Chương 1

Trước khi Thừa Chỉ Nguyễn Trãi trở về Lệ Chi Viên, lều Ngộ Vân vốn đã là kiểng chùa nhỏ hoang tàn từ lâu. Cuộc chiến chống giặc Minh ngày ấy khiến ngôi chùa làng vô danh này bị thiêu rụi gần hết. Kiến trúc chỉ còn lại khoảng hậu liêu trơ trọi giữa trời xanh. Cảnh vật đổ nát, tàn xiêu không được ai tu bổ, cỏ mọc xanh rì. Đã qua rồi thời cực thịnh Phật đạo của nhà Trần... Nay chỉ còn lại hai thầy trò sư Ngộ Vân nương náu nơi đây.

Họ vẫn an bần cùng cảnh sống đạm bạc qua ngày. Không khách thập phương nào lai vãng tới đây. Thỉnh thoảng một đôi kẻ bẫy chim, say theo con mồi lạc bước, băng qua. Nếu không lưu ý, người ta cứ tưởng như đây là nơi không người. Ngộ Vân trạc tuổi thất tuần, đôi mắt tinh anh như điện chớp. Chú tiểu lên chín, lên mười, nét mặt hồn nhiên đôn hậu. Hai thầy trò ít có thời giờ để chuyên miệt mài kinh kệ. Một vài sào đất quanh ngọn đồi, chừng ấy tạm đủ cho họ tự túc mưu sinh, chưa tính chuyện rời đi nơi khác. Không biết đã bao lâu, tiếng chuông chẳng còn gióng lên vào những sáng tinh sương. Tài sản đáng quý nhất còn sót lại ở đây là chiếc tiểu Hồng Chung đã khuyết bể, nằm nghiêng kê một bên chái hè mặc cho mưa nắng phôi pha...

Đường đi vào lều Ngộ Vân khuất lấp, bờ bụi um tùm và xa cách đường cái nhiều dặm quanh co. Vào những buổi tối trời, đôi lúc người ta nhìn thấy đôi vệt khói lam chiều nhẹ tỏa lên từ mái lều lạc lõng ấy. Dân cư quanh vùng chỉ quen gọi đây là lều Ngộ Vân...

Sau khi Thừa Chỉ Nguyễn Trãi về lại Lệ Chi Viên, ông thường mặc áo vải thô, đi giày cỏ để tìm hiểu dân tình. Lều Ngộ Vân chỉ cách Lệ Chi Viên chừng mười mấy dặm đường nên ông cũng đã từng ghé qua nơi ấy. Dần dần giữa sư và người khách đặc biệt kia, thành một mối giao du tương đắc.

Ngay buổi đầu gặp mặt, sư buông cuốc cung kính vái chào rồi cúi xuống tiếp tục lượm cỏ. Thừa Chỉ Nguyễn Trãi ướm thử một câu:

- Không màng đến chúng sinh, sao gọi là tâm Phật?

Ngộ Vân vẫn cứ lượm cỏ, từ tốn đáp:

- Một tấc đất hoàng triều không dám để hoang. Bần tăng suốt ngày lo cày cuốc khác gì chúng sinh? Chúng sinh lại không màng đến chính mình ư? Xin hãy hỏi nơi những người chưa từng cày cuốc. Miễn chấp... miễn chấp.

Nguyễn Trãi vuốt râu cả cười, lý thú:

- Chỉ lo nhổ cỏ, chẳng lý đến người. Ngài có cho là làm lành lánh dữ đấy không?

Ngộ Vân vái một vái, ngẩng đầu lên nhìn khách mới đến:

- Không dám... Tôn ông dạy quá lời. Ngài biết chăng? Bước qua chỉ vài bước, cỏ đã mọc lại sau lưng... Suốt đời bần tăng chỉ lo nhổ cỏ ngay dưới chân mình, e chưa kịp, nói gì đến đại ngôn? Ai là người nhổ hết... sạch chăng?

Nguyễn Trãi giật mình giữ tay áo nghiêm chỉnh vái chào:

- Thực cao minh chí lý. Xin tùy duyên chỉ giáo cho kẻ tục khách đến quấy nhiễu đại sư.

Ngộ Vân buông cuốc, đáp lễ sát đất, giây lâu chợt nói:

- Chỉ bàn Nhân pháp, không hỏi Phật pháp. Không lý gì cảnh, chỉ lý tới tình. Chẳng để ý tài vật, lại xét tới thiện tâm... Có người như thế đấy ư? Dưới gầm trời nước Nam đời nay, được mấy ai vượt lên trên cả sách vở như Hầu gia họ Nguyễn ở Lệ Chi Viên trong vùng? Xin mạo muội hỏi ngài... có quan hệ thế nào với bậc đại thần, đại nghĩa ấy? Bần tăng cam thất lễ...

