh cáo.”

Anh biết, sao lại không chứ? Anh đã cảm thấy nó khi đi vào con phố và thấy nó trong bóng đen chợt biến mất kia.

Trong lúc bà già kiểm tra Jessup, Philip lấy nước ra đun. Giờ thì anh lịch sự mời trà và chờ đợi cho đến khi bà sẵn sàng khai sáng cho anh.

Bà nhấp trà và gật đầu phê chuẩn. Rồi bà nhìn anh.

“Lúc trước, có người đàn ông mang cho ta một mẩu tin,” bà nói. “Ta phải nói với người lái buôn mắt xanh là hắn đã bị phát hiện cũng như ý định của hắn. Và vì vậy, hắn sẽ chết nếu không rời khỏi Calcutta trước khi một ngày nữa trôi qua.”

Không chỉ biết, mà còn hay cả nhiệm vụ của anh nữa. Trời đất, mụ đàn bà quả là phi thường. “Thế cái này, tôi hiểu” Philip điềm tĩnh nói, gật đầu về phía phòng bệnh, “là thứ mà tôi sẽ đón nhận à?”

“Anh biết chúng ta nói đến ai. Cái chết sẽ đến với anh từ từ, chỉ sau sự chịu đựng của Jasu nhiều lần. Đi đi, như anh được bảo đấy, và sống.”

Philip Astonley không phải là một gã đàn ông khinh suất. Anh chưa bao giờ đánh giá thấp đối thủ. Nếu như Rani Simhi nói bà ta sẽ giết anh, bà ta sẽ làm, và đương nhiên, theo cách kinh khiếp nhất mà trí tưởng tượng độc ác của bà ta có thể nghĩ ra. Anh biết bà ta sẽ phát giác ra sự trá hình của anh sớm hay muộn. Anh chỉ không mơ rằng chuyện này lại xảy ra sớm đến thế. Nó như thế nào chứ? Ít hơn bốn mươi tám giờ. Anh vẫn phải chuẩn bị. Jessup sai lầm của anh đang nằm trong phòng trên, điên loạn vì đau đớn và ảo giác.

Anh lại bắt gặp cái nhìn lo lắng của Sharda. “Tôi sẽ lưu ý lời cảnh cáo,” anh nói.

Mấy phút sau, cháu trai của bà, Hari, chạy đi với mẩu tin cho Fort William. Hai giờ sau, Hari quay lại với Ngài Randall Groves. Ba người hầu và hai chiếc kiệu theo sau.

Mọi cánh cửa sổ và cửa chính trong phố đều nhanh chóng kín đặc những người quan sát tò mò. Rani sẽ nhanh chóng nhận được tin người lái buôn đã rời đi.

Philip đã đóng gói sẵn sàng khi Groves bước vào, trông cực kỳ khó chịu. Ông thậm chí còn khó chịu hơn khi Philip dẫn ông vào phòng riêng của anh và lặng lẽ giải thích anh phải làm gì.

“Đồ chết tiệt,” Randall nạt. “Đây là đặc trưng của anh hả, phải không? Cái quỷ quái gì khiến anh mong tôi -”

“Song anh có thể,” Philip nói. “Đút lót, lừa gạt – tôi không quan tâm. Tàu Evelina sẽ khởi hành ngày mai, Jessup và tôi phải ở trên boong tàu.” Anh giúi một gói giấy vào tay Randall. “Đừng dùng nó trừ phi anh buộc phải làm. Tôi thà không lôi quý ngài đó vào chuyện này và ông ta cũng mong tôi làm thế, vì những lý do hiển nhiên.”

“Philip, tàu chở đầy rồi, Blayton thậm chí còn chẳng muốn các hành khách của hắn nữa. Nhà Bullerham, chị em nhà Cavencourt, Monty Larchmere, và tất cả người hầu của họ nữa. Anh muốn ta ném vài người trong số họ xuống biển sao?”

