Chương 1

Tôi vẫn ưa tưởng tượng hồi đầu bọn chúng tôi đông hơn. Chắc là cũng chẳng đông lắm. Nhưng vẫn cứ là đông hơn bây giờ. Chúng tôi là bầy thiểu số không được thế giới này thừa nhận. Chỉ trừ trong truyện hoang đường, mà thứ đó cũng bị liệt vào hàng cấm. Trông chúng tôi thì y như mọi người.

Thỉnh thoảng chúng tôi cư xử cũng y như mọi người. Về nhiều mặt, chúng tôi đúng là y như mọi người. Chúng tôi có mặt khắp nơi, không phố nào không có. Cách sống của chúng tôi chắc người khác cũng thấy bình thường, miễn đừng nhìn quá kỹ. Không phải chúng tôi ai cũng biết mình là gì.

Có nhiều người đến chết vẫn không biết. Một số thì biết, số ấy chẳng bao giờ để bị tóm. Nhưng chúng tôi có đó. Tin tôi đi. ~*~ Tôi làm dân London từ năm lên tám, ở cái xó xưa tên là Islington. Học trường nữ sinh tư đến năm mười sáu ra trường đi làm. Đấy là hồi năm 2056.

Hay 127 SN, nếu thích chơi niên đại Scion. Gái hay giai cũng vậy, hễ lớn thì tự liệu đường kiếm cái bỏ bụng tùy khả năng, hầu hết đều đứng quầy đâu đó. Ngành dịch vụ lúc nào cũng lắm việc cần người. Cha tôi vẫn nghĩ tôi sẽ sống đơn giản, nghĩ tôi sáng trí nhưng tham vọng ngắn, đời cho cái gì cũng ô kê ừ.

Cha tôi nhầm, như thường lệ. Từ năm mười sáu tôi đã đánh quả trong thế giới ngầm ở Duệ thành Scion London - SciLo như anh em đường phố gọi. Tôi làm “nghiệp vụ” giữa những băng đảng toàn dân thấu thị, băng nào cũng tàn nhẫn, cũng sẵn sàng hất cẳng đám còn lại trong cuộc chiến giành quyền sống sót.

Tất cả nằm chung trong một nghiệp đoàn quy mô toàn thành, trùm sò gọi là Diêm La. Những kẻ ngoài lề xã hội chúng tôi bị đẩy vào đường tội phạm nếu còn muốn sống. Kết quả là chúng tôi càng bị căm ghét hơn. Chúng tôi biến lời đồn đại thành sự thực. Giữa thế giới hỗn độn đó tôi đã dọn chỗ ấm mình.

Tôi là một “đồng tử”, chữ gọi đồ đệ gộc của một nghiệt chủ. Nghiệt chủ ở đây là Jaxon Hall, trùm phân khu I-4. Trực tiếp dưới quyền ông có sáu mạng tất cả. Hỗn danh chung đặt là Bảy Ấn. Chuyện này tôi chẳng kể được với cha. Ông tưởng tôi chạy bàn ở quán ô xi, một nghề siêu mạt nhưng hợp pháp.

Nói dối vậy là dễ nhất. Làm sao ông hiểu nếu tôi bảo thật lý do tôi đánh bạn với đám tội phạm. Ông đâu có biết tôi là một trong số họ. Còn hơn cả là con gái ông. Mười chín tuổi, cuộc đời tôi đảo lộn. Đến năm đó tên tuổi tôi đã vang lừng đường phố. Hôm đó vừa hết một tuần bở hơi tai ở chợ đen, tôi đang tính về nghỉ cuối tuần với cha.

Jax không nghe thủng lý do tôi đòi nghỉ: với ông ngoài nghiệp đoàn ra thì gì cũng chỉ đáng vứt đi; nhưng ông làm gì có gia đình, như tôi. Ít ra là gia đình còn sống. Cha với tôi ừ thì chẳng thân thiết mấy, nhưng dẫu sao có người để qua lại vẫn hơn. Nay một bữa ăn, mai một cú phôn, đến Tết tháng Mười một hộp quà, kiểu đó.

Mỗi tội ông hỏi han khiếp quá. Tôi làm việc gì? Tôi chơi với ai? Tôi sống ở đâu? Toàn những câu khó trả lời. Sự thực là thứ nguy hiểm. Có thể ông sẽ tự tay nắm cổ tôi lôi đến Tower Hill[1] không chừng, nếu biết nghề ngỗng thực của tôi. Có thể nói thực với ông vẫn tốt hơn.

Có thể nói ra sẽ làm ông chết đứng. Nhưng dù sao tôi cũng không tiếc đã vào nghiệp đoàn. Làm nghiệp vụ quả có bất lương thật, nhưng ra tiền. Lại còn, như Jax vẫn không tiếc lời nhắc lại, chơi phi pháp còn hơn nằm thẳng cẳng. [1. Khu vực gần Tháp London, thời cổ thường diễn ra xử tử công khai các tội phạm hình sự hoặc phản quốc nhà quyền quý.

] ~*~ Ngày hôm ấy trời mưa. Ngày cuối cùng tôi làm việc. Máy trợ sinh đang đảm bảo chức năng sống của tôi chạy đều. Nhìn ngoài trông tôi như chết rồi, mà xét ra cũng đúng vậy: linh hồn tôi đã phần nào lìa khỏi xác. Riêng đó là đủ khép tội tiễn tôi lên múa rối trên giá treo cổ rồi.

Tôi vừa nói mình đánh quả trong nghiệp đoàn. Cụ thể hơn là đóng vai trò một hacker. Chính xác thì không phải tôi đọc được tâm não người khác, mà chỉ dò ra họ, như cỗ ra đa cùng tần số bắt trúng những biến động trong thanh khí. Tôi cảm được từng thay đổi nhẹ nhất của các mộng trường, hay các hồn vô tổ chức.

Những thứ nằm ngoài tôi. Những thứ các thấu thị thông thường không cảm thấy. Jax dùng tôi làm công cụ thám thính. Nhiệm vụ của tôi là nắm bắt mọi hoạt động liên quan đến thanh khí trong phạm vi phân khu. Lúc lúc ông lại sai tôi đi dò xét các thấu thị khác, xem họ có giấu giếm cái gì không.

Mới đầu thì chỉ loanh quanh trong phòng, với những người tôi nhìn thấy, nghe thấy hay chạm vào được, nhưng chẳng mấy chốc ông nhận ra tôi có thể đi xa hơn nữa. Tôi cảm được những chuyện tận đẩu tận đâu: một thấu thị đang đi trên phố, hay một đám vong hồn đang quần tụ ở Covent Garden.

