Chương 1

Bà Hattie không biết chính xác bà đang cầu nguyện cho cái gì hoặc cho ai. Bà chỉ biết có cái gì đó đánh thức bà dậy, nó tựa như một cơn đau quặn thắt trong lồng ngực. Nếu là trước đây, chắc có lẽ bà sẽ bỏ qua và đi ngủ tiếp. Bà sẽ nghĩ chắc mình ăn phải cái gì đó làm cho bụng lộn xộn, hoặc giả bà đã có kinh nghiệm hơn rồi. Sau hơn 80 năm lắng nghe lời phán truyền của Chúa Trời, cuối cùng bà cũng quen với cách thức Chúa Trời phán bảo:

Bà thì thầm:

- Lạy chúa, có ai đó đang gặp rắc rối. Ngài biết đó là ai mà, Ngài biết họ cần gì mà. Bà tiếp tục cầu nguyện mãi cho đến khi bà cảm thấy tâm hồn mình thanh thản hơn thì cũng là lúc những ánh nắng yếu ớt của mùa đông xuyên qua những khe cửa và nằm vắt ngang trên giường của bà.

Bà nghe tiếng loảng xoảng ở hướng nhà bếp rồi có tiếng kẹt cửa mở và tiếng cánh cửa đóng lại.

- Bà Hattie là cháu đây.

- Xin chào Martha - Bà Hattie đáp lời.

Bà nghe những tấm gỗ lát sàn kêu két kẹt và bà thầm dõi theo những cử động của Martha trong tâm trí. Bà nghe tiếng Martha treo áo khoác, rồi nghe tiếng kim loại va vào nhau, đó là tiếng mở nắp bếp ga, sau đó là tiếng mấy tờ báo theo gió bay loạt xoạt và tiếng nồi kim loại đặt lên bếp khi Martha vừa bật bếp xong.

Rồi sau đó nhiều hình ảnh tưởng tượng nữa, khuôn mặt Martha tươi cười hiện ra. Gò má của Martha cao như được tạc từ một tảng đá màu sậm. Khóe môi cô cong lên trong một nụ cười rạng rỡ. Cô gái xinh tươi và thông minh đủ để kiếm được một vị trí xứng đáng trong thế giới rộng lớn ngoài kia, và rất có thể làm nên chuyện thay vì cứ phải chăm sóc một bà lão già yếu. Bà Hattie tự hỏi liệu Martha có hài lòng khi đến nhà bà làm nhiệm vụ chăm sóc người ốm. Bà không bao giờ hỏi cô vì bà sợ mình sẽ là kẻ vẽ đường cho hươu chạy, để rồi một buổi sáng nào đó, một cô hộ lý đúng nghĩa sẽ suất hiện ở cửa thay vì Martha một người bạn tâm tình.

Martha giúp bà Hattie mặc quần áo, đỡ bà lên xe lăn và đẩy bà ra ngoài nhà bếp và để cho xe ngay ngắn ngay trước bàn ăn. Bà Hattie nhìn Martha đi lại trong nhà bếp chuẩn bị bữa điểm tâm cho cả hai người. Cô gái đang hát, cũng như mọi khi thôi, bài hát hôm nay có tên Chúa Trời Luôn Dõi Mắt Đến Những Sinh Linh Nhỏ Bé Nhất.

Cô gái chiên xúc xích rồi xúc mấy lon bột mỳ bỏ vào cái tô chuẩn bị nhào bột.

- Ngày hôm nay chúng ta sẽ ăn bánh bột ngô thay vì ăn bánh biscuit như mọi khi, bà Hattie ạ. Tất nhiên là nếu bà cũng thích món này.

- Thế thì ngon lắm.

Bà Hattie trả lời, nhưng chỉ có một nửa tâm trí của bà là nghĩ tới nên ăn món gì. Còn nửa kia bà nghĩ tới những linh cảm đã đánh thức bà trong đêm tối. Bà nhắm mắt lại, những lời cầu xin từ tận đáy lòng thốt ra theo làn môi của bà.

- Thưa Đức Chúa cha, kẻ thù muốn tiêu diệt một trong những đứa con của Người. Sinh linh nhỏ bé và tội nghiệp ấy đang đau khổ. Không ai có thể cứu giúp nó ngoài sự giúp đỡ của người!

Bà nghe tiếng vỏ trứng đập vào cạnh chảo rồi nghe tiếng xèo xèo của trứng chiên trong mỡ nóng. Đứng cạnh bếp ga, Martha cũng kêu lên:

- Xin hãy cho chúng con thấy quyền năng thiêng liêng của Người. Xin hãy cứu sinh linh nhỏ bé đang gặp nạn của Người.

Bà Hattie mở bừng mắt. Martha lật trứng bỏ vào đĩa, mở lò nướng và mang bánh bột ngô đặt ra bàn. Hai người phụ nữ ngồi vào bàn cùng với cà phê nóng và bữa điểm tâm trước mặt họ.

Martha nói:

- Con có cảm giác như Chúa Trời đã nghe thấu lời cầu nguyện của hai bà cháu chúng ta. Con cũng có linh cảm rằng mọi chuyện bây giờ đây rồi sẽ bình yên vô sự.

Bà Hattie gật đầu:

- Lấy cho ta hũ mứt mận ở đằng kia lại đây.

- Vâng thưa bà.

- Cô mua hết cả số thuốc này sao?

Nhân viên thu ngân là một ông già có chùm râu bạc cứ rũ xuống nhìn nàng tò mò. Tuy nhiên đơn thuần đó chỉ là cái nhìn tò mò chứ không có ý nghĩa gì khác.

Mary Bridget Washburn nhìn xuống chiếc khay đầy thuốc ho và thuốc cảm đặt ngay phía trước nàng. Nàng nói dối:

- À dịch cúm đấy bác ạ. Cả gia đình cháu nằm liệt giường luôn. Này nhé, chồng cháu cũng ốm, mấy đứa con cháu cũng bị cảm hết.

Nàng cho tay vào túi áo cầm sẵn bằng lái xe. Đó là một trong rất nhiều bằng lái xe mà Jonah đã trả tiền cho một người ở Charlottesville để làm những giấy tờ ấy cho nàng. Đôi khi ở tiệm thuốc người ta hỏi giấy thông hành khi thấy nàng mua nhiều thuốc tây như vậy mặc dù nàng hoàn trả bằng tiền mặt.

Nhân viên thu ngân lắc đầu:

- Trông cô còn trẻ thế thì làm sao có chồng được, lại có con nữa thì không tưởng tượng nổi.

Mary đang nghĩ không biết phải nói gì nhưng nàng chợt nhận ra ông ta không đợi câu trả lời. Nhân viên thu ngân tính tiền xong bỏ những chai thuốc vào túi.