“Nếu anh phải làm thế. Tôi sẽ nói chuyện với Monty trước. Hắn ta là một con quỷ tham lam. Với một khoản lót tay nằng nặng, có lẽ hắn sẽ đồng ý đợi qua mùa gió cho chuyến tàu khác.” Philip vừa nói vừa quấn chiếc khăn xếp quanh đầu.

Randall nhìn chằm chằm vào chiếc khăn xếp một lát. Rồi một nhận thức kinh hoàng mở banh mắt anh ta. “Ôi trời ơi,” anh nói. “Đó là lý do tại sao anh gọi tôi hả. Anh vẫn định làm chuyện đó phải không? Vì chúa đi, Philip, người đàn bà đáng nguyền rủa đấy biết anh là ai!”

“Chính xác. Như tôi đã giải thích cặn kẽ, bà ta định giết tôi nếu tôi không rời đi ngày mai, vì thế tôi phải hành động nhanh, phải không?”

Philip tra con dao vào trong cán và đeo nó vào khăn thắt lưng anh đeo dưới chiếc áo kurta dài bằng muslin. Cùng với chiếc áo sơ mi rộng thùng thình anh mặc chiếc quần bằng muslin. Với nỗ lực của buổi tối, những thứ này sẽ đỡ rườm rà hơn việc quấn chiếc dhoti phức tạp. Vệ sinh xong xuôi, Philip quay sự chú ý vào Randall đang dữ tợn.

“Đừng ủ rũ, Randy,” anh nói. “Tôi không định để bị giết đâu. Quý bà muốn tôi đi, và tôi sẽ vâng lời bà. Nhưng tôi sẽ bị nguyền rủa nếu không theo nó. Tôi chưa bao giờ bị thất bại hết, và một người đàn ông phải chú ý tới danh tiếng của mình.”

“Anh điên rồi,” Randall nói.

Đôi mắt xanh lóe lên. “Nhìn vào phòng kia xem, anh bạn,” Philip nói thấp giọng. “Nhìn xem mụ phù thủy làm gì với Jessup. Tôi không thể trả đũa mụ ta như tôi muốn, bởi mụ đàn bà đáng nguyền rủa ấy rất quý giá với cấp trên của chúng ta. Nhưng tôi sẽ đáp lại mụ ta như có thể, tôi thề đấy.”

***

Rani Simhi ngụ tại một lâu đài lớn bên bờ sông Hooghly ở Garden Reach. Mặc dù người Anh đã xây những cung điện Palladian này chỉ cho họ nhưng công chúa Ấn Độ là một trường hợp ngoại lệ. Quý ngài toàn quyền Moira đã đích thân trông coi việc thu hồi nơi cư trú của người ở trước nhằm trang bị cho người đàn bà Ấn Độ bí ẩn một cơ sở phù hợp với địa vị và sự hữu ích của bà ta dành cho chính quyền của Hoàng thượng.

Đêm nay, bà tổ chức lễ mừng sinh nhật lần thứ năm mươi lăm. Cung điện được nhồi nhét đầy khách khứa cả Anh lẫn Ấn. Bà xuất hiện trong chốc lát, nhận lời chúc tốt đẹp của khách, rồi, theo thói thường, bà về phòng riêng nghỉ. Mặc dù trong nhiều phương diện bà không giống các phụ nữ bản xứ khác nhưng bà lại chọn cách giống họ khi dành vai trò tiếp đón cho các con trai.

Do bữa tiệc được tổ chức nhân danh mình, bà có thể nán lại nếu muốn. Tuy nhiên đêm nay bà có vị khách khác mà bà muốn được hưởng sự bầu bạn đó một cách riêng tư. Vi vậy bà giải thích với Amanda Cavencourt khi cô bày tỏ sự tiếc nuối khi để cho công chúa phải rời bỏ khách của mình.

“Ngày mai con sẽ rời đến nước Anh,” rani nói. “Có lẽ chúng ta sẽ không bao giờ gặp lại nhau. Bên cạnh đó, tất cả bọn họ là lũ ngu dốt và buồn chán.” Bà khẽ ra hiệu bằng tay, và một tẩu thuốc lớn, nạm ngọc được đem lên.

