Nguyễn Thị Ngọc vào Saigòn được một năm thì người anh ruột đem mẹ vào. Anh nói với em: - Chim còn biết chọn nơi ấm để bay tới. Mùa đông sắp đến rồi, anh đem mẹ vào đây trốn rét, luôn tiện thăm em một chuyến. Ngọc nhìn mẹ một hồi lâu, rồi nói với anh: - Nếu anh đem theo một cháu nào đó vào giúp công việc cho riêng người già thì em bớt lo, em suốt ngày ở công sở, sợ không lo hết chữ hiếu. Săn sóc một người già khó bằng ba trẻ nít. Người anh biết em không bằng lòng, nói: - Các cháu đi học cả. Hay là em cho mẹ Ở hết mùa đông, đến đầu mùa hạ, anh vào mang mẹ ra. Sau đó Ngọc hỏi thăm sức khỏe bà con làng nước, công ăn việc làm của anh em nội ngoại. Hỏi một cách ngắn gọn như không hỏi sẽ bị trách vô tình. Người anh từ nhỏ đến nay, chưa xa mẹ lần nào, nay thấy mẹ bối rối nơi xa lạ, hai mắt già yếu của mẹ cứ nhìn về phía anh, làm cho anh não lòng lắm. Mùa rét năm rồi, trong làng có đến mấy người tuổi già bằng mẹ không qua nổi. Để cho mẹ chết, anh mới nghĩ đến thôi, cũng là điều không nên. Cơm gạo khó kiếm làm cho chết đói thê thảm, chết rét càng thê thảm hơn, nơi ấm áp có thể kiếm được. Ngọc năm nay cũng đã ngót nghét bốn mươi. Cả một thời xuân trẻ chị dâng hết cho đảng. Khi phục viên trở về quê thì tóc trên đầu đã có sợi bạc. Người nghe chị phát biểu đầu tiên khi về chính là người anh ruột nầy: - Đội nữ san bằng hố bom dọc đường Trường Sơn của em có mười hai đứa. Khi thống nhất đất nước, hết bảy đứa nằm lại dọc đường, ba đứa vô nhà thương, chỉ có hai đứa được về nhà nguyên vẹn. Thấy được mẹ, anh chị và các em như thấy trong giấc chiêm bao. Chị dâu nói: - Cô nên kiếm chồng. Muộn còn hơn không. Người em gái lấy chồng làng bên bồng con về thăm, nói: - Anh Lân vẫn còn ở không, chị nên nối lại tình cũ. Trong bà con có người đốc vô: - Phải, thằng Lân, tuy bị thương nơi chân đi đứng không thường nhưng lòng nó tốt. Hiện làm chủ một vườn đào cũng có đồng vô đồng ra. Người anh nói thêm: - Nếu em muốn, mai mốt, anh đem em đến đó thăm cho biết, đào vườn anh ấy năm nào cũng nở rộ. Đến tết là thuê xe trâu, xe bò chở lên Hà Nội. Còn phải xem tình ý người ta như thế nào. Ngày xưa yêu nhau không phải là ngày nay cũng thế. Năm tháng có thể thay đổi lòng người. Bao nhiêu năm lăn lộn nơi chốn rừng sâu nước độc, chung quanh chỉ nghe tiếng chim muông, thú rừng và gió thổi qua ngàn cây, Ngọc cũng cần tình người, nhất là cái tình chồng vợ như bao nhiêu người sinh ra trên đời nầy, nên cũng thử tìm cho mình một thứ gì khác hơn ngoài những điều nhàm chán đã làm hơn mười lăm năm quạ Không lâu sau, chị chỉ đi một mình đến nhà Lân. Gặp nhau họ liền đả động đến tình xưa. Anh Lân: - Cám ơn em còn nhớ đến anh, đến thăm. Dân gian có câu tình có sâu nghĩa mới nặng. Em đến như thế nầy là quý.Hồi em đi, lúc đầu anh có mấy thư, không thấy hồi âm, lại thôi. Anh cũng xông pha nơi tiền tuyến, cống hiến cho sự nghiệp một phần thân thể. Nay bịt được cái chân nhôm đi đứng cũng tạm được. Thế em về có dự tính gì chưa?