Mary chỉ gật đầu, nàng biết một lần nữa phép lạ lại đến: mớ tóc màu bạch kim mượt như tơ và cặp mắt màu xanh luôn mở to ngây thơ của nàng luôn đánh lừa được cặp mắt người lạ.

- Sinh nhật tới cháu sẽ tròn 25 tuổi.

Nàng nói. Đó là lời nói thật duy nhất nàng nói với ông già tội nghiệp.

- Trông cô không quá mười bảy tuổi. - Ông vừa nói vừa đưa cho nàng tiền thối bởi nàng đưa cho ông tờ một trăm đô la.

- Cháu cám ơn bác.

Nàng ngước nhìn lên, ông lão đang chằm chằm nhìn nàng như thể bất chợt ông nhận ra nàng định làm gì với đống thuốc. Không hề để lộ nét bối rối, nàng nhoẻn miệng cười với ông.

Nàng cảm thấy nhẹ nhõm khi cánh cửa xe khép lại sau lưng. Sau đó, nàng nhằm thẳng tới vỉa hè phía bên kia cạnh chiếc xe tải. Thường thường nàng phải giết thời gian chờ Dwayne quay trở lại sau khi anh ta đã chạy đi mua những vật dụng cần thiết cho công việc đồng áng và đảo qua các cửa hàng bán đồ kim loại. Nhưng lần này anh ta lại đang đợi nàng. Mary lấy thế làm mừng bởi vì trời rất lạnh mặc dù tháng mười mới bắt đầu ở Virginia mà thôi.

Dwayne búng tàn thuốc qua cửa sổ, khởi động xe khi thấy nàng đặt chiếc bao ni lông lớn toàn thuốc cảm ra hàng ghế phía sau chung với đám chất hóa học chống đông, dung dịch thông cống và hai can lớn chứa đầy amoniac khô. Nàng cố không hỏi những chất hóa học ấy dùng để làm gì. Có lần nàng đã xem được những bức hình trong trường học của một kẻ nghiện ma túy. Bức hình đầu tiên người ấy vẫn bình thường. Bức hình thứ hai trông anh ta già hơn bức hình trước khoảng mười tuổi. Và bức hình thứ ba thì người thanh niên ấy hom hem như một ông già.

Viên sĩ quan trong ban phòng chống ma túy đã giải thích:

- Những bức hình này chụp một người và lần chụp này cách lần chụp kia sáu tháng. Như vậy các em cũng đủ biết thứ ma túy hủy hoại con người ta như thế nào.

Mary cố sua đuổi ý nghĩ ấy ra khỏi tâm trí. Ít nhất thì nàng cũng cố không nghĩ đến nó nữa. Nàng trèo lên hàng ghế phía sau và cảm ơn trời vì hôm nay Dwayne không nói câu nào. Hắn ta chỉ tăng tốc chiếc xe tải, đưa xe rời khỏi vỉa hè xuống lòng đường và đi thẳng về nhà. Nàng rùng mình. Đó chỉ là một căn nhà di động mục nát. Nơi đó, họ vừa ăn vừa ngủ, đằng sau là cái nhà đổ nát trước đây dùng làm lò sấy cá hoặc thịt. Bây giờ Jonah dùng nơi đó để sản xuất ra thứ kẹo của hắn. Dwayne gọi những viên ma túy đó là kẹo. Nàng nhắm mắt lại cố không trả lời giọng nói tự trong thâm tâm cứ hỏi nàng. Mỗi ngày càng lớn dần thêm. Nàng đang làm gì ở cái nơi tồi tàn đó?

Nàng cố tìm lý lẽ để cãi với giọng nói vang lên từ thâm tâm mình. Đâu có phải lỗi tại tôi. Tôi chỉ tận dụng hết khả năng của mình có được. Nàng chưa tốt nghiệp xong bậc phổ thông nhưng đã từ bỏ sách vở lao vào nghề sản xuất ma túy. Không, giống như bà ngoại nàng vẫn thường nói, việc nàng làm bây giờ như người ta đem luộc chín một con nhái nước: sức nóng từ từ dâng lên xung quanh nàng, nhấn chìm nàng. Nàng nhớ lại những bước đường đời đã đưa nàng tới đây, những lý do khiến nàng quyết định bỏ nhà đi cùng Jonah và nhận lời mời mọc của anh ta: đi với anh ta nàng sẽ kiếm được tiền dễ dàng. Nhưng khi nàng biện hộ cho việc làm của mình thì nàng nghe tiếng nói của mẹ nàng dịu dàng nhưng nghiêm khắc (thậm chí dù bà đang nằm dưới mồ) cũng đủ cảnh báo nàng rằng không thể tìm được lời giải thích nào cho một việc làm sai trái.

Nếu mẹ nàng có mặt ở đây mọi chuyện sẽ ổn cả hoặc chí ít nó cũng không đến nỗi quá tồi tệ như hiện nay. Nhưng mẹ nàng đã chết, cha nàng cũng qua đời, anh chị em thì tan tác mỗi người một nơi. Còn nàng thì phải ở đây.

Thôi thì đằng nào cũng phải sống. Suốt năm năm qua, nàng không thể đếm được những nơi mình qua. Họ sống như những người du mục. Cứ mỗi lần biết được cảnh sát đang dò la là họ lại chuyển chỗ ở. Có đôi khi Jonah và Dwayne bị bắt đi, họ bị bỏ tù. Rồi sau đó được thả ra, họ lại tiếp tục sản xuất chất hóa học ghê gớm ấy. Nàng chưa bao giờ bị bắt. Nàng cho rằng đó chỉ là do may mắn. Đáng lẽ, nàng đã có thể bỏ đi trong khi hai người kia phải ngồi tù, thậm chí ngay cả bây giờ nàng cũng có thể bỏ đi ngay lập tức.

Chính xác thì nàng không phải là một tù nhân. Trong một ngày, nàng có thể bỏ đi bất cứ nơi nào. Hoặc giả nàng có thể thoát ra bằng lối cửa hậu của một tiệm thuốc trong lúc Dwayne đợi bên ngoài trong chiếc xe tải nhỏ. Hoặc nàng có thể đi thẳng tới trạm xe bus trong khi Dwayne bán ma túy. Nhưng rồi nàng sẽ đi đâu? Nàng không thể về nhà. Thậm chí nàng cũng không dám nghĩ đến nhà. Cái gọi là nhà gợi nên hình ảnh một căn nhà quét vôi trắng cũ kỹ, nằm né trong một thung lũng. Mỗi khi nhớ đến căn nhà ấy, lòng nàng lại đau nhói. Nàng không thể lại trở về nhà. Khoảng cách giữa nàng và ngôi nhà ấy không chỉ là một giờ đi đường mà dường như nó đã thuộc về một kiếp khác. Không, sau những việc mà nàng đã làm để trở thành con người như bây giờ thì nàng không thể về lại đó. Và nàng cũng không có tiền để bắt đầu một cuộc sống mới ở một nơi khác. Những mối lợi được hứa hẹn từ trước đã không bao giờ đến với nàng. Thỉnh thoảng nàng cũng hỏi đến phần của mình nhưng Dwayne nói:

- Đi mà hỏi Jonah ấy.