Miễn có nối máy trợ sinh, tôi có thể bắt tín hiệu thanh khí trong vòng một dặm quanh ngã bảy Seven Dials[2]. Nên nếu cần có đứa hớt lẻo chuyện to chuyện nhỏ trong phân khu 1-4, cứ yên trí lớn là Jaxon sẽ cho vời đến bổn cô nương đây. Ông nói tiềm năng tôi còn đi xa được hơn nữa, nhưng Nick không cho tôi thử.

Chúng tôi vẫn chưa biết rõ làm thế có thể tác động đến tôi ra sao. [2. Seven Dials, ngã bảy nổi tiếng tại London. Ở giữa khu vực giao lộ này là một cây cột với sáu (không phải bảy) mặt đồng hồ mặt trời, do ban đầu quy hoạch nơi đây chỉ là ngã sáu.] Thấu thị dưới hình thức nào cũng bị cấm tiệt, đã hẳn, nhưng nếu đem ra làm tiền thì đứt đuôi là phạm pháp.

Chúng nó còn đặt ra tội danh riêng: tội nghiệt. Định nghĩa là giao tiếp với thế giới hồn, nhất là để kiếm lời. Chính tội nghiệt là nền tảng cho nghiệp đoàn mọc lên. Thấu thị kiểu bóc bánh trả tiền cũng đầy rẫy trong số những kẻ không chui nổi chân vào băng nào. Chúng tôi gọi đấy là bói dạo.

Scion gọi đấy là phản nghịch. Phép xử theo luật chính thức là phòng hơi ngạt dùng khí ni tơ, bán theo thương hiệu “Giấc mơ êm dịu”. Tôi vẫn nhớ cái đợt báo chí bốc thơm tận giời: TRỪNG TRỊ KHÔNG ĐAU: PHÉP MÀU MỚI CỦA DUỆ THÀNH SCION. Theo chúng nói thì chỉ như ngủ thiếp đi, như nốc thuốc ngủ.

Ngoài ra vẫn có treo cổ thị chúng, thỉnh thoảng thêm món tra tấn đãi những kẻ mắc tội phản quốc. Tội phản quốc: tôi sống đã là mang tội. Nhưng thôi quay lại hôm đó. Jaxon đã mắc tôi vào máy trợ sinh cử đi thám sát phân khu. Mấy hôm nay tôi đang bám sát một tâm não gần đây, một kẻ rất thường đến phân 4.

Tôi đã hết sức cố nhìn vào ký ức hắn, nhưng lúc nào cũng bị thứ gì chặn lại. Mộng trường kiểu hắn tôi chưa thấy bao giờ. Đến Jax cũng phải thộn mặt. Xét theo những lớp cơ chế phòng thủ dựng lên phải đoán kẻ này đến vài ngàn năm tuổi, nhưng làm sao thế được. Hẳn là thứ gì rất khác.

Jax thuộc nòi đa nghi. Nghiệt chủ có quyền buộc mọi thấu thị mới chân ướt chân ráo đến phân khu đều phải tới trình diện ông trong vòng bốn tám tiếng kia mà. Ông nói hẳn có bàn tay băng khác nhúng vào, nhưng khắp phân khu I-4 không đứa nào đủ trình chặn mắt thóc mách của tôi hết.

Không đứa nào biết tôi có khả năng đó. Đây không phải Didion Waite, nắm đầu băng to nhì phân khu. Đây không phải tụi bói dạo đói rã họng vẫn đến ám ngã bảy. Đây không phải đám nghiệt chủ làm chúa một phương nhưng chẳng từ ăn trộm qua đường thanh khí. Đây là thứ gì khác hẳn.

Hàng trăm tâm não đi qua tôi, ánh bạc nháng lên trong tối. Chúng lướt vùn vụt trên phố theo tốc độ người đó đi. Tôi không nhận ra những người này. Tôi không thấy mặt, chỉ thấy rìa ngoài cùng tâm não họ. Lúc này tôi đã ra khỏi khu Seven Dials. Cảm giác cho tôi biết đã dịch lên phía Bắc, dù không biết đích xác ở đâu.

Tôi bám theo cảm giác lâm nguy hằng quen thuộc. Tâm não kẻ lạ kia đã rất gần. Nó dụ tôi qua thanh khí như cậu tiêu đăng vung vẩy cái đèn, vọt qua rồi lại khuất sau các tâm não khác. Đi rất nhanh, như thể cảm được tôi. Như thể kẻ lạ đang tháo chạy. Không nên đuổi theo ánh sáng này.

Tôi không biết nó định dẫn mình đi đâu, mà tôi đã đi xa ngã bảy quá rồi. Jax đã bảo mày tìm hắn. Ý nghĩ thoảng qua xa xôi. Ông sẽ chửi um cho xem. Tôi dấn thêm vun vút, lúc thường vác xác chả bao giờ chạy nhanh thế này. Cơ thể bị neo lại trong vật chất không cho phép tôi đi quá xa, nhưng tôi cố bứt khỏi giới hạn.

Giờ tôi đã nhìn thấy tên ma cà bông kia rồi. Không phải màu bạc như các tâm não thông thường, mà tối và lạnh: một tâm não bằng băng đá. Tôi vọt về phía hắn. Hắn gần quá, gần quá đi... Giờ thì không thể vuột khỏi tay mình nữa... Rồi thanh khí quanh tôi run rẩy, và trong nháy mắt hắn biến mất.

Tâm não kẻ lạ đã cao chạy xa bay. ~*~ Ai đó lắc người tôi. Sợi dây bạc nối hồn với thần xác tôi nhạy kinh khủng. Nhờ nó tôi mới đi cảm được các mộng trường ở xa. Cũng nhờ nó tôi mới bắn trở lại vào trong người được. Mở mắt, tôi thấy Dani đang vung vẩy cây đèn pin bé xíu chĩa vào mặt.

“Con ngươi có phản xạ,” chị lẩm bẩm một mình. “Tốt.” Danica. Thiên tài của nhóm, trí tuệ chỉ thua có Jax. Chị hơn tôi ba tuổi, kể độ duyên dáng nhạy cảm thì cũng ngang một mụ đô vật hạng nặng. Hồi mới nhận chị vào băng, Nick chẩn đoán chị bị rối loạn nhân cách chống xã hội.

Jax thì bảo chẳng qua tính chị thế. “Dậy múa may thôi gái Mộng Mơ.” Chị tát bốp vào má tôi. “Chào mừng trở lại cõi thịt.” Má tôi đau điếng: bực mình nhưng là tín hiệu tốt. Tôi đưa tay gỡ mặt nạ dưỡng khí trên mũi. Ánh chập chờn trong động dần đứng lại. Ổ của Jax là một cái kho chứa hầm bà lằng các thứ ngoài luồng: phim ảnh cấm, nhạc và sách báo cấm, lèn cứng các ngăn giá cáu bụi.

