Chương 1
Giới truyền thông không gán cho căn penhouse rộng bốn ngàn feet vuông nằm trên đỉnh của tháp Lennox là một pháo đài mà chẳng vì điều gì, Michel copperfield nghĩ, khi cậu đổi thang máy lần thứ ba, chèn mã an ninh vào bảng điện, và ấn nút lên tầng chín mươi lăm. Cửa thang máy trượt mở với một tiếng rít.Chống lại nỗi cám dỗ nhìn ngắm cảnh đêm huy hoàng trải dài đến đường chân trời Manhattan, Copperfirld sải bước qua lớp nhung mềm của tấm thảm màu be dày và đẩy cánh cửa mở vào phía cuối của căn hộ. “Vào đi” một giọng nói khô khan cất lên. “Đừng bận tâm đến việc gõ cửa.” Copperfirld đập nhẹ ấn bản buổi sáng của tờ Times vào chiếc bàn mạ crôm và xỉa một ngón tay vào tiêu đề.
“Tớ vừa trở về từ Chicago. Thứ này mang ý nghĩa quái gì thế?” Một cặp mắt màu xám băng giá chuyển từ con trỏ nhấp nháy trên màn hình computer đến trang báo nhàu nhĩ. “Tớ nghĩ nó chẳng cần lời giải thích nào hết. Cậu không thể là cố vấn PR của tớ suốt thời gian qua mà lại không biết đọc.” Copperfield trừng mắt nhìn người đàn ông mà cậu đã gọi là bạn trong hai mươi lăm năm và là xếp của cậu trong bảy năm.
“Oh, tớ có thể đọc rất tốt. Ngay cả ý ngầm giữa các hàng chữ.” Để chứng minh anh chộp lấy tờ báo và đọc. “Tristan Lennox – người sáng lập, CEO*, và cổ đông chính của Lennox Enterprises – treo giải một triệu dollar cho người có thể chứng minh pháp thuật tồn tại bên ngoài ranh giới của khoa học.
Cuộc thi công khai diễn ra vào sáng ngày mai tại sân trong của toà cao ốc Lennox. Chàng tỉ phú trẻ lập dị chỉ tìm kiếm những ứng viên nghiêm túc.” Copperfield xoắn tờ báo như thể đang siết cổ xếp của cậu trong dạng hình nộm. “Ứng viên nghiêm túc ư? Tại sao à, cậu sẽ có mọi tổng đài đường dây nóng siêu linh, kẻ lừa đảo, và phế vật-Geraldo ở ngưỡng cửa nhà cậu vào lúc bình minh!” (*CEO : Chief Executive Officer – Tổng giám đốc điều hành) “Geraldo đã gọi rồi.
Tớ đã cho hắn số điện thoại nhà cậu.” “Sao cậu có thể thoải mái đến thế khi tớ gởi fax mòn ngón tay đến tận xương để cố gây dựng danh tiếng cho cậu ?” Vẻ thích thú kỳ lạ lấp lánh trong đôi mắt được che dấu của Tristan. “Tớ sẽ tặng cậu món quà trị giá mười nghìn dollar nếu cậu có thể khiến họ ngừng gọi tớ là ‘chàng tỉ phú trẻ’.
Nó làm tớ cảm thấy giống như Bruce Wayne* mà không có chiếc xe Batmobile* ấy. Và tớ vừa bước qua tuổi ba mươi hai rồi. Tớ hầu như không đủ tư cách là ‘chàng trai trẻ’ chút nào nữa.” (*nhân vật chính trong film Batman và chiếc siêu xe của ông ấy –Sẻ) Sự chú ý hay dao động của anh chuyển đến chiếc máy fax.
Ánh sáng nhân tạo của màn hình hiển thị hắt vào chỗ hõm bên dưới gò má và ném ra một vầng sáng kỳ quái trên dáng vẻ khắc nghiệt của anh. Khi ngón tay khéo léo của anh ấn nhẹ vào nút gởi bản fax cho phép một cuộc thôn tính một tập đoàn phần mềm hàng triệu dollar. Copperfield muốn giật mớ tóc cột đuôi ngựa bóng mượt của anh trong sự thất vọng.
