Chỉ có một kiểu hôn nhân từng được Xã hội bày tỏ sự ủng hộ.
Hôn nhân hạnh phúc được xem là tầm thường, vì hạnh phúc hôn nhân hiếm khi giữ được lâu hơn một cái bánh pút-đinh ngon lành. Hôn nhân không hạnh phúc, tất nhiên, còn tầm thường hơn nữa, so với chiếc máy đặc biệt cùng một lúc tát được bốn mươi cái vào mông của bà Jeffried:
không thể diễn tả được, vì có đến một nửa giới quý tộc đã trực tiếp trải nghiệm nó.
Không, kiểu hôn nhân duy nhất đứng vững trước những thăng trầm của cuộc sống là kiểu hôn nhân hòa nhã. Và mọi người đều công nhận rộng rãi rằng quý ông và quý bà Tremaine có một cuộc hôn nhân hòa nhã nhất trong bọn họ.
Suốt mười năm kể từ ngày cưới, họ chưa bao giờ phát ngôn một từ không tốt về nhau, không với cha mẹ, anh chị em bạn bè thân thiết hay người lạ. Hơn nữa, như những người hầu của họ làm chứng, họ chưa bao giờ cãi cọ, dù to hay nhỏ, không bao giờ làm người kia phải xấu hổ, và thực ra là không bao giờ bất đồng trong bất cứ chuyện gì.
Tuy nhiên, những cô gái trẻ cả gan chỉ ra rằng quý ông và quý bà Tremaine sống ở hai lục địa khác nhau và không hề gặp nhau kể từ sau ngày cưới. Họ cứ làm như đó không phải là điều mà nhiều người biết.
Những người lớn tuổi hơn thì lắc đầu. Đúng là những cô gái ngu ngốc. Các cô cứ nghe ý kiến của những anh chàng đang tán tỉnh các cô về việc này mà xem. Hoặc khi họ không yêu nổi người đàn ông mà họ kết hôn, thì họ mới hiểu thỏa thuận của vợ chồng Tremaine tuyệt vời như thế nào:
thân thiện, xa cách và tự do ngay từ ban đầu, không chịu hành hạ bởi những cảm xúc mệt mỏi. Thực ra, nó gần như là một cuộc hôn nhân hoàn hảo nhất.
Vì vậy, khi quý bà Tremaine đệ đơn xin ly dị vì quý ngài Tremaine ngoại tình và ruồng bỏ vợ, những cái cằm của giới quý tộc Luân Đôn đụng chan chát vào những đĩa thức ăn trong phòng ăn tối. Mười ngày sau đó, khi tin tức về chuyến trở lại nước Anh của ngài Tremaine lần đầu tiên sau 10 năm được lan truyền, cũng những chiếc cằm đã trễ xuống ấy lại dập lõm trên những tấm thảm đắt tiền nhập khẩu từ thủ đô của Iran.
Câu chuyện về điều gì xảy ra tiếp theo lan nhanh như một khúc ruột non được ăn uống đầy đủ. Nó diễn biến theo một cách trớ trêu như thế này:
Một tiếng chuông cửa vang lên ở dinh thự Tremaine ở Luân Đôn trên phố Park Lane.
Goodman, nguời hầu trung thành của quý bà Tremaine ra mở cửa. Phía bên kia cánh cửa là một người lạ, một trong những quý ông có vẻ ngoài ấn tượng mà Goodman từng gặp:
cao ráo, đẹp trai, mạnh mẽ, dáng vẻ đầy uy quyền.
“Xin chào, thưa ngài”, Goodman thản nhiên nói. Người đại diện của Nữ hầu tước Tremaine đã gây được ấn tượng, không rụt rè cũng không quá nồng nhiệt.
Ông chờ đợi một tấm danh thiếp giới thiệu và một lý do cho cuộc viếng thăm. Nhưng thay vào đó, hầu tước giơ ra cho ông một chiếc mũ. Giật mình, ông thả tay khỏi nắm cửa và đón chiếc mũ viền xa tanh. Vào lúc đó, người đàn ông bước qua ông đi vào tiền sảnh. Không có một cái liếc nhìn hay một lời giải thích cho hành động xâm nhập này, anh ta bắt đầu kéo găng tay ra.
