Chương 1

Đêm ba mươi, tối một cách lạ lùng. Nền trời đen kịt, không một vì sao, như được quét bằng mực tàu. Bãi biển Vũng Tàu nằm co quắp trong bóng đêm mù mịt và thầm lặng, tiếng gió vi vu từ đại dương thổi lại, và tiếng sóng vỗ rì rầm bỗng nhiên tắc nghẹn. Lũ chim kên kên, làm tổ trên sườn núi vội vàng tỉnh dậy, rú lên một tiếng ai oán. Rồi nhìn ra khơi như đoán được việc sắp xảy ra.

Ngoài khơi, mặt biển đặc xịt và phẳng lặng như dầu nhớt. Đột ngột một âm thanh kỳ dị nổi lên, lan rộng trên vùng nước mênh mang, khiến người ta có cảm tưởng là hàng triệu giây đàn vĩ cầm bị đứt cùng mốt lúc. Rồi mặt biển chuyển động mạnh mẽ. Sóng dâng cao ngất, khác nào đoàn quái vật khổng lồ thời tiền sử, đen sì lông lá, đuổi nhau chạy về bờ biển, rít lên tiếng kêu the thé.

Gió lạnh từ bốn phía thổi tốc vào khoang thuyền. Có lẽ đó là con thuyền độc nhất lênh đênh ngoài khơi trước cơn bão lớn sắp tới. Điếu thuốc mới châm xong, chưa kịp kéo hơi thứ nhất đã bị thần gió giựt phăng khỏi cặp môi dày và hàm răng khấp khênh của lão Thọ, xoáy một vòng rồi bay lên không.

Lão chủ thuyền định buông ra tiêng rủa tục tằn, theo thói quen, nhưng miệng lão bỗng mím lại. Lão chợt nhớ ra Trần Độ. Phía sau, cái sơ mi trắng của Trần Độ in mờ mờ trong đêm tối. Lão Thọ chụm bàn tay làm ống loa quanh tai, ghé mặt sát vào miệng. Trần Độ mới nghe được lõm bõm qua tiếng gió hỗn loạn.

- Đến nơi chưa “đồng chí”?

Danh từ “đồng chí” làm lão Thọ bực mình. Trần Độ vẫn có lối xưng hô thân mật như vậy. Nhiều lần, hắn đã lỡ miệng, và lão Thọ phải véo mạnh vào lưng hắn cho khỏi quên. Nếu đang ở trên bộ, lão Thọ đã hích cùi tay thật mạnh vào ngực Trần Độ, hoặc tát cho hắn một cái nên thân. Đành rằng Trần Độ nói đùa, đêm nay lão Thọ không còn đủ bình tĩnh để thưởng thức sự pha trò ngớ ngẩn và nhạt nhẽo ấy.

Một niềm lo sợ vô biên xâm lấn tâm hồn lão Thọ. Lão thét to với hy vọng át dược tiếng biển gầm:

- Còn lâu mới đến. Gì mà nóng ruột thế?

Trần Độ im lặng không đáp. Hắn lặng lẽ nhìn lão Thọ. Trời tối, hắn chẳng thấy gì hết, ngoại trừ cặp mắt sáng quắc, tóe điện, của người bạn đồng hành. Bất giác, Trần Độ rùng mình.

Một ngọn sóng phũ phàng xô lạng con thuyền. Lão Thọ nghiến răng nắm chặt bánh lái, mắt mở rộng, chân xoạc ra, như muốn thách đố gió bão. Trần Độ khom lưng, chui vào ca-bin. Có lẽ hắn tìm rượu mạnh. Cứ 5, 10 phút, hắn lại tu một ngụm mạc-ten. Hắn uống rượu vì sợ, không phải vì nghiện. Sợ cái gì, hắn không biết.

Lão Thọ nhếch mép cười bí mật khi thấy Trần Độ bò vào khoang lần nữa. Hồi còn trẻ, lão gan dạ hơn hắn nhiều. Lão đã sống một phần đời trên biển rộng. Sóng gầm, gió thét, giông tố dữ dằn là bạn hàng ngày của lão. Bàn chân lão đã lê khắp hải cảng lớn trên thế giới. Hàng chục lần, lão bềnh bồng trên biển giữa trận phong ba. Tuy nhiên, phong ba như đêm nay hoặc hơn nữa cũng không làm rung được cánh tay thuyền trưởng lành nghề. Lão Thọ lo sợ, chẳng phải vì biển động, mà vì một nguyên nhân thàm kín khác.

Trời rét như cắt ruột mà lão Thọ chỉ phong phanh tấm áo mỏng. Vũng Tàu là thiên đường của gió mát và nắng ấm, ít khi hàn thử biểu xuống dưới 25 độ, thế mà trước khi xô thuyên máy ra khơi bãi, lão Thọ nhận thấy mực thủy ngân mầu đỏ nằm lịm ở con số 18. Trên biển rộng mênh mang, thời tiết còn lạnh hơn. Lão Thọ có cảm giác những đêm rét ngọt ở miền Bắc cũng lạnh đến như đêm nay ở Vũng Tàu là cùng.

Dường như mặc áo mỏng còn nóng, lão Thọ còn mở tung trước ngọn gió phần phật. Nếu có ánh đèn, người ta sẽ phải trầm trồ khen ngợi thân hình cân đối, cường tráng và trơn bóng như đồng hun của lão. Đối với người Việt, lão thuộc vào loại cao. Thoạt mới gặp, và nhất là gọi tên lão Thọ, nhiều người tưởng lầm lão đã luống tuổi, thật ra lão chưa quá 45. Có lẽ lão già trước tuổi vì sống lâu năm trong nghề nguy hiểm, luôn luôn thách đố với cái chết.

Từ lâu, lão Thọ sống độc thân trong căn nhà gỗ xiêu vẹo gần chợ Vũng Tàu. Lão không bè bạn với ai, cũng không la cà tại quán rượu. Mỗi khi buồn, lãо phóng thuyền ra biển, nằm ngửa trên sàn, mặc cho giòng nước cuốn trôi để nhớ lại kỷ niệm rồn rập của thời niên thiếu, xông pha hòn tên mũi đạn.

Thẻ kiểm tra ghi tên lão là Trần Văn Thọ, dân chài, mới biết đọc, biết viết. Nhìn hàm răng khấp khểnh và cặp môi dày, người ta có thể tin là lão dốt đặc. Nhưng luồng mắt sáng quắc, thỉnh thoảng liếc ngang như dao, và những cử chỉ từ tốn thượng lưu, lão Thọ khó thể là người mù chữ.

Thật vậy, không những lão Thọ biết đọc, biết viết trôi chảy như mọi người, lại còn biết nhiều điều mà mọi người chưa biết. Chẳng hạn biết mở máy thu thanh, nghe mã tự tạch, tè, tạch tè của đài ngoại quốc, và lúi húi ghi chép vào giấy. Chẳng hạn biết uống rưọu vermouth của Ý, với nước sôđa và vắt vào một giọt chanh. Chẳng hạn biết ném con dao cách năm thước cắt đôi cái nút bấc, hoặc giết một địch thủ nặng 80 cân không dùng súng và không cho kêu lên một tiếng.

Gần nhà lão có một biệt thự lớn, chủ nhân là cặp vợ chồng sang trọng ở Sài Gòn, mỗi tuần ra chơi một ngày. Thường thường, lão sang nhà rửa xe và tắm chó cho ông chủ để lấy tiền tiêu. Lão cởi trần, bắp thịt nổi lên cuồn cuộn, vai bạnh ra, bụng thót lại, không khác lực sĩ thế vận. Bà chủ - một thiếu phụ trẻ măng - thích nếp sống lãng mạn, tạt qua mặt lão, nức nở:

- Trời, thân hình anh đẹp ghê!

Lão cười trừ, không đáp. Thiếu phụ lại hỏi:

- Anh biết Vọi không?

Lão lắc đầu. Bà chủ mỉm cười:

- Uổng quá. Tôi sẽ cho anh mượn cuốn Trống Mái của Khái Hưng.

Lão lại lắc đầu:

- Thưa bà, tôi không biết đọc truyện.

Lão không lạ gì nhân vật Vọi trong tiểu thuyết bất hủ của nhà văn tiền chiến Khái Hưng. Vọi cùng làm nghề chài lưới như lão. Vọi cũng có thân hình cân đối như lão. Vọi cũng mù chữ như lão. Cho nên bà chủ đa tình mê lão. Tuy nhiên, lão không dám nhìn cái áo tắm bikini hai mảnh nhỏ xíu của bà chủ. Lão phải ngoảnh đi, mỗi lần bà chủ tới gần, cúi xuống, cốt cho lão có điều kiện chiêm ngưỡng. Lão không đần độn như Vọi trong tiểu thuyết. Thời hoa niên, lão đã nếm đủ hương vị đàn bà. Lão có mặt khắp trà đình, tửu quản, hưởng thụ mọi thú thần tiên.

Trong cơn ghen tuông, lão Thọ phạm tội giết người. Bị đày đi Côn Đảo, lão kết bè trốn về, và từ đấy mai danh, ẩn tích, làm việc cho do thám R.U. Nói theo ngữ vựng, chuyên môn, lão là giám đốc trú sứ R.U. (1) ở vùng Cấp. Đêm nay, lão được lệnh thi hành một công tác quan trọng.

Tuy gió thổi và sóng vỗ ồn ào, lão Thọ vẫn nghe Trần Độ càu nhàu:

- Đi đã hai tiếng đồng hồ rồi mà chẳng thấy gì hết. Đồng chí định lái thuyền đi đâu, hãy cho tôi biết. Nếu không...

