Khu vườn mùa hạ - Chương 01
Từ đầu tháng Sáu đến giờ, trời cứ mưa suốt. Hôm nay cũng là một ngày mưa rả rích. Ngày mở cửa bể bơi phải dời sang ngày mai. Tôi lơ đễnh nhìn con ma lá ngoài cửa sổ. Con ma lá là một cái cây có lá hình lòng bàn tay, to cỡ bằng quả bí ngô, cành vươn dài đến tận phòng học trên tầng hai. Cứ mỗi đợt mưa nó lại dài thêm. Mùa đông thì khô quắt queo ra đấy, nhưng đến độ xuân nó liền hồi sinh. Và khi mùa hè đến gần, nó đã kịp dài ngoằn ngoèo ra như một con yêu quái thực sự. Hai năm trước, tôi đã bí mật đặt cho nó cái tên là “con ma lá”. Lúc đó, tôi vẫn còn là một đứa thấp tì chứ chưa bị trêu là “cao kều”, răng cửa cũng chưa thay hết, chẳng hề khấp khểnh và to quá cỡ như bây giờ. Tóm lại, hai năm trước tôi vẫn còn là một cậu bé dễ thương, khổ sở với những suất ăn dở không thể nuốt nổi ở trường. Trong mắt tôi khi ấy, các anh học sinh lớp Sáu chơi bóng chày trông thật mạnh mẽ, to lớn và cả đáng sợ nữa. Thằng nhóc dễ thương là tôi hai năm trước ấy đã vô cùng say mê cái sinh vật mới mẻ mà mình phát hiện ra. Phòng học của tôi hồi đó nằm ngay dưới phòng học hiện giờ. Mỗi sáng, hễ bước vào lớp tôi liền chạy đến kiểm tra con ma lá. Tôi tưởng tượng vào ban đêm, lúc không bị ai nhìn, cái cây sẽ to dần lên, nó sẽ mở ra hai hốc mắt như mắt của mấy quả bí Halloween trong bóng tối. Còn tôi, cái đứa của hai năm trước vừa rướn người ngước nhìn vừa hồi hộp tự hỏi “không biết sẽ thế nào khi cái cây này chạm được tới tầng hai?”, giờ đang ngồi trong chính phòng học trên tầng hai này rồi. Dù không trở nên mạnh mẽ đáng sợ như mình từng mường tượng trước kia, tôi cũng đã thành học sinh lớp Sáu. Đã chán con ma lá, tôi chuyển hướng nhìn vào trong lớp. Thằng Yamashita mập nghỉ học đã được ba hôm rồi. Nó cũng không xuất hiện ở buổi kiểm tra của lớp học thêm hôm Chủ nhật, thế là đúng bốn hôm tôi chưa gặp nó. Hôm thứ Bảy gặp nhau, nó trông chẳng có vẻ gì là bị cảm cúm, rốt cuộc nó bị làm sao nhỉ? Chỗ của Yamashita nằm chéo ngay trước mặt tôi. Có thể thấy rất rõ trong ngăn bàn nó vẫn còn một cuốn truyện tranh. Thầy giáo mà thấy thì thể nào cũng tịch thu ngay. Nó lúc nào cũng phải để quên thứ gì đó. “Này, Kiyama!” Nguy rồi, tôi bị thầy gọi. Tôi nhấc mình lên chậm hết mức. “Nói thử xem nào.” “Ơ “Không phải ‘ơ’ đâu.” Wakabe ngồi đằng sau, vừa chọc chọc vào mông tôi vừa khẽ nhắc câu trả lời: “Tròn.” “Tròn ạ.” “Ừ. Rồi gì nữa?” “Không góc cạnh.” Wakabe lại nhắc. “Không góc cạnh ạ.” “Ờ, tròn, không góc cạnh. Giống như tôi ấy nhỉ?” Thầy vừa hỏi vừa nhìn tôi. Bị hỏi vặn như thế tôi biết phải làm sao? “Thế sao nữa?” Sao nữa đây? Không có câu trả lời nào từ Wakabe ngồi đằng sau. Tôi cuống hết cả lên. Tròn mà không có góc cạnh là gì cơ chứ? Là người nào đó chăng? “Là tướng quân Tokugawa Ieyasu ạ.” Trong lớp rộ lên tiếng cười. “Đồ ngốc! Cậu tưởng đây là giờ học gì?” “Dạ?” “Tròn và không góc cạnh là đặc