Chương 1

Ai đã có lần ghé vào phòng làm việc của một trạm bưu điện nông thôn nước Áo thì có thể coi như mình đã biết tất cả các trạm bưu điện khác, bởi lẽ chúng hầu như chẳng khác nhau là bao. Vẫn những đồ vật được sắp đặt, hay nói cho đúng hơn là được quy định sắp đặt theo một quy chế thống nhất, vẫn những dụng cụ có từ thời Franz Josef[1] và ở bất cứ đâu những vật dụng ấy đều mang dấu ấn của thói quan liêu nặng nề, ngay cả ở tận những xóm làng hẻo lánh vùng Tyrol băng giá cũng thế.

Trong các trạm bưu điện ấy lúc nào cũng bốc lên mùi tù hãm của thuốc lá rẻ tiền và bụi giấy, những mùi vị đặc trưng cho các phòng giấy của nước Áo cổ. Các trạm bưu điện đó dù có ở nơi nào cũng đều được thiết kế giống nhau: từ tấm vách ngăn bằng gỗ với những ô cửa sổ nhỏ lắp kính chia căn phòng theo một tỷ lệ nhất định, như muốn ngăn đôi thế giới thành hai khu vực - khu vực dành cho khách hàng và cho nhân viên phục vụ.

Trong khu vực dành cho mọi người chẳng có lấy một chiếc ghế hoặc những đồ dùng cần thiết dành cho khách hàng, điều ấy đã nói lên một cách rõ ràng rằng chính phủ rất ít quan tâm đến sự có mặt trong giây lát của mọi công dân trong khu vực ấy. Đồ gỗ duy nhất ở đây thường chỉ có một chiếc bàn viết phủ vải sơn dựng hờ hững vào tường.

Tấm vải sơn nứt nẻ, loang lổ vết mực dù chẳng ai nhớ nổi trong cái lọ mực được bắt chặt trên mặt bàn đã bao giờ có một thứ gì, ngoài một chất lỏng lổn nhổn như cháo. Còn nếu tình cờ cạnh đấy có một chiếc bút thì chắc chắn là ngòi bút bị tòe, không thể viết được.

Cơ quan ngân khố quốc gia chẳng những chỉ tiết kiệm trong các tiện nghi mà ngay cả trong hình thức cũng vậy. Kể từ khi nước Cộng hòa ra lệnh bãi bỏ các bức chân dung của Franz Josef đến nay thì vật trang trí duy nhất ở những nơi công cộng là những tấm quảng cáo lòe loẹt dán đầy trên các bức tường không quét vôi bẩn thỉu, kêu gọi mọi người đến xem các phòng triển lãm đã đóng cửa từ lâu hoặc mua vé xổ số.

Còn trong một vài văn phòng khác, ít được ai ngó tới, vẫn treo những tấm áp phích hô hào mọi người mua công trái chiến tranh, với những thứ trang trí rẻ tiền như vậy lại còn kèm theo một lời yêu cầu không được hút thuốc lá và hầu như chẳng ai thèm chấp hành, sự hào phóng của quốc gia trong các văn phòng bưu điện chỉ được giới hạn có từng ấy.

[1] Franz Josef (1830 - 1916): hoàng đế Đế quốc Áo - Hung từ năm 1848 tới năm 1916. Tuy nhiên, ngăn của nhân viên phục vụ trông có vẻ đáng kể hơn nhiều. Tại đây, với một quy mô thích hợp, chính phủ muốn phô trương sự hùng cường của mình dưới mọi hình thức. Ở góc phòng thường đặt một chiếc két sắt chống cháy mà dựa vào những chấn song lắp trên cửa sổ ta có thể đoán được trong chiếc két ấy đôi khi có chứa những khoản tiền lớn.

Trên bàn làm việc ngự trị chiếc máy điện báo bằng đồng thau sáng loáng, trông như một vật trang sức quý giá. Cạnh đấy là chiếc máy điện thoại đang yên nghỉ trên cái giá đỡ mạ kền. Hai thứ dụng cụ trên được cố tình để riêng ra trong một vị trí trang trọng như vậy bởi lẽ chúng đã nối liền cái thôn hẻo lánh này với mọi miền của đất nước bằng những dây dẫn bằng đồng.

Những dụng cụ vặt vãnh còn lại của ngành bưu điện đành phải chịu cảnh lép vế: những chiếc cân và những chiếc túi đựng thư, các bảng tra cứu, những chiếc cặp giấy nhét đầy sổ sách, cuốn sổ thống kê, chiếc hộp tròn đựng tiền trả cước phí đầy tiền xu hễ cứ động vào là kêu lẻng xẻng, những quả cân, những chiếc bút chì xanh, đỏ, đen và bút chì hóa học, những chiếc kẹp giấy, cuộn giấy buộc hàng, hộp đựng xi, miếng bọt biển thấm nước, cái bàn thấm, con dao rọc giấy, lọ keo cùng với những chiếc kéo - tất cả những dụng cụ khác nhau đó đành phải chen chúc lộn xộn nơi mép bàn.