Còn cả một tập tạp chí ba xu, vẫn thấy chào mời ở Covent ngày cuối tuần, với một chồng tập sách dập ghim giữa. Đây là nơi duy nhất trên đời tôi có thể đọc, xem hoặc làm bất cứ gì tùy hỉ. “Đừng có mà đánh thức em kiểu đó chứ,” tôi cằn nhằn. Chị biết rõ quy tắc mà.

“Em đi bao lâu?” “Đi đâu?” “Thế chị nghĩ là đâu?” Dani bật tay cái tách. “À phải, thanh khí, dĩ nhiên rồi. Xin lỗi. Tớ hơi đãng trí tí.” Chuyện khó tin. Dani mà lại có lúc đãng trí. Tôi ngó bảng số điện xanh lam trên máy. Máy do chính tay Dani lắp lấy. Chị đặt tên là Hệ Thống Trợ Tâm Thấu Thị Thăng Thiên, gọi tắt là HT7.

Máy này thay tôi giám sát và điều khiển chức năng sống mỗi lần tôi đi cảm thanh khí tầm xa. Nhìn các con số mà tôi muốn rụng tim. “Năm mươi bảy phút.” Tôi day thái dương. “Chị để em đi vào thanh khí cả tiếng hử?” “Có lẽ.” “Nguyên tiếng luôn?” “Lệnh là lệnh. Jax nói muốn cậu đến xế chiều phải giải cho được cái tâm não bí ẩn đó.

Được chưa?” “Em cố lắm rồi.” “Tức là hỏng. Mất thưởng thôi.” Chị ực một ngụm hết chén espresso. “Vẫn không tin nổi cậu lại để xổng cô ả Anne Naylor.” Dani có thói biết rồi khổ lắm mà cứ nói mãi. Lại chuyện mấy hôm trước tôi được phái tới nhà đấu giá, giành lấy một vong đúng lý phải thuộc về tay Jax: Anne Naylor, hồn ma nổi tiếng ga Farringdon[3].

Nhưng có kẻ khác đặt giá cao hơn cướp mất. [3. Cô gái bị giết dã man vào thế kỷ 18 và hiện nhiều người tin hồn ma cô vẫn đang ám tại khu vực nơi thi thể cô bị vứt lại.] “Đằng nào ta cũng không xúc được Naylor đâu mà,” tôi nói. “Didion chả chịu nhả cho búa đập đâu, nhất là sau cú đớp hụt trước.” “Ờ thì cứ cho là cậu đúng.

Mà cũng chẳng hiểu rước con oan hồn về thì lợi gì cho Jax?” Dani nhìn tôi. “Ảnh nói cho cậu nghỉ cuối tuần này. Có trò gì thế?” “Nguyên do tâm lý thôi.” “Là sao?” “Là chị với mớ dây trói của chị làm em phát rồ.” Chị quẳng cái chén không vào tôi. “Tớ chăm lo cho cậu, con ranh ạ.

Mớ dây trói đó không có tự chạy lấy đâu. Nếu muốn tớ đã biến ra ngoài đi ăn trưa, mặc kệ món bã đậu trong đầu cậu nướng cháy khét.” “Hôm nay thì suýt cháy khét rồi còn gì.” “Ngồi đó mà mè nheo. Cậu biết thừa quy trình còn gì: Jax ra lệnh, chúng ta làm, chúng ta kiếm cháo.

Không thích thì cứ đi mà chạy theo Hector.” Động chạm ghê. Khịt mũi một phát, Dani đưa tôi đôi ủng da cũ nát. Tôi kéo ủng vào chân. “Mọi người đâu hết rồi?” “Eliza ngủ. Vừa lên một cơn.” Một cơn là chữ chỉ dùng khi có ai vừa trải qua một vụ đụng độ hút chết, với Eliza thì là bị nhập bởi một vong không mời mà tới.

Tôi liếc sang cửa phòng vẽ của chị. “Chị ấy không sao chứ?” “Ngủ dậy là ngon thôi.” “Chắc Nick khám rồi phải không?” “Tớ có gọi. Vẫn còn ở Chat với Jax. Bảo sẽ qua chở cậu về nhà cụ bô lúc năm rưỡi.” Chateline là một trong số ít ỏi quán còn mở cho chúng tôi, một quán nướng kèm rượu hạng sang ở Neal’s Yard.

Chủ quán với chúng tôi đã móc ngoặc: chúng tôi bo hậu, còn ông ta không bỏ nhỏ thân thể chúng tôi cho bọn Dân vệ. Tiền bo còn quá cả tiền ăn, nhưng để đêm có nơi đánh chén thì cũng bõ. “Vậy là anh ấy tới muộn,” tôi nói. “Chắc kẹt gì rồi.” Dani vớ điện thoại. “Thôi bỏ đi.” Tôi vấn tóc nhét vào mũ.

“Em chẳng muốn đến ám quẻ bữa nhậu của hai bố ấy.” “Cậu không được đi tàu đấy.” “Được chứ sao không.” “Thò cổ cho chém.” “Chẳng sao đâu. Hàng tuần nay đâu có ai soát tàu.” Tôi đứng lên. “Thứ Hai ăn sáng nhá?” “Có thể. Mà cùng có thể mắc làm thêm giờ cho bố già.” Chị liếc đồng hồ.

“Cậu té thì té đi. Gần sáu giờ rồi.” Chị nói phải. Tôi chỉ còn chưa đầy mười phút để chạy ra ga. Tôi chộp áo khoác phóng ra cửa, hét vội “Hê, Pieter” chào vong đứng trong góc phòng. Nó sáng ửng lên đáp lại, quầng sáng khá yếu, chán nản. Tôi không nhìn thấy quầng hào quang đó, nhưng cảm thấy.

Pieter lại đang suy sụp rồi. Đời làm ma thỉnh thoảng cũng ảnh hưởng xấu tới tâm trạng lão. Làm việc với vong hồn phải theo quy trình hẳn hoi, ít ra là trong phân khu này. Lấy ví dụ Pieter, một trong các vong trợ thần của chúng tôi - cụ tỉ là một thi thần. Eliza cho lão nhập vào chị, mỗi cuộc chừng ba tiếng một ngày, thế là đủ cho chị xong một bức tuyệt tác.