Lão Thọ quát lớn:

- Câm miệng đi. Chỉ mươi phút nữa thôi.

Trần Độ lại hỏi:

- Nhưng ra đây làm gì mới được chứ?

Tia mắt của lão Thọ tuôn ra như lửa trong đêm khuya mù mịt:

- Hừ, tôi đã bảo anh câm miệng... Anh chỉ có bổn phận vâng lệnh tôi, thế thôi. Lát nữa, về Bãi Sau anh được trả công, như đã hứa. Năm ngàn đồng... Năm ngàn đồng bạc đâu phải ít!

Trần Độ có cảm giác như bị một mãnh lực dị kỳ khóa miệng. Phải, lão Thọ hứa thưởng hắn năm ngàn đồng. Hắn được lão Thọ kết nạp cách đây sáu tháng. Tử bấy đến nay, hắn theo lão Thọ ra khơi cả thảy ba lần, và mỗi lần chỉ được trả công một ngàn bạc. Dĩ nhiên trong những chuyến trước công việc dễ dàng hơn - hắn chỉ cần phụ một tay với lão Thọ cho thuyền ra khơi, rồi tiếp xúc một chiếc tàu đánh cá chờ sẵn - chứ không lao đầu vào giông tố như đêm nay, song nếu được trả công năm ngàn cũng vẫn quá nhiều.

Một lằn chớp xẹt ngoằn ngoèo trong đêm tối dày đặc. Trần Độ rùng mình, tưởng như lưỡi dao lành lạnh dí sát cổ. Thái độ khó hiểu của lão Thọ đêm nay làm hắn chột dạ. Lão biết rồi cbăng?

Trần Độ ngồi bẹt xuống sàn thuyền, hai hàm răng đánh vào nhau cầm cập. Mặc dầu tiếng gió mỗi lúc một gắt gỏng, hắn vẫn nghe được âm thanh đều đặn và ròn tan của cái động cơ chạy bằng ét-xăng gắn ở mũi thuyền. Loại động cơ Evin- rude 200 mã lực này có thể biến con thuyền của lão Thọ thành chiếc lá lướt nhẹ trên sóng dữ.

Trừ phi là đứa trẻ ngờ nghệch Trần Độ mới không biết sức mạnh của động cơ 200 mã lực. Vì đó là động cơ tối tân nhất và mạnh nhất ở Cấp. Lão Thọ đã cẩn thận đập vỏ sắt méo mó và sơn đen loang lổ, song Trần Độ đã nhận ra. Mặc dầu lão Thọ kín miệng. Trần Độ cũng khám phá ra bí mật.

Con thuyền lái vòng sang trái, động cơ rú lên. Tiếng máy chạy mang lại cho Trần Độ một sự bình tĩnh và tin tưởng. Chớp lại xẹt lên, rồi sấm nổ ù ù, Trần Độ càu nhàu:

- Mưa to mất rồi.

Lão Thọ cười lớn:

- Ngu lắm, trời này mưa sao được. Vào ca-bin nôc thêm ly mạc-ten nữa cho đỡ lạnh.

Giọng nói xách mé, coi người bằng phần tư con mắt của lão Thọ làm Trần Độ tức lộn ruột. Hắn muốn nắm lấy vạt áo lão, thoi cho một qua đấm vào miệng. Song hắn vừa nâng tay lên lại hạ xuống. Hắn chưa được phép xuất đầu lộ diện. Vả lại, lão Thọ có nhiều hy vọng hạ được hắn trên thuyền máy, ngoài khơi bao la, giang sơn thân thiết của lão.

Lão Thọ lấy dao nậy ván thuyền, và rút ra một hộp vuông. Dưới đốm lửa thuốc lá mà lão Thọ vừa đốt, Trần Độ có thể nhìn thấy những bộ phận mạ kền bóng loáng khi nắp hộp được mở ra. Không cần được sờ tận nơi, Trần Độ đã biết đó là cái gì rồi.

Lão Thọ hoạt động thoăn thoắt, chứng tỏ không phải lần đầu mở cái hộp bí mật. Thoạt tiên, lão bấm nút, một cái ống bằng thép tí hon từ trong vụt ra, dài đúng một thước rưỡi. Ngọn đèn màu xanh nhỏ hơn đầu ngón tay út vừa được bật cháy. Lão Thọ hất hàm ra lệnh:

- Anh cầm lái thay tôi một lát.

Lão Thọ vốn có tính nói ít. Trong nửa năm làm việc dưới quyền lão Thọ, Trần Độ chỉ cất tiếng hỏi mỗi khi cần thiết. Vì thế Trần Độ nhỏm dậy, lầm lì đặt bàn tay vào bánh lái trơn như thoa mỡ. Trong khi ấy, từ cái hộp phát ra những tiếng lè dè.

Trần Độ dán mắt vào cây cần mã tự mà lão Thọ ấn xuống, bật lên lạch cạch. Hắn cố lắng tai thu hết vào trong trí nhớ. Tuy rất giỏi về “moóc”, hắn vẫn không khám phá ra được ý nghĩa của những tiếng tạch, xè, tạch xè của điện đài, Hắn đánh bạo hỏi:

- Ông làm gì thế?

Lão Thọ càu nhàu:

- Làm gì mặc tôi. Tôi nói mãi rồi, anh chưa chịu hiểu sao? Hay là...

Lão Thọ nín bặt. Suýt nữa lão tuôn ra câu nói hớ. Lão bèn phá lên cười:

- Ừ, anh muốn biết, tôi cũng chẳng giấu làm gì. Đây là máy đánh điện tín, anh hiểu không? Với cái hộp này, tôi sẽ liên lạc vói tàu ngầm hiện ở ngoài khơi.

- Tàu ngầm?

- Phải, tàu ngầm. Đêm nay, chúng ta phải đón một người bạn mới.

Trần Độ chẳng lạ gì máy điện đài mà lão Thọ vừa nhắc tới với thái độ hãnh diện. Trong đời, Độ đã dùng rồi. Nhưng dầu sao hắn có bổn phận đóng kịch đến phút chót nên phải chép miệng ra dáng ngạc nhiên và khâm phục.

Một phút sau, lão Thọ tắt ngọn đèn xanh. Trần Độ buông tiếp một câu hỏi ngây thơ:

- Người bạn mới ấy là ai, hả ông? Và đến Vũng Tàu làm gì?

Lão Thọ không lộ mảy may sửng sốt. Hắn đoán trước câu hỏi của Trần Độ. Trong óc, hắn đã định sẵn một chương trình rõ rệt. Trần Độ là một thanh niên gan dạ và tháo vát, nghĩa là tạm đủ đức tính để làm nhân viên gián điệp. Song hắn lại phạm ba khuyểt điểm quan trọng: huênh hoang với gái, cứng đầu và tò mò vô lý. Trần Độ có tính hay hỏi vặn, và hỏi quá nhiều. Lần trước, đón một thuyền cá để trao tài liệu, Trần Độ láy đi, láy lại câu hỏi bất dịch:

- Bao giờ mình gặp lại, hả ông?

Sự hiếu kỳ quá trớn của hắn làm lão Thọ nổi giận. Lúc thuyền ghé bãi biển, lão định cho hắn một bài học. Nhưng Trần Độ nhìn lão cười một cách thành thật. Thành ra lão bỏ qua. Song lần nầy, lão không thể bỏ qua. Những việc xảy ra chứng tỏ Trần Độ có một trí thông minh vượt mức trung bình. Phàm làm điệp viên, nhất là điệp viên R. U. cấp dưới, có trí khôn là điều bất lợi. Vì trong nghề này, nhiều khi người ta phải nhắm mắt tuân lệnh trên, không được quyền suy xét và lựa chọn.

Vả lại, Trần Độ thuộc vào hạng nhân viên chỉ được dùng một lần (2) thôi. Những điều hắn biết đêm nay sẽ gây ra hậu quả vô cùng ghê gớm nếu lọt vào vành tai của đối phương. Với cặp mắt đĩ thõa chỉ thích ngắm đàn bà, cái miệng cười thật tình tứ, Trần Độ sẽ không đủ bản lãnh chống lại nghệ thuật thẩm vấn khoa học nếu chẵng may bị bắt.

Cho dẫu Trần Độ trung thành thì số tiền năm ngàn đồng vẫn có ma lực khiến lão Thọ đặt lại vấn đề. Lát nữa, con thuyền sẽ tới địa điểm đã định. Mục đỉch của lão Thọ là mượn cánh tay lực sĩ của gã thanh niên chưa vợ để lái con thuyền giữa cơn giông tố. Bắt đầu từ phút này, lão không cần Trần Độ nữa.

Lão Thọ nhìn về mũi thuyền. Trên mặt biển rộng mênh mông, đột nhiên nổi lên một luồng sáng như lân tinh. Manh áo trắng bay phần phật trên thân hình cân đối và dẻo dai của Trần Độ. Cánh tay dạn dày mưa nắng của Trần Độ cuộn tròn những bắp thịt khoẻ mạnh. Lão Thọ hơi chột dạ khi thoáng thấy nét mặt đổi khác của Trần Độ.

Bất giác, lão đặt bàn tay lên thắt lưng.

Phía sau lần vải mỏng, lão thủ sẵn con dao nhỏ bản, nhưng rất sắc và nhọn. Cái khí giới tầm thường này rất lợi hại đối với kẻ giết người nhà nghề như lão Thọ. Trong cuộc sống hồ hải, lão đã nhiều lần chọc mũi dao nhỏ như lá liễu ấy vào tim kẻ thù, và lần nào cũng vậy, hễ lão rút được con dao, nắm chặt trong tay là chiếm trước phần thắng.