điểm của đá cuội trong lòng đất. Đừng có mơ màng nữa!” Chết tiệt thật, mình bị mê sảng à? Tôi rón rén ngồi xuống trước ánh mắt của lũ bạn đang cười rúc rích. Chậc, nói chung là Yamashita không ổn lắm. Tôi thò chân, khẽ đẩy ghế của Yamashita để không ai thấy được cuốn truyện tranh trong ngăn bàn. Wakabe chọc vào lưng tôi. “Mày có biết tại sao Yamashita nghỉ học không?” “Tại sao thế?” “Bà nó mất rồi. Bà ở quê ấy.” “Hả?” Tôi hoàn toàn không biết Yamashita có bà. Thực ra thì ai mà chẳng có bà, nhưng nó chưa bao giờ kể chuyện về bà nó, mà tôi cũng chưa từng nghe rằng nó có bà sống ở quê. “Mẹ tao kể là đám tang của bà nó đang được tổ chức.” “Vậy à.” “Mày đến đám tang bao giờ chưa?” “Chưa.” “Tao cũng chưa. Ở khu tập thể nhà tao, hễ có ai mất thì chỉ có mẹ tao qua viếng buổi tối thôi.” “Tức là mày muốn đi hả?” “Tao đâu có bảo là tao muốn đi đâu. Ái đau!” “Wakabe! Kiyama!” Giọng nói giận dữ của thầy giáo vút lên. Vừa chỉnh lại gọng kính bị lệch, Wakabe vừa xoa trán. Viên phấn của thầy đã trúng mục tiêu. “Hai cậu vừa nói chuyện. Đứng lên!” * * * Ngày hôm sau Yamashita đến lớp. Tôi bắt gặp dáng lưng của nó ở cổng trường. “Này, mập!” Tôi gọi nó rồi mới ngớ ra là đã lỡ mồm. Yamashita quay lại, đúng như tôi nghĩ, khuôn mặt nó trông rất mệt mỏi. Đôi mắt bé xíu luôn hấp háy của nó đờ đẫn. Tôi gọi là mập mà nó cũng chẳng cãi lại và chạy đến như thường ngày. Tôi thấy hối hận, dù sao nó cũng vừa mới từ đám tang quay về mà. Hai đứa cùng im lặng đi vào trường. Có lẽ nên nói gì đó an ủi nó, nhưng mà biết nói gì bây giờ? “Này, mập! Bà mày mất rồi hả?” Đồ ngốc ạ! Wakabe đúng là thằng ngốc. Nó đu người lên cửa sổ tầng hai trông cứ như sắp lộn cổ ra ngoài, gọi toáng lên. Thằng đó chẳng biết giữ ý gì hết. Chẳng bao giờ! Trong một khoảnh khắc, Yamashita thoáng lộ ra vẻ ngỡ ngàng, nhưng liền ngay sau đó, nó hét to đáp lại “Ừ, thế đấy!” với vẻ rất bình thường. Tôi hoàn toàn không hiểu nổi cảm xúc của Yamashita. Thằng Wakabe không biết suy nghĩ gì thì tao hiểu nhưng còn mày, Yamashita, người mất là bà mày cơ mà. Đừng đáp lời thản nhiên như thế chứ Nhưng có lẽ chính tôi cũng chẳng hiểu gì thật. Tôi chưa từng đến đám tang bao giờ. Ông tôi mất từ trước khi tôi ra đời. Đại loại là tôi chẳng biết chút gì về cảm xúc khi có người thân nào đó chết đi. * * * Can cái tội vươn người ra quá mức, Wakabe đánh rơi cặp kính quý giá đứng thứ hai chỉ sau mạng sống của nó xuống đất, cặp kính vỡ tan. Nó mà không có kính thì chả đi được lấy một bước. Nó dò dẫm lần tìm cửa lớp liền bị hai thằng Sugita và Matsushita vây quanh trêu chọc, cuối cùng khóc òa lên. Wakabe được mẹ đến đón về sớm nên cũng đành thôi không hỏi Yamashita về vụ đám ma. Tôi thì chẳng biết nên bắt đầu câu chuyện như thế nào. Còn Yamashita vẫn như thường ngày, tức là đến hết giờ tập thể dục nó vẫn chẳng lộn xà được, vẫn không đọc được chữ Hán trong giờ quốc ngữ và