Sống ở rừng U Minh Hạ lâu rồi mà Hoàng Mai hãy còn cảm giác như lạc loài tận đâu đâu, bước chân đi không vướng đất. Ví nàng như cánh bèo rày đây mai đó thì không đúng cho lắm; có lẽ nàng như đóa hoa sen, gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Cội hoàng mai cổ thụ trước sân, bao năm rồi vẫn bền gan khoe sắc khi gió Tết thổi về. Vùng U Minh nầy mấy ai biết thưởng thức giống hoa vương giả lạc loài! Bản Nam Bình réo rắt trong ruột cây đàn thập lục chỉ để riêng cho nàng thông cảm đó thôi... Nhưng cơ trời không ai ngờ được, tránh được. Mây đẹp của đỉnh Ngự còn có khi tan, nước yên lành của dòng Hương thường bị gợn những làn sóng nhỏ. Năm ngoái, năm kia, khi vừa quá tuổi trăng tròn, một buổi chợt soi mặt vào lu nước mưa, nàng bắt gặp cái mầu trắng trong leo lẻo của làn da mình. Miệng chúm chím hàm tiếu, nàng vuốt mớ tóc đen huyền; bàn tay ngà đặt trên má đỏ hây hây, mơn man chuyền suối tóc về trên sau lưng gầy. Nhưng... lạ kìa! Hàng chục sợi tóc thi nhau tuôn xuống.

Gió nhẹ thoảng qua; chân tóc lấm tấm đung đưa, vướng bận chưa chịu bay đi như còn than vãn niềm biệt ly vô cớ. Nàng cau mày trở vào phòng, cầm lược, chải kỹ. Nàng toan rú lên. Lược lùa đến đâu là tóc rụng đến đó như lá úa trên cành đến độ gió trở mùa. Nàng e thẹn. Nàng giận dỗi.

Thân phụ nàng - Ông hương giáo - chạy tới. Nàng soi gương, không day lại rồi trả lời về tiếng rú khi nãy:

- Không gì lạ đâu, thưa cha.

ông hương giáo đã hiểu nguồn cơn. Mớ tóc rối nằm cuộn đống trên bàn khiến ông không che giấu được cơn buồn. Chiếc gương mờ soi đôi má ửng của Hoàng Mai, mầu ửng đỏ lạ thường, không biến đổi dầu khi nàng sợ hãi.

- Từ hồi tấm bé, làn da của Hoàng Mai mịn quá, bóng quá. Trăm sự đều do đó mà ra...

ông thở dài, cũng như ông đã thở dài hồi mấy năm trước, tuy gió bấc về không lạnh lắm nhưng Hoàng Mai đòi đốt lửa để sưởi rồi giẫm chân lên than hồng mà cười. Đêm đến, ông nghe riếng rên khe khẽ. Ngỡ là con gái nhuốm bịnh, ông đến gọi cửa đôi ba lần. Hoàng Mai nằm đó, tỉnh mà như say, hơi thở hổn hển, đôi mắt úp vào chiếc gối mềm như trốn tránh mấy sợi tơ trăng buông xuống từng hồi, khi gió rạt rào khẽ rung làm hở ra mấy mí lá che trên đầu vách.

Bịnh của nàng, ông đoán ra được, ngặt không muốn nói rõ tên ra: bịnh nan y - bịnh cùi. Ông chỉ muốn khuyên con gái năng đi guốc vì ở rừng nầy... "phong" nhiều lắm. Quyển gia phổ ngủ từ lâu đời dưới lớp bụi trên bàn thờ được vời xuống, lật ra kính cẩn dưới ánh nến bạch lạp. Hơn trăm năm qua, kiếng họ Nguyễn chưa ai nhiễm chứng ấy, rõ ràng không phải bệnh di truyền. Ông suy luận:

- Có thể nhà mình đắp nền trên ngôi mộ xưa của ai. Và từ ngày xưa, ai dám chối rằng khu rừng này không là bãi sa trường mà người thắng kẻ bại đều lẫn lộn trong đống xương Vô Định đã hóa ra cát bụi.

Tư Lập, tay thanh niên khét tiếng về nghề ong ở xóm Cán Gáo được ông hương giáo mời về nhà, bày rượu thịt thết đãi, đối xử như thượng khách.