“Anh trai con là một ví dụ,” bà tiếp tục, khi kiểm tra đầu tẩu. “Nói chung không phải là kẻ đần độn, nhưng lại ngớ ngẩn khi cưới một người đàn bà lỗ mãng. Nếu cô ta không quá lỗ mãng, cô ta đã yêu con. Thay vào đó, cô ta ghét con và đẩy con đi. Ta căm ghét cô ta.”

“Hai người đàn bà không thể cùng quản một căn nhà,” Amanda điềm tĩnh nói. “Sự xuất hiện của con là sự khó chịu không ngừng. Hay có lẽ là sự lúng túng thì giống hơn. Phương cách của con không giống của chị ấy và sẽ không bao giờ giống, thế nên luôn luôn có va chạm. Bà biết rồi đấy.” cô thêm.

Rani nghiên cứu người phụ nữ trong y phục bằng lụa đang ngồi bắt chéo chân trước bà. “Ta biết là nó sẽ nổi cơn tam bành nếu nó thấy con bây giờ. Ta nghe nói nó đang xem xét những bộ sari hở hang.”

Amanda nhe răng cười khi cô cầm đầu tẩu lên. “Chị ấy chắc chắn sẽ xỉu năm lần nếu thấy con hút thứ này.” Cô nhún vai ngang ngạnh, và rít một hơi đầy kinh nghiệm.

Cô biết việc lơ là chú ý đến những nghi thức chỉ làm trầm trọng thêm sự ghét bỏ của người chị dâu. Sớm hay muộn Eustacia cũng sẽ chì chiết người họ hàng ương ngạnh của mình vào những cư xử thích hợp hơn. Thật không may, không bài học nào, không nhắc nhở nào, dù thường xuyên, có thể thay đổi nổi bộ dạng của Amanda.

Làn da sáng màu của cô trông quá giống màu sáng ngà êm dịu của những cư dân vùng bắc sông Hằng. Mái tóc nâu sẫm bóng mượt, gợn những dải sóng dày, ôm lấy khuôn mặt trái xoan của cô. Hàng lông mi dày đen viền trên đôi mắt to có màu nâu sáng biến đổi kỳ lạ. Xương mặt cô tạo dáng rõ ràng, chiếc mũi thẳng và mẫu mực, chiếc miệng rộng và đầy đặn. Khuôn mặt Armanda đẹp quá lạ so với kiểu đẹp của Âu châu. Phu nhân Cavencourt lại còn cảm thấy bị bẽ mặt hơn khi cả những người châu Âu và bản xứ đều thường xuyên nhầm lẫn Amanda là người Ấn Độ.

“Ta hiểu quá đủ,” người đàn bà lớn tuổi hơn đáp lời, “nhưng ta phản đối. Chúng ta sẽ không nói về cô ta nữa. Cô ta thật là tẻ nhạt. Ta có một câu chuyện cho con, thú vị hơn nhiều so với bà chị mới ngớ ngẩn của con.”

Không gì có thể vui sướng như thế, Amanda nghĩ thầm. Cô sẽ nhớ biết bao những buổi tối ngột ngạt ở Calcutta với người công chúa đầy lôi cuốn này ... những đám mây đầy khói và hương trầm làm tràn ngập căn phòng với những bóng ma di động... giọng nói rõ ràng của rani, êm dịu như dòng sông chảy, cuộn vòng qua những khúc quanh và khúc ngoặt của những truyền thuyết cổ xưa. Amanda cố kiềm những giọt nước mắt đong đầy lên mi.

Rani hút lặng lẽ trong một lúc. Rồi bà đưa ngón tay lên. Tất cả những người hầu đều biến gấp khỏi phòng ngoài Padji to lớn vẫn đứng như bức tượng bên cửa. Khi số còn lại đi hết, bà bắt đầu:

“Đêm nay, ta kể con nghe về nữ thần Anumati, đó là vị thần mà những phụ nữ không con ở vương quốc quê ta cầu xin con trai hay con gái. Khi bà trả lời người cầu nguyện, những người phụ nữ sẽ mang quà tới cho bà, tùy theo sự giàu có của họ. Nhưng dù giàu hay nghèo, người mẹ mới phải luôn luôn mang theo một hình được tạc sẵn.”