“Thưa ngài”, Goodman bực bội, “Ngài không được vào nhà khi không được bà chủ cho phép”.
Người đàn ông quay lại và chỉ với một cái liếc mắt hờ hững cũng đủ khiến Goodman bỗng như thấy mình vừa làm điều gì sai trái.
“Đây có phải nơi ở của nhà Tremaine không?”.
“Phải thưa ngài”. Tiếng thưa ngài lần nữa lại thoát ra khỏi miệng Goodman, mặc dù ông không có ý định để điều đó xảy ra.
“Vậy làm ơn nói cho ta biết, kể từ khi nào mà ông chủ cần sự cho phép của bà chủ mới được bước vào ngôi nhà của chính anh ta?” Người đàn ông đó cầm đôi găng trong tay phải, bình thản đập đập nó vào lòng bàn tay trái, như thể đang chơi đùa với một chiếc roi cưỡi ngựa.
Goodman không hiểu. Cô chủ của ông là Nữ hoàng Elizabeth tại vị:
một nữ chủ nhân và không có ông chủ. Sau đó, nỗi kinh hoàng trong ông dần hiện ra.
Người đàn ông đang đứng trước mặt ông chính là Hầu tước của Tremaine, người chồng vắng-mặt-lâu-như-chết của nữ hầu tước và là người thừa kế của Công tước Fairford.
“Xin thứ lỗi, thưa ngài”. Goodman tiếp nhận găng tay của ngài Tremaine với sự bình tĩnh mang tính nghề nghiệp, mặc dù ông đột nhiên toát mồ hôi hột, “Chúng tôi không hề nhận được thông báo về sự trở về của ngài. Tôi sẽ chuẩn bị phòng của ngài ngay lập tức. Tôi có thể mang đến cho ngài một chút đồ ăn nhẹ trong lúc đợi được không?”.
“Được. Và ông có thể trông coi việc tháo dỡ hành lý của ta”, ngài Tremaine nói. “Quý bà Tremaine có nhà không?”.
Goodman không thể nhận ra một chút thay đổi không bình thường nào trong giọng nói của ngài Tremaine. Giống như ngài đơn giản chỉ là trở về sau một giấc ngủ ngắn buổi chiều ở câu lạc bộ. Sau mười năm! “Quý bà Tremaine đang đi dạo trong công viên, thưa ngài”.
Ngài Tremaine gật đầu, “Rất tốt”.
Theo bản năng, Goodman lon ton đi theo hầu tước, theo cái cách mà ông bám theo một con thú hoang đề phòng bất ngờ nó vượt qua cửa chính. Chỉ nửa phút sau, khi ngài Tremaine quay lại và nhướng mày, Goodman nhận ra ông đã bị cho lui.
Có điều gì đó về ngôi nhà tại thành phố của vợ làm phiền ngài Tremaine.
Ngôi nhà tao nhã một cách đáng ngạc nhiên. Anh đã hy vọng sẽ thấy một kiểu nội thất mà anh đã trở nên quen thuộc trong những ngôi nhà hàng xóm ở Đại lộ số Năm(1) của những người thuộc tầng lớp thấp hơn:
phô trương, mạ vàng, mục đích chỉ là gợi nhớ đến những ngày cuối cùng của Versailles(2).
Cô đã có vài chiếc ghế từ thời kỳ đó, nhưng lớp vải nhung bọc mặt ghế vẫn giữ được màu và những chiếc ghế mang vẻ thoải mái hơn là sang trọng. Anh không bắt gặp một chiếc tủ búp-phê cục mịch hay những đồ cổ kỳ lạ chưa được thẩm định mà theo suy nghĩ của anh, ngày càng trở nên quá quen thuộc trong những ngôi nhà ở Anh.
Nếu có gì đó, thì nơi ở của cô giống với một biệt thự ở Turin nằm dưới chân núi Alps của Ý đến kỳ lạ, nơi anh đã có vài tuần hạnh phúc trong thời trai trẻ - một ngôi nhà với giấy dán tường màu vàng cổ điển nhẹ nhàng pha lẫn màu xanh ngọc sẫm, những bình sứ cắm hoa lan trên những kệ sắt thanh nhã và những đồ nội thất cân đối, lâu bền từ thế kỷ trước.