Trang gia phổ lại giở ra, đọc nho nhỏ vừa đủ cho Tư Lập nghe. Tư Lập gật đầu.

Trong rừng già nầy, bên kia Ao Sấu, thỉnh thoảng loài ong ngũ sắc ấy trở về. Ban đầu chú Tư dùng con dao xương nai mà cạo lấy mật nhưng không hiệu quả. Lần sau, chú mài miếng xương người, dẹp như cây dao, theo ý muốn của ông hương giáo. Ngọc ông đã lấy được, đem về. Chú bán tín bán nghi vì thấy "ngọc" chỉ là mớ nhụy bông quến lại thành ké mà loài ong dự trữ bên góc ổ. Từ đấy, ông hương giáo mời Tư Lập ở luôn trong nhà cho có bạn. Ngày đêm, ông chong hàng chục ngọn nến bạch lạp chung quanh mớ "ngọc" để luyện, hy vọng rằng khi đúng một ngàn ngày nó sẽ trị được bịnh nan y của Hoàng Mai. Tư Lập như không chú ý đến điều vô lý đó, cứ ra vào nhìn trộm hình dáng giai nhân rồi nằm trằn trọc... Mãi đến một đêm nọ, lúc đứng ngắm thẫn thờ cội mai già trước sân, chú nghe hơi thở nào ấm nồng, nhồn nhột sau gáy:

- Anh Tư ở đây vui chớ? Nãy giờ em không dám hỏi.

Chú nhìn kỹ: không phải là dạng hồ ly tinh trêu cợt, chính là Hoàng Mai, cô gái con ông hương giáo mà bấy lâu nay chú trộm nhớ thầm thương.

Nàng nói tiếp:

- Cha của em dặn em gọi bằng anh. Và đừng làm gì anh buồn.

Chú hiểu ý: "à té ra bấy lâu nay ông hương giáo thương mình". Chú đánh bạo tìm bàn tay nàng. Nàng lắc đầu:

- Em hơi mệt, như vậy...

Rồi nàng nâng tay áo lên, thứ tay áo lỏng thỏng quá rộng quá dài:

- Anh nắm cái chéo tay áo nầy, em cũng đủ vui rồi.

Cảm động làm sao! Ngạc nhiên làm sao! Một mùi hôi hám từ trong tay áo bay ra. Khi níu cái chéo tay áo của người đẹp, Tư Lập thấy rõ ràng bên trong; ngón tay của nàng rụng mất hồi nào, chỉ có năm cuộn vải nhỏ vấn khéo léo thay thế.

Hôm sau, chú viện cớ ra đi lúc mùa bông tràm nở trắng rực. Chú không thèm làm nghề ăn ong nữa. Hàng trăm tấm kèo bằng cây mun, chú giao lại cho ông hương giáo. Chú về ở Long Xuyên. Nhưng hương rừng có ma lực quyến rũ. Lúc mới đến thì vui. Ở lâu lại sanh buồn. Xa cách lâu ngày thì đâm ra nhớ không nguôi, không trở lại thì không được.

Chú lại trở về.

*

* *

Sông Trèm Trẹm bắt nguồn từ xóm Cán Gáo chảy về phía Nam, qua xóm Tân Bằng rồi đổ ra sông ông Đốc, hòa mình vào vịnh Xiêm La.

Thằng Kìm nóng lòng, không biết Tư Lập muốn dừng lại làm ăn ở khúc nào. Giây lâu, Tư Lập nói:

- Rừng U Minh còn nhiều bí mật! Đừng lo mà. Tao hứa dẫn mầy tới chỗ nầy vui lắm, đừng sợ chết đói. Có tao.

Xuồng ngừng lại giây lát nghỉ trưa rồi mái dầm lại tiếp tục khoát dòng nước đỏ ngòm, tuy chảy mạnh nhưng tứ bề khuất gió nên không gợn sóng. Đôi bờ quanh co, hoa lá nghiêng mình lại, giao đầu, bắt tay nhau che kín bóng mặt trời.