Còn trong các ngăn kéo thì nhét đầy mọi thứ giấy tờ đủ loại và những biểu mẫu. Thoạt nhìn, tất cả cái đống vật dụng ấy có vẻ như được sử dụng rất hoang phí, nhưng cảm giác ấy hoàn toàn sai lầm - Nhà nước thường xuyên kiểm tra rất nghiêm ngặt từng thứ vật dụng rẻ tiền mau hỏng đó.

Từ mẩu bút chì cho đến con tem rách, từ tờ giấy thấm nhàu nát cho tới mẩu xà phòng ở chỗ rửa tay, từ chiếc bóng điện chiếu sáng văn phòng cho tới chìa khóa để khóa văn phòng lại - chính phủ yêu cầu các nhân viên phục vụ phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về tất cả những tài sản quốc gia đó, cho dù chúng đã hỏng hay đang sử dụng.

Bên cạnh chiếc lò sưởi bằng gang có treo một bảng đánh máy liệt kê tất cả mọi thứ vật dụng, bên dưới có đóng dấu hẳn hoi và một chữ ký loằng ngoằng. Với một sự chính xác của toán học, tất cả mọi thứ dụng cụ, kể cả những thứ rẻ tiền và không đáng kể của trang thiết bị đã được tính toán, cân nhắc để cung cấp cho từng trạm bưu điện tương ứng.

Không một thứ vật dụng nào không có tên ở trong bảng lại có quyền tồn tại trong phòng làm việc, và ngược lại mỗi một dụng cụ có tên trong bảng phải luôn luôn có mặt trong phòng để bất cứ lúc nào cũng có thể sử dụng được. Chính quyền, luật lệ và thể chế đã quy định như vậy.

Nghiêm khắc mà nói thì trong cái bảng liệt kê được đánh máy cẩn thận ấy cần phải ghi thêm một nhân vật nữa - đó là người nhân viên cứ sáng sáng vào đúng bảy giờ lại nhấc tấm kính ở vách ngăn ra rồi đưa toàn bộ cái thế giới vô tri vô giác ấy vào hoạt động. Người đó sẽ mở các bao thư, đóng dấu vào các bức thư, thanh toán các giấy chuyển tiền, viết hóa đơn, cân các bưu kiện, ghi chép và đánh những cái dấu bí hiểm không ai hiểu nổi lên giấy tờ bằng bút chì xanh đỏ, nhấc ống nghe lên và quay điện thoại.

Nhưng có lẽ vì tế nhị mà người ta không đưa cái nhân vật vẫn thường được khách hàng gọi là nhân viên bưu điện ấy vào trong bảng liệt kê vật dụng nói trên. Tên họ của người đó đã được đăng kí trong một bộ phận khác của ban giám đốc bưu điện. Tuy nhiên cũng giống như những thứ vật dụng khác, người đó cũng nằm trong diện được kiểm tra thường xuyên.

Trong căn phòng làm việc đáng tôn kính ấy hầu như không bao giờ xảy ra một sự thay đổi đáng kể nào. Những quy luật vĩnh cửu về cuộc sống và cái chết đành phải lùi bước khi đụng vào bức tường chắn của quốc gia. Xung quanh bưu điện, cây cối đâm chồi nảy lộc rồi trút lá, trẻ con lớn lên còn người già lại chết đi, những ngôi nhà cũ kỹ ọp ẹp đổ sập xuống và người ta lại xây những ngôi nhà mới, chỉ riêng cái công sở của nhà nước ấy là vẫn khoa trương sức mạnh không hề bị khuất phục bởi bất cứ điều gì.

Bởi lẽ, trong cái môi trường ấy, mỗi một vật dù bị mòn hay bị mất, bị hỏng hay bị gãy, liền được các nhà chức trách yêu cầu phải thay thế ngay bằng một tiêu bản khác giống y như vậy. Chính điều đó đã chứng minh sự hơn hẳn của cơ quan nhà nước với thế giới bên ngoài đang tàn rữa.

Nội dung chứa đựng bên trong có thể chỉ nhất thời nhưng hình thức thì không bao giờ thay đổi. Trên bức tường có treo một tấm lịch. Cứ mỗi ngày trôi qua, một tờ lịch lại được bóc đi. Sau một tuần mất bảy tờ, sau một tháng - ba mươi tờ. Vào ngày ba mươi mốt tháng mười hai, khi lốc lịch đã hết, người ta làm đơn xin cái mới, cũng với kích thước y như vậy, hình thức ấn loát y như vậy.