Rani cầm một bức tượng gỗ nhỏ từ chiếc nệm bên cạnh lên. Amanda đã trông thấy nó từ trước. Thông thường nó đứng bên một cái kệ, cùng với những bức tượng và bùa chú khác trong bộ sưu tập phong phú của rani. Nó cao khoảng mười inch, một bức tượng được tạc tuyệt đẹp hình một phụ nữ đang mỉm cười với bụng nhô cao vì đứa con.

“Từ rất nhiều đời trước,” rani tiếp tục, “những bức tượng thế này choán đầy đền Anumati, và có những viên đá quý tô điểm cho bức tượng hoa lệ của người. Trên trán người có đặt một viên hồng ngọc lớn và trong tay trái là một viên ngọc trai khổng lồ hình giọt nước mắt. Đó là món quà của một hoàng tử và công chúa từ những thời cổ xưa. Viên hồng ngọc đến từ hoàng tử, tượng trưng cho máu của sự sống mới: con trai Anumati cho đôi vợ chồng không con đó. Viên ngọc trai, là quà của người vợ, tượng trưng nước mắt hạnh phúc khi cô sinh đứa con trai. Viên ngọc này còn hiếm hơn hồng ngọc, được gọi là Nước mắt của Niềm vui.”

Bên ngưỡng cửa, Padji khẽ dịch chuyển và ném một cái nhìn về phía bà chủ. Rani vẫn tiếp tục, mắt nhìn vào bức tượng.

“Rất nhiều đời sau, kẻ cướp đã đến và cướp bóc ngôi đền giàu có. Thủ lĩnh của chúng dĩ nhiên phải có những đồ trang sức giá trị nhất. Hắn tháo viên hồng ngọc ra một cách khó khăn. Tuy nhiên viên ngọc trai được đặt sâu hơn. Để có nó hắn phải bẻ cánh tay ra khỏi bức tượng. Hắn dùng một viên đá thờ đập vào đó và cuối cùng cánh tay cũng bắt đầu rạn nứt. Cùng lúc đó có tiếng ầm ầm khủng khiếp. Các bức tường ngôi đền rùng mình và mặt đất rung chuyển. Những tên đồng bọn của hắn sợ hãi bỏ chạy, một số trong lúc vội vàng đã đánh rơi đồ cướp bóc. Hắn vẫn ở lại, vẫn cố gắng lấy viên ngọc trai. Ngay khi hắn bẻ gãy cánh tay, mái đền sập xuống.”

“Anumati ắt phải rất giận dữ,” Amanda lẩm bẩm. “Con không quy trách nhiệm cho bà.”

“Sự trả thù của bà còn lớn hơn thế. Chỉ vài giờ sau khi ngôi đền đổ sập, vài tên trong bọn cướp quay trở lại. Tên đầu lĩnh mới, cũng tham lam như kẻ tiền nhân, nhất quyết phải có hai viên đá vĩ đại ấy. Chúng đào xuyên qua lớp đổ vỡ – một nhiệm vụ nặng nề - và cuối cùng, vào ngày hôm sau, chúng thấy cái xác bẹp dí của tên thủ lĩnh. Viên hồng ngọc nằm trong tay hắn. Viên ngọc trai biến mất.”

Bà nhìn Amanda. “Con nghĩ gì về chuyện đó?”

“Giải thích lô gic là viên ngọc trai bị đè nát thành bột,” Amanda suy nghĩ trả lời. “Nhưng những người thờ phụng Anumati có thể kết luận là bà lấy đi châu báu của mình bởi vì cái chết và sự hủy diệt đang chiếm đầy ngôi đền thay cho Tình yêu và Sự sống.”