đánh vỡ tiêu bản lúc làm thực nghiệm trong giờ tự nhiên. Nhưng cũng có lúc nó thần người ra, cứ chăm chăm nhìn vào một điểm trên tường, đến giờ ăn còn không xin thêm dù có món yakisoba mà nó thích nhất. * * * Chuyện xảy ra khi kết thúc giờ học thêm hôm đó. Ba đứa chúng tôi như thường lệ, vừa ngồi xuống ghế đợi ở trạm xe buýt vừa cắm ống hút vào cốc sữa chua mua từ cửa hàng hamburger gần đó. Wakabe vẫn đến lớp học thêm dù tôi đã tưởng là nó không đến nổi. Nó đeo tạm một cặp kính được bác sĩ chỉnh lại cho vừa: một cặp kính bự màu bạc, tròn xoe. Trông mặt nó thật kinh khủng, cứ như người ngoài hành tinh có mắt khổng lồ vậy. “Đám tang ra sao hả mày?” Wakabe hỏi. Chắc chắn vì muốn hỏi chuyện này nên nó mới đến lớp học thêm. “Sao là sao?” “Có thú vị không?” “Thú vị làm sao được,” tôi nói. “Dù tao cũng không biết nó như thế nào.” “Ừ.” Yamashita trả lời. “Chẳng có gì thú vị đâu. Mọi người mặc toàn áo đen. Kinh cầu hồn thì chán ngắt! Các chú các bác chỉ biết uống rượu trong khi các cô bận cuống lên. Lũ nhóc thì cứ gọi tao là mập này nọ.” “Bọn tao cũng toàn gọi mày thế còn gì?” Wakabe nhe răng cười hì hì, khoe hết cả lợi trông đến kỳ cục. Một kẻ đeo kính cận màu bạc dày cộm cười hà hà trong bóng tối. Điềm gở rồi! Sẽ có chuyện đáng sợ xảy ra mất thôi! “Vậy mày đột nhiên bị mấy đứa lạ hoắc gọi vậy thử xem!” “Thế thì khó chịu thật.” Wakabe cũng thôi cười. “Đám tang như vậy cũng chẳng có gì đáng nói cả. Nhưng mà...” Yamashita nuốt nước bọt đánh ực một cái. “Người chết bị đem đi thiêu. Quan tài được đem đến một chỗ gọi là bãi hỏa táng, rồi được đẩy vào một cái lò rất to. Rồi rầm một cái. Cửa lò đóng lại. Và một tiếng đồng hồ sau đó...” Đến đoạn “Và một tiếng đồng hồ sau đó...” tôi nhoài hẳn người lên nghe. Tại tiếng của Yamashita cứ nhỏ dần đi. “Chỉ còn lại xương. Tất cả cháy hết, chỉ mỗi xương còn sót lại. Trắng, lụn vụn. Toàn những mảnh bé xíu.” “Thiêu những một tiếng cơ à?” “Ừ.” “Chắc phải nóng lắm nhỉ? Thế có cháy bùng lên không?” Yamashita nghĩ ngợi một chút. “Chỉ có một chút khói trắng bay ra từ cái ống khói rất to thôi. Bố tao bảo ngày xưa khói nhiều hơn. Hình như là cháy âm ỉ chứ không phải kiểu cháy bùng lên.” Wakabe bắt đầu rung đùi. Đấy là tật xấu của nó. Trò rung đùi của nó hoạt động như bom hẹn giờ mà người ta không biết lúc nào sẽ phát nổ. Mẹ tôi từng bảo “Wakabe kỳ quái quá”. Mà “kỳ quái” nghĩa là gì nhỉ? Có lẽ là hơi hâm hâm hay đại loại thế. “Tất cả những mẩu xương ấy được gắp bằng đũa, bỏ vào một cái tiểu.” “Dùng đũa để gắp á?” “Ừ. Đến đấy là kết thúc.” “Đến đấy là kết thúc đám tang à? Nhưng mà...” “Mày có khóc không?” Tôi hỏi. “Không.” “Đấy là bà mày. Mày không buồn à?” “Vì suốt từ hồi còn ẵm ngửa đến giờ tao đâu có gặp bà. Như thế thì có khác gì người dưng đâu đúng không?” “Vậy à?” “Tao cũng chưa từng về quê bao giờ. Xa lắm.” Nói mới nhớ, tôi cũng lâu lắm rồi không gặp bà nội. Bà