Khách đi đường ngỡ mình lạc lối trong hang, thứ hang thiên nhiên, bất tận. Có tiếng vượn hú. Từ bên nầy, con vượn bồng con, nắm sợi dây rau câu, lấy trớn đu mình sang nhánh ở bờ bên kia để hái trái vừng. Trái quá chát, vỏ quá dày, vượn nhăn mặt bực tức ném mạnh. Trái vừng sa vào giữa lưới nhện giăng hờ, lơ lửng. Lưới rung rinh không đứt hẳn; con nhện hoảng hốt, thả sợi tơ dài, sa xuống. Chợt thấy mặt nước, nó toan rút trở lên. Nhưng trễ quá rồi! Con cá bông phóng mỏ theo, táp mạnh. Thằng Kìm ngỡ đó là con trăn. Cá lớn bằng cây cột nhà, vảy xanh vảy trắng thêu từng vòng ngời lên khắp thân mình. No mồi, cá lặn sát đáy, lội nhanh. Bày cá con hối hả di chuyển theo mẹ, hàng trăm con lấm tấm như rắc cườm đầy mặt nước; mất dạng trong bóng mát đằng kia. Bờ sông im lìm, mặt nước thẫn thờ trả lại bóng dáng hiền hòa của cây chồi mọc sát mé bãi: bông vừng buông thõng xuống từng xâu chuỗi hường, chen lẫn, nối tiếp nhau như bức mành mành. Nhánh vừng khô cằn, lá vàng rụng mất hẳn. Đôi đọt non nhú lên, mỏng mịn, chưa nhuốm được màu xanh vì thiếu nắng; ở xa, trông như những cánh bướm khổng lồ đang phập phồng, ngứa ngáy, chưa đậu yên chỗ là đã chớm bay.

- Kìm, mầy biết nước sông nầy mầu gì không?

- Ở dưới sông, giống như mầu máu bầm. Múc lên tay coi thì như nước trà pha đậm.

Tư Lập day lại:

- Hồi xưa, có người nói nó giống như cà-phê đen. Ờ... mầy uống cà-phê lần nào chưa?

- Chưa, chú Tư à.

- Bán thiếu gì, tại chợ Thới Bình. Dân ở chợ là người mới tới mua bán lập nghiệp, họ chưa dám đi sâu vô rừng làm ăn như tụi mình bây giờ. Họ nể nang dân phía trong nầy lắm.

- Sao vậy, chú Tư?

- Vì dân nầy là dân cố cựu, phá sơn lâm, đâm Hà Bá dọn đường cho họ tới sau làm ăn. Con nhà tướng đi mở đường máu mà!

Tư Lập vừa nói vừa với tay đập sau lưng. Thằng Kìm đã hiểu nghĩa mấy tiếng "mở đường máu". Ba bốn đốm máu đỏ ngời; mấy con muỗi vừa bị đè nhẹp xác.

Nó sực nhớ tới bầy muỗi bu quanh nó từ mấy ngày rày. Ban đầu, nó bực mình, đập giết thẳng tay, phải buông dầm khiến xuồng lủi vô bờ. Mỗi lần như vậy, Tư Lập day lại:

- Cứ bơi lẹ, muỗi ít cắn hơn. Ở lầy quầy mình bị cắn nhiều mà không đi tới đâu hết. Xuống xuồng để bơi chớ dâu phải để đập muỗi!

Nghe lời Tư Lập, thằng Kìm bấm môi chịu đựng.

Vài tiếng gà gáy văng vẳng, hưởng ứng nhau phá tan bầu không khí tĩnh mịch. Vòm cây lần lần trống trải, nắng rớt từng mảng, ngưng đọng không chịu trôi theo dòng nước ngày càng chảy hăng. Bên bờ, nước đổ róc rách theo con lạch nhỏ, vỏ tràm trôi lềnh bềnh trắng. Thằng Kìm nôn nức:

- Tới chỗ nghỉ chưa, chú Tư?

- Chưa. Hai voi nữa. Mầy nhớ không, hồi sáng tới giờ mới qua có sáu voi.

Hai voi, đường còn xạ Thằng Kìm yên lòng vì sẽ đến chỗ nghỉ trước khi trời sụp tối:

- Chú có bà con ở đây hả?

Tư Lập cau mày không trả lời, mở gói thuốc ra vấn hút. Đó là gói thuốc mà chú hứa tiết kiệm, để dành hút khi tới nơi.