Huống hồ trời tối, Trần Độ lại không ngờ. Nhược bằng Trần Độ thấy con dao sát nhân thì cũng đã muộn, cái vốn quyền thuật của tên con trai hai mươi khó thề đương đầu với sở trường nhu đạo tinh vi của lão Thọ.

Lão Thọ nín hơi thở, luồn tay vào áo.

Nhưng bàn tay của lão chưa kịp chạm vào chuôi dao thì một tiếng cười rú lên the thé. Tiếng cười pha lẫn ngạo nghễ và tin tưởng:

- A ha, lão Thọ định giết tôi ư?

Như tuân theo một mệnh lệnh thần bí, bầu trời sáng hẳn ra, tiếng gió im bặt, và tiếng sóng gầm cũng dịu xuống. Lão Thọ thấy đau nhói một bên ngực, như bị đâm kim nhọn vào. Lão không ngờ Trần Độ bắt được quả tang lão định rút dao. Nhưng lão Thọ đã tiến vào thế không lùi được nữa. Hàm răng lão nghiến chặt vào nhau:

- Dĩ nhiên. Bây giờ mày mới đoán ra sao?

Trần Độ vẫn cười, khinh mạn:

- Mày lầm rồi. Tao đã đọc thấy ý định giết người trong mắt mày, trước khi rời bãi biển.

- Trần Độ ơi, mày ngây thơ lắm. Tao chủ trương hại mày đã lâu. Thật ra, tao không hề ghét mày. Sở dĩ mày phải chết vì mày biết nhiều quá. Đêm nay, một nhân vật quan trọng của tổ chức tới đây, tao sợ mày báo với công an Vũng Tàu. Thôi mày đừng oán tao nữa, tao có cách giúp mày sang thế giới bên kia một cách thật ngọt ngào và êm thấm. Mày sẽ chẳng đau đớn gì hết. Nếu mày cần trưa mai tao sẽ nhờ nhà chùa làm chay siêu sinh tịnh độ cho mày.

Tao không hề ngây thơ như mày tưởng. Tao đã biết mày muốn hại tao từ trước. Và từ trước, tao cũng có ý định hại mày. Tao chờ mãi mới có đêm nay. Lăo Thọ? Mày phải chết!

Lão Thọ nghiêng mình, rút dao ra khỏi thắt lưng. Thì một tiếng quát lớn nổi lên:

- Cấm không được cử động. Nếu không tôi bắn!

Cuộc biện luận giữa hai người bỗng trở nên nhã nhặn, chứ không mày tao như trước nữa. Theo kinh nghiệm, hễ khi nào người gián điệp dùng danh từ lịch sự với nhau thì sắp xảy ra án mạng.

Mắt lão Thọ trợn tròn khi thấy Trần Độ chĩa miệng súng đen ngòm trước ngực. Dã tràng xe cát, biết bao công phu bố trí của lão đã bị Trần Độ đạp đổ. Xuyên qua ánh sáng mờ mờ, lão Thọ nhận ra khẩu Mô-de 7,35, loại súng lục trung bình, rất thuận lợi cho những vụ sáp lá cà. Trông ngón tay đặt lên cò súng của Trần Độ, lão Thọ đoán ra hắn là kẻ thành thạo.

Chừng như biết được ý nghĩ của kẻ thù, Trần Độ dằn từng tiếng:

- Anh đừng hòng trốn khỏi họng súng này. Tôi không phải là thằng con trai ham chơi và cần tiền tiêu như anh tưởng đâu. Anh đã bạc đầu trong nghề rồi mà vẫn bị lừa. Thật tội nghiệp!

Lão Thọ nuốt nước bọt:

- Thế ra...

Trần Độ nhún vai:

- Phải. Tất cả những việc xảy ra từ sáu tháng nay giữa anh và tôi chỉ là một tấn tuồng. Lẽ ra tôi có bổn phận phải giữ kín, nhưng dầu sao anh cũng sắp sửa ra đi, tôi không muốn anh xuống âm phủ với sự tấm tức trong lòng. Nửa năm trước, anh gặp tôi trong quán rượu ở Bãi Trước. Anh còn nhớ rõ chứ? Vả lại, quên thế nào được? Đêm ấy, tôi uống rượu lu bù, uống chán rồi ôm gái nhảy, hoặc gây sự ấu đả với bất cứ người nào vào quán. Anh bằng lòng tôi vì thấy tôi đánh quyền rất hay, chỉ trong năm phút đồng hồ ngắn ngủi đã quật ngã được mấy gã đàn ông lực lưỡng. Anh bèn kéo ghề ngồi cạnh, kêu thêm một chai rượu Mạc-ten với hai cái ly, nhất là không quên ngoắt tay, ném xấp giấy bạc mới toanh trên bàn, để đổi lấy ả đàn bà tuyệt đẹp. Cám ơn anh đã nghĩ tới tôi trong đêm ấy. Nếu tôi không lầm anh đã tiêu trên năm ngàn đồng. Và sáng hôm sau, khi tôi thức dậy bên người tình một đêm thì anh mở cửa phòng bước vào. Anh tưởng mua chuộc được tôi, thật ra, anh đã bị đánh lừa một cách thảm hại.

Lão Thọ thở dài:

- Bây giờ, anh thắng, tôi bại. Tôi xin hứa không làm khó dễ anh, nếu chúng mình xử hòa với nhau. Anh bằng lòng không? Chúng mình sẽ quên hết câu chuyện đáng tiếc vừa xảy ra.

- Nếu tôi tha anh, chúng mình sẽ phải làm gì?

- Anh cất khẩu súng quái ác kia đi, rồi tôi sẽ nói sau.

- Như thế thì tôi nhất định không hòa. Anh đừng quên tôi chỉ cần ấn ngón tay vào cò súng là viên đạn chì sẽ bắn vào giữa tim, anh sẽ chết ngay, không kịp trối. Nào, anh định nói không? Chúng mình sẽ phải làm gì?

- Ỏ, anh nóng nảy quá? Còn hai trăm thước nữa, chúng ta sẽ đến chỗ hẹn với tàu ngầm. Anh và tôi sẽ ghé thuyền cho một người lên. Chở về Cấp, chúng mình sẽ được tiền thưởng.

- Bao nhiêu?

Lão Thọ ngập ngừng:

- Một trăm... ngàn đồng.

- Đồ xỏ lả! Tiền thưởng những mười vạn mà anh thí cho tôi vẻn vẹn có năm ngàn, rồi lại định giết luôn để khỏi phải trả năm ngàn ấy nữa.

- Tôi biết bậy rồi. Anh tha lỗi cho tôi. Món tiền mười vạn ấy, hai đứa mình chia đôi.

- Chia đôi, hừ ít quá, tôi không thích.

- Thì anh hai phần, tôi lấy một phần cũng được. Đấy anh coi, tôi rất sẵn lòng tốt với anh. Người ta thì giấu diếm, còn tôi thì không. Tôi luôn luôn thẳng thắn và sòng phẳng với bạn.

- Hai phần còn ít quá.

- Nếu thế tôi nhường hết cho anh. Tôi làm vậy để chứng minh thiện chí đối với anh.

- Tôi đi biển với anh cả thảy ba chuyến. Hai lần trước, người ta trả anh bao nhiêu tiền?

- Mỗi lần năm vạn.

- Trả tiền bằng cách nào?

- Trao tài liệu rồi nhận tiền. Lảt nữa cũng thế, người.ấy lên tới Bãi Sau thì trả tiền.

- Tôi muốn lấy số tiền anh cất ở nhà. Hiện anh có bao nhiêu?

- Không lẽ anh lấy hết tiền giành dụm của tôi? Anh tham lam quá, tôi sợ không chiều anh được.

- Không được thì thôi. Để tôi rа đón tàu ngầm một mình vậy.

- Vâng, nếu thế thì để tôi nói. Tôi cất tiền trong cái hộp bích quy, chôn dưới đất, gần chum nước. Trong đó có gần ba trăm ngàn đồng.

- Cảm ơn anh. Lát nữa, gặp tàu ngầm sẽ dùng khẩu hiệu nào?

- Tôi không thể nói được.

- Nếu vậy tôi buộc lòng phải hạ thủ anh.

Lão Thọ cười rộ lên:

- Anh muốn hạ thủ tôi thì cần gì điều đình nữa? Phải, tôi đã bị anh lừa trong sáu tháng nay. Và nếu tôi không lầm, anh là nhân viên của Sở Mật vụ. Mục đỉch của anh là loại trừ tôi để được tự do liên lạc với tàu ngầm. Nhưng anh đừng quên rằng nhân viên dưới tàu sẽ bắn anh tan xác nếu anh không biết mật hiệu.

Nghe lão Thọ nói, Tràn Độ tái mặt. Thật vậy, nhiệm vụ của hắn là tìm cách tiếp xúc kỳ được với tiềm thủy đĩnh. Sự ngậm miệng của lão Thọ sẽ làm kế hoạch mà hắn vạch ra bị thất bại.

Một làn chớp nữa lóe lên, sáng quắc một vùng. Trần Độ nghiêm nét mặt:

- Tôi không dọa đâu. Nghĩ tình quen biết, tôi cho anh hai phút để cân nhắc điều hơn lẽ thiệt.

Lão Thọ gằn giọng:

- Sau khi biết mật hiệu, anh tha tôi không?

Trần Độ ve vẩy mũi súng:

- Đó là dĩ nhiên.

- Còn nếu tôi không nói?

- Anh đã đoán trước được rồi, bất tất tôi phải nhắc lại.