Công chúa gật đầu. “Người ta nói rằng Anumati đã ruồng bỏ ngôi đền bị ô uế và mang tất cả niềm vui theo bà. Vùng đất của ngôi đền cũng được coi là bị nguyền rủa. Người dân của ta đã theo lời khuyên của các thầy tu, không dám dựng lại cả ngôi đền hay thành phố bị tàn phá của họ nữa. Thay vào đó, họ xây những ngôi nhà mới ở một khoảng cách an toàn.”

Bà nhẹ nhàng vuốt trán bức tượng. Sau một lát bà nói, “Giờ đến câu chuyện của riêng đời ta.”

Một tiếng thở dài vọng ra từ ngưỡng cửa. Công chúa ra vẻ không hề nghe thấy chúng.

“Lúc ta còn trẻ tuổi hơn con nhiều có một hoàng tử Punjab đã tới chiếm vương quốc của cha ta,” bà nói. “Khi kẻ chinh phục này khảo sát nơi ở mới của mình, hắn phát hiện ra hai thứ. Một là ta. Để tăng cường sức mạnh cho vị trí chính trị của mình, hắn lấy ta làm vợ. Hắn cũng phát hiện ra ngôi đền đổ nát. Lòng tham của hắn còn nhiều hơn nỗi sợ những lời nguyền, hắn ra lệnh phá hủy ngôi đền. Rồi hắn đào lên tất cả châu báu mà kẻ cướp để lại trong khiếp sợ. Hắn cũng tìm thấy chiếc sọ của tên thủ lĩnh, và trong đó”- bà ngừng lại một chút –“là Nước Mắt của Niềm Vui.”

Amanda cố kìm miệng há ra. “Trong chiếc sọ?” cô ngờ vực hỏi. “Làm sao nó lại ở đó?”

Rani nhún vai. “Ai biết được? Nó nằm đó, không bị phá hủy sau gần một thế kỷ. Chồng ta đưa nó cho ta, trước mặt toàn thành phố. Hắn là một con lợn nhưng xảo quyệt. Trước mặt họ, hắn đưa nó cho ta. Sau lưng, hắn lấy lại nó – để giữ an toàn, hắn nói. Hắn cho phép ta giữ một số đồ trang sức rẻ tiền, và cái hình này, vật duy nhất không bị phá hủy trong ngôi đền đổ. Ta không hài lòng,” bà thêm vào với nụ cười hơi mờ.

Có tiếng khịt mũi lớn ngoài ngưỡng cửa.

“Cái gì làm ngươi phật ý thế, Padji?” Công chúa hỏi.

“Không có gì, thưa chủ nhân.”

“Thế thì im lặng đi.” Bà quay lại phía Amanda. “Có một lần và chỉ một lần trong đời ta đã yêu,” rani nói. “Ta không nói về tình yêu bình thường, cái mà ta đã sở hữu dư thừa, ta nói về một tình yêu lớn, tình yêu chi phối tất cả, tình yêu như mọi người chỉ đọc hoặc xem ở các vở kịch nhưng chưa từng trải qua trong đời. Trong truyền thuyết của con, đó là tình yêu của Tristan và Isolde. Trong xứ ta, đó là tình yêu của Krishna và Radha.”

Sau một lúc cân nhắc, Amanda nhẹ nhàng nói, “Con nghĩ ý người là tình yêu tội tỗi.” Cô đỏ mặt khi nói, không phải vì bất cứ lý do đoan trang nào, mà vì nói về tội lỗi với rani thì ... ôi, thực sự là lố bịch. Đạo đức của bà không được định nghĩa theo Nhà thờ Anh quốc hay xã hội nước Anh.

“Phải,” người đàn bà Ấn điềm đạm đáp lời. “Tình yêu tội lỗi.” Bà lãng đãng hít một hơi trên ống nước.