Chị hoàn tất, tôi sẽ ôm xuống Covent Garden đẩy cho mấy tay sưu tập lớ ngớ. Có điều Pieter hơi bị mưa nắng ẩm ương. Có khi hàng tháng chúng tôi chẳng được bức nào. Một động như động chúng tôi không nói đạo đức vớ vẩn. Đấy là chuyện vẫn xảy ra khi một nhóm thiểu số bị buộc rút vào hoạt động ngầm.

Đấy là chuyện vẫn xảy ra khi thế giới trở nên tàn bạo. Chẳng có cách nào, chỉ có nương theo mà sống. Mà cố gắng tồn tại, lại kiếm được tí tiền. Mà phất lên trong bóng tối Chấp chính viện Westminster. Công việc của tôi - cuộc đời của tôi - xoay quanh Seven Dials. Quy hoạch đô thị theo lối độc nhất vô nhị của Scion xếp nó vào tổng khu I, phân khu 4, gọi tắt là I-4.

Khu này hình thành quanh cây cột đứng giữa ngã bảy gần chợ đen Covent Garden. Trên cột có sáu mặt đồng hồ mặt trời. Mỗi phân khu có một nghiệt chủ - hoặc nghiệt bà - phụ trách. Hợp lại gọi là Hội đồng Phi tự nhiên, tự vỗ ngực đôn đốc nghiệp đoàn nhưng thật ra ai cũng tự tung tự tác trong phân khu mình.

Seven Dials nằm ở tổng khu trung tâm, nơi nghiệp đoàn hoạt động hoành tráng nhất. Chính vì thế mà Jax chấm khu này. Chính vì thế mà chúng tôi ở lại. Chỉ mình Nick có ổ riêng, chếch về phía Bắc khu Marylebone. Chỉ lúc nào khẩn cấp lắm chúng tôi mới đi qua đó. Trong ba năm tôi làm với Jax chỉ gặp đúng một vụ, là hôm Chi đội Dân vệ Đêm bố ráp Seven Dials săn thấu thị.

Một chú liên lạc bắn tin, hai giờ trước khi chúng đến. Chưa cần nửa thời gian đó chúng tôi đã bốc hơi. Ngoài trời lạnh và ẩm ướt. Một đêm tháng Ba điển hình. Tôi cảm được quanh đây rất nhiều vong hồn. Trước thời lập Scion, Seven Dials là một khu ổ chuột, vô khối vong khốn khổ đến tận bây giờ vẫn dật dờ quanh chỗ cột chờ tìm được mục đích gì mới cho mình.

Tôi chiêu một bè vong lại bên. Có bảo vệ lúc nào cũng tiện. Duệ thành Scion phải nói là đi đầu thời đại về an ninh cho lũ vô minh. Hở mồm ra nói đến cõi âm cũng không được. Frank Weaver cho chúng tôi là bọn phi tự nhiên, và cũng như lố Đại Pháp Quan tiền nhiệm, hắn đã dạy cho toàn London ghê tởm chúng tôi.

Trừ trường hợp bất khả kháng, chúng tôi chỉ thò mặt ra đường vào giờ an toàn. Giờ an loàn là khi bọn Vệ Đêm ngủ, và Chi đội Dân vệ Ngày tiếp quản. Bọn Vệ Ngày không biết thấu thị. Chúng không được phép nặng chân nặng tay như đám đồng nghiệp đêm khuya. Ít ra cũng không công khai.

Bọn Vệ Đêm khác hẳn. Chúng là dân thấu thị khoác đồ cảnh phục. Bị buộc tại ngũ ba mươi năm trước khi được chết êm ái. Đúng là giao kèo của quỷ, người ta bảo thế, nhưng ít nhất chúng cũng bỏ túi ba chục năm cơm no rượu say. Khối thấu thị chẳng mong nổi được như thế.

Lịch sử London lắm chết chóc đến nỗi khó mà kiếm được xó nào không có vong lượn lờ. Đấy là lực lượng bảo vệ chúng tôi. Tuy thế vẫn phải hy vọng những vong trong tay đủ mạnh. Vớ phải một con ma lẩy bẩy, kẻ tấn công chỉ bị chặn vài giây là hết đất. Khá nhất là những vong vốn hung tợn khi còn sống.

Chính vì thế có vài vong ăn giá rất hời trên chợ đen. Jack Đồ Tể hẳn có thể hét đến sáu con số, nếu có ai tìm được hắn. Nhiều người vẫn thề sống thề chết gã Đồ Tể chẳng phải ai xa lạ mà chính là Edward đệ thất - tên hoàng tử sa ngã, tên Vua Máu. Scion tuyên bố hắn là kẻ thấu thị đầu tiên trên đời, nhưng tôi thì cóc tin.

Tôi ưa nghĩ rằng chúng tôi đã có đây từ khai thiên lập địa. Ngoài trời đang tối dần. Bầu trời nhuộm màu hoàng hôn vàng óng, mặt trăng trắng vẽ cái miệng cười khẩy. Bên dưới là thành. Quán ô xi bên kia đường “The Two Brewers” ngồi chật những vô minh. Những người thường. Dân thấu thị bảo họ mắc tật vô minh, còn họ thì bảo chúng tôi mắc tật thấu thị.

Đôi lúc có kẻ gọi họ là lũ thong manh. Tôi chưa bao giờ khoái dùng chữ đó. Nghe đã thấy mùi bệnh tật cùi hủi. Nói vậy có tí đạo đức giả, vì suy cho cùng chẳng phải chúng tôi mới là kẻ đàm đạo với người chết ư? Tôi cài khuy áo, kéo sụp lưỡi trai mũ che mắt. Đầu cúi thấp, mắt mở to.

Đấy là luật tự tôi đề ra và tuân thủ. Không phải luật của Scion. “Thần cơ diệu toán đem bán một hào đêê. Một hào cỏn con thôi, thưa bà! Tiên tri London vô địch, thưa bà, không trúng không lấy tiền. Một hào cỏn con cho gã bói dạo nghèo khổ, thưa bà...” Một gã gầy nhẳng, co ro trong cái áo khoác mỏng dính.

Lâu lắm rồi tôi mới thấy tụi bói dạo. Ở tổng khu trung tâm rất hiếm thấy chúng, vì thấu thị nào cũng nằm trong nghiệp đoàn. Tôi đọc huyền quang gã. Gã này mà tiên tri nỗi gì trời, gã chỉ là bốc sư, mà lại là một thằng bốc sư rất ngu xuẩn - các nghiệt chủ đều ghét ăn xin như ghét tà.