- Ngọc nhìn người tình cũ: - Chưa. Dự tính cho một tương lai, có thể là một mình em dự tính không hoàn thiện. Thời cuộc và thời gian làm cho con người ngày càng thụ động. Em bị dồn vào ở trong trạng thái ấy từ bao giờ. Còn anh, sao lâu thế, không lo?- Lân cười: - Anh cũng rơi vào thế thụ động. Nếu có người phụ thêm vào cái lo đó thì bảo toàn được. Bao nhiêu năm về quê, người ta phụ cho anh vườn đào nầy, mà không ai phụ cho anh chuyện em vừa mới nói tới. - Thế anh còn nhớ thuở mình yêu nhau không?- - Chao ôi, vàng son như thế làm sao quên. - Đã đành thế rồi, nhưng em muốn hỏi anh về mức độ?- - Tựa hồ như nung nấu, như đeo đuổi. Cảm động, Ngọc nghe lòng thấp thoáng sống lại những ngày cũ. - Cám ơn anh, em cũng nhớ anh. Con gái càng lúc càng thấm cái mất mát não nề của tuổi xuân. Hình bóng anh là cái lá chắn để ngăn không cho em rơi vào hố tuyệt vọng. Ít ra là những lúc em nhớ về một thân phận. Nhớ lại năm xưa còn trai trẻ, Lân cũng không khỏi bùi ngùi: - Anh cũng thế, khi về lại nơi nầy, dĩ vãng càng ráo riết nhắc anh nhớ đến một mối tình đã mất, điều khổ hơn là mất trong cái thế không ai gây nên. Tự nhiên nó mất. Anh về trồng hoa đào không phải chỉ là kế sinh nhai, mà trong ấy nhớ đến tình anh. Anh không đủ khả năng tìm tình mình trong hương sắc hoa. Nhưng năm nào anh cũng mang lên Hà Nội để bán, hoa anh rải khắp cả một góc phố làm ánh lên nơi ngày xưa anh gặp em. Đôi mắt Ngọc long lanh: - Anh nhắc làm em nhớ đến Nhà Thờ Lớn. Nơi anh gặp em lần đầu, đứng đó nghe được nhiều tiếng động lạ, trong đó có cả sóng thì thào của hồ Hoàn Kiếm. Chỉ có mấy bước đã thấy sóng ấy. Đời em, cái lúc gặp nhau ấy em mới thấy có Đấng Quyền Năng trên cao. Là một người không tin vào thế giới vô hình thế mà thế giới ấy đã có trong em khi bên anh. Cũng như những ngày ở Trường Sơn, muốn nhớ anh, nhớ tình mình thì em nhìn lên trời, có thể là một vì sao, một áng mây, trên cao xanh ấy. Nói chuyện hồi lâu, anh Lân đem Ngọc ra vườn xem hoa đào nở. Cả mấy trăm gốc đào đều nở như nhau, rực rỡ, ánh mặt trời tỏa lên làm cho hoa san sát bên nhau. Ngọc nói: - Hoa nầy đẹp hơn mai vàng. Mai chỉ đẹp lúc mới nở, đào đẹp cả lúc tàn. - Nếu có bàn tay em săn sóc nữa thì vườn nầy trở thành nơi du lịch. Anh dự trù sau nầy trồng thêm nhiều thứ.Hồi anh đi bộ đội có những bụi lan rừng nở làm cho lòng người bồi hồi. Biết câu nói như một lời cầu hôn, Ngọc nói: - Em mới về, chưa hết chao đảo. Anh cho em một thời gian nữa, rồi em quyết định, chắc là có chiều hướng lợi cho cả hai, hay ít ra lợi cho khu vườn nầy. Đến khi gặp lại anh ruột ở Sài Gòn thì đã năm năm, nhưng chuyện cũ chị nhắc đến như một sự phản đối mọi việc làm của gia đình ngày ấy, cả việc đem người mẹ giao khoán cho chị ngày nay: - Anh à, trong đời em có nhiều sai lầm, lấy anh Lân là một sai lần lớn, trong ấy anh và những người bà con ruột thịt chịu trách nhiệm một phần. Mà phần chính vẫn là em.Tại sao em phải lấy anh ấy chứ?