“Cậu định nuông chiều cái ý thích bất chợt lố bịch này trong bao lâu? Cho đến khi cậu hoàn toàn tiêu diệt uy tín của cậu chăng? Hay cho đến khi mọi người ở New York cười sau lưng cậu?” “Cho đến khi tớ tìm thấy những gì tớ đang tìm.” “Cái gì? Hay ai?” Lờ đi câu hỏi châm chọc của Copperfield như anh đã làm trong mười năm qua, Tristan tắt máy fax và computer với một động tác đơn giản và đứng lên khỏi chiếc ghế xoay.
Khi anh tiến đến bức tường phía bắc, một đường nối không thể nhìn thấy mở ra, để lộ một phòng để quần áo có kích thước gấp hai lần căn hộ thuê chẳng khác gì chuồng bồ câu của Copperfield. Ánh đèn từ những hốc tường trên đường đi chiếu sáng mỗi bước chân đi vào trong căn hầm sâu thẳm.
Sợ rằng tiếng nói to ngang qua một khoảng cách như thế sẽ tạo ra một sự dội âm, Copperffield không còn chọn lựa nào khác ngoại trừ đi sát theo sau anh. Khi Tristan kích hoạt một rãnh treo cà-vạt tự động, Copperfield nói, “Đôi khi tớ nghĩ cậu cố tình phô trương sự thoả thuận. Để giữ mọi người ở ngoài tầm tay, nơi họ không thể làm tổn thương cậu.” Cậu hít một hơi thở vững vàng.
“Để duy trì những tai tiếng cũ tồn tại.” Trong một khoảnh khắc căng thẳng, âm thanh duy nhất là tiếng sột soạt cơ học của những chiếc cà-vạt xoay quanh đường rãnh hẹp của chúng. Bờ vai của Tristan nhấc lên trong một cái nhún thờ ơ khi anh chọn chiếc bằng lụa có sọc, màu rượu chát, đồng bộ với bộ suit hiệu Armani của anh.
“Hạ bệ những kẻ lừa bịp bất tài là một sở thích riêng. Không khác biệt so với việc chơi chứng khoán hoặc sưu tập tranh Picassos.” Anh thắt cà-vạt với hiệu suất của một chuyên gia, bắn cho Copperfield một ánh mắt chế diễu. “Hoặc cặp bồ với những siêu mẫu cuồng ăn cùng với Godiva Chocolateir*.” (*Một thương hiệu chocolate nổi tiếng của Bỉ từ năm 1926, được đánh giá là ngon nhất thế giới – Sẻ) Copperfield khoanh tay trước ngực.
“Cậu định đặt căn hộ của tớ dưới sự giám sát lần nữa hay cậu chỉ gọi hồn những hình ảnh nhớp nhúa đó trong quả cầu pha lê của cậu? Ít nhất thì tớ cũng còn tặng Chocolate. Như tớ nhớ, người mẫu gần nhất mà tớ giới thiệu cho cậu thì ngay cả đến ‘Thank you, ma’am!’ sau khi ‘wham-bam’ cô ta cũng chẳng có nữa kìa.” Vẻ mặt của Tristan loé lên thứ gì đó tựa hồ như ngượng ngùng của một người thiếu giữ gìn.
“Tớ định nhờ trợ lý của tớ gởi ít bông hoa.” Anh chọn một cặp khuy cài tay áo bằng bạch kim từ một chiếc khay bằng gỗ nhạc ngựa. “Nếu chuyện một triệu dollar khiến cậu lo lắng, Cop, đừng lãng phí năng lượng của cậu. Tớ là người cuối cùng mong đợi chuyện trao giải.” “Chà, cậu biết họ nói gì không.
Bên trong lồng ngực của mỗi kẻ yếm thế là trái tim của một người lạc quan bị vỡ mộng.” Tristan lướt qua cậu ta, chỉnh cả hai cổ tay áo và chiếc mặt nạ dửng dưng xa cách của anh lại trượt vững chắc vào chỗ của nó. “Cậu nên biết rõ hơn bất kỳ ai khác rằng tớ đã ngừng tin vào những điều kỳ diệu từ cách đây rất lâu rồi chứ.” “Vậy thì như anh nói, bạn của tôi.” Copperfield lầm bầm với chính mình.