Trong suốt thời thơ ấu di chuyển từ nơi ở này sang nơi ở khác, ngoài dinh thự của ông nội anh, ngôi biệt thự đã từng là nơi duy nhất mà anh có cảm giác là nhà. Anh đã yêu thích vẻ tươi sáng của nó, sự thoải mái gọn gàng, vẻ tươi tốt của những cây cối trong nhà kính, bầu không khí ẩm ướt và tràn ngập mùi hương cây cỏ.
Anh đã định gạt bỏ sự giống nhau ngờ ngợ giữa hai ngôi nhà bằng cách coi nó như một sự trùng hợp ngẫu nhiên cho đến khi sự chú ý của anh chuyển sang những bức tranh trang trí trên những bức tường ở phòng khách của cô. Bên cạnh những bức tranh của Ruben, Titian, và những bức chân dung của tiền nhân đang chiếm một diện tích không cân đối trên những bức tường kiểu Anh, cô trưng bày tác phẩm của những họa sĩ cùng trường phái với những tác phẩm anh đang trưng bày trong ngôi nhà của chính mình ở Manhattan:
Sislay, Morisot, Cassatt và Monet, những tác phẩm đã bị phỉ báng là gần giống những tờ giấy dán tường chưa hoàn chỉnh.
Mạch đập của anh tăng lên báo động. Phòng ăn của cô trang trí thêm những bức tranh của Monet và hai bức của Degases. Phòng trưng bày trông như thể cô đã mang về đó cả bộ sưu tập của trường phái ấn tượng:
Renoir, Cézanne, Seurat, và cả những họa sỹ chỉ có thể tìm thấy tên tuổi trong các cuộc chuyện trò ngoài lề của giới nghệ thuật Paris.
Anh dừng lại nửa chừng khi định đi đến phòng trưng bày, đột nhiên không thể đi tiếp. Cô đã trang hoàng ngôi nhà này thành một điều-kỳ-lạ-trở-thànhhiện- thực đối với một chàng trai là anh trước đây khi anh cưới cô. Trong những cuộc nói chuyện say sưa kéo dài nhiều giờ của họ, chàng trai đã nhắc đến những sở thích với ngôi nhà trong mơ và tình yêu đối với nghệ thuật hiện đại của mình.
Anh nhớ đến vẻ tập trung say mê của cô, những câu hỏi nhẹ nhàng, niềm thích thú mãnh liệt trước mọi điều về anh.
Vậy ra, vụ ly dị chẳng có gì nghiêm trọng mà chỉ là một mưu mẹo mới? Một cái bẫy tinh vi và thông minh khi mọi cái bẫy khác đã thất bại? Có phải anh sẽ thấy cô thơm ngát mùi nước hoa và hoàn toàn khỏa thân trên giường khi anh mở tung cánh cửa phòng ngủ?
Anh xác định phòng ngủ của chủ nhân và đẩy cửa.
Không có cô trên giường khỏa thân hay điều gì khác.
Không có giường.
Và cũng không có gì. Căn phòng ngủ rộng mênh mông và trống rỗng như Miền Tây nước Mỹ.
Tấm thảm không cho thấy những vết hằn bởi chân ghế và chân giường đã từng kê ở đó. Những bức tường không có những hình chữ nhật tiết lộ rằng trước đó đã có những bức tranh được treo ở đó. Những lớp bụi dày đã phủ lên sàn nhà và bệ cửa sổ. Căn phòng đã trống rỗng trong nhiều năm.
Anh cảm thấy như không khí bị rút hết ra khỏi buồng phổi của mình mà không biết vì lý do gì. Trong phòng ngủ có một góc đọc sách nhỏ sạch bóng và được trang bị đầy đủ - những chiếc ghế đọc sách lưng bọc đệm, những giá sách chất đầy những cuốn sách hay đã nhăn ở gáy, một bàn viết sạch sẽ đầy đủ mực và giấy, thậm chí cả một lọ hoa khô nở rộ. Nó khiến cho sự trống rỗng của phòng ngủ càng trở nên rõ nét, một biểu tượng của sự châm biếm.
Ngày xửa ngày xưa, ngôi nhà có lẽ đã từng được thiết kế với mục đích duy nhất là quyến rũ anh trở về. Nhưng đó là một thập kỷ khác - một kỷ nguyên hoàn toàn khác. Kể từ đó anh đã bị tách ra khỏi sự tồn tại của cô.