- Người anh nói: - Em không nên nhắc chuyện xưa, cũng đừng trách ai, ai vẫn nghĩ lấy chồng còn hơn ở góa. Vả lại, trước đó, em và người ấy cũng đã có một thời yêu nhau rồi. Ngọc nói như tiếc rẻ: - Đã đành thế. Nhưng anh ấy, năm tháng đã thay đổi đi nhiều lắm. Cái cằn cỗi dã man của sự thay đổi đó lại quay về phía em như để hành hạ, như chính em đã làm anh ấy mất đi thời trai trẻ hay là vì có em mà anh ấy thấy được sự dằn vặt trong mất mát. Có người nói vì anh ấy gần mười năm sống với hoa thì không thể sống với đàn bà. Hoa hớp hồn anh ấy hết rồi. Nhưng, hoa có thể thay thế đàn bà được đâu, có chăng chỉ là một phần nào, một diện nào. Hoa có thể làm cho người đàn ông nghi ngờ về sự tuyệt hảo của thân xác đàn bà, bù vào đó hoa làm cho người đàn ông hồ nghi về những màu sắc nhất thời không vững bền. Anh ấy tự lượng không đủ sức mình để chăm sóc hoa khi có em. Em không hề ích kỷ khi đòi hỏi anh ấy dành thì giờ chăm sóc em hơn hoa, nhưng em muốn anh ấy đừng lẫn lộn em với hoa. Cái biên giới vợ và hoa cần cắm mốc minh bạch. Đến hồi gay cấn, em chỉ mong anh ấy để dành riêng cho vợ mình một khoảng thời gian cố định, một phần mười trong hai mươi bốn giờ một ngày, về đêm, chẳng hạn. Nhưng anh ấy hứa mà không làm được. Hết mùa đào, đến mùa lan, rồi đến cúc, đủ thứ lan, mai tứ thời, thậm chí những cây không có hoa như trúc, tùng, thiên tuế.... rồi đến nấm, anh thuê người lên rừng đốn về nhiều cây để mục gây nấm. Phải công nhận rằng, anh ấy làm việc vì say mê, cần tiếng tăm, cần người ta khen ngợi hơn là để làm ra tiền. Nhưng anh ấy không biết nghĩ về hạnh phúc cho riêng mình hay là những điều trên đã tạo cho anh ấy hạnh phúc rồi. Em thì anh đã biết, cuộc đời không còn bao, nên em cũng phải tự đấu tranh cho riêng mình chứ. Khi tóc bạc còn ít thì còn nhổ đi được, cũng đến lúc nhiều quá, làm sao nhổ. Chuyện đã quá khứ rồi, nay nhắc lại với anh, để cho đỡ tức, thế thôi. Nghe em gái nói một mạch, người anh thật thà chất phác lớn lên nơi ruộng đồng không hiểu gì nhiều. Ngày em ly dị chồng anh cũng chỉ xem như số tình duyên em chừng đó thôi. Ngay cả tòa án cũng tìm cách hòa giải cho sự chia tay ấy không đến, hai vợ chồng đều có tuổi đảng, đều hy sinh một quãng đời đẹp nhất cho lý tưởng của họ, không chỉ vì một nguyên do đơn giản về chuyện lẩn quẩn trong vườn hoa mà xa nhau. Nay nghe em lý luận khúc mắc như thế anh làm sao hiểu nổi. Chỉ hiểu rằng, ngày nay tính tình em đã đổi khác lắm. Vào Sài Gòn đã một năm không viết một lá thư về thăm gia đình cũng là chuyện hy hữu rồi, đàng nầy gặp mẹ, gặp anh, em cũng không mừng rỡ mà còn có vẻ không vui. Chấp nhận nuôi mẹ để cho qua mùa đông là một chuyện chẳng đặng đừng. Khi đưa anh ra bến xe còn nhắc lại:- Mùa hè đến anh nhớ vào đem mẹ về nhé. Để chắc ăn, em còn hứa:- Chuyến sau vào em biếu anh cái tôngđdơ ngoại để cắt tóc. Khi anh đi rồi, Ngọc nói với mẹ: - Ở thành phố nầy, khi chết người ta đem thiêu. Bà mẹ hỏi: - Sao không chôn?