Thằng Kìm đoán chừng Tư Lập đang suy nghĩ nhiều. Chú lẩm bẩm:

- Ừ, bà con hay là người dưng, chuyện đó không quan hệ. Nhắc tới tao buồn quá, muốn quày trở lại bây giờ. Nhưng đã tới đây rồi không lẽ lại trở về. Tao không muốn kiếm nhà quen. Ở gần xóm đông thì bất lợi, ở xa quá cũng hại. Mầy tin tao. Tao không dại gì trở lại đây mà tìm cái chết... Ờ, mầy họ gì? Mấy ngày rày, tao quên hỏi.

- Họ Trương hay họ Trần gì đó, tôi quên rồi. Nghe nói hồi đó ba tôi đổi họ.

- Ối! Họ gì cũng được, miễn tới chừng người ta hỏi thì đừng trả lời lập dập. Nói vậy chớ ai xét hỏi. Tao có quen với vuạ Hồi xưa, có người ở xóm nầy được cải ra họ Nguyễn cho giống với họ vua... Họ nói vậy hay vậy.

Thằng Kìm ngơ ngác hỏi:

- Bà con với vua sao lại ở đây?

Tư Lập không trả lời. Chú bơi mạnh, mũi xuồng quẹo vô bờ, phía trái. Vàm mương nhỏ hiện ra. Chú nói:

- Mầy nghỉ tay đi. Tới phiên tao rồi...

Ngồi trước mũi, chú bơi phía mặt vài dầm rồi trở lẹ qua bên trái, bơi vài dầm. Xuồng lướt tới ồ ồ. Gặp dây, gặp nhánh cây cản mũi, chú bứt, bẻ rôm rốp. Gặp nước cạn, chú đứng mà chống hoặc quỳ trên sạp xuồng, ngã mình tới lấy trớn. Thằng Kìm vui sướng quá. Lúc nầy nó khỏa tay, dầu muốn tiếp sức với Tư Lập cũng không được. Mũi xuồng quá nhỏ, nào đủ chỗ để hai người cùng ngồi ngang nhau. Hơn nữa, bơi xuồng theo lối mới nầy nó chưa quen. Mặt trời sụp xuống thấp, rọi thẳng từ trước mặt. Con rạch quá nhỏ, uốn ngoằn ngoèo nối liền qua những lung, bào, tròn tròn méo méo như hình mấy cái bao tử, gan, lá lách... Sậy mọc khỏi đầu.

Hương rừng ngào ngạt, mùi hương xa lạ nhưng rất quen thuộc. Thằng Kìm hít mạnh để ngửi cho kỹ, để nhớ cho rõ nhưng nhớ mãi không ra. Chợt ngẩng đầu lên, nó trố mắt. Rừng cơ hồ không còn chiếc lá nào cả! Trên hàng vạn nhánh to nhánh nhỏ, bàn tay thần nào rắc lấm tấm hàng sa số đợt bông gòn, không phải riêng trước mặt mà khắp tứ phía. Rừng sáng lạn, ai dám nói là rừng âm ủ Bông kết oằn sai, mịn màng, trắng tuyết; đài, cánh đâu không thấy chỉ thấy toàn là nhụy ngọt.

Nó buột miệng:

- Rừng cây gì vậy? Chú Tư.

Tư Lập day lại, cười vang:

- Thằng quỷ! Ngửi mà không biết mùi mật ong sao? Tràm chớ giống gì! Muôn ngàn hũ mật ong của trời ban xuống cho trần gian còn treo lủng lẳng như mù sương trên nửa lừng đó. Ngửi vô thì saỵ Say thì không tỉnh được. Có người toan dùng nó mà luyện thuốc trường sinh, từ trăm năm nay...

*

* *

Tư Lập ngâm mình dưới bưng nãy giờ khá lâu rồi. Nước dâng lên nửa ngực. Hai tay chú quậy dưới bùn, chân bò tới bò lui, bọt nước sôi ùng ục. Chú rút lên một cây búa to tướng, nói huyên thuyên:

- Nó còn nguyên, mới tinh. Bộ trái đất xoay tròn sao mà! Hồi năm ngoái tao nhớ rõ ràng, nhận ở gần gốc cây tràm bên kia. Bây giờ nó chạy qua bên nầy. Để tao rửa sạch cho mầy coi! Cam đoan không có một bợn sét, khuất dưới lớp bùn non, mưa nắng không sao thấu tới. Sét ăn hư hỏng là khi nào mình giữ không kín. Lòng người cũng vậy... Mầy chưa hiểu hả?