Và thế là một năm mới đã bước sang nhưng tấm lịch thì vẫn như cũ. Trên bàn có một cuốn sổ kế toán với những hàng số chi chít. Khi những dãy số ở hàng bên trái vừa cộng xong, kết quả liền được đưa sang hàng bên phải và công việc tính toán lại tiếp tục, hết trang này đến trang khác.

Khi trang cuối cùng được viết kín cuốn sổ cũng coi như hết, lại bắt đầu một cuốn mới, vẫn hình dạng y như thế, chiều dày y như thế, không khác chút nào so với cuốn trước. Còn tất cả mọi công việc đã kết thúc trong ngày hôm ấy thì hôm sau sẽ bắt đầu lại, tẻ nhạt, đơn điệu như chính bản thân công việc.

Trên mặt bàn sẽ lại xuất hiện chính những đồ vật ấy, vẫn những tập biểu mẫu in sẵn với những cây bút chì, vẫn những chiếc kẹp giấy và những tờ phiếu ghi, lần nào công việc cũng có vẻ như mới nhưng thực ra vẫn như cũ. Không có chuyện gì thay đổi hoặc thêm vào trong cái thế giới do nhà nước quản lý này.

Cuộc sống cứ thế lặp đi lặp lại, không chút sinh khí, nói cho đúng hơn là sự chết dần chết mòn ấy không bao giờ chấm dứt. Điều duy nhất khác nhau giữa những đồ vật là nhịp độ hao mòn và khả năng phục hồi của chúng, nhưng điều đó hoàn toàn không phụ thuộc vào bản thân đồ vật.

Chiếc bút chì chỉ tồn tại trong một tuần và sau đó được thay bằng chiếc khác giống y như chiếc cũ. Cuốn sổ bưu điện sống được một tháng, chiếc bóng điện - ba tháng, còn tấm lịch thì một năm. Chiếc ghế mây được quy định phải dùng trong ba năm mới được thay thế còn người ngồi trên đó thì phải ngồi suốt đời - khoảng ba mươi đến ba lăm năm.

Sau đó trên chiếc ghế ấy người ta sẽ bổ nhiệm một người khác, song chiếc ghế vẫn như cũ, chẳng khác gì chiếc trước. Vào năm 1926, trong trạm bưu điện Klein-Reifling nằm ở một làng nhỏ bình thường cạnh thành phố Krems và cách thủ đô Vienna khoảng hai giờ xe lửa, thứ vật dụng có thể thay thế được mà ta vẫn thường gọi là “nhân viên phục vụ” lại là một người phụ nữ.

Và bởi lẽ trạm bưu điện này được xếp vào loại nhỏ, do đó người nhân viên cũng chỉ được mang tước vị “trợ lý ngành bưu điện”. Qua tấm kính của vách ngăn ta không thể nhìn rõ cô gái được, nhưng có thể thấy một khuôn mặt thiếu nữ nhìn nghiêng không có gì đặc biệt song rất dễ thương: cặp môi nhỏ, đôi má hơi nhợt nhạt, phía dưới cặp mắt có một quầng tối.

Vào buổi chiều, khi cô gái bật ngọn điện sáng gắt lên, người tinh mắt có thể nhận thấy một vài nếp nhăn nhỏ trên trán và hai bên thái dương. Mặc dù vậy, bên cạnh cành miên quỳ lấp ló sau khung cửa sổ và bó hoa cơm cháy sáng nay cô vừa cắm trong chiếc lọ bằng sắt tây, cô gái vẫn là một đối tượng sinh động hơn cả giữa những vật dụng của trạm bưu điện Klein - Reifling.

Và cũng dễ dàng nhận thấy cô gái ấy còn có thể tiếp tục công việc của mình ít nhất là hai mươi lăm năm nữa. Bàn tay nhỏ nhắn với những ngón tay trắng xanh kia sẽ còn phải nhấc lên đặt xuống hàng nghìn lần nữa cái tấm kính ngăn. Và hàng trăm nghìn lần nữa, mà cũng có thể là hàng triệu lần nữa, bằng những động tác máy móc, cô sẽ còn phải đặt những bức thư lên miếng đệm cao su, rồi cũng hàng nghìn lần nữa có thể hàng triệu lần nữa, đóng cái dấu bằng đồng nhem nhuốc lên những con tem.