Trong lúc chờ đợi phần còn lại của câu chuyện, Amanda chăm chú nhìn bà, cố gắng ghi nhớ những thứ xung quanh bà, bởi đây có lẽ là lần cuối cùng. Nặng trịch khói thuốc và hương trầm, những căn phòng này sẽ làm kinh hoàng các phu nhân kiểu như Eustacia, và hầu hết các quý cô dòng dõi quý phái người Anh. Họ sẽ nhìn nhận nơi này như một hang ổ tội lỗi. Rõ ràng là Rani Simhi phù hợp với trí tưởng tượng của họ như một người đàn bà nguy hiểm với bề dày thành tích tội lỗi.

Có lẽ đó là tội lỗi, Amanda ngẫm nghĩ. Dù thế nào thì thế giới của công chúa cũng rất hấp dẫn, và Amanda đã hạnh phúc ở đây hơn bất cứ nơi nào cô có thể nhớ. Dù là truyền thuyết hay lịch sử, vũ trụ mà người bạn Ấn Độ của cô vạch ra cũng là một thế giới mơ ước, quyến rũ như truyện thần tiên. Nó cũng bình yên như vậy, bởi Amanda chưa từng bước vào những trang sách ấy.

Một cơn gió nhẹ thoảng đưa từ khu vườn, mang theo hương hoa và mùi thơm ngát của những luống cỏ vertiver được cắt tỉa trên lối đi. Có thứ gì khác, Amanda nghĩ, hít một hơi thật sâu, trầm hương chăng?

“Chồng ta trở thành một trong những vương công quyền lực nhất Ấn Độ,” rani tiếp tục. “Do vậy người Anh nhanh chóng tới để thuyết phục ông ta chấp nhận sự bảo hộ của họ thay vì người Pháp. Trong số họ có một người, to lớn tóc vàng. Mái tóc anh lấp lánh những tia sáng vàng của mặt trời và trong mắt anh là biển cả long lanh. Ta nhìn thấy anh và tình yêu thiêu đốt ta. Niềm đam mê ấy khiến ta mạo hiểm với cái chết, với hình phạt vì ngoại tình. Richard Whitestone trờ thành người tình của ta, ta bỏ chạy cùng anh ấy.”

Padji kêu lên. “Ôi, chủ nhân, giá mà tôi cắt trái tim con chó đó!”

“Giữ mồm miệng,” chủ nhân của gã nói. “Bạn ta không muốn nghe những lời lảm nhảm lỗ mãng của ngươi đâu.” Bà quay lại phía Amanda. “Đôi khi hắn cứ như đứa trẻ. Hắn cứ nghĩ mọi thứ đều có thể được giải quyết nếu cắt mất trái tim. Người ta không thể giải thích nổi cho hắn. Hắn không phải là đàn bà.”

Ánh nhìn của Amanda quét từ người hầu sang bà chủ. Cô hiểu ra. “Người tình đã phụ bà.”

Công nương rùng mình. “Đàn ông thật dễ lộn xộn. Một đêm ta thức dậy và thấy người tình của ta đi mất.”

“Hắn lấy mọi thứ,” Padji gầm gừ. “Đồ nữ trang-”

“Hắn lấy từ một tên trộm,” bà chủ của anh ta chữa lại. “Chỉ việc bỏ rơi người chồng của ta cũng là sự đáp trả không đủ với thói tàn bạo ích kỷ của hắn. Ta đánh cắp châu báu của hắn, lấy những gì hắn thấy thực sự quý giá, vàng và đồ trang sức. Nhưng đó không hẳn là sự trả thù. Người tình và ta phải sống bằng vài thứ và anh ta không phải là một gã trai trẻ giàu có.”

“Hắn vẫn lấy mọi thứ à? Bỏ rơi bà và để bà cơ cực? Dù bà có ăn cắp châu báu hay không, thì đó cũng là một việc làm ti tiện,” Amanda phẫn nộ nói.

“Có thứ nữa được bày ra,” rani đáp, “khi nó được bày ra với ta. Sau này ta biết chồng ta đã thuyết phục người đàn ông Anh đó quyến rũ và mang ta đi.”

Miệng Amanda rớt xuống.