Anh vẫn đứng ở ngưỡng cửa, nhìn chằm chằm vào căn phòng trống trải khi người quản gia đi vào, cùng với hai người đầy tớ đang kéo theo một chiếc vali lớn. Tình trạng trống không của phòng ngủ khiến người quản gia đỏ bừng mặt, “Thưa ngài, chỉ mất một giờ để làm sạch phòng ngủ và sắp xếp lại đồ đạc”.
Anh suýt nữa đã bảo gã quản gia đừng làm phiền anh và cứ để căn phòng trống trải và hoang vu như vậy. Nhưng điều đó yêu cầu phải nói quá nhiều. Vì vậy, anh chỉ gật đầu. “Tốt”.
Chuyến hàng đầu tiên chở chiếc máy nghiền quặng mới mà quý bà Tremaine đặt cho nhà máy của mình ở Leicestershire đã lỡ hẹn. Cuộc thương lượng với những người đóng tàu ở Liverpool đã kéo dài theo cách khó chịu nhất. Và cô vẫn chưa trả lời lá thư nào của mẹ mình - mười lá tất cả, mỗi ngày một lá kể từ khi cô đệ đơn xin ly dị - điều mà bà Rowland ngay lập tức đặt câu hỏi về sự tỉnh táo của con gái mình và cảm thấy trí thông minh của con gái có thể so sánh với một cái đùi lợn muối.
Nhưng điều đó có thể đoán trước được. Điều làm đầu óc cô ong ong lên là bức điện của bà Rowland ba giờ trước:
Tremaine đã cập cảng ở Southhampton sáng nay. Bất chấp việc cô đã cố gắng hết sức để giải thích với Fređie rằng đó là yêu cầu của phiên tòa - Có vài thứ giấy tờ cần ký và một vài thỏa thuận cần thương lượng, anh yêu. Anh ấy phải trở về vì thế - việc trở về của Tremaine chỉ báo trước những điều phiền toái.
Người chồng của cô sống ở Anh. Hơn một thập kỷ nay họ không gặp nhau, ngoại trừ một lần gặp gỡ tình cờ đầy đau đớn ở Copenhagen, năm 1888.
“Tôi cần Broyton đến đây vào sáng mai để xem xét một vài sổ sách cho tôi”, cô nói với Goodman, rồi đưa cho ông khăn choàng, mũ và găng tay khi cô bước vào nhà và đi về phía thư viện, “Nhắc cô Etoile có mặt để viết vài lá thư. Và nói với Edie rằng tôi sẽ mặc chiếc váy nhung màu kem tối nay, thay vì chiếc váy lụa màu thạch anh tím”.
“Thưa cô ...”.
“Tôi gần như quên mất. Tôi đã gặp ngài Sutcliffe sáng nay. Tôi đã lưu ý thư ký của ông ấy. Tôi đã giới thiệu cháu trai của ông. Hãy bảo cậu ta trình diện tại nhà ngài Sutcliffe mười giờ sáng mai. Nói với cậu ta rằng ngài Sutcliffe thích người thành thật và ít lời”.
“Cô thật tốt, thưa cô!” Goodman thốt lên.
“Cậu ta là một chàng trai hứa hẹn”. Cô dừng lại trước cánh cửa thư viện.
“Tôi nghĩ lại rồi, nói với cô Etiole đến sau hai mươi phút nữa. Và đảm bảo là không ai làm phiền tôi cho đến lúc đó”.
“Nhưng thưa cô chủ, ngài ...”.
“Ngài ấy sẽ không uống trà với tôi hôm nay”. Cô mở cửa và nhận ra Goodman vẫn lảng vảng ở đó. Cô quay nửa người lại và liếc nhìn ông. Người quản gia mang vẻ mặt nghiêm trọng, “Chuyện gì thế, Goodman? Cái lưng lại làm phiền ông à?”.
“Không, thưa cô, không phải thế. Là ...”.
“Là anh”, một giọng nói phát ra từ trong thư viện. Giọng nói của chồng cô.