là người như thế nào nhỉ? “Mà này,” giọng Yamashita khe khẽ. “Chúng mày đã nhìn thấy người chết bao giờ chưa?” “Hả? Thấy làm sao được.” Wakabe nói xong liền khịt khịt mũi rồi im lặng. Tôi nhận ra rằng, kể cả lúc biết chuyện Yamashita đi dự đám tang, cả lúc nghe chuyện về hài cốt vừa nãy, có trong mơ tôi cũng không thể tưởng tượng ra chuyện nó đã nhìn thấy “người chết thực sự”. “Mọi người thả hoa vào trong quan tài. Lúc đó...” “Lúc đó sao?” Đằng sau cặp kính, mắt của Wakabe sáng rực lên. “Mày thấy gì? Hả? Hả? Kể nhanh nhanh lên!” Wakabe giậm gót giày bành bạch xuống đất, ra điều sốt ruột lắm. “Cũng không có gì đâu...” Yamashita ngập ngừng nói. “Tao nhìn thấy trong lỗ tai và mũi bà tao có nhét gì đó như là bông ấy.” “Trong mũi có bông? Tại sao thế nhỉ?” Tật rung đùi của Wakabe lại tái diễn. “Trong mũi và tai có bông... Trong mũi và tai có bông...” “Wakabe, yên lặng di!” Wakabe im miệng. Thay vào đó, nó rung đùi mạnh hơn, cái ghế băng mà chúng tôi đang ngồi phát ra những tiếng lạch cạch. “Tao cũng thả hoa cúc vào trong quan tài với mọi người. Thế rồi...” Bà lão ngồi chờ xe buýt ở ghế bên cạnh ngờ vực nhìn về phía chúng tôi. Tôi túm chặt lấy v “Các cánh hoa bay lả tả trong không trung. Có một cánh hoa rơi xuống mặt bà tao.” “Rơi ngay trên mũi.” Không hiểu sao tôi cứ nghĩ cánh hoa ấy phải có màu vàng. “Tao đã nghĩ là phải phủi cánh hoa. Nhưng tao sợ không dám đưa tay ra. Thế rồi có người đậy mất nắp quan tài lại. Rồi người ta đóng đinh vào. Dùng đá nhé. Cứ kêu côm cốp ấy.” “Tưởng gì. Có vậy thôi à?” Wakabe nói, rồi yếu ớt thêm vào, “Chả có gì hay.” Nó nói “Có vậy thôi à?” nhưng giọng lại run run. “Wakabe, im đi!” Tôi sẵng giọng mắng nó. “Tối hôm đấy, tao nằm mơ.” Yamashita nói xong rồi im bặt. “Giấc mơ đáng sợ lắm à?” “Ừ... Chúng mày biết ở nhà tao có con hổ bông to đùng đúng không?” “Ừ.” “Hồi nhỏ tao toàn dùng nó để làm đối thủ vật nhau thôi.” Tôi rất muốn nói là “Bây giờ mày vẫn làm vậy mà” nhưng lại thôi. “Trong mơ, tao thấy mình đang vật nhau với nó. Nhưng lúc sau tao để ý, đó lại không phải là con hổ bông ấy nữa... mà là xác của bà tao.” “U oa ha ha ha ha!” Wakabe cắt ngang. Nó cười phá lên như bị ai cù. Yamashita lườm nó một cái rồi lại tiếp tục câu chuyện, vờ không để ý. “Thứ đó... giống hệt như thú nhồi bông. Hoàn toàn chẳng có phản ứng gì cả. Tao đá một cái thì chỉ thấy lún vào thôi. Nó cũng chẳng kêu đau gì hết. Thứ đó là đồ vật. Là vỏ thôi.” “Là vỏ thôi ?" Yamashita gật gù. “Thứ đó đáng sợ lắm!” Đúng là khi nghe câu ấy, tôi rợn hết cả tóc gáy. Dù đã xem rất nhiều cảnh giết người lẫn xác người chết trên ti vi và truyện tranh, tôi vẫn chưa từng cảm thấy như thế bao giờ. “Chết rồi thì sẽ ra sao nhỉ? Chẳng phải như thế là hết sao? Hay là...” “Có ma đấy.” Yamashita mím môi nói. “Chỉ có điều là... ma ấy... từ trước đến giờ tao vẫn nghĩ chỉ giống một thứ nhẹ bỗng thôi. Nhưng