“Chồng ta dần dần thấy sợ ảnh hưởng của ta. Hắn nôn nóng muốn loại bỏ ta, nhưng không dám giết ta vì sợ nổi loạn. Tuy nhiên nếu ta bị tội ngoại tình, người dân của ta sẽ săn đuổi và và bắt ta phải chết, trong lúc đó hắn đứng bên, trong sạch, một người chồng bị thương tổn.”

“Như ta kể với con, hắn ta xảo quyệt. Ngoài ra, hắn còn phản bội đồng minh người Anh của hắn nữa. Hắn đã hứa cho Richard Whitestone một phần thưởng đáng kể, cái mà hắn lại không đưa. Do vậy người tình của ta lấy phần bồi thường từ ta.”

“Điều đó khó lòng mà tha thứ nổi cho hắn,” Amanda nói, lau trán. “Con biết người tin rằng mọi chuyện đều có mặt kia của nó, nhưng tất cả những gì con thấy là tên vô lại.”

“Chính thế đấy, memsahib,” Padji nghiêm túc công nhận. “Tôi đã có thể bắt và giết hắn nhưng chủ nhân của tôi không cho phép điều đó. Ngay cả khi -” (memsahib: tiểu thư, phu nhân)

“Ta đã bị phản bội. Thế thì sao?” công chúa ngắt lời. “Đàn bà luôn luôn bị phản bội. Nhưng ta thành công. Không phải người đàn ông Anh này đã cho ta biết Ngọn Lửa Tình Yêu, điều mà ta quá ít trải nghiệm hay sao? Không phải anh ta đã giải thoát ta khỏi người chồng của mình và mang ta đi an toàn hay sao? Trong những tháng chồng ta nằm chết vì bệnh sốt – ta bị để dành cho sati. Thay vì bị thiêu cùng hắn, ta được tự do, cách xa nhiều dặm. Không phải ta đã tìm một người chồng khác, đáng yêu và đáng giá, người cho ta những đứa con trai khỏe mạnh và trao cho ta sự giàu có hay sao?” (sati: tục lệ hỏa táng người chết ở Ấn Độ.)

Trong lúc nói, giọng điềm tĩnh và lãnh đạm, rani tiếp tục vuốt ve bức tượng.

Sau một lúc im lặng, bà nói, “Mặc dù lấy mọi thứ khác, Richard Whitestone để lại cho ta hình này. Một đêm nọ khi ta nằm khóc vì anh ấy, Anumati đến với ta trong giấc mơ. Sớm hay muộn, người nói, ta sẽ khám phá ra ý nghĩa của sự chịu đựng này, và kết thúc của nó. Vật mà người tình để lại là món quà của người cho ta, thứ mà người ban tặng đầy phúc. Đây là lời hứa của người, và người giữ lời.”

Bà có thể thấy sự không hài lòng trên mặt Amanda lúc ấy, bởi bà cười phá lên. “À, bạn trẻ của ta, vấn đề tình yêu vẫn làm phiền con.”

“Người nói cứ như thể người tha thứ cho hắn vậy,” Amanda nói, “nhưng cách nào thì hắn cũng cư xử thật đáng ghê tởm. Hắn cư xử như một – một con điếm. Rồi hắn ăn trộm hết những gì người có.”

“Chỉ là những hành động của một người đàn ông tuyệt vọng. Song ta không nghi ngờ rằng anh ta đã yêu ta. Những đam mê như vậy không thể giả vờ được. Có lẽ điều đó làm anh ta tuyệt vọng nhất, vì tình yêu của chúng ta là thứ tình yêu điên rồ và say mê ngay tức thì.”

“Nếu đó là một kiểu điên rồ,” Amanda ngẫm nghĩ nói, “thì chẳng nghi ngờ gì nó là lừa đảo. Như người nói đấy, hầu hết chúng ta chỉ đọc về nó, nhưng các câu chuyện luôn luôn là bi kịch như của người cũng có vẻ thế.”

“Bi kịch gì?” tiếng đáp lại lãnh đạm. “Sau đó ta đã tìm thấy hạnh phúc.”