Trong một phút sững sờ, tất cả những gì cô có thể nghĩ là thật đáng mừng khi cô đã không mời Fređie về nhà hôm nay như thường lệ sau một buổi chiều đi bộ cùng nhau. Sau đó cô không nghĩ được gì nữa. Cơn đau đầu của cô giảm dần, thay thế bằng một dòng máu chạy rần rần lên đầu. Người cô nóng bừng, sau đó lạnh đi. Không khí quanh cô trở nên đặc sệt như món súp đậu, nuốt chửng thì dễ nhưng không thể hít vào.
Rất khẽ khàng, cô gật đầu với Goodman, “Ông có thể quay lại với nhiệm vụ của mình”.
Goodman ngần ngại. Có phải ông ấy lo sợ cho cô? Cô bước vào thư viện và để cánh cửa gỗ sồi nặng nề đóng lại sau lưng, ngăn lại những con mắt và đôi tai tò mò, ngăn cả phần còn lại của thế giới.
Cửa sổ thư viện mở ra phía Tây để có thể nhìn ra công viên. Ánh mặt trời chiếu xiên qua tấm kính tạo thành một hình chữ nhật sáng chói ấm áp hoàn hảo trên tấm thảm Samarkand, với những họa tiết thêu hình cây hoa anh túc và cây lựu trên một cánh đồng màu be hồng.
Tremaine đứng phía trên ánh sáng, hai tay chống vào chiếc bàn gỗ dái ngựa sau lưng, đôi chân dài bắt chéo vào nhau nơi mắt cá chân. Anh lẽ ra là một hình bóng mờ ảo nhưng thân thuộc, chứ không phải hiện thực hữu hình như thế này.
Nhưng cô đang nhìn thấy anh một cách quá rõ ràng, như thể Adam của Michelangelo(3) đã nhảy ra khỏi trần nhà của nhà thờ Sistine(4), lấy trộm những bộ quần áo ở Savile Row(5) và đến đây để gây phiền phức.
Cô trấn tĩnh lại. Cô đang nhìn chằm chằm, như thể cô vẫn là cô-gái-mườichín- tuổi, không có chiều sâu nhưng đã phát triển hoàn chỉnh bề ngoài.
“Ồ, Camden”.
“Ồ, Gigi”.
Cô đã không cho phép người đàn ông nào gọi cô bằng cái tên thân mật thời thơ ấu kể từ khi anh ra đi.
Buộc mình phải rời cánh cửa, cô vượt qua chiều dài thư viện, tấm thảm dưới chân cô quá mềm, mềm như bùn lầy. Cô tiến đến đối mặt với anh, để thể hiện rằng cô không sợ anh. Nhưng cô sợ. Anh nắm giữ quyền lực đối với cô, những quyền lực vượt xa những quyền lực được ban bởi luật pháp.
Mặc dù tương đối cao, cô vẫn phải ngẩng đầu lên để nhìn vào mắt anh. Mắt anh là một màu xanh sẫm, sẫm như khoáng chất malachite của vùng núi Ural.
Cô hít vào mùi hương tinh tế của gỗ đàn hương và cam, một mùi hương mà cô đã từng xem như là hạnh phúc.
“Anh về đây là để chấp nhận cho em ly dị hay là để gây phiền toái thế?”, cô đi ngay vào vấn đề. Phiền phức mà không được đối đầu trực diện luôn luôn quay một vòng để cắn người ta từ phía sau lưng.
Anh nhún vai. Anh đã cởi bỏ áo khoác và cà vạt. Ánh mắt cô nấn ná một giây quá lâu trên vùng da nâu ở cổ anh. Chiếc áo sơ mi bằng vải lanh thượng hạng âu yếm ôm quanh anh, vuốt ve bờ vai rộng và hai cánh tay dài của anh.
“Anh về đây để đặt điều kiện”.
“Ý anh là gì, điều kiện gì?”.
“Một người thừa kế. Em sinh một người thừa kế và anh sẽ cho phép việc ly dị được tiến hành. Ngược lại anh sẽ chỉ ra những cái tên mà em đã phạm tội ngoại tình. Em biết rõ rằng em không thể ly dị anh vì tội ngoại tình nếu vô tình em phạm phải đúng tội đó, đúng không?”.
Tai cô ù đi, “Chắc chắn là anh đang đùa. Anh muốn một người thừa kế từ em? Bây giờ?”.
“Cho đến lúc này anh vẫn không thể chịu đựng được ý nghĩ sẽ ăn nằm với em”.