Có lẽ cái thao tác thành thạo của cánh tay cô gái sẽ ngày càng trở nên chính xác hơn, nhanh nhẹn hơn nhưng đồng thời cũng trở nên vô ý thức hơn. Hàng trăm nghìn bức thư nữa sẽ qua tay cô gái, tất nhiên những bức thư khác nhau nhưng chúng luôn luôn chỉ là những bức thư, và những con tem dẫu có khác nhau, nhưng dù sao thì đó cũng chỉ là những con tem.

Những tháng ngày khác nhau sẽ trôi qua, nhưng ngày nào cũng bắt đầu từ tám giờ sáng, đến mười hai giờ trưa, từ hai giờ chiều đến sáu giờ tối, rồi năm tháng sẽ trôi qua, không chút hứng thú, không chút thay đổi vì vẫn chỉ là những công việc ấy, cứ lặp đi lặp lại mãi. Cũng có thể vào chính cái buổi trưa mùa hạ êm ả ấy, người thiếu nữ có mái tóc màu hung nhạt ngồi sau ô cửa kính đang nghĩ về tương lai của mình, mà cũng có thể nàng chỉ đang mơ mộng.

Dù có thế nào thì cô gái vẫn ngồi đấy, hai cánh tay tuột khỏi mặt bàn nằm yên trên đầu gối, những ngón tay thon nhỏ, trắng xanh mệt mỏi đan vào nhau. Vào những buổi trưa tháng bảy oi nồng với bầu trời xanh nhạt như thế này, trong trạm bưu điện Klein - Reifling hầu như chẳng có việc gì làm.

Công việc buổi sáng đã kết thúc, người đưa thư Hinterfellner, một người đàn ông gù lưng lúc nào cũng nhai thuốc lá đã chuyển xong những bức thư từ lâu. Từ giờ đến chiều tối sẽ chẳng có một cái công văn hoặc một mẫu hàng nào từ các nhà máy gửi đến nữa, còn người dân trong làng thì chẳng muốn hoặc chẳng có thời gian đâu mà viết thư.

Những người nông dân đầu đội mũ rơm rộng vành đang vun gốc nho, đám trẻ con chân đất vẫn đang nghỉ hè thì dẫn nhau ra sông. Mảnh sân lát đá trước cửa vắng hoe bị ánh nắng mặt trời nung nóng. Giá bây giờ được ngồi ở nhà thì thật là tuyệt và cũng thật là tuyệt nếu được ngồi yên mà mơ mộng.

Dưới bóng râm của cánh cửa chớp, những tờ biểu mẫu và những tấm bưu ảnh đang ngủ yên trên giá và trong hộp gỗ, chiếc máy điện báo uể oải lười biếng hắt ra ánh kim loại trong bóng tối nhờ nhờ vàng đục. Sự tĩnh lặng giống như một lớp bụi vàng dày đặc bao trùm lên tất cả mọi thứ dụng cụ trong phòng, chỉ còn lại dàn nhạc violon nhỏ xíu của đàn muỗi và của bầy ong đất là vẫn còn tiếp tục chương trình hòa nhạc buổi chiều của mình ngoài khung cửa.

Vật duy nhất còn hoạt động trong căn phòng mát mẻ là quả lắc chiếc đồng hồ treo tường vỏ gỗ treo giữa hai khuôn cửa sổ. Mỗi một giây trôi qua, chiếc đồng hồ nuốt chửng một giọt thời gian. Tuy nhiên tiếng lắc đều đều yếu ớt của nó chỉ càng làm cho người ta dễ ngủ hơn là đánh thức người ta dậy.

Cô gái trợ lý ngành bưu điện vẫn ngồi yên trong cái thế giới nhỏ bé của mình và uể oải thiếp đi với một cảm giác dễ chịu. Đúng ra mà nói, cô cũng định tranh thủ thêu thùa một chút. Cô đã chuẩn bị sẵn kim chỉ và một chiếc kéo nhỏ, nhưng tấm vải thêu tuột khỏi đầu gối rơi xuống đất, nhặt nó lên thì cô không đủ sức và cũng chẳng có ý định ấy.

Ngửa người ra thành ghế, cô gái nhắm mắt lại thở nhè nhẹ, hoàn toàn đắm chìm trong cảm giác khoan khoái, dễ chịu vì được nghỉ ngơi. Những giây phút như vậy thật hiếm trong đời nàng. Thế rồi bỗng nhiên: tạch - tạch! Nàng giật mình bừng dậy. Những chiếc gõ kim loại nghe vội vã, dứt khoát: tạch - tạch.

Cái thiết bị của Morse vẫn bướng bỉnh gõ đều đều, nhanh hơn cả tiếng quả lắc đồng hồ. Cái bức điện ấy, vị khách hiếm hoi của Klein-Reifling muốn người ta phải đón tiếp mình một cách kính cẩn. Ngay lập tức cô gái bừng tỉnh, bước vội đến chiếc bàn để máy và đỡ lấy băng giấy.