Và lúc đó Jonah lại bố thí cho nàng một tờ bạc hai mười đô la. Nhất định bọn chúng biết rằng nếu trong tay có số tiền lớn thì nàng sẽ bỏ đi và không bao giờ quay trở lại.

Nhưng nếu nàng bỏ đi thì sao nào? Nàng không hề có nghề nghiệp gì ngoài việc đi mua những nguyên liệu để cho đồng bọn mình sản xuất mà túy. Nàng sợ chuyện sẽ xảy ra với nàng nếu nàng phải sống vất vưởng ngoài đường phố. Những kẻ đến mua bán ma túy với Dwayne đều không rời mắt khỏi nàng. Đó là chưa nói đến chính bản thân Dwayne cũng bắt đầu để ý đến nàng. Thế nhưng Jonah, người mà nàng đã bỏ nhà để chạy theo anh ta lại không còn để ý tới nàng nữa. Anh ta luôn vắng nhà, chui vào cái nhà kho lụp xụp phía đằng sau để nếm thứ kẹo chết người. Nếu có khi nào anh ta xuất hiện trước mắt nàng bằng xương bằng thịt, thì anh ta cũng đắm chìm trong cái thế giới của riêng mình. Nhân cách của anh ta cũng đã bị hủy hoại vì suốt ngày cứ phải tiếp xúc với thứ thuốc làm mê hoặc con người.

Gần đây, Jonah thường liên tục phải chịu đựng những cơn hoang tưởng. Nàng ghê sợ hắn và nàng bắt đầu giấu những con dao (thường là dao cạo) hoặc bất cứ thứ nào mà anh ta có thể dùng để hủy hoại bản thân mình hoặc người nào khác. Tuần qua, Jonah đã lao vào phòng khách của một gã buôn ma túy, chĩa súng ngắn vào trong nhà và nói nhảm về chuyện có ai đó đã đánh cắp bộ não của anh ta.

Dwayne giật khẩu súng trong tay Jonah rồi nói:

- Đưa tao thứ đó trước khi mày giết người ta.

Dwayne trao khẩu súng cho nàng.

- Này, tốt hơn hết là cất biến khẩu súng này đi. Không có ai tự quảng cáo cho thứ thuốc của chúng ta hiệu quả bằng chính bản thân thằng Jonah lúc này.

Nàng cầm khẩu súng và khi đó nàng ngộ nhận rằng Dwayne tin tưởng nàng. Nhưng ngay sau đó như thể đọc được ý nghĩ trong đầu nàng, hắn lẳng lặng ngồi xuống chiếc ghế ọp ẹp. Thân hình hắn dán vào người nàng, đặt cánh tay xăm trổ đủ mọi thứ hình thù kì quái lên vai nàng. Nàng phải cố lắm mới không nôn mửa.

Sau khi khách đến mua ma túy đã ra về hết, nàng trở lại phòng mình. Khi ấy, nàng thường đọc một tờ tạp chí nào đó, rồi cuối cùng là ngủ thiếp đi.

Khoảng năm giờ sáng, nàng đi nhà tắm, khách khứa đã về cả. Nàng nghe tiếng Dwayne ngáy trên chiếc trường kỷ. Khi nàng quay lại phòng ngủ, nàng đã thấy hắn thức dậy và đi theo nàng xuống nhà lớn. Nàng sợ hãi chạy vội về phòng mình đóng chặt cửa lại và khóa kỹ bên trong. Nhưng nàng biết, dù có cài cửa kỹ đến đâu, nếu hắn cứ nhất định vào thì hắn cũng có thể vào trong phòng nàng một cách dễ dàng. Nàng nghe tiếng hắn dừng chân ngoài cửa. Nàng nín thở. Sau một vài phút, nàng nghe thấy tiếng cánh cửa phòng ngủ của hắn mở ra rồi đóng sập cửa lại. Nàng biết mình cũng chẳng được yên thân lâu. Nàng quỳ xuống, tựa trán lên cánh cửa phòng ngủ và cố cầu nguyện. Nhưng cơn sợ hãi khiến không có một lời cầu nguyện nào có thể đến được môi nàng.

Lúc này đây, nàng quay mặt nhìn ra cửa kiếng xe tải. Bên ngoài kia cảnh núi rừng hùng vĩ đẹp đến mê hồn, điểm thêm những chiếc lá vàng cháy sáng trên các ngọn cây. Thật ra thì nàng là người như thế nào mới được chứ? Chắc chắn địa vị lúc này của nàng chẳng phải là địa vị mà nàng ao ước. Nàng cố nhớ lần cuối cùng nàng dám nhìn thẳng vào bản chất của chính con người mình. Nàng tập trung suy nghĩ và tâm trí nàng trở về nơi chốn mà nàng cố không hề ghé thăm bấy lâu nay. Lúc đó nàng mới hai mươi tuổi, hàm răng trắng và đều với hai chiếc răng hơi lớn một chút. Mái tóc bạch kim mượt như tơ buông xuống ôm lấy hai bờ vai. Nàng mỉm cười nhớ về kỳ nghỉ hè hạnh phúc nhất năm ấy. Khi đó, nàng đã có thể ghi nhớ được cả trăm bài thơ nàng học được tại trường dạy giáo lý vào sáng Chủ Nhật của nhà thờ, và nàng đã được thưởng một cuốn Kinh Thánh bằng da trắng còn mới tinh với tên của nàng được khắc nổi chữ vàng ngay trang đầu tiên.

Ký ức như một cuốn phim và các cảnh phim lại thay đổi. Nàng thấy mình ngồi với mẹ nàng tại nhà bà ngoại, vừa nhặt đậu vừa ôn lại những bài thơ ấy. Dù ngồi đây, tưởng tượng lại những cảnh lúc ấy, nhưng nàng như có thể ngửi được mùi hương thơm tỏa ra từ căn bếp của bà ngoại. Đó là một mùi quyến rũ pha trộn giữa mùi của cà phê, táo chín, mùi khói bếp và mùi của những món ăn nàng nấu để chuẩn bị cho bữa tối.