“Thật sao?”, cô cười lớn, mặc dù cô muốn đập cái hộp mực vào thái dương của anh hơn, “Lần trước anh cũng đã thích nó đấy chứ”.
“Cuộc biểu diễn của cả một đời”, anh nói một cách dễ dàng, “Và anh vốn là một diễn viên khá tốt”.
Nỗi đau đớn bùng nổ trong cô, nỗi đau gặm nhấm và bào mòn mà cô nghĩ sẽ không bao giờ cảm thấy lần nữa. Cô cố giành lấy ưu thế và gạt đi chủ đề mà cô dễ bị tổn thương nhất, “Những lời đe dọa rỗng tếch. Em không có quan hệ thân mật với ngài Frederick”.
“Em thật trong sạch làm sao? Anh đang nói đến ngài Wrenworth, ngài Acton, và nghị sĩ Wiliams”.
Cô hớp một hơi. Làm sao anh biết được? Cô đã từng rất cẩn thận, rất kín đáo.
“Mẹ em viết thư cho anh”. Anh quan sát cô, lộ rõ sự thích thú trước vẻ kinh hãi ngày càng tăng của cô, “Tất nhiên, bà ấy chỉ mong là anh sẽ nổi cơn cuồng ghen và vội vã vượt đại dương để tái tuyên bố em là của anh. Vì vậy anh chắc chắn là em sẽ tha thứ cho bà ấy”.
Nếu có một tình huống nào có thể giảm nhẹ được tội giết mẹ, thì chính là tình huống này. Việc đầu tiên vào ngày mai, cô sẽ thả hai tá dê đói rã rời vào vườn rau trong nhà kính quý giá của bà Rowland. Sau đó cô sẽ vơ vét tất cả thuốc nhuộm tóc trong chợ và buộc người mẹ “đáng ghét” của cô phải phô ra mái tóc đang bạc đi của mình.
“Em có một lựa chọn”, anh nói một cách thân thiện, “Chúng ta có thể giải quyết việc này một cách riêng tư. Hoặc chúng ta có thể viện đến lời chứng nhận của những quý ông này. Em biết là từng từ họ thốt ra sẽ ở trên tất cả các mặt báo”.
Cô tái nhợt. Fređie là điều kỳ diệu mang bóng dáng con người của cô, kiên định và trung thành, yêu cô đến mức sẵn sàng dính líu đến tất cả những điều phiền nhiễu và xấu xa của một vụ ly dị. Nhưng liệu anh có còn yêu cô khi những nguời tình cũ của cô công bố cuộc tình của họ trên tất cả tờ báo công cộng?
“Tại sao anh làm điều này?”, cô cao giọng. Cô hít một hơi thở sâu để trấn tĩnh mình. Bất cứ một cảm xúc nào cô thể hiện trước Tremaine sẽ là một biểu hiện yếu đuối, “Em đã cho luật sư gửi cho anh cả tá thư từ. Anh không hề trả lời. Cuộc hôn nhân của chúng ta có thể bãi bỏ một cách đường hoàng mà không phải trải qua những trò hề này”.
“Vậy thì anh nghĩ rằng việc không trả lời của anh xứng đáng đưa đến điều anh nghĩ về ý tưởng của em”.
“Em đã đề nghị anh một trăm nghìn bảng!”.
“Anh đáng giá hai mươi lần như thế. Nhưng ngay cả nếu anh không có một đồng xu nào, điều đó cũng chưa đủ để anh đứng trước quan tòa của Nữ hoàng và thề rằng anh chưa chạm đến em. Chúng ta đều biết hoàn toàn rõ rằng anh đã làm em ngất ngây đến cùng cực”.
Cô rùng mình và người nóng lên. Thật không may, không hoàn toàn vì giận dữ. Ký ức về đêm đó - không, cô sẽ không nghĩ về nó. Cô đã quên hẳn nó rồi, “Đó là vì cô Von Schweppenburg, phải vậy không? Anh vẫn đang cố trừng phạt em”.
Anh trao cho cô một ánh mắt lạnh lùng vẫn thường khiến đầu gối cô mềm nhũn, “Giờ thì, tại sao em lại nghĩ như thế?”.