- Đa tạ đại sư... Muôn ngàn lần chẳng dám. Trãi này đã không che được pháp nhãn tinh vi của bậc đắc đạo nơi đây. Xin ngài hãy thông qua cái danh hư ảo ngoài đời ấy, để không thấy sai biệt gì giữa chúng sinh... Mong lắm thay!

Thế là từ đó, họ biết nhau, thường lui tới giao du nơi lều Ngộ Vân ngày càng thân thiết. Hai người, kẻ mặc áo nâu sòng, người quyền quý cao sang khác hẳn nhau sự nghiệp ngoài đời... Nhưng đều lấy nhân cách, tâm hồn làm trọng để thù tiếp nhau khi cuộc cờ, khi luận bàn kim cổ. Cả hai vị đều coi thường chấp nhất của hạng phàm phu, vượt lên trên thói tục hủ nho. Họ kính phục vì kiến thức thâm sâu, tài học uyên bác. Nhưng có lẽ, trước bàn cờ thì hai người mới thực là tri kỷ, xứng tay địch thủ hiếm gặp trong đời. Những lúc cao hứng nhất, cuộc cờ đều bất phân thắng bại, mãi cho tới khi mặt trời gác núi chưa thôi.

Nơi đây chỉ lấy gạo xôi và lạc rang qua bữa, hoặc có khi tùy tiện, khoai sắn, dưa cà... Đó lại là những giờ phút an bình và thanh thoát nhất khi Thừa Chỉ Nguyễn Trãi đã lui về Lệ Chi Viên, lánh xa nơi triều đường. Con người tài hoa đức độ vẹn toàn kia đã tự thốt lên, khi còn trong vòng áo mão cân đai:

- Ta sinh nhằm thời loạn, được gặp bậc chân chúa để phò tá ấy là đại hạnh trong đời. Chí lớn, tài ích của ta đã được may mắn góp phần nhỏ mọn vì dân, cho dân là đại hạnh thứ hai. Còn đại hạnh thứ ba? Ai mới thực là kẻ tri kỷ bằng hữu cùng ta giao du. Ai hiểu lấy bụng ta, đón lấy tâm ta một cách tự nhiên, không vì danh lợi hay sự nghiệp gì trong đời này cả? Kẻ như thế, thì ta có ư? Ta đã gặp được ư?

Tuy không nói ra, nhưng những lời gan ruột ấy đủ biết, con người danh tiếng thiên hạ này vẫn là kẻ cô đơn về một tình bạn chân phương, vô vụ lợi... Đương triều với Nguyễn Trãi có biết bao danh tướng, văn thần, đại quan, học sĩ? Bởi vậy sự gặp gỡ trong lều tranh hoang tịch này - lều Ngộ Vân, tự nó mang mối tình tri ngộ. Đây là nơi Thừa Chỉ Nguyễn Trãi quên đi địa vị một Hầu gia từng khai quốc công thần cho triều đại. Ông không nói chuyện triều chính, cũng chẳng bàn đến chuyện hơn thua nơi lầu cao gác tía, chuyện nhân tình thế thái làm gì. Sư Ngộ Vân đáp lại, không thuyết Phật pháp hay trao đổi về nghĩa lý vô thường trong cuộc nhân sinh, trước con người đối diện ấy. Thỉnh thoảng gặp lúc tự bửa củi nấu cơm, mời khách... Sự câu nệ lễ nghĩa hoặc câu nói rườm rà nơi đây bị coi như thừa và không thực với nhau. Họ tự cho như thế là đủ. Cứ nhìn hai người say cờ tưởng như trên đời này không việc gì làm bận trí họ nhiều hơn. Chính Thừa Chỉ Nguyễn Trãi - cho tới giây phút cuối của cuộc đời mình - cũng không thể biết được những cuộc cờ ấy lại mang sẵn một mối cơ duyên cho gia tộc sau này...

Anh Vũ - khi lên mười, từng theo cha đến lều Ngộ Vân nhiều lần. Duy nhất cậu là người có thể phán quyết về một điều hiếm có ở cha mình. Ông đã thực sự có những tiếng cười sảng khoái nhất khi về lại miền đất bất hạnh của đời mình - Lệ Chi Viên.

Tính hạnh Anh Vũ trầm mặc, hồn hậu. Cậu thiếu niên công tử này khác hẳn nhiều huynh đệ trong Lệ Chi Viên. Anh Vũ thường thua kém các anh về nhiều mặt khi cùng ngang độ tuổi. Cậu suy nhược ốm yếu, sinh ra đã khóc "dạ đề" suốt ba tháng mười ngày. Vì thế, Anh Vũ không thông minh như cả nhà mong đợi. Lên ba, cậu bị thêm chứng hen suyễn hành hạ. Nhưng Anh Vũ hiếu thuận và chăm chỉ vô cùng. Có lẽ vừa ý thân phụ nhất, để cậu được ông ban phát nhiều ưu ái hơn cả là lòng nhân hậu sớm có trong thân thể nhiều bệnh hoạn của đứa con vốn mang nhiều thua thiệt này. Tuy ít tuổi nhưng Anh Vũ hiểu cha, gần cha hơn là gần với sách vở, binh thư của cha xếp đống trong thư khố Lệ Chi Viên. Các anh cậu thường xem Anh Vũ như đứa con chẳng mong gì nối được nghiệp nhà. Họ buồn lòng, vì cậu không thể nào đọc thuộc lòng đủ bài Bình ngô đại cáo - một áng văn đã nhập tâm ngoài thiên hạ. Họ chán nản và lo lấy phần mình...