Mẹ và bà ngoại nàng đều đến nhà thờ vào cái đêm nàng được thưởng cuốn Kinh Thánh. Nàng có thể thấy cả hai người ngồi ở hàng ghế đầu, vẻ mặt hãnh diện của người thân thiết. Nàng tự tin hơn rất nhiều. Cho tới lúc này, niềm kiêu hãnh ấy vẫn còn làm nóng bừng khuôn mặt nàng. Nàng cố giữ hình ảnh ngọt ngào đó càng lâu càng tốt. Nhưng rồi sau vài giây phút trôi qua đi, nó mờ dần bởi những lo lắng thực tại dâng ngập tâm hồn nàng.

Nàng chán chường nhìn ra ngoài cửa kiếng xe tải. Cô gái dễ thương và đầy tự hào đó giờ đâu mất rồi? Chuyện gì xảy ra đã làm thay đổi con người nàng? Đó là một câu hỏi mà Mary không bao giờ cho phép mình được hỏi. Và cái lý do duy nhất khiến bây giờ nàng tự hỏi mình là gần đây, một nỗi đau khổ to lớn cứ thường xuyên cắn xé nàng. Kể sau cái buổi sáng khi nàng tỉnh dậy bên cạnh Jonah nàng nhận ra mình phạm sai lầm. Cho đến lúc đó, nàng chưa bao giờ cảm thấy đau khổ như vậy. Nỗi tủi hổ tràn ngập người nàng. Nó như một thứ độc dược khủng khiếp và lạnh lẽo. Mỗi khi nghĩ tới nỗi hổ thẹn ấy, nàng có cảm giác không thể nào chịu nổi. Nàng cứ tưởng tượng mình sẽ chết dần chết mòn vì đau đớn và tủi hổ. Thế nên nàng học được cách không bao giờ nghĩ đến nó nữa.

Đừng bao giờ nghĩ ngợi gì cả. Đó là tất cả những gì cần phải làm. Cứ phải nhìn thẳng ra phía trước, không suy nghĩ, không cảm nhận. Cứ phải thực hiện việc sắp tới mình phải làm và mỗi khi có một việc gì xảy ra làm cho mình vô cùng buồn bã thì cứ việc ngó lơ đi chỗ khác. Tìm một trò vui, thậm trí là một trò vô bổ ngớ ngẩn nào đó để làm cho mình quên đi. Nhưng rồi cách ổn định tâm lý ấy không còn hữu dụng với nàng nữa. Càng ngày nàng càng nhận ra điều đó. Đôi khi tâm trí nàng được rảnh rang một chút thì khuôn mặt cô bé gái bé nhỏ xinh đẹp thời ấu thơ của nàng lại xuất hiện trong trí nhớ. Và khi đó nàng không hiểu số phận đang chế giễu hay đang mách bảo nàng. Lúc này đây, nàng quay lại cuộc sống tươi đẹp ngày xưa cũng như chưa phải là quá trễ.

Liệu có được không chứ? Cô gái ngây thơ trong trắng tốt bụng ngày xưa có còn bên trong con người nàng không? Hay nàng đã đánh mất tư cách của nàng mãi mãi.

Khi câu hỏi đó cứ lặp lại trong đầu nàng thì những lời thơ đã lâu rồi nàng không đọc lại hiện về. Nàng thì thầm. Ước gì tôi có đôi cánh của một chú chim bồ câu, tôi sẽ bay đi thật xa tìm tổ ấm.

Bay đi thật xa tìm tổ ấm, nàng lại thì thầm khi nhìn vào đống bã thuốc cách cái cống lộ thiên. Hàng đống những chai lọ rỗng đựng những hóa chất thông cống, chất chống đông, rồi những cái can trước đây dùng để chứa dầu hỏa. Nàng thì thầm mãi câu thơ vừa rồi và không hiểu bằng cách nào mà vào thời điểm chiếc xe tải nhỏ rùng mình ngừng lại ngay trước căn nhà lưu động gỉ sét thì có cái gì đó đang thay đổi trong con người nàng. Những lời thơ kia đã trở thành một kế hoạch chứ không chỉ là một lời cầu nguyện.

Mary Bridget nóng lòng chờ thời cơ đến. Một tuần trôi qua, rồi một tuần nữa, cuối cùng kế hoạch cũng được vạch rõ đến từng chi tiết và nàng nhận ra rằng đó chính là những thứ nàng cần. Là cơ hội mà nàng đang chờ đợi.

Nàng và Dwayne vừa trải qua một ngày dài nữa, ghé các tiệm thuốc để mua nguyên liệu chế biến ma túy. Tới tận sáu giờ chiều họ mới cho xe trở về cái nhà di động cũ kỹ. Jonah chui ra khỏi căn nhà ọp ẹp ám khói chỉ để lấy những thứ anh ta cần rồi quay vào làm việc. Mary Birdget đi thẳng vào nhà bếp. Khi Dwayne ra khỏi xe tải và quay vào với hai thùng bia dùng cho bữa tối thì tim nàng đập dồn. Thời cơ đã đến !

Dwayne ngửi nắp can và cười nhăn nhở:

- Loại bia ngon đây.

Mary cười đồng tình. Nàng tới nhà bếp làm một bữa ăn thịnh soạn và ngon hiếm thấy: nào là gà chiên, bánh nướng và thịt hầm. Những món ăn này Dwayne thường ăn rất ngon miệng. Hắn ăn thêm hai ba lần rồi sau khi căng da bụng, trùng da mắt hắn sẽ ngáy khò khò trên chiếc ghế tràng kỉ trong lúc xem ti vi. Hết chương trình này rồi sang chương trình khác, Dwayne không rời can bia. Cuối cùng, khi nàng không còn hi vọng thực hiện được kế hoạch của mình thì đầu hắn ngả qua một bên, Dwayne ngáy vang nhà. Nàng ngồi đó thêm một phút để chắc chắn hắn đã ngủ say, nàng chuồn người ra khỏi cánh tay hắn đang ôm vai nàng và bước ra ngoài hành lang. Cố giữ dáng đi sao cho thật tự nhiên. Nàng còn một giờ rảnh rỗi trước khi những kẻ đến mua ma túy vào buổi, bắt đầu nườm nượp kéo đến. Nàng vào phòng tắm và nhìn ta ngoài cửa sổ. Trời tối đen, nhưng nàng có thể nhìn thấy ánh sáng trắng tỏa ra từ căn nhà ám khói phía sau. Nàng đi ra ngoài, Dwayne vẫn ngáy ầm ĩ.

Cửa phòng Jonah không khóa. Hắn không còn ngủ trong phòng nữa mà nói cho đúng ra hắn không hề ngủ. Vừa bước vào bên trong nàng vừa cầu nguyện hắn sẽ giữ tiền trong phòng này chứ không phải trong cái phòng xập xệ phía sau nhà.