- - Không có đất mẹ ạ. Người ta còn giải tỏa các nghĩa trang trong thành phố để lấy đất cho người sống. Bà mẹ rất sợ lửa đốt, thở dài: - Ngoài quê mình có nhiều đất lắm. Khi nào mẹ yếu quá con cho mẹ ra. Ngọc cũng nói theo ý mẹ: - Sau nầy già bằng tuổi mẹ hay ít hơn năm bảy tuổi con cũng về quê thôi. Cái lạnh lẽo chỉ dành cho thịt da người sống, không phải dành cho nắm xương người chết. Bà mẹ già đã ngoài bảy mươi tuổi ấy sống những ngày bên con no đủ, vật chất thì không thiếu gì, mẹ được nằm nệm êm, mền len nhãn hiệu cá sấu đàng hoàng. Khi đau ốm chị lo thuốc thang đầy đủ. Nhưng tính mẹ thất thường, khi vui khi buồn, khi nói huyên thuyên không dứt, chị đi làm về bụi bặm, mệt mỏi cần tắm rửa nghỉ ngơi bà bắt phải ngồi nghe bà kể chuyện đời, toàn là những chuyện không đâu từ mấy đời xa xưa. Bà nói:- Ngày xưa bà ngoại cũng kể cho mẹ nghe, nay mẹ kể lại, sau nầy con kể lại cho cháu. Nhưng cũng có khi cả tháng bà không mở miệng nói một câu, cứ ngồi im nhìn vào những hạt cơm trắng toát trong chén, lúc nào bà cũng để hai chiếc đũa gác chéo thành hình chữ X trên miệng chén, nói là cúng cho - thằng cha tụi baỵ Nhưng điều làm cho Ngọc sợ nhất những lúc vắng nhà, ai gõ cửa mẹ cũng mở, cửa trước, cửa sau mẹ đều mở toang để đón người đến, bất kể lạ hay quen bà đều vồn vã chào mời họ vào nhà, có khi thuận đà vui vẻ dẫn họ đi xem những vật lạ mà người yêu chị Ngọc mua sắm. Lợi dụng sơ hở nầy, trong xóm có kẻ xấu, đánh cắp nhiều thứ. Ngọc biết chuyện, đi làm khóa ngoài cửa lại. Bà mẹ lại mở cửa sổ chui đầu ra khỏi song cửa nói chuyện với những đứa trẻ lối xóm. Bọn chúng hỏi xin bà nhiều thứ, có thứ bà lấy ra cho, có thứ bà không chọ Cái tốt bụng của người không tỉnh táo làm đảo lộn trật tự của cả xóm có nhiều nhà giàu. Trẻ con vào ra đông đảo. Người lớn đến săn mua những đồ vật mà bọn trẻ lấy được hay xin được từ nhà chị Ngọc. Chị Ngọc phải thuê một đứa giúp việc ở miền quê lên.Vừa canh chừng mẹ vừa giúp việc nhà. Lâu lâu chị đưa tiền để nó thuê xích lô chở mẹ đi xem đua ngựa hay vào sở thú nhìn voi cọp. Về sau mẹ không thích trường đua vì đông đảo quá và ngựa chạy nhanh quá làm cho bà chóng mặt, cũng không thích nhìn những con vật dữ dằn ấy nữa. Voi to lớn dềnh dàng gây cho bà cảm giác không vui, còn cọp và sư tử thì hầm hừ khi thấy bà làm cho nhịp tim bà đánh như hồi chạy giặc Pháp. Chỉ còn một nơi bà muốn đến là về Phú Lâm hay qua miệt Thủ Đức cho bà thấy cảnh ruộng vườn. Nhưng xa quá, tiền xích lô Ngọc không chịu nổi. Khi thấy phố xá xa hoa đông đảo, bà già hỏi con ở: - Ngày nào cũng thế phải không, họ đi đâu mà xuôi ngược?- Đứa ở cười to: - Bà hỏi gì mà ngộ, người ta đi làm ăn mà. Bà già hỏi thêm: - Ở quê mầy có thế không?