Những ngày sóng gió

Cuốn hồi ký Living History của cựu đệ nhất phu nhân Mỹ Hillary Rodham Clinton tiếp tục là một "hiện tượng" trong làng sách thế giới. Được độc giả trông chờ nhiều nhất là đoạn phân tích về sự thất bại của Clinton trong việc cải cách y tế, mối quan hệ gây tranh cãi của ông Clinton với Monica Lewinsky. Ngoài ra, cuốn hồi ký cũng nói qua về kế hoạch vận động tranh cử tổng thống của bà Hillary vào năm 2008.Lúc đầu, bà Hillary cho rằng tin về vụ dan díu của chồng bà và cô thực tập sinh Monica có vẻ như một vụ scandal mà phe đối lập ngụy tạo. Nhưng khi chính Bill thừa nhận chuyện đó, bà đã rơi vào tâm trạng căm giận, cô đơn và vô phương hướng.

Sáng thứ tư 21-1-1998, Bill đánh thức tôi dậy sớm. Anh ấy ngồi ở mép giường và nói: "Hôm nay có một tin xuất hiện trên báo chí mà em cần phải biết".

"Anh đang nói gì vậy?".

Anh ấy nói với tôi về những bài tường thuật nói rằng anh ấy lăng nhăng với cô cựu thực tập sinh Nhà Trắng và rằng anh ấy đã đề nghị cô ta nói dối với luật sư của Paula Jones. Chưởng lý Kenneth Starr yêu cầu mở rộng cuộc điều tra để xem xét các khả năng buộc tội tổng thống và đã được bà bộ trưởng tư pháp Janet Reno cho phép.

Bill nói rằng anh quen biết thực tập sinh Monica Lewinsky cách đó 2 năm khi cô tình nguyện làm việc lại West Wing trong thời gian các nhân viên chính phủ đình công. Anh nói chuyện với cô ta vài lần và cô nhờ anh giúp tìm việc làm. Đó chính xác là tính cách của Bill.

Anh nói rằng cô ta đã hiểu lầm sự quan tâm của anh, và đây là điều mà tôi đã chứng kiến xảy ra vài lần trước đó. Kịch bản đó quen thuộc đến nỗi tôi dễ dàng tin rằng những lời cáo buộc là hoàn toàn không có căn cứ. Trước đó tôi cũng đã chịu đựng những lời buộc tội vô căn cứ của cùng một vài người và tổ chức có liên quan đến vụ án của Jones và cuộc điều tra của Starr trong hơn 6 năm ròng.

Tôi hỏi đi hỏi lại Bill về câu chuyện đó. Anh vẫn một mực cho là mình không có hành động nào trái với luân thường đạo lý nhưng thừa nhận sự quan tâm của anh có lẽ đã bị hiểu lầm. Tôi chưa bao giờ thật sự biết những gì đang diễn ra trong đầu chồng tôi vào ngày hôm ấy. (...) Đối với tôi, vụ lộn xộn Lewinsky có vẻ giống như một vụ scandal tình dục khác do phe đối lập ngụy tạo ra mà thôi. Nói gì thì nói, kể từ khi Bill bắt đầu dấn thân vào con đường chính trị, anh đã bị buộc đủ thứ tội trạng từ buôn lậu ma tuý đến việc có con riêng với một cô gái giang hồ ở Little Rock, còn tôi thì bị cho là một tên trộm và một kẻ sát nhân. Tôi nghĩ rằng sau cùng thì câu chuyện về cô thực tập sinh cũng sẽ chẳng hơn gì một lời ghi chú trong lịch sử báo chí lá cải.

Tôi tin chồng tôi khi anh ấy nói rằng những lời buộc tội toàn là giả dối, nhưng ngay khi tôi tưởng rằng những rắc rối liên quan đến pháp lý của chúng tôi sắp chấm dứt thì tôi nhận ra rằng chúng tôi đang đối diện khả năng sẽ có một cuộc điều tra kinh khủng và mở rộng khác. Một hành vi gây rối dân sự đã được Srar biến thể thành một cuộc điều tra tội phạm và rõ ràng là ông ta sẽ theo đuổi nó đến cùng. (...)

Phần tiếp theo, bà Hillary mô tả những trăn trở của mình trong những ngày sóng gió này trên hai cương vị: người đàn bà - vợ, và người đàn bà - chính trị gia. (Lời người dịch - LND)

Tôi quyết định mình sẽ tiếp tục tiến lên và chống trả lại, nhưng thật không dễ chịu chút nào khi phải nghe những điều người ta nói về chồng mình. Tôi biết rằng mọi người đang tự hỏi: "Làm cách nào bà ta có thể thức dậy vào mỗi buổi sáng chứ đừng nói chi đến việc xuất hiện trước công chúng? Giả sử như bà ấy không tin vào những lời buộc tội đó đi chăng nữa thì chỉ việc nghe những lời đó chắc cũng tan nát cõi lòng lắm rồi". Vâng, đúng là như vậy. Nhận định của bà Eleanor Roosevelt rằng mọi người đàn bà trên chính trường đều phải có da dày như da tê giác trở thành câu thần chú của tôi khi tôi phải đối diện hết khủng hoảng này đến khủng hoảng khác. Chắc chắn là áo giáp của tôi đã dày lên sau ngần ấy năm. Điều này có thể đã giúp tôi chịu đựng giỏi hơn nhưng không có nghĩa là dễ dàng. Không đơn giản giống như bạn thức dậy một ngày nọ và tự nhủ rằng: "Được, mình sẽ không để bất kỳ điều gì làm mình bận tâm cho dù nó có kinh khủng hay ác ý đến như thế nào đi nữa". Đối với tôi đó là một cảm giác bị cô lập và đơn độc (...)