Căn phòng bừa bộn chẳng khác gì có một quả bom vừa nổ. Giường ngủ không được xếp gọn gàng. Một mùi hôi hám từ đống quần áo dơ bốc lên nồng nặc. Chỗ nào cũng thấy tiền. Những tờ bạc mười đô la và cả hai mười đô la cuộn tròn lại thành cuộn lớn để trên tủ, tiền xu vung vãi xung quanh. Nàng liếc nhìn quanh vì nàng biết nhất định còn có một đống tiền lớn hơn đống tiền này đang giấu đâu đó. Mỗi ngày bọn chúng thu về vài ngàn đô la là chuyện bình thường.

Nàng mở ngăn kéo vội vàng nhưng cũng nhanh tay đóng sập lại vì trong đó chỉ có một đống quần áo ngập ngụa bên trong mà không có gì. Cuối cùng nàng kiểm tra khắp căn phòng. Không thấy tiền, nàng tựa người vào tường, quỳ gối trên tấm thảm trải nền nhà, nước mắt tràn ra.

Nàng phải ra khỏi đây thôi. Đống tiền trên nóc tủ kia là khoản tiền cất giữa nơi này. Còn phần chính nhất định ở chỗ Jonah. Nàng suy nghĩ làm cách nào để có thể lôi hắn ra khỏi nhà nấu thuốc. Nàng nhìn thẳng, cố tìm một cách nào đó. Và khi nhìn thẳng như vậy, nàng chú ý tới một thứ giữa lớp lò xo và nệm giường. Có một góc giấy màu xanh lá cây. Nàng mò đến bên giường và nhẹ nhàng lôi tờ giấy ra. Đó là một tờ bạc một trăm đô la. Đúng như nàng dự đoán, đây chính là nơi bí mật cất giấu tiền. Hàng đống tờ giấy bạc nằm vung vãi khắp giường. Gần như lớp giấy bạc ấy phủ kín khung giường bằng lò xo. Nàng nhìn kỹ hơn đống tiền đó, tâm trí chưa hết bàng hoàng. Sau đó, nàng lấy một chiếc túi bằng vải thô màu xanh lá cây trong tủ ra và bắt đầu cào những đám giấy bạc một trăm và năm mươi đô la cho đến khi che kín chiếc túi. Trông chiếc túi tròn căng phồng như một chú heo con béo ụt ịt.

Nàng nhấc chiếc túi lên rồi về phòng ngủ và lấy chiếc ba lô của nàng. Nàng ra phòng tắm, nàng mở cửa sổ nhỏ phía trên cao của phòng tắm, quăng cái túi và ba lô ra ngoài. Sau đó, nàng trèo ra nhảy xuống nền đất mềm, đóng cửa lại. Nàng rón rén đến gần chiếc xe tải nhỏ, quăng túi vào hàng ghế phía sau. Nàng vừa ngồi vào sau tay lái thì có tiếng chó sủa ầm ĩ. Tim nàng ngừng đập. Một luồng ánh sáng như xé tan màn đêm, Jonah mở cửa phòng nấu thuốc. Một tay cầm khẩu súng, tay kia cầm đèn pin, hắn lia đèn pin như điên cuồng khắp sân. Cuối cùng hắn chĩa thẳng vào Mary đang ngồi sau vô lăng chiếc xe tải nhẹ. Nàng hít một hơi thật sâu và quyết định phải đối mặt với hắn.

- Tắt ngay cái đèn pin ấy đi, nếu không mắt tôi mù bây giờ.

Ánh sáng của đèn pin tiếp tục chiếu vào nàng một lúc rồi chĩa xuống chân nàng. Mặc dù nàng rất sợ nhưng cũng cố bình thản ra khỏi xe và bước về phía Jonah. Vì điều nàng sợ nhất là hắn sẽ đến chỗ nàng, nhìn thấy chiếc túi lớn ở hàng ghế phía sau.

Nàng đứng trước mặt hắn và nói trước khi hắn ra câu hỏi. Giọng nàng như ra lệnh, âm vực giọng nói tự tin.

- Đưa cho tôi chìa khóa xe. Tôi muốn xuống phố.

Hắn nhìn nàng nghi ngờ:

- Để làm gì?

Nàng cố giả giọng sao cho thật khó chịu:

- Thôi đi mà. Làm ơn một chút được không? Tôi mua đồ lót với băng vệ sinh phụ nữ.

- Ồ…

Jonah gật gù. Nàng lại đòi:

- Đưa chìa khóa đây cho tôi.

Hắn nhìn nàng một phút, mặt vênh lên.

- Đưa chìa khóa xe đây.

Nàng nói dai dẳng, và cuối cùng hắn thọc tay vào túi quần đưa chùm chìa khóa cho nàng. Nàng chìa tay ra rồi như chợt nhớ ra nàng nói thêm:

- Với lại đưa thêm một ít tiền nữa.

Jonah cất súng đi lôi ví ra.

- Này cầm lấy.

Hắn đưa cho nàng một tờ hai mười đô la rồi cánh cửa của nhà nấu thuốc đóng sập lại trước khi nàng kịp nói một điều gì đó.

Đến lúc này thì Mary Bridget bắt đầu chạy. Tim đập như vỡ tung lồng ngực. Nàng cho xe nổ máy và thầm cầu nguyện cho Dwayne ngủ say như chết trên ghế tràng kỉ. Nàng cho xe thả dốc xuống sườn đồi mà không mở đèn. Nàng không đóng cửa. Chỉ sợ cánh cửa sập lại gây ồn ào. Mãi cho tới khi ra đến đường lớn nàng mới bật đèn và đóng cửa lại. Tới lúc này nàng không còn có lựa chọn nữa rồi. Đã phóng lao thì phải theo lao.

***

Phải đến hai giờ sáng nàng mới dừng xe ở siêu thị Wal-Mart, mở cửa hai tư giờ một ngày ở Charlottesville. Nàng ngồi một lát suy nghĩ, sau đó nàng vạch một kế hoạch. Nàng vào trong siêu thị mua một chai thuốc nhuộm tóc màu sậm. Nàng vào trong nhà vệ sinh của siêu thị, nhuộm tóc, lấy khăn giấy lau những giọt thuốc nhuộm dính lên vai nàng. Nàng đau khổ nhìn hình bóng mình trong gương: mái tóc bạch kim óng mượt giờ đã mang màu bùn đen xỉn. Nhất định sau này khi đã an toàn, nàng sẽ tẩy thứ thuốc nhuộm đen xỉn ấy. Nàng đeo cặp bông tai dài thượt vừa mua. Trông nàng hơi giống ngoại quốc. Xong nàng tô môi bằng son màu sẫm. Mary sững sờ thấy một cô gái xa lạ tròn mắt nhìn nàng trong gương. Nàng đã sẵn sàng rồi, không ai còn có thể nhận ra nàng trong lớp hóa trang này. Và người làm chứng minh giả cho nàng, người đã làm không biết bao nhiêu chứng minh thư dưới tên một cô sinh viên trường đại học sẽ không thể nào nhận ra nàng là một khách hàng cũ. Thế nên, anh ta cũng không thể tìm được mối liên hệ giữa nàng với Jonah.