Tôi tiến thẳng về phía gã. “Mày làm cái khỉ gì ở đây hở?” tôi túm cổ áo gã. “Loạn óc à?” “Cô rủ lòng từ bi ơn phước, thưa cô. Tôi đói quá,” gã nói, giọng khan khan ra chiều mất nước. Mặt gã giần giật, con nghiện đói ô xi là cái chắc. “Tôi bói không ra xu lẻ nào nữa.

Xin cô đừng mách ngài Nhiếp Hồn, thưa cô. Tôi chỉ muốn...” “Thế thì xéo lập tức.” Tôi ấn vào tay gã mấy tờ tiền. “Tao cóc cần biết mày đi đâu - miễn là xéo khỏi mặt đường. Kiếm chỗ qua đêm đi. Còn nếu mai vẫn phải bói dạo, thì cắp mông qua tổng VI mà bói. Tránh xa chỗ này ra.

Hiểu chưa?” “Chúc cô vạn sự như ý, thưa cô.” Gã nhặt nhạnh mấy món đồ tủn mủn, có cả một quả cầu thủy tinh. Rẻ tiền hơn pha lê. Tôi nhìn gã cong đuôi chạy về đằng Soho. Khốn nạn thân gã. Tiền đó mà đem vung vào quán ô xi thì chẳng mấy hôm lại ra đường. Số người như vậy rất nhiều: họ dính cứng lấy cần hút, hít món khí đủ vị có khi hàng giờ chưa vã.

Đấy là món hợp pháp duy nhất trong thành mà phê được. Có làm gì thì tay bói dạo này cũng xuống đáy rồi. Có thể gã bị nghiệp đoàn tống cổ, hoặc bị gia đình đá ra đường. Tôi không định hỏi. Không ai hỏi bao giờ. Ga I-4B lúc nào cũng đông nghịt. Dân vô minh không tránh đi tàu.

Họ chẳng có huyền quang, không sợ lộ thân phận. Dân thấu thị nói chung tránh các phương tiện công cộng, nhưng cũng có lúc đi tàu còn an toàn hơn đi đường. Bọn Vệ Đêm phải giãn mỏng khắp thành. Không mấy khi chúng tập trung lục soát điểm. Sáu tổng khu đều chia nhỏ thành sáu phân khu.

Muốn rời phân khu mình, nhất là ban đêm, cần cả giấy thông hành lẫn tí vận đỏ. Trời sập tối một phát là bọn âm binh ra mặt. Chúng là một nhánh của bọn Vệ Đêm, là những thấu thị mãn nhãn được đảm bảo sống trọn đời. Còn phục vụ nhà nước chúng còn được sống. Tôi chưa bao giờ tính chuyện làm việc cho Scion.

Đám thấu thị có khi xử với nhau rất tàn tệ - tôi cũng thông cảm chút chút với những kẻ cõng rắn cắn gà nhà kia - nhưng dẫu sao tôi vẫn thấy mình thuộc về giới ấy. Chẳng bao giờ tôi có thể xuống tay bắt giữ họ, cái đó là chắc. Nhưng đôi lúc, những hôm đã làm hộc xương hộc máu hai tuần liền mà Jax vẫn cứ quên trả lương, quả cũng có tí cám dỗ.

Tôi quét giấy tờ xong thì chỉ còn có hai phút. Qua rào chắn rồi, tôi thả cho bè vong đi. Bọn vong không thích bị lôi đi quá xa chỗ ám, nếu ép quá đừng hòng chúng giúp. Đầu tôi đang nghe búa bổ thình thình. Thứ thuốc gì đó Dani bơm vào máu tôi giờ đang thải bớt. Cả tiếng đồng hồ trong thanh khí, thiệt tình... Jaxon quả đang ép tôi hết cỡ.

Trên sân ga chẳng có mấy đèn đóm, ngoài bảng số điện xanh lè thông báo giờ tàu. Trong loa, giọng Scarlett Burnish ghi âm sẵn lững lờ trôi ra. “Chuyến tàu tiếp theo chạy hướng Nam Bắc, ghé vào tất cả các ga trong tổng khu I, phân khu 4. Đề nghị quý khách cầm sẵn thẻ ra tay để tiện việc kiểm soát.

Xin mời quý khách đọc bản tin tối nay trên màn hình an toàn. Cảm ơn và chúc quý khách một buổi tối dễ chịu.” Quý khách này đang chẳng thấy tối nay dễ chịu cái khỉ khô gì. Từ sáng sớm tôi chưa có gì lót dạ đây. Jax chỉ cho tôi nghỉ ăn trưa hôm nào bỗng dưng cao hứng, chuyện cũng hiếm như trăng mọc ban ngày.

Trên màn hình an toàn có thông báo mới: PPT: Công nghệ phát hiện phóng xạ-thanh khí. Các hành khách khác chẳng hề liếc mắt. Quảng cáo này chạy cả tỉ lần một ngày. “Trong thành London đông đúc dân cư, hẳn bạn cũng thường có ý nghĩ: biết đâu mình đang chung chuyến xe với một cá thể phi tự nhiên?” Trên màn hình, lũ người bóng đen sì diễn một vở kịch câm, mỗi bóng đen tượng trưng một trú dân.

Một bóng chuyển màu đỏ. “Sở SciSORS hiện đang thí nghiệm áp dụng Lá chắn dò dùng PPT tại cụm ga Paddington, cũng như ở Chấp chính viện. Dự kiến tới năm 2061, Lá chắn dò sẽ được lắp đặt ở trên tám mươi phần trăm các ga trong tổng khu trung tâm, tạo điều kiện giảm bớt quân số cảnh sát phi tự nhiên gác mạng lưới tàu điện ngầm.

Muốn biết thêm chi tiết, xin tới Paddington hoặc hỏi các sĩ quan Chi đội Dân vệ Ngày.” Màn hình chuyển mục khác, nhưng mẩu quảng cáo vẫn chạy đi chạy lại trong đầu tôi. PPT là mối đe dọa lớn nhất với dân cư thấu thị trong thành. Nghe Scion khoe khoang thì nó có thể phát hiện huyền quang trong vòng hai chục bộ.

Nếu không có sự vụ nghiêm trọng gì cản kế hoạch đó lại, đến năm 2061 chúng tôi coi như bó giò cấm cố. Các nghiệt chủ thì vẫn thế, chẳng ai nghĩ được giải pháp nào cho ra hồn. Chỉ suốt ngày hục hặc. Rồi lại hục hặc. Rồi lại hục hặc về những lần hục hặc. Rất nhiều huyền quang rung động trên phố trên đầu tôi.