Giọng nói của lão Thọ đanh hẳn:

- Hừ, anh tưởng tôi là con nít đấy phỏng? Tôi đã đọc thấy ý định của anh, Hoạt động đã lâu, tôi chẳng còn lạ gì giá trị của lời hứa trong nghề gián điệp. Tôi thừa rõ là nói cũng chết, không nói cũng chết. Không nói, tôi còn lợi hơn, vì lát nữa bọn họ sẽ giết anh quăng xác xuống biển.

Xương sống của Trần Độ lạnh hẳn như bị ngâm vào thùng nưởc đá. Lão Thọ chẳng phảỉ tay vừa. Hắn cảm thấy không được phép trù trừ nữa. Tàu ngầm sắp nhô lên khỏi mặt nước. Hắn phải hóa kiếp lão Thọ ngay bây giờ vì còn phải liên lạc bằng vô tuyến với tổng đài.

Với loại súng ngắn quen thuộc này, hắn chỉ bóp cò một lần là lão Thọ thành xác ma không hồn. Hắn bèn dựa lưng vào mạn thuyền để lấy đà. Trên miệng hắn, nở ra nụ cười thỏa mãn.

Đối diện hắn, cách hai thước, lão Thọ cố thu người lại cho Trần Độ khỏi nhìn thấy. Đó là phản ứng thông thường của con người trước khi chết, trong tay không có tấc sắt kháng cự.

Trần Độ đếm to:

- Đây này, một… hai… ba… Nhắm mắt lại, lão Thọ?

Lão Thọ la lên:

- Trần Độ, đừng bắn!

Ngón tay Trần Độ ấn mạnh vào cò súng. Tiếng nổ đoàng khô khan nổi lên trên mặt biển tịch mịch, vừa ngớt gió gầm và sóng thét. Một đợt sóng lớn vọt qua, con thuyền mảnh khảnh lại ngả sang bên. Đợt sóng bất ngờ này đã cứu lão Thọ khỏi chết. Viên đạn bay vèo qua nách. Hú vía!

Lão Thọ không cho đối phương bắn phát thứ hai nữa. Lão đã xông lại, phóng chân vào cườm tay Trần Độ. Khẩu súng lục bị đánh văng xuống sàn thuyền. Trần Độ loạng choạng đạp lên vỏ chai mạc-ten, trượt chân suýt ngã. Hắn còn trẻ, chưa phải là đối thủ của gã gián điệp lão luyện R.U. Trần Độ cúi xuống định lượm khí giới, thì bị bàn tay như thép của kẻ thù đánh vào bả vai. Đau đớn, Trần Độ nhoài người ra trên sàn thuyền. Lão Thọ chồm lên, hơi thở nóng hổi quạt vào mặt Trần Độ.

Bầu trời mới sáng ra bỗng tối sầm lại như cũ. Mặc dầu trời tối, hai người vẫn nhìn thấy ngón đòn của nhau. Lão Thọ nắm chặt vạt áo sơ mi trắng của Trần Độ, chuẩn bị hất gã con trai xuống biển. Nằm dưới, Trần Độ vẫn không mất bình tĩnh và tin tưởng, trái lại, hắn chỉ chờ lão Thọ đụng tới áo thì vùng dậy hạ độc thủ.

Hai bàn chân Trân Độ co lên, nhắm giữa bụng lão Thọ. Nếu đá trúng, Trần Độ có thể gây thương tích trầm trọng cho đối phương đồng thời gạt băng được lão xuống nước. Thế phản công của Trần Độ thật nguy hiểm, tuy nhiên, không làm nao núng một võ sĩ đai huyền đen giàu kinh nghiệm chiến trận như lão Thọ.

Thoáng thấy hai ngọn cước lợi hại, lão Thọ thét lên tiếng kiai – tiếng thét táng đởm kinh hồn của các cuộc đấu nhu đạo - rồi đảo người sang bên để tránh. Và vừa tránh, lão vừa dằn cánh tay cuồn cuộn bắp thịt xuống yết hầu Trần Độ.

Trần Độ hoành tay lên đỡ. Gân cốt của hắn bỗng bủn rủn. Miếng đòn của lão Thọ còn nặng hơn phát búa tạ. Đỡ xong, Trần Độ ráng ngồi lên, thu hết sức lực chém atémi ngang mặt lão Thọ.

Nhưng phát atémi kinh khủng của lão Thọ được phóng ra trước đó một phần mười giây đồng hồ. Trần Độ bị ba ngón tay chụm lại như dùi sắt mài nhọn đâm vào ngực. Hắn kêu ứ một tiếng rồi ngã vật xuống. Nhanh như cắt, lão Thọ lôi хốс hắn dậy, đánh bồi vào huyệt giữa hai con mắt.

Lần nầy Trần Độ không bao giờ dậy nữa.

Hắn thở hắt ra một tiếng, rồi lịm dần.

Trời vẫn tối như hũ nút. Ngọn gió ngoài khơi nín thinh được một lát đã dữ dằn trở lại. Một đợt sóng lớn như nhà gác hai tầng lù lù kéo tới, con thuyền mảnh khảnh bị hất tung lên. Cái thây ma phủ áo trắng của Trần Độ ngã nhào vào lòng lão Thọ.

Cáu tiết, lão Thọ nhổ bẹt vào xác chết một bãi nước bọt. Đoạn lão kéo hai chân xô qua mạn thuyền. Tiếng động cơ thuyền máy vẫn nổ đều. Chắc lưỡi, lão Thọ bật lửa châm thuốc lá. Lão cảm thấy cần phải tự thưởng một điếu thuốc sợi vàng thơm ngon.

Rít xong một hơi dài, lão Thọ lẩm bẩm:

- Thế là đỡ tốn năm ngàn!

Con thuyền đen sì tiến thẳng ra khơi mù mịt.

 

Vươn vai, Tôkarin từ từ ngồi dậy. Miệng hắn mở rộng ra, ngáp một cái thật dài. Nếu trước mặt có đàn bà đẹp, hắn đã đưa tay che miệng. Vì hắn là thanh niên nổi tiếng lịch thiệp đối vời phái yếu.

Tôkarin không cần che miệng vì trước mặt hắn là một người đàn ông. Viên hạm trưởng đặt cái mũ kết trắng, không gắn phù hiệu, cấp bậc, cũng không thêu chỉ kim tuyến rực rỡ, xuống bàn sắt gần đầu giường, miệng nói:

- Chào ông, ông ngủ ngon quá. Sắp vào hải phận Nam Việt rồi.

Tỏkarin hỏi:

- Mấy giờ rồi, thiếu tá?

Hạm trưởng đáp:

- Đúng 1 giờ 24 phút, giờ Sàigòn.

- Độ bao làu nữa đến điểm GF- 186?

GF-186 là nơi tiềm thủy đĩnh nổi lên. Hạm trưởng đáp, mặt ưu tư:

- Nếu không gặp trở ngại, trong vòng hai giờ nữa. Nghĩa là chưa đến 4 giờ sáng. Mặt biển ở đây nhiều sương, 6 giờ mới sáng rõ. Ông có hy vọng vào bờ khi trời còn tối.

- Liệu phải hoãn đến đến đêm mai không, thiếu tá?

- Tôi chưa dám cả quyết. Dọc bờ biển có rất nhiều ngư lôi nổi lềnh bềnh, kết thành hàng rào phòng thủ ta có thể lọt vào hải phận dễ dàng. Nhưng sự bất trắc có thể xảy ra... Vả lại, còn tùy vào người chờ ông nữa. Đêm nay trời bão lớn, phải là hoa tiêu lão luyện mới không đắm thuyền hoặc đi lạc đường.

Tôkarin chép miệng:

- Phiền nhỉ! Công việc quan trọng, tôi không thể hoãn đến đêm mai được.

- Vâng, tôi ráng sức. Ông dùng cà phê không, để tôi gọi.

Tôkarin lắc đầu, chỉ chai rượu sâm banh cạn non nửa. Theo nguyên tắc bất di dịch của hải quân, rượu không được mang xuống tàu ngầm. Song Tôkarin là thượng khách. Hắn tha hồ uống rượu như hũ chìm, và toàn là rượu Tây phương đắt tiền.

- Mời thiếu tá một ly cho vui.

Đến lượt hạm trưởng lắc đầu:

- Kỷ luật hải quân rất nghiêm khắc, tôi không dám trái. Riêng việc đưa rượu xuống tàu cho ông cũng phải có lệnh viết của Bộ Tư lệnh. Trân trọng cám ơn ông và xin hẹn lần khác.

Tôkarin mỉm cười. Hắn không tin còn gặp hạm trưởng lần nữa. Trung ương R.U. đã cho hắn biết là sau cuộc hành trình này hạm trưởng chiếc U-99 sẽ được thuyên chuyển qua vùng biển Ban-Tích để bảo vệ bí mật tuyệt đối. Hắn không hiểu sao con tàu này của R.U. lại mang tên Đức (3). Có lẽ để nhắc nhở hạm trưởng noi gương bộ tam đa kỳ khôi và oai hùng của trận Thế chiến Thứ hai.

Viên thiếu tá hải quân cúi đầu chào rồi lặng lẽ bước ra ngoài. Troug ca-bin chật chội - ngang 2thl0, dài 2th70 - chỉ còn trơ lại một mình Tôkarin. Trong chốc lát, hắn sẽ từ giã tầu ngầm; từ giã cuộc sống khắc khổ trong nhà mồ bằng thép dày.