Vậy cô có thể nói gì? Cô có thể nói gì mà không phải lôi ra toàn bộ quá khứ phức tạp và cay đắng của họ? Cô nuốt nghẹn, “Được rồi”, cô nói, thản nhiên hết mức có thể, “Em có một cuộc hẹn tối nay. Nhưng em sẽ ở nhà lúc mười giờ. Em có thể dành cho anh mười lăm phút kể từ mười rưỡi”.
Anh cười, “Vẫn nóng nảy như mọi khi, nữ hầu tước của tôi. Không, tối nay anh sẽ không ghé qua chỗ em được. Anh đã mệt mỏi vì chuyến đi. Và giờ anh đã gặp em, anh cần vài ngày nữa để làm quen với sự thay đổi đột ngột này.
Nhưng hãy tin chắc rằng, anh sẽ không bị ràng buộc bởi bất kỳ giới hạn thời gian ngu xuẩn nào. Anh sẽ ở lại trên giường của em cho đến khi nào anh muốn, không kém hơn một phút - và không nhiều hơn một phút, bất kể em cầu xin như thế nào”.
Cằm cô trễ xuống, chết đứng vì sửng sốt, “Điều đó là thứ lố ...”.
Anh bất ngờ nghiêng về phía cô và đặt một ngón tay trỏ lên môi cô, “Anh sẽ không hoàn thành câu đó nếu anh là em. Em sẽ không thích nuốt lại những từ đó đâu”.
Cô quay đầu đi, môi cô bỏng rát, “Em sẽ không muốn anh ở trên giường cho dù anh là người đàn ông cuối cùng còn sống và em không có gì ngoài những con ruồi Tây Ban Nha trong hai tuần”.
“Hình ảnh em đã vẽ ra trong đầu mới sống động làm sao, phu nhân Tremaine của tôi. Với mọi người đàn ông trên thế giới này còn sống khỏe mạnh và không có tí thuốc kích thích tình dục nào, em đã là một con hổ cái rồi”. Đẩy người ra khỏi cái bàn anh nói tiếp, “Anh đã bày tỏ tất cả những gì có thể với em ngày hôm nay. Mong em có một buổi tối vui vẻ. Chuyển lời chúc sức khỏe của anh đến người yêu dấu của em. Anh hy vọng anh ta không ngại sự tồn tại của anh cùng với những quyền lợi của một người chồng”.
Anh bước đi mà không hề liếc nhìn lại.
Và không phải lần đầu tiên.
Quý bà Tremaine nhìn cánh cửa đóng lại sau lưng chồng mình và nguyền rủa ngày đầu tiên cô biết đến sự tồn tại của anh.
Chú thích:
(1) Đại lộ số Năm - Fifth Avenue:
Một đường phố lớn ở trung tâm của Mahattan, New York, Mỹ, được mệnh danh là biểu tượng giàu có của nước Mỹ.
(2) Versailles:
Thành phố của Pháp nổi tiếng với những lâu đài hoa lệ, từng được coi thủ đô không chính thức của Vương quốc Pháp trong vòng một thế kỷ (1682 - 1789).
(3) Michelangelo:
Có thể được cho là người họa sĩ nổi tiếng nhất thời kỳ Phục hưng ở Ý và là một họa sĩ vĩ đại nhất của mọi thời đại. Ông vốn dĩ coi mình là một nhà điêu khắc, nhưng ông cũng nổi tiếng tương đương với những bức tranh ông đã có cảm hứng sáng tạo ra, mặc dù là một cách miễn cưỡng. Ông cũng là một kiến trúc sư và một nhà thơ không chuyên.
(4) Trần nhà của nhà thờ Sistine:
Được Michelangelo vẽ trong những năm – 1512, theo mệnh lệnh của Giáo hoàng Julius II, là một trong những tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng nhất thời kỳ Phục hưng giai đoạn 1475 - 1525. Đây là một trong những trần nhà của Nhà thờ của Giáo hoàng xây dựng trong Vatican (1477 - 1480) bởi Giáo hoàng Sixtus IV và được đặt tên theo tên ông:
Nhà thờ Sistine. Nhà thờ này là nơi dành cho những cuộc họp kín của Giáo hoàng và tổ chức rất nhiều nghi lễ quan trọng.
(5) Savile Row:
Phố mua sắm ở Mayfair, trung tâm Luân Đôn, nổi tiếng với những trang phục truyền thống được cắt may dành riêng cho các quý ông.