Tôi là cái âm thoa, cũng rung theo các nguồn năng lượng. Buồn tay, tôi nghịch nghịch chứng minh thư. Trên giấy có ảnh tôi, tên, địa chỉ, vân tay, nơi sinh và nghề nghiệp. Cô Paige E. Mahoney, công dân nhập tịch, thường trú I-5. Sinh ở Ireland năm 2040. Chuyển tới London 2048 theo hoàn cảnh đặc biệt.

Nhân viên quán ô xi phân khu I-4, vì thế được cấp giấy thông hành. Tóc vàng. Mắt xám. Mét bảy lăm. Dấu vết đặc biệt: không có, trừ môi xám bầm, khả năng là do hút thuốc. Cả đời tôi chưa sờ đến thuốc bao giờ. Có bàn tay ẩm nhớp chộp cổ tay tôi. Tôi giật mình. “Mày còn thiếu tao câu xin lỗi.” Tôi quắc mắt nhìn kẻ tóc nâu đội mũ quả dưa, thắt cà vạt trắng bẩn.

Lẽ ra lỗ mũi tôi phải sớm bắt được mùi hôi của gã rồi chứ: Haymarket Hector, một địch thủ thuộc loại mất vệ sinh. Lúc nào hắn cũng thối rình như rãnh nước thải. Buồn cái hắn lại cũng là Diêm La, là ngôi chí tôn của nghiệp đoàn. Lãnh địa hắn được gắn mác Devil’s Acre, mảnh đất của quỷ.

“Chúng tôi thắng mà. Thắng đường đường chính chính.” Tôi giật tay ra. “Ông hết việc để làm hả, Hector? Đi chải bộ răng có khi tốt hơn đấy.” “Có thể mày mới là đứa cần chải lại nghiệp vụ, lỏi con xấu chơi ạ. Và học lấy chút lễ phép trước mặt Diêm La nhà mày.” “Tôi không ăn gian.” “Hờ hờ, thế mà tao nghĩ là có đấy.” Hắn vẫn nói thấp giọng.

“Thằng nghiệt chủ nhà mày có bắc bậc kiêu kỳ kiểu gì thì bảy đứa mày vẫn rặt một nòi cờ gian bạc lận. Tao cũng nghe nói mày là đứa ma lanh nhất chợ đen, bé Mộng Mơ ạ. Nhưng rồi mày cũng mất tích thôi.” Hắn đưa một ngón tay quệt má tôi. “Đứa nào cũng đến lúc mất tích tuốt.” “Ông cũng thế thôi.” “Đợi rồi xem.

Chóng thôi.” Mấy lời tiếp hắn phà sát tai tôi. “Đi về nhà cho an toàn vào nhé, búp bê.” Rồi hắn mất hút trong lối đường hầm dẫn ra. Ở gần Hector tôi phải thận trọng nhất cử nhất động. Chức Diêm La không mấy có thực quyền với đám nghiệt chủ kia - vai trò hắn chỉ độc có chủ tọa hội họp - nhưng hắn lại nắm rất nhiều đầu trâu mặt ngựa.

Hắn vẫn cú vụ mấy thằng đệ bị băng tôi dập nhừ tử ván tarocchi, hai ngày trước hôm đấu giá mợ Naylor. Bọn Hector tính khí rất tiểu nhân. Jaxon lại còn hay chọc thêm cho chúng phát khùng. Phần lớn băng tôi vẫn tránh voi chẳng xấu mặt nào nên không bị chúng liệt vào danh sách khử, nhưng Jax và tôi thì ương bướng quá cỡ.

Mộng Mơ Mặt Tái - tên tôi chốn giang hồ - có nằm đâu đó trong bảng phong thần của tụi này. Nếu phải dịp bị chúng quây, cầm chắc tôi ngoẻo. Tàu muộn một phút. Tôi thả mình xuống ghế trống. Cả toa còn nhõn một kẻ nữa, đàn ông, đang đọc Hậu duệ nhật báo. Gã này cũng thấu thị, một gã thanh đồng.

Tôt căng thẳng. Jax không thiếu kẻ thù, và phần lớn thấu thị thừa biết tôi là đồng tử của ông. Chúng cũng biết tôi vẫn bán thứ tranh chẳng thể là do ngài Pieter Claesz vẽ. Tôi lôi cái máy đọc bảng quy chuẩn ra, chọn cuốn tiểu thuyết pháp đình ưa thích. Không có bè vong bảo vệ, phương án an toàn duy nhất chỉ là làm sao trông có vẻ càng bình thường, càng vô minh càng hay.

Vừa duyệt các trang sách, tôi vừa để mắt gã kia. Tôi thấy mình cũng lọt vào tầm ngắm gã, nhưng cả hai đều không nói câu nào. Đến giờ gã vẫn chưa nhảy lên dúi đầu, đập tôi bất tỉnh nhân sự, nên chắc không phải một tay mê nghệ thuật vừa trúng quả lừa đâu. Tôi đánh liều liếc tờ Hậu duệ trên tay gã, đầu báo khổ rộng duy nhất còn in giấy hàng loạt.

Giấy thì quá dễ bị lạm dụng; máy đọc bảng chỉ cho phép chúng tôi tải về món nhỏ nhặt nào đã qua cửa kiểm duyệt. Các loại tin thường gặp ngó tôi từ trang báo. Hai nam trẻ bị treo cổ vì tội phản quốc; đóng cửa tiệm bách hóa khả nghi ở phân khu 3. Một bài xã luận dài đả kích ý tưởng “phi tự nhiên” là nước Anh đang bị cô lập về chính trị.

Tay bỉnh bút gọi Scion là “một đế chế còn trong trứng”. Câu này tôi đã nghe mòn tai. Nếu Scion hiện tại mà vẫn là trong trứng, lạy trời đừng bắt tôi chứng kiến cảnh nó mổ vỏ chui ra ngoài. Đã qua hai thế kỷ kể từ năm Duệ thành Scion thiết lập. Động thái ấy là để chống đỡ lại cái được cho là mối đe dọa đối với đế chế.

Một đại dịch, hồi ấy chúng gọi thế - đại dịch thấu thị. Sử sách chính thống tính là năm 1901, có năm vụ sát nhân ghê rợn bị gán cho Edward đệ thất. Chúng nói tên Vua Máu đã mở toang cánh cửa không thể đóng lại, đã đem dịch bệnh thấu thị xuống thế giới này, và nói tín đồ hắn nhan nhản khắp nơi, vừa sinh đẻ vừa giết chóc; chúng được tiếp sức mạnh từ một nguồn tà ác kinh khiếp.