Ngày nào cũng nhu ngày nào, đúng 10 giờ sáng thủy thủ ăn điểm tâm, 8 giờ tối ăn tối, suốt ngày không được nhìn mặt trời, trừ phi qua tiềm vọng kính, chập tối mới nổi lên và được phép hút thuốc lá dưới ánh đèn đỏ quạch. Thủy thủ được chia làm ba toán: đỏ, xanh và trắng, mỗi toán làm việc hai giờ và nghỉ bốn giờ. Mỗi khi tàu ngầm nổi lên, hàng chục thủy thủ tíu tít sạc lại bình điện lớn gấp ba ngàn lần bình ắc-quy xe hơi, tiêu thụ khoảng 400 lít nước. Trong khi thủy thủ phải xếp hàng dài để rửa mặt thì Tôkarin được sử dụng một phòng tắm riêng, đầy đủ tiện nghi. Hắn lại có sẵn một tủ rượu đắt tiền, và được tự do hút thuốc lá.

Cặp mắt cú vọ của hắn nhìn chăm chú vào bộ quân phục kaki xếp ngay ngắn ở cuối giường. Đó là bộ quân phục đại úy Mỹ. Hắn nhảy xuống, ướm thử vào người. Mùi vải kaki thơm tạt vào mũi, hắn nhoẻn nụ cười đắc chí. Bộ quân phục này được may riêng tại Nha 5, GRU, Mạc Tư Khoa (4), vải, chỉ may, và khuy nút đều mua bên Mỹ. Thợ may cũng là người Mỹ.

Trên bàn sắt, hắn nhận ra cái gói cạt-tông hình vuông. Mở ra, hắn suýt reo lên một tiếng khoái trá. Bên trong, người ta đã để sẵn một bịch thuốc thơm hiệu Lucky có ba ngôi sao, loại ngon nhất, một chai rượu huýt - ky Vát chưa khui, một chồng ly bằng giấy trắng do một công ty Mỹ sản xuất, một cái quẹt máy mạ kền bên trên khắc chữ Okinawa - dành riêng cho sĩ quan Hoa Kỳ đồn trú ở đảo Xung Thằng - và một số đồ vặt vãnh khác, thường thấy trong hành trang đại úy Mỹ, như giấy bạc đô la 5 đồng, 20 đồng, vé xem chiếu bóng, thư từ thơm mùi nước hoa đắt tiền, và nhất là ảnh tình nhân và đàn bà khỏa thân cắt trong tạp chí khiêu dâm Playboy.

Và đặc biệt là một khẩu súng Colt thông dụng trong lục quân và hải quân Hoa Kỳ, kiểu 1892, bắn 6 phát. Hớn hở, Tôkarin mân mê khẩu súng xinh xẻo trong tay. Tốt nghiệp trường đại học tình báo Kuchinô (5), hắn đã có dịp làm quen với mọi thứ súng dài, ngắn, khác nhau, trên thế giới từ khẩu Pạc- họoc của Trung Hoa đến giàn đại liên của Mỹ.

Ba ngày trước, hắn đã được hân hạnh cầm khẩu Colt này trong văn phòng của một thủ lãnh do thám Xô Viết. Mặc dầu sinh trưởng trên đất Nga, và lớn lên ở thủ đô, Tôkarin vẫn không tài nào đoán được văn phòng kín đáo ấy tọa lạc ở đâu.

Như thường lệ, sau một chuyến công tác mỹ mãn ở Bá Linh, hắn được thượng cấp khen ngợi, và cho phép dưỡng sức trên bờ biển Hắc Hải. Cùng đi với hắn là một người đàn bà có thân hình nảy nở, và làn da mịn màng, hễ chạm vào tay chân run rẩy như bị điện giật. Hắn không rõ tên nang là gì. Ngược lại, hắn cũng không được quyền nói tên thật. Được lệnh làm hắn vui lòng, còn hắn thì được tự do coi nàng là một vật sở hữu trong thời gian nghỉ ngơi.

Tuy nhiên, tuần trăng mật bị cắt đứt một cách bất ngờ. Nàng được lệnh trở về trung ương, chắc hẳn để mua vui cho một đồng nghiệp khác, vì nàng là nhân viên Y3, thuộc quyền điều khiển bí mật của Sở Do thám R.U. Y-3 là một tổ chức gồm toàn đàn bà đẹp, được huấn luyện thành thạo về nghệ thuật chiều chuộng đàn ông. Những mỹ nhân này được trả lương rất hậu, và có nhiệm vụ làm vợ tạm thời cho điệp vièn R.U. giữa hai công tác hiểm nghèo.

Một chiếc phi cơ nhỏ chở Tôkarin về thẳng Mạc Tư Khoa. Lúc hắn đặt chân xuống trường bay, trời đã tối mịt. Người ta đưa hắn lên xe hơi bít bùng, phóng hết tốc lực vào thành phố. Vì thế Tôkarin không biết đi đâu. Hai giờ sau, xe đậu lại. Bước xuống, hắn thấy tứ phía tối như hũ nút. Một người đàn ông cao lớn dẫn hắn tới thang máy.

Nhân vật tiếp hắn là một người đứng tuổi gày guộc, cao lênh khênh, xương yết hầu và xương lưỡng quyền nhô ra sắc như lưỡi dao. Tôkarin không thể nào quên được đôi mắt sâu hoắm của người lạ, đôi mắt toát ra khí lạnh dưới không độ có thể làm hắn run cầm cập.

Không nhếch mép, người lạ chỉ ghế cho Tôkarin ngồi. Giọng nói lạnh lùng của người ấy cất lên:

- Auh là Tôkarin tức Y. 739 phải không?

Tôkarin đứng vụt dậy, hai gót chạm nhau, toàn thân thẳng băng:

- Thưa phải.

Người lạ mặt xua tay:

- Cho thiếu tá ngồi xuống. Hẳn thiếu tá ngạc nhiên vì sao tôi phải giữ bí mật như thế, tuy thiếu tá là nhân viên có tài và được tin cậy. Lý do không có gì lạ: thiếu tá đưọc gọi về đây để nhận một công tác cực kỳ quan trọng. Tôi không muốn thiếu tá được biết đây là đâu và tôi là ai, vì lần này thiếu tá sẽ đi vào đất địch, và đối phó với kẻ thù vô cùng nguy hiểm, có thể thiếu tá sẽ bị bắt.

Tôkarin nói:

- Xin ngài yén tâm. Trong người tôi khi nào cũng cỏ xi a nuya.

Người lạ cười khanh khách:

- Xi a nuya, xi a nuya? Anh còn trẻ quá, nên còn nhiều huyết tính. Dùng được viên độc dược không phải dễ. Kinh nghiệm cho thấy nhiều nhân viên bị bắt không kịp quyên sinh bằng xi a nuya.

Tháng trước, một nhân viên KGB (6) bị bắt ở Tây Bá Linh. Biết không thoát được, y đã nghĩ cách lấy viên xi-a-nuya giấu trong tóc để uống. Nhưng địch đã đánh bất tỉnh. Khi y tỉnh dậy thì viên thuốc không còn nữa. Địch đã phát minh ra một cái máy riêng để khám thuốc độc giấu trong người. Trước đây, các cơ quan điệp báo thường làm răng giả, nhẫn giả đựng độc dược. Phương pháp ấy ngày nay đã lỗi thời. Theo tôi, người nhân viên điệp báo phải đặt sẵn kế hoạch tỉ mỉ, sửa soạn từng chi tiết cỏn con, tính trước tiến thoái, rồi mới bắt tay vào việc. Và vào việc là phải thành công.

Người lạ chắp tay sau đít, đi bách bộ trong phòng, vẻ mặt đăm chiêu. Đột nhiên, người ấy quay lại, hỏi:

- Anh tốt nghiệp khóa Mỹ quốc năm nào?

- Thưa, năm ngoái.

- Đậu thứ mấy?

- Thưa, đậu đầu.

- Tốt.

- Con nít dưới 2 tuổi mua vé máy bay hãng P.A.A. được trừ bao nhiêu phần trăm?

- Thưa, chỉ phải trả 10 phần trăm. Thiếu nhi dưới 12 được trả nửa tiền.

- Người Mỹ thường uống rượu rom với gì?

- Thưa, uống với nước ngọt côca côla. Họ ưa nhất rom chế tại Cuba.

Ngừng một lát để đốt điếu xì gà kếch sù, người ấy nói tiếp:

- Nửa giờ nữa, anh sẽ lên máy bay. Anh có kịp thời giờ sửa soạn không?

Tôkarin biết hỏi như vậy là thừa. Mọi nhân viên trong ngành hoạt động hải ngoại mà Tôkarin là một, đều là thanh niên chưa vợ, không cha mẹ, hoặc ít liên lạc với gia đình. Như vậy để khỏi phải bận bịu mỗi khi đột ngột lên đường.

Tôkarin bèn cung kính đáp:

- Thưa, tôi đã sửa soạn xong rồi.

Người lạ mặt gật gù:

- Thế thì giỏi lắm. Phen này, nếu anh thành công tỏi sẽ đề nghị thăng anh lên trung tá. Và cho anh sang Bá Linh nghỉ ba tháng.

Nghe nói, Tôkarin giật mình. Người lạ mặt này có một giọng nói ngọt ngào, song vẫn không giấu được cái sang sảng của một quân nhân đã quen với nếp sống chỉ huy. Tôkarin đoán già người lạ là đại tướng. Hầu hết các lãnh tụ điệp báo Xô Viết đều ở cấp bậc đại tướng. Vả lại, người lạ phải là đại tướng mới có thể thăng cấp trung tá cho hắn một cách nhanh chóng như nói đùa. Hắn bèn kính cẩn:

- Xin cảm tạ đại tướng.

