Chương 1

“Lòng Mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào,

Tình Mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào,

Lòng mẹ êm ái như đồng lúa chiều rì rào…

Tiếng ru bên thềm trăng tà soi bóng Mẹ yêu…”

(Trích nhạc phẩm “Lòng Mẹ” của Y - Vân)

Đầu năm 1945, chiến tranh Mỹ - Nhật ở Thái Bình Dương ngày càng trở nên ác liệt. Vì thế, Pháp phải cho Nhật mượn Đông Dương làm đường, để điều động binh sĩ và tải khí giới từ Nhật qua Tân Gia Ba. Quân đội Nhật đóng rải rác trong các đô thị lớn của Việt Nam: Hải Phòng, Hà Nội, Vinh, Huế và nhất là Sài Gòn, hậu trạm quan hệ Nhật dùng để tiếp viện các nơi cần kíp. Và bởi thế, Việt Nam tuy không tham chiến, cũng bị lâm vào cảnh chiến tranh tàn khốc. Hằng ngày, các đoàn máy bay phóng pháo Mỹ, từ một hàng không mẫu hạm đậu ngoài biển khơi, đột nhiên xuất hiện, nhào xuống bắn từng loạt liên thanh vào các chuyến xe lửa đang chạy, và dội hàng tấn bom nặng nhẹ xuống trên các nhà cửa tình nghi có quân đội Nhật chiếm đóng.

Thành phố Sài Gòn có lẽ bị nặng nhất: không mấy ngày mà không có máy bay Mỹ tới dội bom. Một số gia đình kéo nhau tản cư về Lục Tỉnh lánh nạn. Các người vì hoàn cảnh phải ở lại, sống phập phồng lo sợ, ăn không ngon, ngủ không yên. Nét mặt người nào cũng hốc hác xanh xao, lộ vẻ kinh hoàng. Chợ Bến Thành thưa thớt người, thành phố ban ngày rất ít kẻ qua lại…

Sáng hôm ấy, cửa hiệu bán xe đạp Nghĩa Hưng chỉ mở một cánh cửa. Ông Nghĩa Hưng đang coi thợ lắp mấy chiếc xe đạp cho khách hàng đã hẹn tới lấy. Bà Nghĩa Hưng chạy vội ra chợ mua các thức ăn cần dùng. Bốn đứa con, 3 trai 1 gái: Thái 18 tuổi, Thông 15, Thu Thảo 12 và Thanh 10 tuổi, đang ngồi chơi bài với nhau trong phòng. Đã mấy tháng nay, trường học đóng cửa: không có việc làm, lại không được bước chân ra khỏi nhà, các cô cậu thật buồn bã tù túng. Ông Nghĩa Hưng bảo Thái dạy các em mỗi ngày vài giờ, kẻo để chúng quên cả sách vở. Chơi bài một lúc, Thái bảo hai em nhỏ:

_ Thôi nghỉ chơi, Thu Thảo và Thanh lấy bài học cho thuộc đi. Còn Thông lên phòng anh lấy bài làm.

Thu Thảo bản tính hiền lành, vâng lời anh, về phòng lấy sách ra học. Còn cậu Thanh vẫn ngồi lì đó, tay mân mê cỗ bài: cậu tiếc rẻ buổi chơi còn đang hăng, lại bị cắt ngang! Thông đi theo anh lên gác. Thái làm hiệu bảo em vào phòng rồi nhìn xuống cầu thang như sợ ai theo dõi đoạn đóng cửa lại. Thông thấy anh cẩn thận khác thường, vội hỏi:

_ Có chuyện gì thế anh Thái?

Thái kéo Thông ngồi xuống thành giường, nói nhỏ:

_ Chốc nữa anh sẽ đi xa, có lẽ lâu lắm mới về!

Thông ngạc nhiên trợn tròn đôi mắt:

_ Anh đi đâu? Sao anh không cho ba má biết?

Thái cau mặt xì một tiếng:

_ Nếu ba má biết thì anh đâu có đi được. Bây giờ anh cho em biết rồi em sẽ tùy đó mà trình bày lại cho ba má giúp anh. Nhưng em nhớ chỉ nói riêng với ba má thôi, chớ đừng cho Thu Thảo và thằng Thanh biết, chúng nó còn nhỏ dại, biết càng thêm nguy hiểm.

Thấy anh cắt nghĩa dài dòng quá. Thông chịu không nổi:

_ Biết rồi, cắt nghĩa mãi! Mà anh đi đâu mới được chứ?