Từ đó Anh Vũ được tự do rong chơi và rất ít khi bị mọi người để tâm uốn nắn vào nghi lễ của một gia đình trâm anh thế phiệt. Kém về sách vở nhưng chỉ cần nghe một tiếng thở nhẹ khác thường ở thư phòng là cậu biết ngay, thân phụ đang nhíu mày đăm chiêu, lặng lẽ từng giờ. Hoặc nhìn thoáng qua cách vén tay cầm bút của ông cũng đủ hiểu lúc ấy, cha đang hứng chí hay thất vọng trong lòng. Anh Vũ không hay hầu chuyện với cha để được giảng luận về học thuật, thi thư như các anh và đệ tử trong nhà. Tất cả đều cung kính rất mực lắng nghe không mỏi mệt. Cậu không đủ trí khôn để tự hỏi tại sao? Thân phụ sau những giờ nói giảng ấy, ông chỉ ngồi bên cậu và lim dim chờ cậu bé vuốt râu, phẩy quạt cho mình. Tài hoa và học thuật của ông là cái gương thành công treo trước mắt mọi người. Anh Vũ xa lạ với những rắp tâm tìm tới quan trường trong ý thức thiếu niên. Cậu còn đầy đủ tình phụ tử một cách tự nhiên nhất, không phải ngăn cách qua lớp vỏ khí khái của nghĩa thầy trò. Anh Vũ tuyệt nhiên không đi vào sự chuẩn bị cho bản thân một nghề nghiệp thuận lợi nhất về sau này như mọi người anh trong gia tộc. Trong khi mọi người siêng năng nắm lấy cơ hội tốt kia, thì cậu dửng dưng chẳng thấy mình tận tụy gì. Sư Ngộ Vân có lần xoa đầu Anh Vũ khi nghe thân phụ cậu công tử nói qua về tính hạnh của đứa con mà ông thường đem theo khi du ngoạn. Nhà sư gật gù buột miệng:

- Muốn thành công phải học cái tài hơn thua cùng thiên hạ. Nhưng muốn thành người ắt là phải học cái đức trước tiên. Nếu ai cũng đầy đủ đức độ rồi thì cái tài hơn thua kia nào phải để tiến thân ư?

Cậu chỉ ham thích cảnh vật thiên nhiên, ưa nhìn hoa đồng cỏ nội và hòa mình vào sinh hoạt nhân gian. Anh Vũ rất sợ miệt mài trong thư phòng để suốt ngày tập văn luyện bút. Gia đình, trong nhà đều hiểu cách tốt nhất khiến cậu công tử nhỏ bé này vui lòng là nên rời xa, đừng chăm nom cậu như một con chim nuôi ở trong lồng. Chính vì thế, Anh Vũ đòi theo cha bằng được những lúc ông sửa soạn khoác vào mình áo thô, giày cỏ... Người gia đinh thân tín chuyên mang theo túi đựng cau trầu và hộp cờ của Nguyễn Trãi chỉ có cơ hội làm nhiệm vụ một vài lần trước khi giao luôn cho cậu bé...

Nơi lều Ngộ Vân - còn một niềm vui khác, không thể tìm ra trong không khí Lệ Chi Viên. Anh Vũ có người bạn cùng trang lứa, tự nhiên và hoạt bát bên mình để cùng nhổ cỏ, hái rau, tưới bầu, trồng bí... Chúng thay nhau xách nước, đun trà. Người bạn ấy là chú tiểu theo tu học bên sư Ngộ Vân từ khi lên tám... Chúng quyến luyến nhau hơn ruột thịt, dần dà chẳng muốn rời nhau, trông ngóng nhau từng buổi gặp mặt bên mái lều Ngộ Vân ấy. Một đứa thiếu gia đình, vốn không cha không mẹ. Một công tử nhà trâm anh thế phiệt lại chẳng thấy sinh thú gì ở nơi toàn lễ nghĩa, thi thư... Sư Ngộ Vân và Thừa Chỉ Nguyễn Trãi mặc chúng bên nhau. Để phân biệt, họ gọi đùa chúng là tiểu Hoàng và tiểu Bạch. Anh Vũ sở dĩ được gọi là tiểu Bạch vì cậu trắng trẻo hơn nhiều so với tiểu Hoàng, người mới thực là chú tiểu ở lều Ngộ Vân.