Người lạ cười ngất:

- Anh lầm rồi. Tôi không phải đại tướng đâu. Ít lâu nữa, anh về, công tác thành công, tôi sẽ cho anh biết. Từ mấy năm nay, anh chuyên hoạt động ở Âu châu. Lần này, tôi gửi anh sang Viễn đông. Hoạt động ở Viễn đông khó hơn ở Âu châu nhiều. Vì các dân tộc địa phương có thiên bẩm về tình báo. Anh giỏi tiếng Anh và tiếng Pháp. Anh sẽ phải dùng hai ngoại ngữ này trong thời gian hoạt động.

- Thưa, sang Nhật phải không?

- Không, tôi phái anh qua Sàigòn.

- Thưa, ở trường Kuchinô, tôi được huấn luyện riêng về tình hình Nam Việt.

- Đúng. Họ đã tuân theo chỉ thị đặc biệt của tôi. Xem hồ sơ cá nhân của anh, tôi rất bằng lòng. Tuy nhiên, tôi chưa bằng lòng một điều: anh có thói quen tàn nhẫn với đàn bà. Đối với phụ nữ Xô Viết thì được, nhưng người đàn ông Mỹ không bao giờ tàn nhẫn như vậy. Anh cần tỏ ra mềm mỏng với họ.

- Thưa vâng.

- Anh nghĩ thế nào về người đàn bà sống chung với anh ở Hắc Hải?

Tôkarin giật mình. Có lần hắn đã đánh nàng. Người lạ nghiêm sắc mặt:

- Nàng đã báo cáo hết với tôi. Anh có thân bình cân đối, khuôn mặt khôi ngô, giọng nói quyến rũ và cử chỉ lịch thiệp rất thích hợp với phụ nữ Viễn đông. Song anh phải chừa cái tính vũ phu.

- Thưa vâng.

- Anh sẽ đáp phi cơ riêng, không dùng phi cơ thương mãi Aéroflot như thường lệ. Phi cơ sẽ không bay qua đất Tàu lấy xăng nhớt. Anh chỉ ngừng lại thủ đô Ngoại Mông một giờ đồng hồ để tiếp tế rồi bay thẳng tới Hà Nội. Ở đó, người ta chờ anh, và nội ngày mai, anh xuống tàu ngầm vào Sàigòn.

Người lạ dẫn Tôkarin lại một cái bàn rộng trải nhung đen, trên để la liệt đồ vặt vãnh. Nhìn thẳng vào mặt Tôkarin người lạ nói:

- Anh sẽ đóng vai đại úy Mỹ. Đại úy lục quân Mỹ, giữ chức cố vấn trong quân đội Nam Việt. Và đây là những món cần thiết mà quân nhân Mỹ ở Sàigòn thường mang trong túi. Anh không thích thuốc lá thơm nhưng bắt đầu từ phút này, anh phải hút Lucky. Tôi đã để sẵn trong hành trang cho anh một bịch Lucky, loại không phải nộp thuế nhập nội. Thuốc lá này chỉ được bán trong hợp tác xã P.X. của quân đội Mỹ. À, về hút thuốc, tôi cần dặn anh điều này: người Mỹ không hút như chúng ta, nghĩa là chỉ nửa điếu hoặc nhiều lắm là hai phần ba, là họ vứt. Nhớ chưa?

- Thưa nhớ. Đó là thói quen của các dân tộc theo tư bản chủ nghĩa.

Người lạ nhăn mặt:

- Chúng ta là chuyên viên, không phảâi cán bộ tuyên truyền. Nghề điệp báo mà dính vào tuyên truyền là thất bại. Tại trường, các anh đã học tập tài liệu P (7), và ít hay nhiều đã am hiểu nếp sống thường nhật của người Mỹ. Trong thời gian công tác, anh đừng quên những điều quan trọng ghi trong tài liệu.

Nghe người lạ giải thích, Tôkarin ngạc nhiên, tuy vậy không dám phản đối. Người lạ không quan tâm đến nét mặt đổi khác của Tôkarin, nói tiếp giọng đều đều:

- Còn đây là cái quẹt máy. Tên nó là Zíp-pô.

Bất cứ quân nhân Mỹ nào cũng dùng Zíp-pô, vì nó rất bền, bén lửa, lại rẻ tiền. Ngoài bật lửa Zíp-pô, quân nhân Mỹ thường dùng máy ảnh Pê-tờ-ri 7, loại tự động, làm tại Nhật.

Anh lại có mấy cuống vé chiếu bóng của một rạp lớn nhất ở Sàigòn, Rạp Rex. Đêm ấy, anh đi xem một phim cao bồi của Mỹ. Và cùng đi với một cô bạn gái.

- Thưa, một cô bạn gái?

- Phải. Hình của nàng đây.

- Thưa, nàng rất đẹp.

- Phụ nữ Việt Nam đều đẹp như vậy. Tuy nhiên, tôi cần nói anh rõ ảnh này được nhân viên sứ quán của ta chụp tại Hà Nội. Trong hình, nàng mặc đồ din chẽn ống. Phụ nữ Miền Nam hoàn toàn khác phụ nữ Miền Bắc. Trong Nam, họ mặc quần áo sang trọng và khêu gợi hơn. Và đây là cuốn tự điển Việt-Mỹ, gồm những chữ thông dụng, dành riêng cho quân nhân đồn trú. Tôi tin là anh đã học thuộc được nhiều.

Cầm khẩu Colt sáng loáng, người lạ tiếp:

- Khẩu Colt đặc biệt này, anh nên đeo luôn bên mình làm vật hộ thân. Nó cũng bắn đạn như thường lệ, nhưng ở phía dưới, có một cái nút nhỏ. Người lạ sẽ tưởng là nút bấm cho cò súng khóa lại. Thật ra là nơi giấu thuốc độc. Bấm vào, hai viên thuốc độc sẽ tuột ra. Viên màu vàng là thuốc ngủ cực mạnh, uống vào ba phút sau sẽ mê man, bất tỉnh từ 24 đến 48 tiếng đồng hồ. Viên màu đỏ chứa xi-a-nuya. Dùng vièn màu vàng, sẽ ngủ yên trong vòng 5 giây. Anh nhớ chưa? Đúng 5 giây sau là kẻ uống vào sẽ chẳng còn biết gì nữa. Đúng ra, tôi không bao giờ muốn nhân viên của tôi phải dùng xi a nuya, vì bình thường tôi rất ghét. Song le, đó là điều lệ...

- Thưa còn mục đích công tác?

- Giản dị lắm. Lát nữa, anh sẽ được đọc trên máy bay. Trên đường từ Mạc Tư Khoa sang Hà Nội, anh có thể đủ thời giờ học thuộc. Khi máy bay đáp xuống Bắc Việt, anh bỏ tài liệu vào ly nước lạnh. Trong chớp mắt, đống giấy sẽ tan ra thành bột ngọt, anh sẽ uống vào, nó có vị thơm ngon như nước chanh giải khát.

Người lạ ngồi xuống bàn, chậm rải châm xì-gà. Giọng mơ màng, người ấy hỏi Tôkarin:

- Thiếu tá Tôkarin? Thiếu tá nghĩ ra sao về cải được gọi là thế giới vô hình?

Tôkarin giật bắn người:

- Thưa, tôi là đảng viên Cộng sản. Chủ nghĩa Cộng sản không tin thế giới vô hình có thật. Đó là mê tín, dị đoan của chủ nghĩa tư bản.

Người lạ lắc đầu:

- Tôi nhắc anh lần nữa, là sĩ quan tình báo R.U. không nên dính líu đến chính trị. Anh là thanh niên, lớn lên dưới thời Sít ta lin nên có quan niệm không đúng về thế giới. Dầu sao tôi gấp đôi tuổi anh, và sống hơn 30 năm trong nghề tình báo, thấy nhiều, nghe nhiều rồi. Lý thuyết thường khác xa thực tế, chẳng hạn như trong công tác tôi giao cho anh.

Gạt tàn xi-gà vào cái đĩa vàng, người lạ hỏi tiếp:

- Tôkarin, tôi hỏi riêng anh câu này: anh tin có ma quỷ không?

Lần nầy, Tôkarin không giấu đưọc sửng sốt. Từ nhỏ đến lớn, hắn đã được giảng dạy là sau khi chết con người biến thành cát bụi, chẳng còn gì nữa. Tôn giáo đã được chủ nghĩa Cộng sản coi là thuốc phiện đầu độc dân tộc, phương chi là thần thánh ma quỷ... Theo Tôkarin, ma quỷ là một sự bịa đặt trắng trợn, một sự tin tưởng ngu xuẩn.

Hồi nhỏ, hắn sống ở ngoại ô Mạc Tư Khoa trong một căn nhà cổ khá rộng. Cha mất sớm, hắn ở với mẹ và ông ngoại. Phòng xép trên lầu bị đóng kín quanh năm, mảng nhện bám đầy, Tôkarin hỏi nguyên nhân thì mẹ hắn không đáp, vẻ mặt xanh mét. Một đêm kia, hắn mở cửa lẻn vào. Hơi lạnh xông lên, làm xương sống hắn cứng lại. Hắn có cảm giác là có người đi đi, lại lại trong phòng, thổi phù phù hơi lạnh vào mặt hắn.

Hôm sau, ông ngoại thuật lại cho hắn biết là gian phòng này có ma. Lên trường, Tôkarin hỏi thầy giáo thì bị mắng một trận nên thân. Thầy giáo đập thước kẻ xuống bàn, giọng nghiêm trọng:

- Trò Tôkarin, ma quỷ là một sự bịa đặt trắng trợn, một sự tin tưởng ngu xuẩn...