Giọng Thái hạ trầm xuống hơn nữa, chỉ đủ cho Thông nghe:

_ Anh với mấy người bạn, đi theo quân đội Nhật để chống Pháp! Nếu tụi anh không đi, thì rồi cũng bị Pháp bắt. Họ đã nghĩ tụi anh liên lạc với Nhật để chống họ. Chi bằng đi trước đi, đỡ lo! Em quả quyết với ba má là anh sẽ không bị nguy hiểm gì hết, vì họ sẽ đem anh đi chỗ khác yên lành lắm. Một thời gian, tình thế thay đổi anh sẽ trở về!

Nghe Thái nói, Thông nhận thấy việc Thái ra đi là cần kíp nên gật đầu tán thành:

_ Vâng, em sẽ cố gắng giải thích cho ba má hiểu. Nhưng anh nhớ cẩn thận giữ gìn kẻo lỡ xảy ra chuyện gì nguy hiểm thì chắc ba má buồn nát ruột gan. Anh biết ba má đặt rất nhiều hy vọng vào anh mà!

Nghĩ đến nỗi lo lắng của ba má sau khi mình ra đi, Thái rươm rướm nước mắt. Thu xếp vội vàng vài đồ cần dùng gói vào chiếc khăn nhỏ, hai anh em dẫn nhau ra cửa sau. Thái lặng lẽ bắt tay từ giã em, rồi lách mình ra ngoài. Thông khóa cửa lại, đoạn trở về phòng học.

Bà Nghĩa Hưng đi chợ vừa bước chân vào nhà thì còi báo động vang lên:

_ Ụ u u u … Ụ u u u … Ụ u u u … Ụ u u u …

_ Bà chạy vội xuống bếp, cất thức ăn vào tủ, miệng kêu các con:

_ Thái ơi, Thông ơi, dẫn các em xuống hầm mau lên, mau lên!

Thu Thảo nhát gan, vừa nghe còi báo động, cô bé đã tuột xuống ngồi run rẩy trong góc hầm. Thằng Thanh chưa chịu xuống, nó lần ra phía cửa nhìn lên trời xem máy bay, bị cha nó cho một bạt tay và thét:

_ Thái đâu, sao không lôi cổ thằng ranh con này xuống hầm, còn cho nó đi lang thang đây!

Thông ở trong phòng chạy vội ra kéo em vào hầm trú, vừa cốc mấy cái vào đầu nó, vừa mắng:

_ Mày là thằng gan lì nhất, nghe báo động thì chạy xuống hầm liền đi, còn tò mò cái gì nữa hử ? Chưa nghe bom nổ à? Sao mà liều thế?

Hai người thợ nghe báo động cũng xin về ngay, kẻo vợ con ở nhà lo sợ. Ông Nghĩa Hưng đóng vội cửa sắt rồi hai ông bà xuống hầm. Tiếng còi báo động vẫn vang lên cấp bách. Vừa xuống khỏi cửa hầm, ông bà chỉ thấy ba đứa con, vội hỏi:

_ Thông, anh Thái mày đâu, sao không xuống?

Thông ấp úng trả lời:

_ Anh ấy ra bài cho con làm rồi đi, con hỏi anh ấy đi đâu, anh bảo là anh đi sang nhà người bạn học có chuyện cần.

Bà Nghĩa Hưng kêu lên:

_ Chuyện cần gì mà chuyện cần? Má đã dặn: thời buổi này nguy hiểm lắm đừng ra khỏi nhà, thế mà các con có nghe lời đâu!

Bỗng có tiếng động cơ kêu như xé, tiếp theo là những tiếng bom nổ rầm trời, căn phố Nghĩa Hưng lung lay như muốn đổ sập xuống: đồ đạc trong nhà rơi loảng xoảng. Ngọn đèn điện trong hầm vụt tắt. Thu Thảo sợ quá ôm chầm lấy mẹ kêu thét lên:

_ Má ơi, con sợ lắm!

Bà Nghĩa Hưng ôm con vào lòng, vỗ về:

_ Con sợ gì, có má đây mà!

Ông Nghĩa Hưng thì thầm bên tai vợ:

_ Hình như bom nổ rất gần nhà ta, mình à!

Bà Nghĩa Hưng chỉ gật đầu trả lời chồng, vì trong trí bà đang lo lắng không biết Thái ở đâu, có nấp kịp vào hầm trú nhà ai không. Nghĩ đến thảm cảnh có thể xảy đến cho con, bất giác bà nghẹn ngào, hai hàng nước mắt từ từ chảy xuống…

Tiếng còi lại rú lên báo tin máy bay địch đã đi xa. Ông Nghĩa Hưng vội vàng đi tìm Thái. Cách nhà ông không xa, một cảnh đổ vỡ tan tành, nhiều xác chết nằm ngổn ngang, máu me chan hòa mặt đất. Quân đội Nhật đang đào bới, để cứu người bị kẹt dưới đống gạch đá. Trước đây, quân Nhật trú đóng trong nhà lầu thường bị máy bay địch dội bom, nên họ đã bí mật dời đến ở các phố trệt, thế mà không hiểu sao địch quân vẫn biết được. Cuộc ném bom hôm nay, kể là trúng mục tiêu: quân đội Nhật bị chết khá nhiều, nhưng một số người dân lành vẫn bị chết oan.