mà...” “Nhưng mà gì?” “Chắc chắn là nặng lắm. Rất nặng. Cứ như bao cát ấy.” Nếu người chết chỉ là một cái vỏ đúng như Yamashita nói thì ma cũng chỉ như đồ vật mà thôi. Không giống như linh hồn hay ma trơi mà là thứ có thể tính được cân nặng như muối, đài cát xét hay túi rác... Mình chẳng muốn nhìn thấy số đo trên cái cân mà một con ma leo lên chút nào, tôi nghĩ. Tôi cảm thấy thật khó chấp nhận việc một con ma lại có cân nặng. “Giá tao không phải đi dự đám tang thì tốt quá.” Yamashita nói cụt lủn, đoạn đá mũi giày xuống mặt đất. Đột nhiên, Wakabe nhảy dựng lên, đứng giạng chân trên ghế băng. Bà cụ ngồi ở ghế bên cạnh liền ôm ghì cái xắc tay vào lòng, tỏ vẻ dè chừng. Wakabe vừa cười vừa gào lên như bị dở hơi. “Ta là người bất tử đây!” * * * Rất lâu sau đó chúng tôi không nhắc đến chuyện bà của Yamashita nữa và lại tiếp tục những ngày bình thường. Yamashita đã hoàn toàn trở lại như trước. Còn Wakabe, đứa có ít nói hơn một chút thì cũng không có gì khác biệt, ngoại trừ vụ “phát tác” ở bến xe buýt kia ra, nó có vẻ như đã quên chuyện đám tang. Nhưng vào hôm Wakabe thay cặp kính mới... Sau giờ tan học, tôi và Yamashita bị gọi tới bãi đậu xe của chung cư nhà nó. “Chuyện quan trọng là chuyện gì thế?” Tôi có dự cảm chẳng lành vì Wakabe tỏ ra phấn khích quá độ. “Này, thẳng từ bến xe rẽ vào có một lớp thư pháp đúng không?” “À, hội quán Negishi ấy hả?” Thay cho những ngôi nhà cổ còn sót lại trong lãng quên, nơi đó lại lộn xộn hàng đống những căn nhà gỗ tạm bợ mái ngang ọp ẹp đến độ có muốn nịnh cũng không thể khen đẹp. “Trong ngôi nhà ở bên cạnh chỗ đó có một ông cụ sống một mình đấy.” “Ồ!” Wakabe hết nhìn Yamashita lại nhìn sang tôi bằng ánh mắt chứa chan hy vọng. Nhắc tới Yamashita, dường như nó cũng có dự cảm xấu giống tôi, suốt từ nãy đến giờ chẳng nói câu nào. “Thế thì sao?” Tôi hỏi. “Thế thì sao cái gì? Tao có nghe mẹ tao nói chuyện với bà bác hàng xóm. Họ nói là ‘ông cụ ấy nghe đâu đã chết rồi cơ mà?’ ” Tôi không hiểu nổi chuyện mà Wakabe định nói. “Kiyama, mày chưa từng thấy người chết mà.” “À... à...” “Tao cũng vậy.” “Mà thế thì sao chứ?” “Tức là…” Mắt kính của Wakabe lóe lên lấp lánh. Trông vô cùng dễ sợ! “Mày nghĩ một người già sống một mình, một ngày nọ đột nhiên chết thì sẽ thế nào?” “Thế nào thì... nếu chết cô độc thì...” Sẽ như thế nào nhỉ. Không có bạn bè cũng không có gia đình, nếu muốn nói lời trăng trối cũng chẳng có ai nghe. Có lẽ những lời đó sẽ hòa vào không khí trong căn phòng và nhanh chóng tan biến. Giống như chẳng nói gì. Cả những lời như “Tôi không muốn chết”, “Khó chịu quá”, “Đau quá”, “Khổ quá” hay “Tôi đã rất hạnh phúc” cũng không thể chia sẻ. “Mình sẽ khám phá việc “Hả?” “Vụ ông cụ chết một mình ấy!” “Ai làm?” “Bọn mình chứ ai!” “Tao á? Tao đi về!” Yamashita đột nhiên hét lên. Nhưng Wakabe đã nhanh chóng túm lấy cổ áo nó, nhất mực không buông. “Mày mà không đi thì