Bịa đặt trắng trợn, tin tưởng ngu xuẩn, mấy tiếng này theo hắn suốt đời, hắn không thể nào quên được lời dặn thiết tha của ông ngoại một buổi tối lạnh lùng, tuyết bay đầy đường:

- Lớn lên, rồi cháu sẽ thấy. Con ma trong gác xép này không phải ai xa lạ. Nó là bà ngoại. Con người chết đi, xác cứng lại, vì tim óc, thớ thịt không làm việc nữa, song linh hồn không bao giờ chết. Linh hồn bay ra khỏi thể xác, tìm lên một thế giới khác, thế giới vô hình. Bà ngoại chết đúng giờ thiêng nên thành ma. Đêm nào trăng tròn bà thường trở lại căn gáс xép, nằm trên cái giường xưa. Có lần bà đã kéo mền đắp cho ông và rót rượu vốt-ka cho ông uống.

Cháu Tôkarin ơi! Ma quỷ không phải là sự bịa đặt trắng trợn đâu. Ma quỷ có thật…

Hơn 20 năm qua, cậu bé Tôkarin nghịch ngợm biến thành thiếu tá tình báo Xô Viết lỗi lạc. Ông ngoại đã tạ thế. Trên ngôi nhà cổ, một tòa bin- đinh đồ sộ mọc lên. Lâu lắm, Tôkarin không nghe ai nhắc đến ma quỷ. Lần đầu tiên, một lãnh tụ cao cấp của sở điệp báo R. U. đề cập tới thế giới vô hình.

Thấy Tôkarin đỏ mặt, nín lặng, người đàn ông cao lêu nghêu chắt lưỡi:

- Tôi biết lắm... Tôi biết anh không trả lời.

Nếu công nhận có ma, anh sợ đi ngược lại những điều đã học từ trước đến nay. Còn nếu công nhận không có ma, anh sợ mất lòng tôi, mất lòng toàn bộ Trung ương GRU... Vì vậy, anh giữ thái độ im lặng. Ở vào địa vị anh, tôi sẽ không công nhận, cũng không phủ nhận. Anh nên trả lời như sau “tôi chưa biết”. Thật vậy, nhiều người không tin thế giới vô hình vì họ chưa học đến nơi, hoặc giả khoa học kỹ thuật còn quá dốt nát chưa tìm được đến nơi.

Nếu anh được đọc các phúc trình mật của tình báo Anh, Mỹ, và cả của chúng ta nữa anh sẽ kết luận là ma quỷ không phải là sản phẩm của tưởng tượng. Ma quỷ hoàn toàn có thật. Có thật trăm phần trăm, cũng như anh và tôi.

Tôkarin đã quen với sự kinh ngạc, nhưng chưa bao giờ kinh ngạc bằng lần này. Hắn há hốc miệng, lắp bắp:

- Thưa...

Người lạ gạt đi:

- Anh để yên tôi nói tiếp. Ma quỷ cũng như một bài toán khó. Bàn chuyện ma quỷ lúc này khác nào đưa bài toán đại số trung học bắt đứa trẻ học lớp mẫu giáo làm. Không làm được, không có nghĩa là bài toán sai. Anh ngồi xuống ghế, đừng nôn nóng. Tôi sẽ thuật anh nghe một vài câu chuyện để anh suy nghĩ.

Người lạ rót huýt-ky, đẩy về phía Tôkarin:

- Thiếu tá uống đi. Đang còn 20 phút nữa. Mở đầu, tôi nhắc lại một vụ ma hiện hình nổi tiếng bên Mỹ. Một vụ ma được giới khoa học Tây phương nghiên cứu. Vì hình ma đã được thu vào phim nhựa.

- Thưa, người ta chụp được ảnh ma?

- Phải. Chụp được rất rõ. Đây là chuyện ma thứ nhất được ghi vào hồ sơ của sở Tình báo Anh quốc, và được xác nhận là đúng sự thật. Tháng giêng, năm 1925, hai thủy thủ làm việc trên tàu buôn không may thiệt mạng được trầm xuống biển theo nghi lễ mai táng hàng hải. Tàu buôn này tiến về kênh đào Panama, ở Trung Mỹ.

Mấy ngày sau, toàn thể thủy thủ nhôn nhao, vì hai người bạn bất hạnh của họ - đúng hơn, hai bóng ma - bơi theo tàu. Họ bơi cách tàu một quãng, đứng trên boong nhìn bằng viễn kính thấy rất rõ. Việc này được trình lên ban giám đốc công ty thương thuyền.

Thoạt đầu, nhiều người cho là láo khoét. Song toàn thể thủy thủ, trong đó có viên thuyền trưởng, đều xác nhận, khiến ban giám đốc công ty phải nhóm họp thảo luận. Trong chuyến đi sau, ban giám đốc ra lệnh cho thuyền trưởng mang theo máy ảnh và những cuộn phim được gắn xi cẩn thận. Khi thấy ma, thuyền trưởng mới được phép mở phim, lắp vào máy để chụp.

Hai con ma tiếp tục bơi theo tàu. Viên thuyền trưởng đã chụp được nhiều tấm. Tấm ảnh đẹp nhất được phóng đại, và trưng bày tại văn phòng trung ương ở thị trấn Nữu Ước. (8)

- Thưa, vụ ma này đúng không?

- Tôi đã nói với anh rằng khoa học, nhất là khoa học Xô Viết, chưa thể hoặc chưa muốn trả lời dứt khoát. Tuy nhiên, điều tôi chắc chắn là tình báo Anh quốc đã phối kiểm lại kỹ càng trước khi ghi vào hồ sơ. Anh đã học ở Kuchinô, hẳn không lạ gì truyền thống tổ chức của I.S.

Thưa vâng. Sở I.S. nổi tiếng khắp thế giới về cách tổ chức khoa học.

- Và đây là chuyện ma thứ hai. Cũng như lần trước, người ta đã chụp được hình. Chuyện này được Sở Tình báo C.I.A. của Mỹ nghiên cứu khá tỉ mỉ. Trên đất Mỹ, dân chúng thường chôn súc vật tại những nghĩa trang riêng. Một ngày kia, hàng trăm quan khách tụ tập lại để khánh thành đài kỷ niệm trong nghĩa trang Lạc Lâm (9) dành cho loại chó. Trong buổi lễ, một quan khách chụp một cái bia. Trên nấm mộ lúc chụp không có ai. Khi rửa phim, lại thấy hình con chó. Đặc biệt là con chó nầy đã được chôn dưới mộ trước đó mấy tháng.

Quan khách này là, người tai mắt, lại đúng đắn nên không thể có sự giả mạo. Vả lại, lần đầu người ấy đến trại chôn chó, và cũng chưa gặp con chó bất hạnh bao giờ. Chúng ta không thể hoài nghi vì cuộc điều tra sâu rộng của công an F.B.I., và tình báo C.I.A.. sau đó đã xác nhận là đúng. Về những vụ ma như trên, tôi có thể thuật lại suốt đêm không hết. Sở dĩ tôi thuật lại, không phải để mua vui, mà là tập cho anh một ý niệm mới trên đường thi hành công tác, một công tác hoàn toàn mới trong lãnh vực điệp báo xã hội chủ nghĩa.

Mồ hôi nhỏ giọt trên trán, Tôkarin hỏi:

- Thưa, tôi có nhiệm vụ khám phá những bí mật ấy?

Người chỉ huy khoát tay, thân mật như cha với con:

- Tôkarin! Không khi nào tôi bắt anh làm việc đội đá, vá trời. Một ngàn nhân viên giỏi bằng anh cũng không làm nổi. Hàng ngàn nhà bác học trên thế giới đang chúi mũi ngày đêm trên sách vỡ, trong phòng thí nghiệm mà chỉ khám phá được một phần ít ỏi. Vũ trụ rộng lớn vô cùng, bí mật vô cùng, con người chỉ là hạt bụi vô nghĩa.

Đằng hắng một tiếng, người lạ tiếp:

- Bây giờ, tôi kể anh nghe mẩu chuyên thứ ba. Đặc điểm của vụ này là hàng ngàn người đã trông thấy ma. Và không phải một con ma, mà rất nhiều con ma, kết thành đội ngũ chỉnh tề, tham chiến ngoài mặt trận. Vụ này diễn ra trên đất Pháp trong trận Đại chiến Thứ nhất 1914 - 1918, và được cứu xét tỉ mỉ trong trung ương tình báo Anh Pháp.

Đây có thể gọi là chuyện ma quan trọng và đầy ý nghĩa nhất trong Thế chiến. Kẻ thuật lại đã được huấn luyện tường tận về nghề tình báo: một đại úy của I.S, Hồi ấy, y đồn trú tại Bê-tuyn, một thị trấn nhỏ, đối diện với phòng tuyến của Đức, hàng ngày xảy ra những cuộc giao phong ác liệt giữa binh sĩ Đức và quân đội đồng minh.

Đầu năm 1918, quân đội Bồ Đào Nha đóng dọc phòng tuyến này bị Đức oanh tạc dữ dội nên tiến lên không được. Bộ tư lệnh đồng minh phải đưa pháo binh Anh quốc, trang bị đại liên, đến tăng cường. Trọng pháo Đức nã đạn ngày đêm, binh sĩ đồng minh bị du vào tình thế gay go. Hỏa lực đã yếu kém, vị trí phòng thủ lại bất lợi, nếu cuộc chạm súng kéo dài, đồng minh sẽ phải rút lui.

Đột nhiên, quân Đức lại tập trung hỏa lực vào một cánh đồng vắng, ở xa nơi trú quân của đồng minh. Tình báo Đức rất giỏi, nhất cử nhất động của đồng minh đều lọt vào tai mắt của họ, họ không thể nào bắn lầm và không thể phí đạn vô ích. Bộ tư lệnh đồng minh hoàn toàn sửng sốt. Trọng pháo Đức cứ nã đạn liên hồi vào đồng trống, khiến đồng minh tưởng đối phương mất trí khôn.