Nàng lái chiếc xe tải của Dwayne về phía trường đại học và cho xe nàng chạy chậm dọc con đường để tìm tòa nhà chung cư của gã làm giấy tờ giả. Nhà đó đây rồi. Nàng đậu xe rồi đi vào mê cung bằng bê tông của khu nhà liên hợp gồm rất nhiều căn hộ. Hi vọng nàng có thể nhận ra tên làm giấy tờ giả mạo. Nàng sợ anh ta đã chuyển nhà rồi. Hai năm trôi qua kể từ lần cuối cùng nàng đến đây nhờ anh ta làm cho bộ giấy tờ giả. Lòng nàng quặn thắt vì lo lắng rồi nàng thở phào nhẹ nhõm khi thấy tên nguời này vẫn còn trên hộp thư: Eric Whitley.

An tâm, nàng quay trở lại chiếc xe tải, đóng kín cửa xe và ngủ thiếp đi một lát. Khi nàng tỉnh dậy đã gần tám giờ sáng. Nàng quay trở lại căn hộ của Eric, nàng gõ cửa. Không nghe tiếng động, nàng gõ lại lần nữa. Lần này, nàng vô cùng mừng rỡ khi nghe thấy tiếng động. Nàng gõ cửa lần nữa. Lần này, nàng vô cùng mừng rỡ khi nghe thấy tiếng bước chân loẹt xoẹt từ trong nhà đi ra. Nàng chuẩn bị tư thế đĩnh đạc, cố nhớ lại khuôn mặt của Eric. Nàng nhớ anh ta là một người lặng lẽ trầm tư, có hàm râu quai nón không được xén tỉa mọc lộn xộn. Tuy nhiên, tóc lại thưa mỏng. Nhìn anh ta, người ta có cảm tưởng anh ta là giáo sư một trường đại học gần đó. Nàng không thể ngờ anh ta lại là một kẻ làm giấy tờ giả.

Cửa mở, một bé gái khoảng bốn năm tuổi, tóc vàng óng mượt như thể được gội bằng một thứ dầu gội hảo hạng. Cô bé mặc bộ đồ pyjama đã chật và trông nó có vẻ như không được mặc đủ ấm. Mary nói:

- Xin chào, ba mẹ cháu dậy chưa?

Bé gái không trả lời, vẻ như không thèm để ý, nó bỏ đi. Không biết phải làm gì, Mary bước vào bên trong đóng sập cửa lại.

Căn hộ bề bộn nhưng không đến nỗi giống như lần cuối cùng nàng đến đây. Trên bàn đầy những lon bia rỗng và những khay cáu bẩn.

Bé gái đến bên ghế sô pha, kéo một tấm chăn nhỏ xíu dành cho trẻ em đắp ngang cặp chân trần của nó. Chiếc tivi đang chiếu bộ phim hoạt hình.

Mary hỏi:

- Cháu tên là gì?

- Brittany.

- Mẹ cháu đâu?

- Kìa.

Brittany nói, chỉ ra ngoài phòng khách. Một phụ nữ đang đứng đó, mặt chớp chớp. Tóc cô ta ngắn màu nâu, một tai đeo sáu bảy cái khoen, còn tai bên kia lại chẳng có cái nào. Bụng cô ta to tướng có vẻ như ở cuối thai kỳ. Cô ta thậm trí không hề lấy làm lạ khi thấy Mary ở trong nhà mình. Có vẻ như người lạ vào nhà không còn là chuyện đáng chú ý nữa.

- Cô là ai?

Chủ nhà hỏi. Kéo tà áo choàng khép lại.

Xém chút nữa Mary nói ra tên thật của mình. Nàng chợt nhớ đến lý do khiến cho mình đến đây. Không thể cho người ta biết tên thật của nàng. Nàng không biết mình phải sử dụng tên gì nhưng vào giây phút này thì một cái tên buột ra khỏi miệng nàng. Nàng có cảm tưởng chính lúc ấy linh hồn của mẹ nàng đã phù hộ cho nàng.

- Tôi là Bridget Collins, nhưng mọi người thường gọi là Bridget.

Cuối cùng thì Eric cũng từ phòng ngủ chui ra. Anh ta làm một bằng lái xe, cái tên mới của nàng vào mạng quản lý chung của liên bang. Và chẳng mấy chốc Mary có thẻ an ninh xã hội.

Mary Bridget mở chiếc túi đựng tiền và kín đáo hết sức, rút ra bốn tờ một trăm đô la trong cọc tiền nằm ngay phía trên rồi đưa chúng cho Eric. Chiếc bằng lái xe vẫn còn nóng hổi vì vừa được ép plastic. Khuôn mặt trong tấm hình quá lạ lẫm: chính là nàng nhưng không phải là nàng. Cả cái tên cũng vậy. Nàng tự nhủ, phải nên quen với chuyện này. Nàng nhẩm đi nhẩm lại: Bridget Collins.

Vụ làm ăn của họ thế là xong. Mary nói lời tạm biệt với chị chủ nhà đang mang bầu, với bé gái và cảm ơn Eric. Nàng đi ra cửa.

- Anh sẽ không nói với ai chứ ?

- Nếu tôi tiết lộ bí mật thì tôi không thể hành nghề lâu như vậy được.

Đột nhiên nàng cảm thấy mình phải cần làm một việc.

Nàng mở túi tiền một lần nữa. Khi đi ngang qua chỗ chị chủ nhà đang đứng, nàng nhét tờ một trăm đô la vào tay chị.

- Cầm lấy đi, mua cái gì cho cháu bé.

Nàng nói và bỏ đi trước khi người phụ nữ kia kịp trả lời.

Eric không nói gì. Brittany cũng lặng thinh. Thậm chí như lúc đầu người phụ nữ kia cũng không biết mình nhận một món tiền thưởng. Mary Bridget ngoái lại lần cuối cùng trước khi ra đi. Cả nhà Eric đang buồn bã và lặng lẽ ngồi trên ghế sô pha nhìn nàng đi ra.

Cuối cùng thì chiếc xe tải nhẹ cũng tìm được một nơi trong bãi đỗ Piggly Wiggly, bên cạnh một cây hoa mộc lan đứng sừng sững. Mary cứ để nguyên cái chìa khóa trong ổ khóa hy vọng có kẻ nào đó lấy trộm chiếc xe này đi cho rồi.

Cái gì không hiện hữu thì không thể lần theo dấu vết được.

Nàng băng qua đường, đến trạm xe bus Greyhound.

- Cô đi đâu vậy?