Nhưng vừa dịch xong hàng chữ đầu tiên, nàng đỏ bừng mặt đến tận chân tóc. Bởi lẽ từ trước đến nay, kể từ khi bắt đầu làm việc ở đây, lần đầu tiên nàng nhìn thấy tên mình trên băng giấy. Bức điện đã chuyển xong, nàng đọc lại lần thứ hai rồi lần thứ ba, nhưng hoàn toàn không hiểu một chút gì.

Tại sao lại thế nhỉ? Có chuyện gì vậy? Người nào đã nghĩ ra chuyện đánh điện cho nàng từ thành phố Pontresina. “Christine Hoflehner, Klein-Reifling, nước Áo. Chúng tôi rất vui mừng đợi cô. Hãy đến vào bất cứ ngày nào. Báo trước cho biết ngày có mặt. Hôn cô Claire-Anthony.” Nàng đăm chiêu suy nghĩ: không biết người mang tên Anthony ấy là ai, đàn ông hay đàn bà? Hay có thể một người bạn đồng nghiệp nào đó đã nghĩ ra chuyện này để đùa nàng? Nhưng rồi nàng bỗng nhớ lại, cách đây không lâu, mẹ nàng có nói rằng vào mùa hè này, dì nàng, đúng rồi bà dì ấy tên là Klara, sẽ sang châu u.

Như vậy thì Anthony có lẽ là tên chồng dì, mẹ vẫn thường gọi ông ấy là Anton. Đúng, bây giờ thì nàng nhớ ra cách đây không lâu chính nàng đã mang về cho mẹ một bức thư từ thành phố Cherbourg, tuy nhiên không hiểu tại sao mẹ lại giấu không nói cho nàng biết nội dung bức thư ấy. Nhưng bức điện này lại gửi cho nàng cơ mà.

Chẳng lẽ chính nàng sẽ đi Pontresina? Đã có ai nói gì về chuyện ấy đâu. Nàng lại nhìn vào cái băng giấy, nhìn vào bức điện đầu tiên nàng nhận được ở đây một lần nữa, đọc lại nó với một sự ngỡ ngàng xen lẫn tò mò, nghi hoặc, hoàn toàn không hiểu tí nào về những gì viết trong đó.

Không, nàng không thể chờ đến giờ nghỉ trưa được. Cần phải hỏi mẹ xem tất cả những chuyện này nghĩa là thế nào?” Christine cầm chìa khóa, đóng cửa văn phòng lại và chạy về nhà. Trong lúc vội vã, nàng quên tắt chiếc máy điện báo, và thế là trong căn phòng vắng ngắt chiếc phím nhỏ bằng đồng thau vẫn cứ gõ mãi một cách bực bội lên băng giấy trắng.

Dòng điện chuyển động nhanh hơn ý nghĩ. Giống như một tia chớp trắng, ba mươi mốt từ vừa rồi đã lao vào căn phòng tù hãm nửa tỉnh, nửa mê của trạm bưu điện nước Áo, chỉ mới được viết ra trước đó vài phút. Nó đã kịp băng qua ba quốc gia để đến đây. Bức điện xuất phát từ một miền đất có những con sông băng lạnh lẽo màu xanh nhạt, dưới bầu trời thiên thanh trong suốt của thành phố Engadine.

Và khi những dòng chữ của người gửi trên bưu điện còn chưa kịp khô thì ý nghĩa của chúng đã kịp làm cho một trái tim phải bối rối. Sự việc đã xảy ra như sau: Ngài Anthony van Boolen vốn là một người Hà Lan làm nghề môi giới (nhiều năm trước ông đã sang miền Nam Hoa Kỳ với nghề kinh doanh bông vải), một người đàn ông tốt bụng nhưng lãnh đạm và hoàn toàn không có gì đặc biệt vừa mới dùng xong bữa sáng trong phòng ăn trên sân thượng lắp kính sáng sủa của khách sạn Palace.

Bây giờ cần phải kết thúc bữa sáng bằng một điếu xì gà Habana hảo hạng màu nâu sẫm được chở thẳng tới đây từ nơi chế tạo, trong những lớp giấy bọc mà ngay đến không khí cũng không lọt qua được. Khi vừa rít xong hơi đầu tiên, hơi thuốc ngon nhất đối với dân nghiện, con người phì nộn ấy liền gác chân lên chiếc ghế mây bên cạnh rồi giở tờ báo New York Herald to như cánh buồm ra và bắt đầu bơi trong cái biển thị trường chứng khoán.