Đáp lại, Scion được dựng lên - một nước cộng hòa cốt để triệt tiêu đại dịch đó. Năm mươi năm tiếp theo nó trở thành một guồng máy săn thấu thị, mỗi chính sách quan trọng nhất đều nhằm giáng vào giới phi tự nhiên. Giết chóc lúc nào cũng là tội đám phi tự nhiên. Hành hung vô cớ, trộm cắp, hãm hiếp, đốt nhà, gì cũng do dân phi tự nhiên gây ra.

Qua nhiều năm, nghiệp đoàn liên kết dân thấu thị đã lớn lên giữa lòng thành, trở thành một thế giới ngầm có tổ chức, biến thành chốn nương náu cho các thấu thị. Từ ngày đó Scion càng truy chúng tôi riết hơn. Một khi chúng lắp xong PPT, nghiệp đoàn sẽ tan xác pháo, Scion sẽ nhìn thấu tứ phương.

Còn lại hai năm cho chúng tôi nghĩ kế đối phó, nhưng chừng nào Hector còn làm Diêm La chừng đó còn chẳng le lói tí hy vọng nào. Triều đại hắn chỉ nuôi béo có tham nhũng. Tàu đi qua ba ga không có động tĩnh gì. Tôi mới đọc xong chương sách thì đèn tắt ngúm, tàu khựng lại. Tôi nhận thức được tình hình chỉ nửa giây trước kẻ đồng toa.

Gã ta ngồi dựng thẳng trên ghế. “Chúng nó sắp khám tàu.” Tôi định nói, định xác nhận điều gã sợ hãi, nhưng lưỡi đơ ra như miếng giẻ gấp. Tôi tắt máy đọc bảng. Trên tường hầm tàu điện, cửa mở ra. Bảng chữ điện trong toa chuyển sang Báo động an ninh. Tôi biết sắp có chuyện gì: hai thằng âm binh đi rỏn.

Bao giờ cũng có một thằng sếp đi kèm, thường là thanh đồng. Tôi chưa bao giờ vướng một vụ lục soát điểm, nhưng cũng biết hiếm thấu thị nào thoát thân được. Tim tôi đập binh binh trong ngực. Tôi nhìn gã kia, lượng phản ứng của gã. Gã là thanh đồng, dù không mạnh lắm. Tôi vẫn không thực rõ làm thế nào mình biết vậy - chỉ là ăng ten bên trong réo lên báo tôi thế.

“Chúng ta phải xuống tàu thôi.” Gã đứng dậy. “Cô bé là gì? Tiên tri à?” Tôi không đáp. “Tôi biết cô là thấu thị.” Gã kéo tay nắm cửa. “Đi thôi cô bé, đừng ngồi đờ đấy. Phải có đường ra chứ.” Gã quệt tay áo lau trán. “Bao nhiêu ngày không thấy lục soát điểm... đúng hôm nay thì lại...” Tôi không nhúc nhích.

Làm gì có đường ra. Cửa sổ đều dùng kính chịu lực, cửa chính đều khóa an toàn - và thời gian đã hết. Hai luồng đèn pin rọi vào toa. Tôi ngồi im phắc. âm binh. Hẳn chúng đã dò ra có vài thấu thị trong toa, nếu không việc gì phải tắt đèn. Tôi biết chúng nhìn thấy huyền quang cả hai, nhưng còn muốn biết đích xác chúng tôi thuộc loại gì.

Chúng vào toa. Một chiêu hồn và một thanh đồng. Tàu chạy tiếp, nhưng đèn không bật lại. Chúng đến chỗ gã kia trước. “Tên?” Gã thẳng người. “Linwood.” “Lý do di chuyển?” “Tôi vừa đến thăm con gái về.” “Thăm con gái về. Mày có chắc không phải mày đang đi dự cầu vong không, hử thằng hầu bóng?” Hai tên này đang kiếm chuyện gây sự.

“Tôi có đủ giấy tờ của bệnh viện. Con tôi mắc bệnh nan y,” Linwood nói. “Tôi có phép cho đến thăm nó hằng tuần.” “Mày còn nhe xỉ ra nữa là khỏi phép phiếc gì sất.” Hắn quay lại sủa vào mặt tôi. “Con kia. Chứng minh thư?” Tôi lấy trong túi ra. “Thông hành?” Tôi đưa giấy.

Hắn ngưng lại đọc. “Mày làm ở phân khu 4.” “Phải.” “Giấy này ai cấp?” “Bill Bunbury, người phụ trách tôi.” “Tao thấy rồi. Nhưng tao còn cần xem thứ khác.” Hắn nghiêng đèn chiếu vào mắt tôi. “Đứng im.” Tôi không giật lại. “Không có tuệ nhãn nhìn hồn,” hắn nhận định.

“Hẳn mày là tiên tri. Cái này thì quả từ đời thuở nào mới nghe.” “Tao chưa từng gặp đứa tiên tri có vếu nào từ thập kỷ bốn mươi tới giờ,” tên âm binh kia nói. “Ở trên sẽ khoái tỉ lắm.” Tên sếp cười mỉm. Mỗi bên mắt hắn có một vết khuyết, dấu hiệu báo tuệ nhãn nhìn hồn thường trực.

“Mày sắp làm tao phát tài to, em gái ạ,” hắn bảo. “Cho tao ngắm lại cái mắt với nào.” “Tôi không phải tiên tri,” tôi nói. “Đúng rồi, đúng rồi. Giờ thì ngậm cái mỏ lại và vành cái lỗ nhìn ra.” Phần lớn thấu thị đều tưởng tôi là tiên tri. Rất dễ nhầm. Huyền quang rất giống nhau - thực tế là cùng màu như nhau.

Tên tay sai lấy ngón tay vạch mắt trái tôi. Trong lúc hắn dùng tia đèn hẹp soi con ngươi, cố tìm cái khuyết mắt vốn không có, gã khách kia chạy nhào ra chỗ cửa mở. Xung quanh chấn động khi gã quăng một vong hồn - thiên thần hộ mệnh của gã - vào hai tên âm binh. Tên số hai rít lên khi thiên thần đâm sầm vào hắn, làm nhiễu loạn giác quan hắn như que đánh trứng khuấy tung lòng đỏ.

m binh số một quá nhanh. Chưa ai kịp cử động thì hắn đã kết xong một bè oan hồn. “Thằng hầu bóng cấm nhúc nhích.” Linwood trừng mắt nhìn trả. Anh ta cỡ bốn chục, người nhỏ thó, gầy nhưng có vẻ dẻo dai, tóc nâu đang chớm bạc trên thái dương. Tôi không nhìn thấy lũ oan hồn – chẳng thấy gì mấy vì còn bị tia đèn hẹp chiếu mắt - nhưng chúng cũng làm tôi nhược người đi không động cựa nổi.