Thằng Kìm thật tình không hiểu câu nói lắt léo của Tư Lập. Nó không cần tìm hiểu. Cây búa khiến nó ngạc nhiên hơn: cán dài cỡ năm tấc, lưỡi cao hơn hai tấc, bề ngang lưới búa trên một tấc rưỡi, lớn như mấy cây búa thần mà các ông tướng hát bội thường vác ra khi đánh trận.

- Cầm thử coi nặng không? Tay anh hùng mới cử nó lên được. Tạo ra lúa gạo, xuồng, chèo là nhờ nó. Nên nhà nên cửa, nên đất nên vườn, nên chồng nên vợ, xưng hùng xưng bá cũng nhờ nó.

Tư Lập nói tiếp:

- Đói bụng chưa?

- Hơi đói. Nãy giờ tôi lưỡng lự; gạo còn chừng hai nắm, không lẽ nấu cháo. Hay là mình kiếm nhà nào mượn đỡ.

- Mượn gạo mà ăn, xưa quá! ở xứ nầy, tao không muốn gặp mặt ai hết. Con người ta chết... không phải vì thiếu gạo. Tới lớn, mầy hiểu câu nói đó. Bây giờ đi với tao tìm nhà quen, bảnh thì mầy đi trước một lần coi!

Nói vậy chớ Tư Lập bước trước, đạp lên choại, lên dớn nghe sột soạt. Thay vì đi thẳng lại phía rừng tràm trắng tinh, thơm ngào ngạt, Tư Lập quẹo trở về phía rừng thấp lè tè, cây cối mọc so le hỗn loạn. Bùn non ngập mắt cá. Muỗi bay lợn cợn, vướng vít dưới chân cây còn u tối. Tư Lập khuyên nhủ:

- Ráng chịu cực vậy! "Lô" rừng tràm đằng kia là của người tạ Rừng chồi phía nầy mới là của mình. Vắng hai năm nay, tao ngán rồi, không muốn nhớ lại cái mùi nhụy tràm.

- Sao vậy?

- Đừng hỏi nữa. Tao muốn lánh mặt người quen. Mai chiều, có lẽ mình qua nơi khác. Gió thổi hiu hiu, buồn quá.

Tư Lập thẫn thờ đôi mắt rồi bỗng nhiên khoát tay, ra dấu im lặng. Chú ngồi nép xuống. Thằng Kìm cũng bắt chước, cúi đầu, ái ngại. Tư Lập cầm tay nó mà nói khẽ:

- Đừng động đậy, thở nhè nhẹ. Nó kìa...

Thằng Kìm ngớ ngẩn, liên tưởng đến thứ tai nạn khủng khiếp:

- Co... Ọp hả?

- Nói bậy xui xẻo? Ong mật.

Và nó định thần khi Tư Lập nói rõ thêm:

- Ong mật... đi ăn bông. Bay rề qua rề lại, thấy chưa, thấp chủn trên đọt sậy kìa.

Thằng Kìm mừng rỡ:

- Ngộ quá! ổ nó ở đâu đây, hả chú. Làm sao kiếm được? ý! Nó lớn bằng hai con ruồi.

- Om xòm cái miệng! Về chống xuồng lại đây mau, tao chờ! Nhớ cái hộp quẹt máy.

Thằng Kìm hối hả làm y lời. Trở lại chỗ cũ, nó chợt nghe tiếng "hì" ở phía rừng tràm. Té ra nãy giờ Tư Lập lội tắt qua mương đi lại đằng ấy.

Chú vội ngồi lên xuồng, chụp cây dầm, hờm sẵn:

- Bậy quá! Nó "đi bông" tới đây rồi mất dạng. Chờ một hồi nữa coi.

- Đi bông là gì? Chú Tư.

- Là đi hút nhụy bông... kìa, mê quá!