“Như anh nói.” Cậu nghiên cứu chiếc giá treo cà-vạt với con mắt nheo nheo đầy kinh nghiệm trước khi chọn cái tân thời nhất của nhãn hiệu Brooks-Brother sẽ bổ sung cho đôi mắt cậu. Nhét nó vào túi bộ suit của cậu, rồi xoay người chỉ để khám phá ra rằng, sự ra đi của Tristan đã kích hoạt cánh cửa phòng chứa đồ trượt đóng lại một cách lặng lẽ.
Copperfield chạy ào đến và bắt đầu nện vào chỗ mở rộng liền một mảnh đó bằng cả hai tay. “Này! Ai sẽ đưa tớ ra khỏi chỗ này chứ! Chết tiệt cậu, Tristan! Cái đồ ngạo mạn khốn k…” Một tiếng ho bật cười không thể tin được buột ra khi cậu dựa vai vào cánh cửa. “Chà, mình sẽ bị nguyền rủa mất thôi.
Hôm nay còn có thể có điều tồi tệ nào khác sẽ đến nữa chứ?” Cậu tìm ra ngay sau đó, khi ánh sáng dịu được lập trình chỉ đáp ứng đuy nhất cho sự vào và ra của xếp cậu nhấp nháy, rồi tắt phụp. ... Cô gái rơi xuống trên cán chổi. Chiếc váy của cô xếp nếp quanh gối, để lộ một cặp bắp chân mảnh dẻ bọc trong đôi tất dài màu đen.
Một ngọn gió đi lạc khua xào xạc những chiếc lá khô và gợn lăn tăn mái tóc cô, buộc cô phải phủi lọn tóc sẫm màu khỏi mắt. Gai ốc sởn dọc theo đôi cánh tay cô. Xua đi màn phủ báo điềm gở của bầu trời, Cô túm cán chổi bằng cả hai tay và đóng chặt mắt lại. Khi cô cố gắng lập lại những từ ngữ ghi nhớ lần nữa, một cơn chuột rút bắn xuống đùi cô, làm vỡ tung sự tập trung của cô.
Cô cố hét to lời nguyền, nhưng chiếc chổi chẳng thèm đoái hoài, cho dù chỉ một cái rùng mình tẻ ngắt đáp ứng. Giọng cô tàn dần thành tiếng thì thầm thất bại. Sự thất vọng làm sưng phồng cổ họng cô, siết chặt lớp màng nhạy cảm cho đến khi những giọt lệ làm cay mắt cô. Có lẽ cô đang lừa dối bản thân.
Có lẽ cô đúng là một phù thuỷ thảm hại như cô vẫn luôn sợ hãi. Cô nới lỏng dải buộc bị kéo căng trên vạt áo trước mộc mạc để mân mê tấm bùa ngọc lục bảo treo lơ lửng bằng sợi dây chuyền vàng thanh nhã. Mặc dù cô luôn che dấu nó khỏi những ánh mắt tọc mạch và lờ đi sự hiện diện của nó ngoại trừ trong những khoảnh khắc cực kỳ phật ý, cô vẫn cảm thấy thôi thúc phải mang nó ngay chỗ trái tim cô, giống như một biểu tượng của sự hổ thẹn.
“Sacré Bleu*, tôi chỉ muốn bay thôi mà.” Cô nói khẽ. (*Tiếng Pháp cổ để chỉ sự ngạc nhiên, hoảng hồn hay bực tức –Sẻ) Chiếc chổi lắc lư về phía trước, rồi giật mạnh để tạm dừng lại. Tấm bùa nằm lạnh lẽo và dửng dưng trên trái tim đang đập hỗn loạn của cô. Sợ phải lưu ý đến cảm giác không kiên định của chính mình, cô chậm rãi kéo sợi dây chuyền vàng qua đầu và siết chặt tấm bùa.