- - Không, quê cháu vắng hoe à. Còn ở quê bà?- - Quê tao cũng vắng hoe, mà ra đường là gặp bà con, vui. Đứa ở sinh trưởng trong Nam chưa hình dung ra được đất Bắc, hỏi thêm: - Ngoài ấy nghèo lắm phải không?- - Ờ, nghèo. - Thế bà có muốn về không?- - Sao không muốn. - Cháu thấy bà ở đây càng ngày càng mập ra. Nhưng lưng đi còm hơn ngày cháu mới đến. - Ừ, càng ngày càng già thêm, ai cũng thế mà. Nhớ lời cô chủ dặn, đứa ở nói thêm: - Cháu mà bằng tuổi bà thì không chịu đi đâu hết. Cột thừng vào mũi, kéo dắt cũng không đi. Lỡ ra chết nơi quê người thì khổ. Mẹ cháu nói, dù lang bạt kỳ hồ ở đâu cũng về quê mình mà chết. Chết ở nơi khác quỷ nhai xương. Đó là lúc tỉnh, lúc không tỉnh, khi qua đường Hậu Giang, thấy chó mèo, bà hỏi: - Chó chạy ra ngoài đường để làm chi?- Đứa ở trả lời: - Để tìm thức ăn. - Còn mèo?- - Cũng vậy. - Cả hai thứ ấy đều đói à?- - Dạ. Khi thấy một con hẽm đưa vào chợ đen nghịt người, bà hỏi nữa: - Trong ấy có đình làng à?- - Không, chợ. - Giữa chợ có đình làng à?- Thiếu kiên nhẫn, đứa ở gắt: - Không phải đình làng mà đình chợ. Chẳng bao lâu, con ở cũng biến đi mất. Nó không báo trước cũng không lấy gì trong nhà để đi, chị Ngọc cho là vì mẹ làm cho nó đi. Người yêu của chị là giám đốc cơ sở chị làm, biến chế những đồ phế thải thành vật dụng tái sinh. Chị chỉ ngồi bên cái cân bịt khẩu trang để thu muạ Công việc nhàn hạ mà được trả lương cao. Ông còn hứa sau nầy sẽ mua riêng cho chị một ngôi nhà có mặt tiền. Ông nầy gốc người miền Nam, chưa có một ngày đi theo kháng chiến, nhưng có đóng góp nhiều của cải cho cách mạng sau khi giải phóng.Ông yêu chị không ngoài mục đích để biết gái Bắc Kỳ như thế nào. Và ông thấy được gái Bắc Kỳ rất khác với gái Nam Kỳ hay gái Tàu, gái Miên, gái Mỹ lai, gái Lào mà ông đã trải qua nhiều người. Cái biết được của ông còn hơn ông dự tưởng. Trong chỗ riêng tư, ông tâm sự với người bạn thân: - Đàn bà cũng ba bảy hạng. Như cá tôm cũng ba bảy hạng. Tôm hùm, tôm càng, tôm he, tôm rảo cũng là tôm, nhưng mỗi tôm khi kho nấu lên thì mùi vị có khác, không cần tay đầu bếp giỏi. Tôm càng ở nước ngọt, tôm he, tôm rảo ở nước lợ, tôm hùm ở nước mặn. Nhờ cái nơi tôm sống mà mùi vị khác nhau. Nó (tức là Nguyễn Thị Ngọc) khác lắm. Tôi thích nó không chỉ sinh ra nơi bùn lầy nước đọng mà thích cái mùi đá núi, rừng sâu, ghềnh thác hiểm hóc, nơi bọn mình chưa từng đi qua mà tôi gặp được. Gom lại nhiều thứ, quyện lại với nhau thì tuyệt. Thì ra họ (đây là cộng sản) cũng khôn. Khi đưa người vào cuộc chiến tranh không chỉ để dành thắng lợi mà làm cho những con người sau đó, biết tuân phục, trong đó tuân phục cả điều cố hữu mà đàn bà cần có.... Người bạn nói: - Nó lấy ông cũng vì tiền. - Không hẳn thế. Người bạn nói tiếp: - Nghe đâu cô ta không chỉ có một đời chồng mà nhiều đời. Hay là muốn có một đứa con?