Vợ ngài, bà Claire - trước kia vẫn thường được gọi là Klara, với vẻ mặt buồn chán đang ngồi trước mặt ngài bóc từng múi bưởi. Theo kinh nghiệm tích lũy từ nhiều năm nay, bà Claire hiểu rằng mọi cuộc nói chuyện không thể nào làm sao nhãng việc đọc báo buổi sáng của chồng. Nhưng vừa lúc ấy cô nhân viên phục vụ khách sạn, một cô gái mặc áo hồng, đội mũ nâu, khá ngộ nghĩnh, bất ngờ xuất hiện và trao cho bà bưu phẩm vừa mới nhận được.

Trên chiếc khay chỉ có mỗi bức thư. Rõ ràng là nội dung của bức thư đã làm cho bà Claire rất quan tâm vì vậy bà quên mất cái kinh nghiệm đã tích lũy được, định cố lôi chồng ra khỏi tờ báo. - Anthony, mình nghe này, - bà nói trong lúc tờ báo vẫn không động đậy - Anthony, tôi không muốn làm phiền mình đâu, chỉ xin mình một phút thôi vì có việc này quan trọng lắm.

Có thư của chị Mary - bà vô tình gọi tên người chị gái bằng tiếng Anh. - Mary viết rằng chị ấy không thể đến được mặc dù rất muốn. Chị ấy bị đau tim rất nặng. Bác sĩ bảo chị ấy không chịu nổi khi sống ở độ cao trên hai nghìn mét. Nhưng nếu chúng ta không phản đối, chị ấy sẽ cho Christine đến chơi với chúng ta khoảng hai tuần lễ.

Mình cũng biết đấy, Christine là con gái út của Mary, cô bé tóc sáng ấy mà. Mình đã nhìn thấy ảnh của nó từ dạo trước chiến tranh. Christine làm việc ở văn phòng dịch vụ và chưa lần nào nghỉ phép, nếu xin nghỉ người ta có thể đồng ý ngay. Tất nhiên là con bé sẽ rất sung sướng vì suốt nhiêu năm nay nó vẫn “kính trọng dì và dượng Anthony quý mến”… bà Claire còn nói một thôi một hồi nữa.

Tờ báo vẫn không động đậy. Bà Claire sốt sắng: - Mình nghĩ thế nào, có mời con bé ấy không?… Cho nó hít tí không khí trong lành cũng chẳng hại gì. Dẫu sao thì tôi cũng đã đến đây cho nên cũng cần phải gặp mặt con gái Mary, quan hệ họ hàng từ lâu đã bị gián đoạn rồi. Mình không phản đối chứ, nếu như tôi mời cô bé ấy? Tờ báo hơi động đậy một chút.

Đầu tiên, một vòng khói tròn màu xanh nhạt bay ra khỏi mép từ báo sau đó là một giọng nói ề à, dửng dưng: - Tôi không phản đối. Có gì mà phản đối cơ chứ![2] [2] Nguyên văn bằng tiếng Anh: Not at all. Why should I? Bằng một câu trả lời ngắn ngọn như vậy, cuộc nói chuyện kết thúc sau khi đã quyết định trước một bước ngoặt quan trọng cuộc đời của một người nào đó.

Thế là sau mười năm, quan hệ ruột thịt đã được nối lại, bởi lẽ, mặc dù bà Claire van Boolen mang một cái họ quý tộc thì chữ “van” trong tên bà cũng chỉ là một tiếp đầu ngữ Hà Lan thông thường mà thôi, và cho dù hai vợ chồng bà có nói chuyện với nhau bằng tiếng Anh, bà cũng chẳng vì thế trở thành một người khác mà vẫn là em ruột của Marie Hoflehner, có nghĩa là dì ruột của cô nhân viên trạm bưu điện Klein-Reifling.

Bà Claire van Boolen đã rời bỏ nước Áo hơn hai mươi lăm năm về trước vì một lý do mờ ám nào đó. Sự việc ấy bà chỉ còn nhớ mang máng - trí nhớ của chúng ta quả là rộng lượng - và người chị gái của bà cũng chẳng bao giờ kể cho các con của mình biết về chuyện ấy. Tuy nhiên vào những năm đó, câu chuyện đã gây biết bao tai tiếng và chắc chắn sẽ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng nếu như những người thông minh và tháo vát không kịp thời dẹp ngay cái nguyên cớ đã khơi nên sự chú ý của mọi người.

Cũng vào những năm ấy, bà Claire van Boolen mà chúng ta đang nhắc đến chỉ là một cô gái bình thường mang tên Klara và làm người mẫu trong một tiệm quần áo ở Kohlmarkt. Chính cô gái có thân hình uyển chuyển và cặp mắt sắc sảo ấy đã gây được ấn tượng mạnh mẽ với một nhà buôn gỗ đã có tuổi, trong lần ông đưa vợ đến để thử quần áo.