Nghiêng người qua chiếc cán chổi dạn dày sương gió, cô thì thầm, “Tôi chỉ muốn bay thôi.” Không có gì xảy ra. Cô vươn thẳng dậy, lắc đầu trước hành động nực cười của mình. Cây chổi liễu gai lướt vào trong không trung rồi ngừng lại, để lại cô đang treo lủng lẳng bằng một chân.
Chiếc cán chổi rung lên bên dưới cô, cường độ sức mạnh của nó khiến cho lớp lông măng sau gáy cô dựng đứng lên trong sự phấn khích. “Bay nào!” Cô ra lệnh với xúc cảm. Chiếc chổi treo lơ lửng giữa không trung trong một cơn run không ngừng nghỉ, rồi tự nhắm thẳng về phía đỉnh của những cây sồi cao chót vót.
Nó lao tới một độ cao đến chóng mặt, rồi nhào xuống, kéo lê mông cô trên đất vài feet trước khi bắn vào một tầm cao hoang dại khác. Cô hò reo trong sự vui thích, từ chối quan tâm đến những hiểm nguy từ việc bay vút lên vòng quanh khoảng rừng thưa trên một cây chổi quét lò sưởi làm bằng cây liễu gai.
Cô càng vui cười, cây chổi càng bay nhanh hơn, cho đến khi cô sợ rằng nó hẳn sẽ đâm bổ vào đám rừng thưa và lao đến vầng trăng xa xôi đang lơ lửng trên bầu trời chiều. Với một nỗ lực to lớn, cô rán sức nhấc bản thân cưỡi lên cây chổi. Cô ngồi lên trong sự cân xứng thoải mái chỉ trong một nhịp tim đập trước khi công cụ vận chuyển ấy lao vùn vụt hướng lên trên song song với cây sồi cao nhất, rồi chúi mũi xuống dưới trong cùng một sự hối hả.
Mặt đất vươn tới tông sầm vào gương mặt hốt hoảng của cô. Cô thở khò khè giống như chú cá tuyết bị mắc cạn, cầu nguyện rằng không khí sẽ rủ lòng thương mà lấp đầy buồng phổi đang căng thẳng của cô. Cuối cùng khi cô có thể thở trở lại, cô nhấc mái đầu đang đập rộn ràng của cô lên để tìm thấy cây chổi đang nằm cách đó vài feet.
Cô phun ra một miệng đầy những chiếc lá vỡ vụn và nhìn trừng trừng vào chiếc cán chổi bất động. Nhưng sự tức tối của cô đã bị lãng quên khi cô nhận ra hơi ấm dịu dàng đang tràn ngập trong lòng bàn tay cô. Cô mở những ngón tay run rẩy và tìm thấy tấm bùa chìm trong một vầng sáng óng ánh.
Miệng cô hé mở trong sự kinh ngạc khi miếng ngọc lục bảo nhấp nháy hai lần như thể để xác nhận bí mật của họ, rồi mờ dần đi trong bóng tối. Cô bị mê hoăc quá đỗi bởi sự khám phá của cô nên không nhận ra một hình dáng buồn thảm đã bộc lộ bản thân từ bóng tối của khu rừng.
Một nụ cười độc ác của niềm vui chiến thắng vặn xoắn vành môi gã khi gã quay trở lại ngôi làng, ánh sáng chập chờn của vầng trăng mới mọc ve vuốt những lọn tóc mỏng manh ánh bạc trên thái dương gã. PHẦN I Thy sweet magic brings together What stern Custom spreads afar; All men become brothers Where thy happy wing-beats are.
(Pháp Thuật ngọt ngào kết hợp Tục lệ khắc nghiệt cùng lan xa; Tất cả trở thành huynh đệ cùng vỗ cánh hạnh phúc về nhà…) - Johann Christoph Friedrich von Schiller - Enter these enchanted woods, You who dare. Hãy bước vào khu rừng đam mê này, người có dám không… – George Meredith - (Ps : Ôi, thơ hỏi thở, ngoài tầm tay, y như mây trời í…) .