- - Tôi cũng không có thì giờ để tìm hiểu nhiều. Chỉ biết có nó, tôi thấy làm ra đồng tiền thêm ý nghĩa. Người bạn cho như thế là đủ rồi, không hỏi tới nữa. Chị Ngọc lấy ông giám đốc như thôi thúc của bản năng.Trước hết là lấp cái hố quá sâu nhạt phèo trong những ngày làm vợ anh chủ vườn đào. Ông giám đốc nầy săn sóc chị nhiều, lắm khi chở chị lên tận núi Bửu Long để ngồi bên nhau nhìn dòng nước sông Đồng Nai. Ông thích những lời chị nói lúc xa thành phố, nào là sông nầy sâu mà nước không trong. Núi nầy không cao bằng núi Tam Đảo, Ba Vì. Con đường từ Bình Triệu ra bằng mà cong. Dừa trời sinh ra để lấy trái chứ không phải lấy lá che mát mặt đất, lá dừa không đẹp vì răng cưa quá sâu. Ngày xưa chúa Nguyễn chỉ mộ lính đánh giặc ở miền nầy, trả lương chỉ vài chục đấu lúa.... Đại để những câu nói không đầu không đuôi như thế làm cho ông thích thú, khi về Chợ Lớn, vào nhà hàng Đại La Thiên lại ăn được nhiều thức ăn béo bổ. Ông lấy chị càng ngày càng béo phệ. Chị cũng lên được mấy cân. Từ khi có mẹ chị Ngọc vô, ông giám đốc lui tới với chị thưa dần. Ông không mấy yên tâm khi thấy gương mặt bà ấy nhăn nheo quá và có nét hao hao giống người ông đang yêu, một câu hỏi lại nẩy sinh ra là, rất có thể sau nầy già Ngọc cũng có nét mặt như thế. Ông khác người ở cái chỗ là rất sợ hãi những cái gì không tròn vẹn sẽ xẩy ra trong tương lai. Chị Ngọc thừa biết chuyện đó. Nên dung hòa bằng cách mua nhiều lồng chim treo sau nhà bếp. Và cả mấy chậu thủy tinh nuôi cá cảnh nữa. Mỗi lần có hẹn ông tới, hồi đứa ở chưa đi, chị bảo nó đem mẹ ra đó xem chim. Toàn là chim và cá bà biết tên nên bà vui lắm. Có hôm bà hỏi: - Chim nầy ăn chi?- - Cơm rang, mè, đậu, lúa. Nhìn qua cá, bà cũng hỏi: - Còn lũ nầy?- - Mua lăng quăng. Bà già vui ra mặt: - Lăng quăng ngoài tao kêu là bọ gậy. Bọ gậy ao nhà tao nhiều nhiều vô số, đến nỗi phải đổ dầu hôi lên châm lửa đốt, khỏi phải tốn tiền mua. - Lăng quăng không quý nhưng quý công người đi bắt nó. Có khi phải lên tận Hốc Môn, Bà Điểm. Đi xe đò bất tiện lắm bà ạ. Trong lúc đứa ở với bà mẹ nói chuyện vui vẻ với nhau thì bên trong căn phòng ấm áp chị Ngọc cùng với ông giám đốc vui trò vui riêng của họ. Cũng có hôm bà gặp được ông giám đốc ấy. Ông gật đầu lễ phép chào bà, nói vài câu thăm hỏi. Bà cũng chào lại. Bà thấy thương thằng con rể ngày trước hơn. Năm nào gần tết cũng mang đến biếu bà cành đào lớn, kèm theo trầu cau, gọi bà bằng mẹ, còn ông nầy cũng biếu bà quà, nhưng quà gói ghém cẩn thận quá mà bên trong toàn những thứ cha sinh mẹ đẻ chưa ăn lần nào, răng cỏ cũng không còn để nhai, lại gọi bà bằng bà. Trịnh trọng quá làm bà ái ngại. Chị Ngọc cũng có nói với mẹ: - Ông ấy là người tốt. Mẹ tin con. Con cũng đã gần già rồi, không đợi chờ gì nữa. Lúc bằng tuổi con, mẹ có đến bảy con. Bà mẹ lại hỏi: - Sau nầy thằng anh con vào đem mẹ ra bằng xe đò hay tàu lửa?