Người bán hàng hỏi. Mary Bridget khoác ba lô lên lưng và tay nắm chặt chiếc túi màu xanh. Bàn tay nàng run lên bần bật, vì đói, vì mệt và vì sợ hãi. Nàng đọc điểm đến đầu tiên của chiếc xe bus sắp khởi hành trên chiếc bảng thông báo sau lưng nhân viên bán hàng. Nàng cố lấy giọng kiên định trả lời:

- Alexandria.

- Nếu vậy vé là hai mươi đô la.

Nàng đặt hai tờ bạc hai mươi đô la vào lòng bàn tay của người bán vé đang chìa ra. Anh ta đưa cho nàng vé và tiền thối. Nàng cúi đầu bước về sân ga xe bus. Nàng lên xe, không dám nhìn quanh cho tới khi chiếc xe bus chuyển bánh rù rì tiến trên xa lộ. Nàng quan sát xa lộ trong một giờ đồng hồ mà không hề nhìn thấy một chiếc xe nào quen cả. Và cuối cùng, chiếc xe bò xuống sườn đồi tiến tới một đồng cỏ. Nàng lấy chiếc ba lô làm gối và chìm vào một giấc ngủ đầy mộng mị.

Nhất định tiếng thắng xe đã làm nàng giật mình thức dậy. Nàng hơi lảo đảo một chút, nhìn qua bậc cửa sổ đọc tấm bảng có dòng chữ: CULPERE. Mọi người xung quanh nàng dường như đang sửa soạn xuống xe. Một vài người đã xuống hẳn xe rồi còn một vài người nữa đang tư thế sẵn sàng. Nàng tự hỏi liệu mình có đủ thời gian để xuống xe mua một cái gì đó để ăn không? Nàng cúi xuống chân định lấy một tờ năm mươi đô la từ trong chiếc túi. Nhưng nàng khua khoắng vào khoảng không. Nàng có cảm giác có ai đó dùng dao đâm xuyên qua ngực. Rồi nàng quỳ hẳn xuống sàn xe bus dơ bẩn và nhìn xuống dưới gầm ghế: Chẳng có gì! Chiếc túi đã biến mất. Nàng ngồi ôm lấy ngực một lát rồi cố luồn lách đi lên phía trước.

- Xin lỗi ông…

Người lái xe quay nhìn nàng, ông ta có một khuôn mặt đôn hậu:

- Ông có thấy ai xuống xe tay xách một chiếc túi màu xanh lá cây không?

Ông ta không trả lời, chỉ nhìn nàng lạ lẫm. Ông ta chỉ đám người vừa bước xuống xe bus tay người nào cũng xách ba lô hoặc túi cả. Nàng gật đầu, cố không để nước mắt rơi. Nàng cứ ngồi im như pho tượng cho tới khi quyết định mình phải làm gì tiếp theo. Nàng những tưởng món tiền kia sẽ đưa nàng tới một nơi thật xa. Alexandria chỉ là một chỗ nghỉ chân tạm thời cho đến khi nàng nghĩ ra một kế hoạch mới cho mình. Nhưng giờ đây, đối với nàng nó là chặng cuối. Nàng suy nghĩ đến những rắc rối sẽ xảy đến với mình. Nếu như nàng không thể đi một nửa quả địa cầu để tránh xa Jonah thì nàng phải làm mọi cách khiến cho hắn không thể đuổi theo nàng. Nàng cương quyết mở ba lô lấy món tiền lẻ từ tờ một trăm đô la nàng đã dùng mau thuốc nhuộm tóc. Thật ra khoản tiền này với khoản tiền lẻ sau khi mua vé xe bus là tất cả số tiền còn lại của nàng. Nàng nhét tiền vào túi rồi lại đi lên phía đầu xe, nàng hỏi người lái xe:

- Thời gian ngừng ở trạm nghỉ nào có đủ để cho tôi gọi một cuộc điện thoại không?

- Nghe rồi.

Cảnh sát Walter Hinkley đặt miếng bánh kẹp thịt đang ăn dở dang một bên và lái xe cảnh sát xuống đường. Nhiều người không biết sử dụng thời gian của mình làm gì. Nếu không họ đã chẳng làm ầm ĩ lên về đám vật liệu để sản xuất ma túy trong một chiếc xe tải nhẹ bị bỏ quên bên đường. Khi Thomas Jefferson còn sống ở đây thì thị trấn Charlottesville là một thị trấn nhỏ thanh bình. Nhưng bây giờ tội phạm nảy nở ở đây như nấm mọc sau cơn mưa. Vì vậy, việc tìm ra những vật liệu sản xuất ma túy chẳng phải là một chuyện gì to tát mà làm cho ông ấy phải gián đoạn bữa ăn trưa giữa chừng. Walter lái xe về phía Piggly Wiggly. Mỗi khi xe ngừng lại trước đèn đỏ anh lại gặm một miếng bánh với hamburger và phô mai. Ông đậu xe trong bãi xe, ông chủ cửa hàng bán thực phẩm đã đứng đó. Ông ta cứ loay hoay bên chiếc xe tải nhỏ như gà mắc tóc. Ông Ned Pearson đã có thời mơ ước làm cảnh sát. Mặc dù công việc ngày nay của ông ta là đứng trông coi một tiệm bán thực phẩm nhưng phải nói ông ta có thiên bẩm về việc điều tra tội phạm. Và ông kiểm soát khu vực chung quanh tiệm Piggly Wiggly bằng tất cả khả năng thiên bẩm của mình. Lần này chắc là Ned Peason mừng lắm đây.

Walter ra khỏi xe.

- Cái gì đây?

- Cứ xem đi.

Ned Pearson chỉ tay vào hàng ghế phía sau của xe tải. Rõ ràng trông ông ta rất phấn khích. Walter bước đến xe tải nhìn vào bên trong, đó là chiếc can 50 lít, những vết hóa chất màu xanh trên miệng. Dấu hiệu cho thấy bên trong chiếc can nọ chứa Amoniac khô chứ không phải là dầu lửa. Ned nói:

- Tôi dám chắc đây là hiện trường của bọn tội phạm.

- À…à…

Walter ầm ừ giữ giọng ngạc nhiên nhưng ông biết Ned nói đúng. Walter nói tiếp giọng bình tĩnh:

- Ông vào trong tiệm bán hàng đi. Gọi cho tôi đội cảnh sát chuyên trách tội phạm sản xuất độc dược. Nói với họ rằng đây có lẽ là một xe tải của một nơi chế biến ma túy.

Ned đi trước khi Walter nói xong. Cảnh sát Walter là người nhìn xa trông rộng. Chẳng phải người ta nấu ma túy ngay trên chiếc xe này nhưng ông vẫn quyết định kiểm tra.