*

* *

Một con ong rồi hai con ong bay qua sát ngọn cỏ, lưng ngời những rằn xanh đỏ, hai chân sau quặp lại kẹp hai đốm vàng sậm mà thằng Kìm đoán là nhụy bông. Ong vừa qua khỏi chừng mươi thước, Tư Lập hối hả bơi xuồng theo. Nhưng hai con ong nọ lại đáp xuống, mất dạng. Chú nói:

- Đây là trạm thứ nhì của tụi nó. Ráng chờ chút nữa. Chém chết tao cũng ăn được ổ nầy.

Sau đôi ba lần theo dõi rồi dừng lại như vậy, Tư Lập bỗng cười vang, múa men tay chân như đứa trẻ thấy kẹo. Hàng trăm con ong bay chập chờn trước mặt, đáp xuống, vọt lên cao, không dời chỗ. Chú ngóng xem hướng gió trên ngọn cây, ra lịnh cho thằng Kìm đứng im rồi chú đi khuất, chập sau mang về một nắm rễ cây gừa.

Hộp quẹt bật lửa lên. Nắm rễ gừa ngún cháy, khói bay đều. Chú nói nhỏ:

- Đi theo ta, đừng chạy bất tử nghe!

Chú phồng má thổi mạnh, khói tung bay mịt mù chưa tan là chú thổi thêm lần nữa, chân bước nhanh tới. Hiển hiện sau lớp khói mỏng kia, vật gì lạ thường như một trái cây khổng lồ, lớn bằng cái nia, đen ngòm, rực rỡ như nạm muôn ngàn hột thủy tinh chấp chóa...

Thằng Kìm há miệng:

- Ổ ong hả? Ong đâu hết rồi?

- Cả triệu con kết lại, nằm sắp lớp đen ngời, chớp cánh lia lịa đó, không thấy sao? ổ ở bên trong. Lên xuồng đi. Rủi bề gì tao với mầy thối lui, lặn dưới mương, úp chiếc xuồng nầy lại mà che...

Tư Lập cầm nhánh cây khô gạt mạnh vào ổ, ong rớt xuống cỏ từng mảng, lần lần tan ra. Ổ ong khoe mầu trắng tinh như sáp, treo trên khúc cây gác nghiêng: cây kèo.

Chú quát:

- Chống xuồng lại. Tao với mầy khiêng nguyên ổ xuống. Dầu sao mình cũng mang tiếng ăn cắp của thiên hạ rồi.

Đặt dưới xuồng, ổ ong nứt ra, mật vàng tươi chảy đọng vũng. Tư Lập chụp cây dầm, bơi trối chết, lướt qua sậy, qua năn. Thằng Kìm cúi đầu sát ván, nhắm mắt, e nhánh hai bên quật nhằm. Nó cười tươi khi thấy mái chòi hoang hiện ra trước mặt, Tư Lập trao cây dầm cho nó rồi thò tay xé tàn ong:

- Trời! Tao hại tao! Tao ăn cắp... của tao.

- Chú nói gì?

- Miếng kèo bằng cây nhum. Hồi năm ngoái tao gởi nó lại cho người quen. Chữ "điền" tao khắc là dấu rành rành.

Cây rừng chuyển răng rắc. Đâu đây có tiếng chưởi thề ỏm tỏi xen vào tiếng dầm khuấy nước. Tư Lập cau mày:

- Họ đi theo dấu bắt tụi mình. Không khéo lại xảy ra đâm chém, uổng mạng. Nhiều khi họ mạo nhận là của họ đã hăm dọa mình. Lát nữa, mầy đừng yếu bóng vía... Cứ cãi lại cho tao.

Thằng Kìm giựt mình:

- Chú đi đâu? Một mình tôi không dám...

- Tao núp sau hè. Họ tới kìa! Cầm búa lên! Đụng độ thì tao ra ăn thua.

Nhanh như chớp, Tư Lập bước lui, ngồi khuất sau bụi cây cật. Thằng Kìm nhìn trước mặt. Hàng cây rung rinh, rẽ ra. Một người vạm vỡ cầm búa, bước tới:

- Khôn thì chịu tội. Thằng kia, mầy ở xóm nào tới?

Thằng Kìm cố giữ sắc trầm tĩnh:

- Tôi ở đây, mần ăn...