- - Tàu lửa. Con mua cho mẹ cái vé nằm hạng nhì. Nhưng chờ mãi chẳng thấy anh vộ Mùa đông quạ Mùa hạ cũng quạ Đến mùa thu thì chị nhận được điện tín ngoài quê gửi vào cho hay anh ấy đã chết. Bức điện vắn tắt nên không biết vì nguyên do gì. Chị Ngọc dấu không cho mẹ biết. * Một hôm, đi làm về, chị Ngọc ghé đường Tôn Thọ Tường mua một con vịt quay béo với mấy ổ bánh mì về đãi mẹ.Ăn xong, chị vào phòng riêng viết một tờ giấy xếp lại gói chung với ít tiền. Chạng vạng tối, chị lấy xe honda chở mẹ đi. Chị nói với mẹ là mùa thu trăng đẹp mẹ nên đi một lần cho biết, trăng ở quê mình cũng có, nhưng trời rộng, chung quanh cảnh vật cằn cỗi nhìn thấy trăng không đẹp. Ít khi được ngồi với con bà mừng, nhưng không dám hỏi gì như những lần đi chung với đứa ở, chỉ việc ôm chặt bụng con cho khỏi té. Khi đến trước nhà thờ X. Ngọc dừng xe, bảo mẹ xuống, bỏ gói nhỏ vào túi áo mẹ rồi nói nhỏ: - Mẹ ngồi ở gốc cây chờ con một lát, con đến nhà người bạn có tí việc khoảng mười phút sau con trở lại, mẹ nhớ đừng đi đâu mà lạc. Đường xá ở đây chằn chịt khó tìm. Nếu rủi ro con bị xe cộ dọc đường thì mẹ cứ việc vào cái cổng phía sau lưng mẹ. Ngoài cổng ấy, mẹ không đi đâu hết, nhé. Người mẹ ngồi núp sau gốc cây có sơn màu trắng. Ngọc quay xe về. Chị về nhà và quyết tâm bỏ mẹ. Bỏ mẹ, chị buồn, không sao ngủ được. Lại lên xe đến nhà người bạn gái cùng sở, nói là kỷ niệm ngày phục viên về quê cũ nên cùng bạn tổ chức ăn uống, vui chơi suốt đêm. Bà mẹ già vừa thấp thỏm chờ con vừa lén lút nhìn trăng.Quả như lời con nói, trăng ở đây đẹp hơn nhiều, tròn vành vạnh, rải xuống toàn một thứ bột óng ánh mịn màng.Phố xá che hết chân trời nên bầu trời cao hơn, hết canh nầy đến canh khác, không thấy con đến. Nhớ lời con dặn bà mẹ quay lui, cổng vô nhà thờ không đóng, lá vàng rải đầy trên sân, tượng Đức Bà Maria đứng trong sương buông hai cánh tay xuống phía dưới, cả hai bàn tay mở ra, không cầm một thứ gì cả, những giọt sương khuya từ mười ngón tay ấy chảy rỉ xuống, ánh đèn đường vàng ối hắt vào như máu trong. Xa phía sau, nhà cha sở và viện dưỡng lão cửa đóng kín mít. Từ ngày miền Nam mất viện ấy đóng cửa, chỉ còn cái bảng hiệu treo để mong có ngày tái lập. Cách đây gần mấy chục năm, hai mẹ con có việc lên Hà Nội, con có đưa mẹ đi ngang qua nhà thờ Chánh Tòa và nói đây là nơi con gặp tình đầu. Đức Mẹ đứng phía trong xa không nhìn thấy rõ như lúc nầy. Tuổi già làm cho bà quên nhiều thứ, nhưng phía trước nhà thờ ấy bà không quên, còn nhớ cả mấy chiếc lá bàng rụng xuống trên bàn chân bà rồi gió thổi bay đi. Rạng sớm hôm sau, người đi xem lễ sớm, phát hiện ra một xác chết ướt đẫm sương, nằm dưới chân tượng Đức Mẹ, miệng hả ra ngay dưới năm ngón tay của tượng. Trong túi áo có tờ giấy viết: Người già nầy, tính tình không bình thường, lúc điên lúc tỉnh, nói năng tùy tiện, không nên tin. Đi theo đứa con ngắn số. Ai có lòng nhân hoặc đã từng phụng sự cuộc đời trên danh nghĩa thương đồng loại trong cơn hoạn nạn, thì nên