Ông mở cửa hàng ghế phía sau, mở ngăn kéo nhỏ trong xe, kiểm tra rồi mở nắp ca bin. Chẳng có gì ngoài một chùm chìa khóa và bằng chứng tội phạm ở hàng ghế sau như thế nhỉ? Ông lắc đầu. Làm sao có thể đoán được cơ chứ.

Ông vào xe mình, dùng máy bộ đàm gọi về sở cảnh sát kiểm tra nơi đăng kí của biển số xe tải.

Một phút sau đã có thông tin trả lời: Chủ xe là Dwayne Heslop, ở một địa chỉ gần Nelson Coutry. Walter gởi thông tin cho cảnh sát trưởng, phòng cảnh sát ở Nellson. Ông tin chắc họ sẽ tìm ra cái tổ chức sản xuất ma túy ở đâu đó nằm sâu trong rừng.

Cảnh sát trưởng ở Nelson cho Walter biết:

- Chúng tôi đã có một tiết lộ thông tin về địa chỉ này. Cảnh sát đã có mặt ở chỗ đó rồi.

- Thật không?

- Đúng thưa ngài. Một phụ nữ đã gọi điện báo cho chúng tôi. Đây là một nhân vật nặc danh.

- Thôi được rồi.

Walter thở dài, như vậy là đã tìm ra bí mật. Ông thì thầm: “trời đánh tránh miếng ăn” rồi ngoạm nốt miếng bánh mì kẹp thịt cuối cùng trong khi chờ các nhân viên kỹ thuật kiểm tra chất hóa học có mặt.

***

Chiếc xe buýt Greyhound ì ạch tiến vào thành phố Alexandria, bang Virginia và đỗ xịnh trong bến xe vào lúc năm giờ. Từ bến xe, Mary Bridget lên một chiếc xe bus trong thành phố xuống trung tâm và xuống một chốn bất kì ở King Street. Nàng không biết làm gì chỉ đứng nhìn vì Alexandria không phải là nơi nàng định đến. Đây là một thị trấn cổ với những tòa nhà xây bằng gạch đỏ và vỉa hè lát đá. Ở đây có rất nhiều người giàu có. Nàng có thể đoán ra khi nhìn những chiếc xe hơi đắt tiền nối đuôi nhau trên đường phố và những tòa nhà mới xây đẹp mê hồn. Nàng mệt mỏi không muốn suy nghĩ gì thêm nữa. Vậy mà nàng vẫn phải lên kế hoạch. Nghĩ mãi không ra nàng bắt đầu tản bộ nhưng chẳng biết phải đi đâu? Không nhà không cửa không tiền bạc. Nhưng rắc rối của nàng là nàng không thể suy nghĩ cho đúng đắn để vạch ra một kế hoạch khả dĩ cho mình. Nàng quá mệt mỏi, quá đau buồn.

Nàng bước chậm. Cơn tuyệt vọng chụp lấy người nàng. Nàng đứng lại và hỏi chính xác là nàng muốn đi đâu? Nàng chẳng biết ai và cũng chẳng có ai chờ đón nàng phía trước. Nàng ngồi thụp xuống vỉa hè và bắt đầu khóc. Nàng cứ thổn thức mãi cho đến khi trong lòng cảm thấy vơi hẳn đi. Khóc xong, suy nghĩ của nàng sáng suốt trở lại. Nàng ngẩng đầu lên nhìn ánh đèn chiếu tới nơi nàng ngồi, ánh đèn từ tòa nhà bên kia đường gợi cho nàng một ý tưởng. Tòa nhà có bậc tam cấp dẫn lên một bậc thềm hẹp. Kế đó là hai cánh cửa lớn sơn màu lá cây sẫm, cửa sổ thiết kế theo kiểu cổ với những ô cửa kính hình vuông. Phía trong có những ngọn đèn nhỏ chiếu sáng. Nhà thờ KNOX PRESBYTERIA: đó là hàng chữ trên tấm biển phía ngoài cánh cửa. Nàng đứng dậy và bước tới phía cánh cửa đó. Bà ngoại và mẹ của nàng đều tu ở dòng tu Baptist, nhưng đối với nàng, ngay lúc này đây, một nhà thờ của Ấn Độ giáo có đứng sừng sững trước mặt nàng cũng không thành vấn đề, miễn là cửa nhà thờ ấy không khóa.

Nàng xoay nắm đấm cửa, mở cửa, có vẻ như không có ai ở bên trong. Phía trong nhà thờ tỏa ra một thứ mùi cũ kĩ và ẩm ướt quen thuộc, giống như màu tủ quần áo của bà ngoại. Đóng cửa nhẹ nhàng sau lưng, nàng bước vào trong giáo đường và nhìn quanh. Đây là một giáo đường cổ có những chiếc ghế đóng thành hình hộp sơn màu trắng. Khi đứng từ ngoài nhìn vào nàng thấy ánh đèn bão đang lắc lư trên khung cửa sổ. Nàng tìm được một góc tối, bước về phía ấy, ngồi xuống, ôm áo khoác trong lòng. Nàng cố tập trung suy nghĩ nhưng không được. Nàng buồn ngủ quá và không sao mở mắt ra được. Dùng chiếc ba lô làm gối nàng nằm xuống và kéo áo khoác đắp lên ngực và ngủ thiếp đi.

***

Jonah chớp mắt, tim đập thình thịch khi nhìn xuống dưới tấm nệm giường và hiểu con bé đó đã chạy chốn. Nó mang theo cả linh hồn của hắn. Hắn mím môi nhưng môi khô rát. Hắn cầm lấy một ly nước, sau đó hắn nghĩ mình phải tìm cho ra Mary và sau đó mang linh hồn về trả lại cho thể xác. Hắn có súng và hắn sẽ đạt được mục đích. Hắn kéo nệm lại, lôi khẩu súng mười hai ly giấu trong hốc tường và mở cửa bước ra. Nhưng khi hắn vừa ra khỏi cửa thì có tiếng la hét có tiếng bước chân chạy rầm rập. Chỉ khi hắn nằm sấp xuống nền nhà thì hắn mới nhận ra có người nào đó xô hắn ngã.

Jonah bắt đầu gào lên ầm ĩ.

Đột nhiên người kéo đến một lúc đông, một bàn tay chặn ngang cổ hắn. Đột nhiên hắn có cảm giác thở không được nữa.

- Hắn la hét cái gì vậy?

Hắn nghe thấy giọng nói vang lên rồi Jonah thấy mình úp xuống chiếc nệm ghế xe hơi. Một bàn tay khóa chặt tay hắn từ phía sau.

Một giọng nói khác trả lời:

- Hắn gào lên, kể về mụ đàn bà nào đó đã lấy hồn hắn đi mất.

- Thế này thì khi hắn vào tù, hắn cũng sẽ bị bọn tù nhân cười cho thúi mũi.

Cả hai viên cảnh sát cười hô hố.