- Ăn cắp chớ mần ăn? Tao theo dấu tụi bây nãy giờ. Công trình mấy tháng nay tao tạo sẵn để mầy hưởng! Đã ăn cắp mà lại còn gỡ luôn tấm kèo, chẳng khác nào ăn trộm rồi đốt luôn nhà của tài gia.

- Tôi không biết gì hết...

- Chém chết mẹ chớ không biết!

Lưỡi búa của khách hươ lên. Thằng Kìm cũng nâng cây búa một cách vụng về. Khách nhìn nó, ngạc nhiên rồi nhìn cây búa:

- Mầy ăn trộm búa nữa hả? Ráng mà đỡ. Nè!

Hoảng hốt, Tư Lập nhảy ra, nắm cườm tay người khách lạ:

- Tao ở nhà ông hương giáo hồi xưa đây mà. Chú mầy đến sau nên không biết rõ tao là ai.

Khách trố mắt:

- Trời! Cậu Tự Về hồi nào! Trời... nãy giờ thấy cây búa, tôi hồ nghi là của cậu. Sao không lại thăm cô Hoàng Mai?

Tư Lập vuốt mồ hôi trán:

- Thôi! Về đi. Nhắn với ông hương giáo rằng tối nay tao tới.

Khách nói:

- Buồn lắm! Cô Hoàng Mai yếu nhiều.

Tư Lập thở dài:

- Vậy hả? Đừng nói nữa. Về trước đi.

Khách rút lui. Tư Lập nói ngậm ngùi:

- Trốn mà không khỏi. Trốn Tây tà là chuyện dễ; trốn người quen là chuyện khó hơn. Ta ăn cắp ổ ong khi nãy mà chỉ Nghề ăn ong có nghiệp chướng... Đây là ổ ong cuối cùng của tao trong nghề...

Thằng Kìm hỏi:

- Sao vậy? Ai đau nhiều vậy chú? Cô Hoàng Mai là người bà con...

- Bà con không phải bà con. Người dưng không phải người dưng. Tối nay mầy thay mặt tao, lại đó mà thăm ông hương giáo. Phần tao, tao phải xa rừng nầy. Ở lại đây, mầy có dịp học khôn. Đừng buồn. Để tao nói lại đầu đuôi sự tích, hồi năm trước...

*

* *

Nghe xong thằng Kìm đi từng bước chậm rãi đến nhà ông hương giáo. Câu chuyện tình của Tư Lập hãy còn lâng lâng trong trí nó. Gió chiều nhẹ thổi. Mùi bông tràm ngào ngạt. Nó nhìn từng gốc cây, lắng nghe từng tiếng lá trở mình mà khoan khoái trong lòng. Rừng U Minh nầy đối với nó cơ hồ không còn gì là bí mật khó hiểu nữa.

Đến nhà ông hương giáo, nó được thết đãi cơm nước tử tế. Ông hương giáo không nói chuyện nhiều. Nó nói dối rằng... chừng lát nữa Tư Lập sẽ đến. Nhưng Tư Lập có đến đâu! Đêm đó, nó được nằm ngủ trên ván gỗ, trải chiếu bông, giăng mùng rộng rãi. Nửa đêm, nó chợt tỉnh vì ánh đèn chói mắt.

ông hương giáo nói:

- Chú em thức hả? Kìa! Trên bàn thờ, từ bao năm rồi, tôi luyện "ngọc ong" để trị bịnh. Bịnh gì, chắc Tư Lập nói sơ cho chú em hiểu rồi. Tôi buồn quá. Tư Lập không trở lại nhà nầy nữa đâu. Chú em cứ nói thiệt. Phải vậy không?

Thằng Kìm nói:

- Dạ cháu không biết. Chú Tư không nói rõ...

Sáng hôm sau, thằng Kìm từ giã ông hương giáo rồi đến ngồi bên mé rạch. Bông vừng tươi thắm, cây cối hai bên bờ giao đầu lại, mát mẻ. Nó chờ đón bất cứ xuồng ghe ai, đi về đâu cũng được, để quá giang. Sau lưng nó, trên thềm nhà, trong bóng mát, hình dáng của Hoàng Mai với đôi mắt và mớ tóc trùm kín trong chiếc khăn. Chiếc tay áo của nàng lòng thòng che khuất mấy ngón tay, từ từ nâng lên như tiễn đưa một hình bóng...

Hết