giúp. Hoặc là cho bà sống trong viện dưỡng lão, hoặc là bằng cách nào đó cho bà được về làng Đông, xã Đại Nghĩa, huyện Hải Hậu, tỉnh Hải Hưng, là quê hương của bà. Bí chú:Người viết giấy nầy là hàng xóm của con bà già nầy, đã chết. Ngoài lá thư còn có thêm ít tiền. Một cụ già di cư năm 1954, rành về địa dư miền Bắc tính nhẩm cho rằng số tiền nầy có thể mua đủ vé tàu ra sân ga Hàng Cỏ, rồi xuống bến xe đò về thị xã Hải Hưng, kể cả tiền ăn đường tiện tặn. Cha xứ đọc qua tờ giấy biết nạn nhân là người cùng đường nên cho rung chuông báo tử và huy động con chiên trong họ nhanh chóng dùng toàn lực để lo chôn người chết. Cha đích thân đến một người già trong họ đạo mượn tạm chiếc quan tài bằng gỗ tốt sắm sẵn chờ chết. Chị nữ tu tắm gội cho bà bằng nước nóng mới đun với lá bạc hà rồi lấy chiếc áo choàng trắng của mình mặc ngày khấn trọn đời liệm cho bà. Quan tài được đem vào đặt trong nhà thờ. Thánh lễ mi-sa trễ mất mấy tiếng, trở thành buổi lễ cầu hồn. Bài giảng hôm đó, cha xứ xăn tay áo lễ, chỉ vào cỗ áo quan: - Thưa ông bà và anh chị em, đây là thêm một trang nữa của trần thế đã gắn thêm vào Thánh Kinh mà Thánh Kinh của chúng ta vẫn không thêm không bớt một chữ. Đây là trang Mẹ Maria đã khâu vào bằng đường chỉ thiên lí. Hẳn ông bà và anh chị em hiện diện ở đây đã thấy tận mắt những giọt sương từ năm đầu ngón tay Mẹ đồng trinh chảy xuống miệng một người đang khát. Chúa Cứu Thế khi còn trên Thập Giá cũng có lần kêu khát. Chúa chọn Thập Giá để treo mình là muốn cho tình người hội tụ Ở điểm hai đường ngang dọc, chữ Hán gọi là tung hoành, để gặp nhau. Hỡi những ai thờ chúa nên ngồi vào điểm ấy mà thờ. - Có thể người mới qua đời nầy là ngoại đạo, nhưng khi tìm đến dưới chân mẹ mà chết, tình thương vô bờ và nhịp đập ngàn đời tinh khiết của trái tim Mẹ đã rửa tội rồi. Những giọt sương kia hẳn là nguồn nước của một dòng sông từ trời cao đổ xuống. Địa ngục thưa thớt người lầm than, khó nghèo, và bị hất hủi thì thiên đường lại rộn rã bóng họ. - Cha đã cho người lên Bình Hưng Hòa mua đất và thuê xe đám rồi. Sau lễ, ai rỗi, theo cha đưa người nằm đây đi một đoạn đường. Còn số tiền trong túi người nầy nhờ ban quản lý nhà thờ cất giữ để sau nầy có dịp về quê người nầy gửi lại cho con cháu. - Lạy Thiên Chúa và mẹ Maria. Chúng con là những người phàm, thân xác tồi tàn cũng như người nằm đây thôi, chẳng khác gì, chẳng hơn gì. Cũng ở trong chiếc quan-tàiđdời đầy mối mọt chờ ngày Chúa Mẹ cạy nắp thôi. Làm việc nầy chính là làm cho chúng con đây. Thân cây lúc mục nát thường ngã về phía có cây sống. Cát bụi bay tứ tán nhưng cuối cùng cũng chỉ có một nơi để tụ về.... Giảng đến đây thì nước mắt cha chảy ra nhiều quá không giảng được nữa. Đôi mắt cha ngơ ngác, vời vợi nhìn quanh không biết muốn tìm kiếm gì. Cả nhà thờ im phăng phắc, có người nức lên rất nhỏ cùng với tiếng ruồi đập cánh vo vo trên quan tài. Atlanta, 2.1996