Với tất cả nỗi tuyệt vọng của ngọn lửa tình bỗng bừng lên trước khi tàn lụi, nhà buôn giàu có, vẫn còn đương sung sức, đã yêu mê mẩn cô gái trẻ có mái tóc vàng rực. Ông đã tán tỉnh nàng với một sự hào phóng đáng ngạc nhiên ngay với cả những người trong tầng lớp của mình.

Thế là sau đó không lâu, bất chấp mọi sự phản đối của những người họ hàng đứng đắn, cô gái làm mẫu mười chín tuổi đã đồng ý dạo chơi trong chiếc xe Fiat sang trọng với những đồ trang sức và quần áo len dạ đắt tiền. Những thứ ấy trước kia cô chỉ được mặc mỗi khi đứng trước gương và trước những người khách hàng cầu kỳ, xét nét.

Càng trở nên kiều diễm bao nhiêu, cô gái lại càng làm cho người bảo trợ có tuổi của mình say đắm bấy nhiêu và điều đó lại càng làm cho công việc buôn bán của ông trở nên phát đạt, do vậy ông lại càng tỏ ra hào phóng hơn. Cuối cùng ông đã gần như phát rồ lên vì tình yêu sét đánh ấy.

Chỉ sau vài tuần cô đã làm cho người bảo trợ của mình mê mẩn đến nỗi theo yêu cầu của ông, người luật sư riêng đã bí mật chuẩn bị mọi thủ tục cần thiết để ông ly dị vợ, và cô gái được ông tôn thờ kia chỉ một chút nữa là trở thành người đàn bà giàu nhất thành Vienna.

Nhưng chính lúc ấy, vợ ông đã làm một việc thô bạo và ngu ngốc hòng ngăn cản đôi tình nhân, sau khi nhận được một bức thư nặc danh. Thật cay đắng và bất công vì sau ba mươi năm chung sống yên ổn bỗng nhiên người ta lại muốn gạt bà ra như gạt một con ngựa già. Điều ấy đã làm cho bà phát điên lên.

Bà liền sắm một khẩu súng ngắn và nhảy bổ vào văn phòng bí mật của đôi tình nhân không tương xứng lúc họ đang ân ái. Chẳng cần phải mào đầu này nọ, người vợ bị chọc tức liền nổ ngay hai phát súng vào kẻ đã phá hoại hạnh phúc của mình, một viên bị trượt còn viên kia trúng ngay vào vai.

Thực ra vết thương cũng chẳng có gì nguy hiểm nhưng sự việc tiếp theo lại chẳng dễ chịu chút nào: láng giềng đổ xô đến, những tiếng kêu cứu la hét vọng ra từ chiếc cửa sổ bị vỡ kính, cửa kính bị phá ra, người này người kia ngã lăn bất tỉnh, rồi cảnh cãi vã ầm ĩ, bác sĩ xuất hiện, cảnh sát đến lập biên bản về sự việc đã xảy ra.

Còn trước mắt, chắc chắn sẽ phải ra tòa. Đúng là một vụ xì căng đan mà những người tham dự ai nấy đều khiếp sợ. Tuy nhiên thật may mắn vì tất cả những kẻ giàu có, chẳng riêng gì ở Vienna mà ở khắp mọi nơi, đều có những luật sư tháo vát có khả năng lấp liếm được các vụ tai tiếng.

Và một bậc thầy giàu kinh nghiệm như thế đã xuất hiện, đó là ông cố vấn tư pháp Karplus. Ông ta, theo như người ta vẫn thường nói, đã cố gắng tìm ra một thứ thuốc giải độc. Ông cố vấn tư pháp nhã nhặn mời Klara đến văn phòng của mình. Cô gái xuất hiện trong bộ trang phục trang nhã, cánh tay được băng lại một cách cầu kỳ, tò mò đọc bản giao kèo trong đó có ghi rõ cô phải sang châu Mỹ trước khi bị tòa gọi đến.

Ở đó, ngoài khoản đền bù một lần vì sự thiệt hại, cô còn được một khoản trợ cấp nhất định: trong thời gian năm năm liền, chỉ với điều kiện cô phải sống thật yên lặng. Số tiền này cô sẽ được nhận vào ngày mùng một hằng tháng thông qua người luật sư. Sau vụ tai tiếng nói trên cho dù không có khoản trợ cấp ấy thì Klara cũng chẳng muốn tiếp tục làm người mẫu ở thành Vienna nữa, thêm vào đó cô còn bị bố mẹ đuổi ra khỏi nhà.