Tôi cũng lo sợ rằng tấm áo giáp mà tôi đang mặc sẽ là bức tường ngăn cách bản thân tôi và những cảm xúc thật của mình, rằng có thể tôi sẽ trở nên giống như những bức biếm hoạ khô khan như nhận xét của một số nhà phê bình. Tôi phải lắng nghe cảm xúc của mình để có thể hành động theo những xúc cảm đó và quyết định xem điều gì là đúng cho bản thân mình mặc kệ người khác nghĩ gì, làm gì. Vốn dĩ không dễ dàng để duy trì bản ngã của mình dưới mắt công chúng, và bây giờ làm được điều này còn khó hơn gấp đôi. Tôi phải liên tục theo dõi bản thân để tìm những dấu hiệu của sự chối bỏ hay chai sạn của các mạch cảm xúc của mình.

Tác giả mô tả tiếp những hoạt động thường ngày và phản ứng của hai vợ chồng trong khi cuộc điều tra vụ Monica ngày một tăng tốc, cho đến khi... (ND)

Thứ bảy, 15-8, Bill lại đánh thức tôi dậy giống như hồi cách đây mấy tháng. Lần này anh không ngồi ở mép giường nữa mà đi tới đi lui. Lần đầu tiên anh ấy cho tôi biết sự việc thật ra nghiêm trọng hơn trước đây anh thừa nhận. Giờ đây anh nhận ra rằng anh sẽ phải khai là đã có một sự gần gũi vượt quá chừng mực. Anh nói với tôi chuyện chỉ xảy ra giữa họ trong thời gian rất ngắn và không thường xuyên. Anh đã không thể nói cho tôi biết cách đây 7 tháng bởi vì anh quá xấu hổ nên không dám thừa nhận và anh biết tôi sẽ giận dữ và bị tổn thương đến mức nào.

Tôi gần như không thể thở được nữa. Vừa thở hổn hển, tôi vừa khóc vừa hét vào mặt anh: "Ý của anh là gì? Anh đang nói gì vậy? Tại sao anh lại nói dối em?"

Tôi điên tiết lên và còn hơn thế nữa một giây sau đó. Anh ấy chỉ đứng đó lặp đi lặp lại: "Anh xin lỗi. Anh thật sự xin lỗi. Lúc đó anh chỉ cố bảo vệ em và Chelsea". Tôi không thể tin những gì tai mình đang nghe. Cho đến giờ phút này tôi chỉ nghĩ rằng anh ấy hơi khờ khạo trong việc quan tâm đến cô gái trẻ ấy và tin rằng anh ấy đang bị xử ép. Tôi cũng không thể tin là anh có thể làm bất cứ điều gì gây tổn hại cho cuộc hôn nhân và gia đình của chúng tôi. Tôi sửng sốt, đau khổ và căm giận vì đã tin anh.

Sau đó, tôi nhận ra Bill và tôi phải báo tin này cho Chelsea biết. Khi tôi bảo anh rằng anh phải làm điều đó, mắt anh nhoà lệ. Anh ấy đã phản bội lại lòng tin trong cuộc hôn nhân của chúng tôi và cả hai chúng tôi đều biết đó có thể là một sự vi phạm không có gì cứu vãn được. Và chúng tôi phải nói cho Chelsea biết anh ấy cũng đã nói dối nó. Đó là những phút giây khủng khiếp cho tất cả chúng tôi có thể tồn tại hay nên tồn tại chăng sau một sự phản bội đau đớn đến như vậy. Tuy nhiên, tôi biết tôi phải xem xét lại cảm xúc của mình thật cẩn thận trong quĩ thời gian của chính mình.

Lúc này tôi không muốn gì hơn được đi nghỉ mát nhưng lại không thể rời khỏi Washington. Trước đó Chelsea muốn quay lại đảo Martha's Vineyard, nơi các bạn thân của nó đang chờ nó. Thế là Bill, Chelsea và tôi đến hòn đảo ấy. Chú chó Buddy cũng đi theo để bầu bạn với Bill. Nó là thành viên duy nhất trong gia đình chúng tôi còn muốn làm điều đó. (...)

Trước khi chúng tôi dọn vào căn nhà được cho mượn, chất adrenaline do cuộc khủng hoảng gây ra đã tan biến và tôi chỉ còn lại nỗi buồn và sự thất vọng vô hạn cùng với nỗi căm giận không hề suy giảm. Tôi hàu như không thể nói chuyện được với Bill và khi tôi nói thì đó là một bài diễn văn chỉ trích. Tôi đọc sách. Tôi đi dạo trên bờ biển. Anh ấy ngủ tầng dưới. Tôi ngủ trên lầu. Ban ngày thì dễ chịu hơn là ban đêm. Bạn còn biết trông cậy vào ai khi người bạn thân nhất của bạn, người luôn giúp đỡ bạn trong những lúc khó khăn, lại là người làm bạn tổn thương? Tôi cảm thấy cô đơn không chịu nổi và tôi cũng có thể thấy rằng Bill cũng vậy. Anh ấy liên tục giải thích và xin lỗi. Tuy nhiên, tôi còn không muốn ở chung phòng với anh ấy huống chi là tha thứ. Tôi phải đi sâu vào tâm hồn mình và lòng tin của mình để tìm xem tôi có còn chút niềm tin nào cho hôn nhân của chúng tôi không và để tìm ra cách nào đó để hiểu. Vào thời điểm này, tôi thực sự không biết mình sẽ làm gì.