Tôi đếm được ba con. Cả đời tôi chưa thấy ai quản được một oan hồn, nói gì đến ba. Gáy tôi lấm chấm mồ hôi lạnh. Thiên thần quay ngoắt lại vào thế đánh tiếp, lũ oan hồn lượn tròn quanh tên âm binh. “Cứ ngoan ngoãn nộp mình đi là hơn, bóng ạ,” hắn nói, “rồi chúng tao nói đỡ cho các vị khỏi tra tấn mày.” “Cứ động thủ hết sức đi, các quý ngài.” Linwood giơ một tay lên.

“Có thiên thần bên cạnh ta không ngán ai hết.” “Ai cũng hát bài đó cả, ngài Linwood ạ. Vào tới Tháp mới biết thế nào là ngọng.” Linwood lẳng thiên thần qua toa tàu. Tôi không nhìn thấy vụ va chạm, nhưng mọi giác quan đều bỏng rát đau điếng. Tôi buộc mình đứng vững. Ba con oan hồn xung quanh đang hút kiệt năng lượng tôi, Linwood nói cứng, nhưng tôi biết anh ta cũng bị chúng tác động; anh ta đang vật lộn cố tiếp lực cho thiên thần.

Trong lúc tên chiêu hồn điều khiển bọn oan hồn, âm binh số hai tụng kinh siêu độ: tức là một chuỗi từ ngữ đọc lên sẽ khiến vong chết hẳn, đuổi họ sang cõi khác, ngoài tầm với của thấu thị. Thiên thần run rẩy. Phải đọc đầy đủ tên mới đày được nó đi, nhưng chỉ cần tên kia liên tục tụng là nó sẽ yếu lử, chẳng bảo vệ nổi chủ nữa.

Máu đập thình thình trong tai tôi. Cổ họng khô khốc, ngón tay mất cảm giác. Nếu tôi cứ đứng ngoài cuộc, cả hai sẽ bị câu lưu mất. Tôi thấy mình trong Tháp, mình bị tra tấn, mình lên giá treo... Đừng hòng tôi chết hôm nay. Trong lúc lũ oan hồn nhảy xổ vào Linwood, trường nhìn của tôi bỗng lệch đi.

Tôi nhào thẳng tới hai tên âm binh. Tâm não chúng phập phồng ngay sát tâm não tôi, hai vòng năng lượng đập nhịp. Tôi nghe tiếng cơ thể mình đập xuống sàn. Tôi chỉ tính đánh lạc hướng chúng thôi, nới ra chút thời gian để bỏ chạy. Tôi có yếu tố bất ngờ. Chúng đã bỏ qua tôi. Tiên tri cần có bè vong mới thành nguy hiểm.

Nhưng tôi không cần. Nỗi sợ hãi mù quáng ập lên tôi. Hồn tôi bay vụt khỏi xác, quất thẳng vào âm binh số một. Còn chưa kịp hiểu mình đang làm gì, tôi đã nhao thẳng vào trong mộng trường hắn. Không chỉ đập vào, mà lao vào trong, xuyên qua đó. Tôi ném hồn hắn ra ngoài thanh khí, bỏ lại cái xác rỗng tuếch.

Tên thuộc hạ còn chưa kịp định thần đã chịu chung số phận. Hồn tôi giật trở lại thân. Đằng sau hai nhãn cầu đau nhức muốn nổ tung. Cả đời tôi chưa thấy đau thế này bao giờ, cứ như dao đâm thủng hộp sọ, như lửa thiêu đến từng tế bào não, bỏng rát đến nỗi tôi không nhìn, không cử động, không suy nghĩ nổi.

Tôi lờ mờ nhận biết sàn tàu nhớp nháp tì vào má mình. Không biết mình vừa làm gì, nhưng tôi biết mình chẳng ham chơi lại trò đó lần nữa. Sàn tàu lúc lắc. Chắc lại sắp đến ga rồi. Tôi tì hai khuỷu tay nhỏm dậy, các bắp cơ run lên. “Anh Linwood?” Không thấy đáp. Tôi bỏ lại chỗ anh ta nằm.

Khi tàu vượt qua chỗ đèn tín hiệu, tôi thoáng thấy mặt anh ta. Chết rồi. Lũ oan hồn đã đẩy hồn anh ta lìa xác. Giấy chứng minh rơi trên sàn, William Linwood, bốn mươi ba tuổi. Hai con, một bị xơ nang. Có vợ. Làm nhà băng. Thanh đồng. Không biết vợ con anh ta có biết đời sống bí mật của chồng, cha họ? Hay họ là người vô minh, ngờ nghệch chẳng hay biết gì? Tôi phải niệm cầu siêu độ thôi, nếu không anh ta sẽ ám toa tàu này mãi mãi mất.

“William Linwood,” tôi nói, “hãy thăng về thanh khí. Tất cả đã giải quyết. Nợ nần đã trả xong. Ngươi không cần lưu luyến nán lại trong cõi dương.” Vong hồn Linwood đang vật vờ gần đấy. Thanh khí khẽ xao động khi anh ta cùng thiên thần biến mất. Đèn tàu bật sáng. Họng tôi nghẹn lại.

Còn hai cái xác nữa nằm trên sàn. Tôi bám tay vịn ngang đu người dậy. Lòng bàn tay nhơm nhớp cầm muốn tuột. Cách đó vài bước, âm binh số một nằm chết, mặt còn nguyên vẻ ngỡ ngàng. Tôi đã giết hắn. Tôi đã giết một âm binh. Tên đồng sự không được may bằng. Hắn nằm ngửa, trợn mắt nhìn trần, dãi ngoằn ngoèo chảy thành dòng xuống cằm.

Thấy tôi đến gần hắn co giật. Tôi lạnh toát sống lưng, trong họng thấy vị mật chực trào ngược lên. Hồn hắn không bị tôi đẩy đi xa lắm. Nó vẫn còn dật dờ ở những mảng tăm tối trong tâm não hắn: những góc bí mật, im lặng, vốn không phải cho hồn ở. Hắn đã hóa điên. Không phải: Tôi đã làm hắn hóa điên.

Tôi nghiến chặt răng. Không thể bỏ mặc hắn trong tình trạng này - ngay một tên âm binh cũng không đáng chịu số phận như vậy. Tôi đặt hai tay lạnh ngắt lên vai hắn, vận hết sức chuẩn bị đòn kết liễu. Hắn rên lên một tiếng, thì thầm: “Giết tôi đi.” Tôi phải làm thế. Tôi nợ hắn điều ấy.