Ông Nghĩa Hưng đi hỏi thăm mấy nhà quen, thì ra con trai lớn của họ cũng bỏ đi đâu từ sáng, và họ cũng đang dáo dác đi tìm. Biết chắc có một tổ chức gì đây, ông trở về vặn hỏi thằng Thông và Thông đã kể lại trước sau cho cha mẹ yên tâm. Nhưng yên tâm làm sao được: bà Nghĩa Hưng ruột ngấu như tương, vì không biết con đi đâu, ở đâu…

Sau vụ ném bom ấy, quân đội Nhật đâm ra nghi ngờ thiện chí của Pháp. Nhật thừa hiểu Pháp vì yếu thế, nên phải chịu cho Nhật mượn Việt Nam, nhưng Pháp vẫn ngấm ngầm liên lạc với Mỹ, điểm chỉ cho máy bay Mỹ đến thả bom những chỗ quân đội Nhật trú đóng. Cho nên đêm mồng 8, rạng mồng 9 tháng 3 dương lịch năm 1945, Nhật lật đổ Pháp, chiếm lấy Việt Nam. Về hành chánh, bề ngoài Nhật giao nước Việt Nam cho người Việt Nam cai trị, nhưng sự thật Nhật vẫn toàn quyền hành động. Tình thế trở nên căng thẳng hơn. Máy bay Mỹ có người Pháp chỉ đường, lại ném bom phá hoại nhiều cơ sở quan trọng Nhật hơn trước.

Một buổi tối các con đã ngủ yên, cả ông bà Nghĩa Hưng vẫn còn bàn chuyện to nhỏ với nhau. Ông thở dài bảo vợ:

_ Tôi xem tình thế này còn kéo dài, không thể làm ăn gì được nữa! Quân đội Nhật bây giờ lại đến đóng gần nhà mình, tôi tưởng mình có ngày cũng bị lây bom đạn. Hay là mình khóa cửa nhà, đem con cái xuống Mỹ Tho ở tạm ít lâu, đợi tình thế yên ổn rồi lại trở về. Mai mình sang bàn chuyện với anh chị Đức Hợp, xem anh chị có đi thì đi một thể cho vui.

Bà Nghĩa Hưng buồn rầu trả lời:

_ Thế con nó trở về thì biết đâu mà tìm?

_ Ồ, nó lớn rồi chớ nhỏ nhít gì nữa? Mình dặn phòng hờ các nhà lân cận đây, nếu nó về thì nhờ bảo xuống Mỹ Tho tìm gia đình.

Ông bà Đức Hợp buôn hàng tạp hóa ở cùng đường phố với ông bà Nghĩa Hưng. Hai bên qua lại chơi với nhau rất thân. Ông bà Đức Hợp hiếm con, chỉ được một trai một gái: đứa con trai tên Hùng bằng tuổi Thanh, cô gái út tên Thúy Hạnh mới lên bảy.

Sáng hôm sau, bà Nghĩa Hưng sang nhà ông bà Đức Hợp bàn chuyện tản cư. Ông bà Đức Hợp cũng đang lo lắng muốn đi, nhưng sợ đi một mình, nay có gia đình ông bà Nghĩa Hưng cùng đi, rất lấy làm vui mừng. Hai bà bàn bạc với nhau đâu vào đó, bà Nghĩa Hưng về thuật chuyện lại với chồng. Cả nhà lo dọn dẹp, cất đặt các thứ đáng giá vào trong hầm trú, khóa cửa hầm lại cẩn thận, còn các đồ kềnh càng thì cũng thu dọn vào một phòng, khóa kín lại. Ông bà chỉ đem theo các thứ cần dùng và tiền bạc. Sáu giờ chiều hôm sau đó, khi mặt trời sắp lặn, hai gia đình thuê hai xe “lô ca xông” đi Mỹ Tho,

Ban ngày vì sợ máy bay bắn, nên đường sá vắng teo, nhưng từ chập tối, xe cộ qua lại rất nhiều. Vì luật phòng thủ, xe chạy phải che đèn, nên đi rất chậm, mãi đến gần 10 giờ đêm mới đến Mỹ Tho.