Rồi địch quân ngưng bắn. Một lát sau, họ hốt hoảng vứt bỏ khí giới và quân trang, kéo nhau chạy bán sống, bán chết. Sự rút lui hỗn độn này làm bộ tư lệnh đồng minh thập phần kinh ngạc, vì địch đã nắm chắc phần thắng, chỉ cần bắn thêm 5, 10 phút nữa là phá tan được phòng tuyến.

- Thưa, chắc là ma quỷ hiện hình cứu binh sĩ đồng minh?

- Ha, ha, anh đã tiến bộ nhiều rồi. Đúng, ma quỷ đã hiện hình. Một đạo binh ma đông đảo và hùng hậu đã xuất hiên đột ngột, đánh quân Đức.

Khi ấy, quân Đức sửa soạn tràn tới, toàn thể múa nhảy, ca hát, bất ngờ từ ngọn đồi trọc kế cận phóng ra một đoàn kỵ binh mặc toàn đồ trắng. Binh sĩ bận áo choàng trắng, ngựa cũng trắng. Trong chớp mắt, người ta thấy hàng ngàn, hàng vạn, ở đâu cũng có. Đoàn kỵ binh lướt nhanh như gió, tiến tới đâu, cỏ cây đổ rạp tới đấy. Gió thổi vù vù, cát bay đá chạy, trời đất tối sầm lại như sắp nổi cơn giông lớn. Bộ chỉ huy Đức tưởng viện binh của đồng minh ùa tới giải vây nên hạ lệnh cho trọng pháo san phẳng ngọn đồi.

Tuy nhiên, không kỵ binh nào trúng đạn. Như trêu tức quân Đức, đoàn kỵ binh bình thản cho ngựa chạy thong thả, không bận tâm tới những loạt đạn đại bác kinh khủng. Sự điềm tĩnh lạ lùng này làm binh sĩ Đức mất tinh thần, và rút chạy tán loạn, bất chấp mệnh lệnh của sĩ quan chỉ huy. (10)

Tuy cứng bóng vía, Tôkarin vẫn lạnh toát châu thân. Hắn hoạt động đã nhiều, từng làm tròn nhiều công tác hiểm nghèo, song chưa bao giờ cấp chỉ huy bắt hắn đọ sức với thế giới siêu hình. Căn cứ vào điều vừa nghe, hắn tin rằng kẻ thù của hắn không phải là tình báo Tây phương mà là ma quỷ.

Đối với mật vụ địch, Tôkarin không lấy gì làm ngại. Dầu sao hắn đã tốt nghiệp tại một trường đại học gián điệp có tiếng. Hắn đã đoạt thắt lưng đen nhu đạo, lập nhiều thành tích trong nghệ thuật giết người bằng tay không.

Nhưng tài năng ấy chưa đủ để hắn đương đầu lại ma quỷ. Gân bàn tay run lên, hắn bỗng có linh giác kỳ quặc là chuyến công tác này hắn không bao giờ trở lại Mạc Tư Khoa nữa. Thế là hết. Hết những đêm mặn nồng với lũ con gái mua vui của tổ chức Y-3. Trong những tháng cuối cùng của Đại chiến Thứ hai, các thanh niên thuộc phi đội Thần phong của Nhật đã được hưởng hạnh phúc thiên thai nhưng ngắn ngủi bên cạnh người con gái tuyệt đẹp. Để rồi một ngày kia trèo lên chiếc máy bay một động cơ, cửa khóa chặt bên ngoài, với những kílô thuốc nổ dữ dội chỉ chạm vào là tan xác, có lẽ Tôkarin cũng ra đi không về như đoàn phi công quyết tử kami kaze...

Người lạ mặt nhấn từng tiếng:

- Y. 739, anh nghĩ thế nào về những truyện ma vừa kể?

Tôrakin ấp úng:

- Thưa...

- Thôi, bất tất anh nói, tôi đã hiểu rõ tâm trạng của anh. Từ bao năm nay, anh được giáo dục rằng trên thế gian không thể có vật siêu hình. Anh lại yên trí là hoạt động gián điệp chỉ liên quan đến việc đánh cắp tài liệu mật, bắt cóc các nhà bác học, trà trộn, phá vỡ tổ chức của địch, chứ không dính dáng đến ma quỷ mà ai cũng cho là huyễn hoặc. Tôi đã nói trước rằng chúng ta không phải là cán bộ chính trị. Người gián điệp phải mở mắt thật rộng để nhìn vào sự thật. Ma quỷ là sự thật không có ai có quyền phủ nhặn.

Tôi đã suy nghĩ nhiều trước khi chọn anh. Anh là một trong những điệp viên được tiếng là tôn trọng kỷ luật và mệnh lệnh. Anh lại là người quyền biến, am tường võ nghệ và bắn giỏi, nên có thể làm tròn công việc mà tôi giao phó.

Giọng Tôkarin run run vì xúc cảm:

- Thưa, tôi xin sẵn sàng.

Viên chỉ huy mỉm cười:

- Tôi rất bằng lòng anh. Nhưng trước hết, anh cần biết thêm một số kiến thức căn bản về thế giới siêu hình.

Vẽ mặt Tôkarin sớn sác:

- Thưa, tức là ma quỷ phải không?

Viên chỉ huy nhún vai:

- Phải. Tức là ma quỷ. Đây là công tác đầu tiên của chúng ta. Trước kia, ta chỉ đối phó với loài người. Giờ đây, ta sẽ đối phó với ma. Anh nghe rõ không? Ta sẽ đối phó với ma. Và tôi cho rằng giữa ta và thế giới tư bản, ai nắm được ma thì bên ấy thắng. Cuộc chạy đua vào bên trong cõi siêu hình cũng quan trọng bằng - và có lẽ còn quan trọng hơn - cuộc chạy đua hỏa tiễn nguyên tử nữa.

Tôkarin trợn mắt thao láo, trong niềm sửng sốt vô tận. Ngoài trời, những lùm tuyết đầu mùa đã rơi xuống Hồng trường.

 

Chú thích:

(1) Giám đốc trú sứ, hoặc giám đốc công sứ, tiếng Pháp là Directeur - résident là một nhân viên gián điệp đứng đầu tổ chức một vùng, một thị trấn.

(2) Chiến thuật này, tình báo Anh Mỹ gọi là one shot tactic (nghĩa là chiến thuật bắn một phát). Người ta thường tuyển mộ những người không phải là nhân viên gián điệp chuyên nghiệp đi làm một công tác nhất định nào đó. Và khi làm xong thì sẽ không dùng tới nữa. Chiến thuật one-shot có cái lợi là đỡ mất nhiều tiền và công lao đào tạo nhân viên chuyên nghiệp, lại khỏi bị địch nhận diện. Hiện sở gián điệp R.U. của Nga Xô đã bắt chước chiến thuật này. Thường lệ người ta tuyển mộ nhân viên one-shot bằng thủ đoạn săng ta cổ điển, hoặc lấy tiền nhử mồi.

(3) Ba tiềm thủy đĩnh Đứс Quốc Xã ghê gớm nhất trong Thế chiến là U-47 do Gunther Prien chỉ huy, U-100 dưới quyền Joachim Schepke và U-99 của Ott Kretschmer. Trong số đó, U-99 đrợc coi là lỗi lạc nhất. Cả 3 tàu này đều bị đồng minh bắn đắm, san khi đã phá được một số lớn tàu bè.

(4) Nha V, trong tổng hàmh doanh GRU, được đặt dưới quyền điều khiển của đại tướng Mikhail Andrianovich Kochetkov.

(5) Trường này ở gần Mạc Tư Khoa.

(6) KGB, phụ trách mật pụ kiêm điệp báo. Quyền hành của KGВ lớn hơn GRU.

(7) - Tức là tài liệu của đại tá GRU, I. Ye. Prikhodko, dạy điệp viên Xô Viết về cách hoạt động trên đất Mỹ. Tài liệu này gồm nhiêu trang, đã được địch nguyên văn trong cuốn “Chiến sĩ Điệp báo Penkovskiy”, trong Tủ sách Lý thuyết Z. 28, Hành động xuất bản.

(8) Hai thủy thủ ma nay là James Courtney và Michael Mecham. Con tàu buôn này là Watertown, do Keith Tracy làm thuyần trưởng, trong công ty hàng hải Cities Service. James Patton, một trong các giám đốc công ty, đã ra lệnh chụp những bức ảnh ma. Bức ảnh đẹp nhất được treo tại văn phòng trung ương, số 70, đại lộ Pine, thành phố Nữu Ước.

(9) Lạc Lâm là Happy Woodland. Nghĩa trang Lạc Lâm nằm trong một nông trại lớn của gia đình Blochin. Ann Elizabeth Blochin - một phụ nữ thuộc gia đình Blochin - đã thuật lại chi tiết của chuyện linh cẩu này trong cuốn sách THAT DOG OF YOURS, do nhà Mac Millan xuất bản tại Gia Nã Đại, năm 1941. Trong sách, Ann Elizabeth đã in lại hình con chó ma. Những bạn thích nghiên cứu hiện tượng siêu hình có thể gửi mua sách này dễ dàng.

(10) Viên đại úy tình báo Anh này tên là CECIL WIGHTMICK HAYWOOD. Truyện kỵ binh ma được tường thuật trên một tờ báo đúng đắn, tại Luân Đôn, tờ The National Message, ngày 24-1-1940. Bê-tuyn (Béthune) là một vùng ở tây-bắc Pháp. Quân Đức đóng đối diện quân đồng minh ở Bassée.