Klara thản nhiên đọc cho hết bốn trang trong bản giao kèo, nhanh chóng tính toán tổng số tiền mình sẽ được cấp và nhận ra rằng số tiền ấy chẳng phải là ít. Cô thử đòi thêm một ngàn gulden[3] nữa và yêu cầu này cũng được chấp nhận. Klara mỉm cười ký ngay vào bản giao kèo, rồi ngay sau đó lên đường vượt đại dương, không chút ân hận gì về quyết định của mình.

Ngay trên đường đi cô đã nhận được không ít những lời cầu hôn, nhưng cuối cùng cô quyết định chọn thành phố New York sau khi làm quen với chàng thanh niên van Boolen trong một quán trọ. Vào thời gian ấy van Boolen chỉ là một nhân viên thương mại bình thường của một hãng buôn Hà Lan, nhưng anh ta đã tính rằng với số vốn của vợ - một cô gái có quá khứ lãng mạn mà anh ta không chút nghi ngờ - anh sẽ làm nên sự nghiệp ở miền Nam nước Mỹ.

Sau ba năm họ sinh được hai đứa con, còn sau năm năm đã tậu được một ngôi nhà và sau mười năm đã có một số vốn đáng kể. Cuộc chiến tranh khiến châu u tàn lụi lại giúp những kẻ ở nơi khác phất lên như diều gặp gió. Giờ đây khi những đứa con của họ đã trưởng thành và có khả năng tiếp tục sự nghiệp của bố, bậc cha mẹ đã luống tuổi có thể cho phép mình làm một cuộc du lịch thoải mái sang châu u.

Và thật lạ lùng, khi bờ biển Cherbourg vừa ló ra khỏi màn sương mù, bà Claire bỗng cảm thấy trong lòng mình dâng lên tình cảm quê hương từ lâu bị quên lãng. Đã lâu rồi, từ trong thâm tâm bà vẫn tự cho mình là một người đàn bà Mỹ, nhưng khi vừa nhận ra dải đất kia chính là châu u, bà cảm thấy một nỗi buồn da diết về cái thời thanh nữ của mình.

Tối đến bà nằm mơ thấy chiếc giường nhỏ có những chấn song mà hồi trước bà đã từng ngủ trên đó với chị mình. Bà nhớ lại hàng nghìn chi tiết nữa và cảm thấy xấu hổ vì suốt từng ấy năm chưa hề viết một dòng nào cho chị gái góa bụa. Ý nghĩ về người chị không phút nào cho bà được yên và ngay sau khi vừa đặt chân lên đất liền, bà liền gửi một bức thư mời người chị đến chơi.

Trong lá thư ấy bà còn gửi theo tờ bạc một trăm đô la. [3] Gulden - Đơn vị tiền tệ của Áo. Còn bây giờ, trong giây phút khi mà bà van Boolen đã hiểu ra rằng thay vì phải mời người mẹ bà sẽ mời người con, bà liền vẫy nhẹ mấy ngón tay và ngay lập tức người bồi mặc bộ đồng phục nâu, đội mũ tròn vội lao đến như một hòn đạn.

Anh ta nhanh chóng hiểu ngay bà cần gì, liền mang đến cho bà một tờ giấy mẫu điện tín, rồi sau khi bà viết xong anh ta mang ngay ra bưu điện. Vậy là chỉ vài phút sau đó những dấu chấm và gạch được phát đi từ chiếc máy điện báo Morse đã vọt lên mái nhà, và như một tia chớp phóng theo những sợi dây điện bằng đồng dài hàng nghìn kilômét nhanh hơn bất cứ một chuyến tàu nào, bất cứ một chiếc ô tô nào.

Trong chớp mắt bức điện đã vượt qua biên giới, một cái chớp mắt nữa đã vượt qua hàng ngàn mái nhà nóc nhọn của thành phố Vorarlberg, vượt qua đất nước Liechtenstein nhỏ bé, vượt qua những thung lũng bị cắt ngang dọc của vùng Tyrol. Những hàng chữ ấy biến thành một tia lửa nhỏ lao thẳng từ những đỉnh núi băng giá xuống thung lũng Danube tiến vào thành phố Linz và có mặt ở tổng đài.

Tại đây, sau khi nghỉ ngơi vài giây, bởi lẽ chỉ có chạy thật nhanh mới xứng đáng với chữ “điện khẩn”, bức điện nhanh chóng rời khỏi dây dẫn trên nóc trạm bưu điện Klein-Reifling để nhập ngay vào chiếc máy thu điện báo. Và thế là sau khi thở phào nhẹ nhõm nó liền tác động ngay vào trái tim của một cô gái, làm cho cô vừa ngạc nhiên vừa tò mò, bối rối.