“Nhưng bị phá hủy, ít nhất là vậy,” Amanda cãi, gần như không hiểu sao cô lại cần tranh cãi vậy. “Con không biết về Krishna và Radha, nhưng còn về Tristan và Isolde? Về Romeo và Juliet?”

“À, phải,” công chúa nói. “Romeo và Juliet. Ta đã đọc tác phẩm của nhà thơ vĩ đại của con nhiều lần. Một cảnh tuyệt đẹp ở trong vườn. Nàng gọi người tình, như ta gọi người tình của ta trong sầu khổ và cô đơn.” Rồi bà trích lại bằng tiếng Anh trong lúc đăm đăm nhìn về hướng khu vườn của bà, “Ôi, tiếng người nuôi chim ó,/ hãy dụ chiếc mào cao quý ấy quay về.”

Rani Simli vẫn là một người đàn bà đẹp. Khi bà nhẹ nhàng ngâm mấy lời khao khát ấy, nét mặt bà cũng dịu lại và trong khoảnh khắc, Amanda nhìn trong bà thấy người con gái trẻ đã biết đến đam mê cuồng nhiệt. Trong khoảnh khắc đó, Amanda gần như ghen tị với bà. Gần như.

“Bà có dụ hắn ta quay lại không?” cô thầm thì hỏi.

Cái nhìn mơ hồ và dịu dàng của công chúa quay lại với cô. Bà mỉm cười.

Padji nhúc nhích không ngừng.

“Chúng là làm Padji buồn chán quá mức kiên nhẫn nhỏ bé của hắn rồi,” bà chủ của hắn mỉm cười, giọng bà lại sôi nổi hẳn lên, “và ta giữ con quá lâu với các câu chuyện của ta. Nhưng hắn hiểu,” bà thêm, ném cho người hầu một cái nhìn cảnh cáo, “là con cần biết câu chuyện, bởi vì giờ đây bức tượng sẽ thuộc về con, bạn yêu quý của ta.” Vừa nói bà vừa đưa hình gỗ đàn hương cho Amanda.

Amanda kinh ngạc cầm lấy.

“Vật của Anumati là món quà của người đàn bà, được truyền từ mẹ sang con gái. Ta không có con gái ruột, nhưng con sẽ thành con gái yêu của ta. Vì thế ta truyền Nàng Công Chúa Cười cho con. Cầu cho những lời ban phúc của người sẽ mang thêm hương vị cho cuộc đời con, như con đã làm cho cuộc đời ta, bé con.”

Sau ấy không phải là màn nước mắt lưng chừng nữa, mà là một trận lụt gió mùa, đến mức Amanda hầu như không thấy đống quà mà Padji chất đống phía trước cô, hầu như không lĩnh hội hết những lời tạm biệt yêu thương của rani. Lụa là, khăn kashmir, nước hoa, và hương trầm – một thứ châu báu của rajah. Amanda phản đối sự dồi dào này một cách vô ích. Công chúa bác hết những lời phản đối.

“Nếu con ở lại cùng ta, con gái, thì ta sẽ tô điểm cho con,” bà nói. “Cũng như vậy, ta sẽ tìm cho con một người chồng tốt, cao lớn, khỏe mạnh và đáng yêu. Thật không may ta chưa tìm ra ai đáng giá kịp lúc.”

Amanda cất tiếng khúc khích cười đầy nước. Phụ nữ Ấn Độ thường kết hôn ở tuổi dậy thì. Với hai mươi sáu tuổi, ngay cả theo tiêu chuẩn ở nước Anh cô cũng ở thời đến bàn thờ quá trễ rồi.

“Thế tốt hơn đấy,” rani nói. “Chúng ta chia tay bằng những nụ cười.” Bà ôm Amanda rồi nói thêm, “Nếu ta tìm thấy một người chồng cho con, ta sẽ gửi hắn về nước Anh, đừng sợ.”

Trong sự nhộn nhạo của quà cáp trao đi để lại, họ không nghe thấy tiếng sột soạt nhẹ nhàng trong khu vườn tối phía trước hay tiếng bước chân nhẹ như lông chim lẫn vào trong đêm.