gay cho tụi tao lắm. Vì chỉ có mình mày là đứa từng thấy người chết thôi.” “Không chịu đâu! Không chịu đâu! Không chịu đâu!” “Được rồi. Tụi tao sẽ theo dõi ông cụ ấy. Còn việc ông ấy còn sống hay không thì, Yamashita, chắc mày là người hiểu rõ nhất.” Yamashita đáng thương trông như sắp òa khóc. Wakabe đúng là hâm mất rồi. “Mày đang nghĩ cái gì vậy hả?” Tôi chán nản nói. “Lũ kền kền ăn xác động vật chết. Hễ tìm thấy động vật sắp chết là chúng đến đợi sẵn, bay vòng vòng phía trên hí hửng chờ kiếm một bữa. Mày là kền kền hả? Đồ ngớ ngẩn kia!” Nghe tôi nói vậy, Wakabe gục đầu xuống, tiu nghỉu hẳn. Yamashita được thả cổ áo ra liền ho khù khụ. “Tao...” Wakabe nói, giọng yếu ớt. “Suốt từ đó đến giờ tao toàn nằm mơ thấy bà của Yamashita. Tao chưa từng gặp bà ấy bao giờ, vậy mà trong mơ bà ấy cứ đổ lên người tao! Nặng lắm, tao không cử động nổi. Hoặc có khi tao choàng tỉnh, xung quanh toàn là lửa. Tao thấy mình bị thiêu trong một đường hầm chật chội. Tao hét lên ‘Cứu tôi với, tôi còn sống’ thì tỉnh giấc!” “À à!” Tôi bất giác thở dài. Về đoạn này thì, tối nào tôi chẳng nằm mơ giống như vậy. “Gần đây, tao toàn nghĩ đến chuyện về người chết, rồi chuyện khi nào mình sẽ chết, lúc chết rồi thì sẽ thành thế nào? Nhưng mà con người dẫu có biết khi nào mình chết thì cũng chẳng chịu tin đâu.” “Tao cũng nghĩ vậy.” Tôi và Yamashita đồng thanh nói. “Thấy chưa?” Wakabe đột nhiên trông tươi tỉnh hẳn, nhìn chúng tôi. “Cứ quanh quẩn nghĩ tới những việc mà dù mình có biết cũng không thể tin nổi, lại chẳng phát khùng lên ấy chứ. Giống như việc nhịn đi tiểu ấy.” “Ờ thì...!” Tôi nói. “Tao chịu hết nổi rồi! Hồi trước lúc mới nghe câu ‘con người tiến bộ là nhờ vào khao khát tìm hiểu’, nói thật là tao chẳng hiểu cái quái gì cả. Nhưng ở cái tuổi mười hai này, cuối cùng tao nhận ra rằng ngay cả tao cũng có khao khát tìm hiểu. Hôm qua, lúc đi qua cầu... tao đã trèo thử lên lan can.” “Ực,” tiếng Yamashita nuốt nước bọt. “Xe điện đang rầm rập lao đến từ hướng ngược lại, tao nghĩ nếu mình nhảy xuống thì chắc chắn sẽ bị xe điện đâm chết ngay tức khắc. Thế rồi tao cảm thấy như có gì thôi thúc mình nhảy xuống.’” Trong đầu tôi, tiếng còi hiệu của đoàn tàu rúc lên gay gắt. “Nhưng lúc đó tao lại nhớ đến tụi mày. Làm vậy thì dù có biết chết là như thế nào cũng chẳng kể cho chúng mày nghe được.” Wakabe lại chìm trong một cơn cười sặc sụa như mọi khi. “Lúc xuống khỏi lan can, nói thật tao cũng vãi cả ra quần!” Tôi bỗng cảm thấy có đôi chút kính nể Wakabe. Nó đúng là hơi hâm thật, nhung cừ hơn một đứa nhát gan như tôi rất rất nhiều. Muốn biết thì cũng phải có gan tìm hiểu. “Cũng được!” “Nghĩa là...” Yamashita run rẩy hỏi. “Nhưng tóm lại...” Tôi tránh né ánh mắt như sẵn sàng ăn tươi nuốt sống bất kỳ ai của Yamashita. “...là tuyệt đối không gây phiền hà cho ông cụ ấy.” “Hả?” “Tuyệt vời! Hai thắng một rồi nhé!” Wakabe nhảy cẫng lên.