1 - Công chúa quý tính | Chương 1

Chương 1

 

[1]

Ta lẻn vào hoàng cung của Tây Ương Quốc đúng vào lúc nửa đêm trăng mờ gió nổi, đúng là thời tiết hoàn hảo để làm những việc mờ ám, trái với phép nước lệ làng.

Mà ta, chính là đang đi ám sát vị thái tử tuổi còn rất trẻ của Tây Ương Quốc, Vô Mẫn Quân.

Ngày nhỏ theo các sư phụ học võ, họ có nói với ta rằng, tiểu công chúa, người học những thứ này là để thân thể kiện khang khỏe mạnh, đồng thời cũng để tự bảo vệ mình. Lúc này chiến loạn đã nhiều năm, Tây Ương Quốc vẫn nhăm nhe Đông Nguyên Quốc như hổ đói rình mồi, mà Hoàng thượng lại… Nói chung, nếu tương lai có xảy ra chuyện gì bất trắc, người cũng không đến nỗi rơi vào cảnh chân yếu tay mềm mặc kẻ khác khinh nhục.

Năm xưa ta học Tam tự kinh[1] và Thuyết văn giải tự[2] cực kỳ chậm, từ đó phụ vương liền kết luận nữ nhi này có chút ngốc nghếch, cũng chẳng để tâm nhiều đến chuyện giáo dục hay quản thúc ta. Thế nhưng nào ai ngờ được, tuy rằng ta chẳng phải kẻ sinh ra để học văn, nhưng lại là nhân tài tập võ, quá trình từ lúc liêu xiêu đứng trung bình tấn đến khi có thể sử dụng các loại vũ khí thành thục đến độ nước chảy mây trôi chỉ tốn của ta vẻn vẹn mười năm ngắn ngủi.

[1]Tam tự kinh: Nghĩa là kinh ba chữ, dùng phương thức truyền đạt một câu ngắn gồm ba chữ, khái quát lại những quan niệm đạo đức, hay triết lý của xã hội thời cổ, cũng như những câu chuyện lịch sử được nhiều người biết đến. Bởi rất thông tục, thuận miệng, dễ ghi chép nên nó đã trở thành một quyển sách giáo khoa vỡ lòng sơ cấp trong những trường học thời cổ… Một số câu trong Tam tự kinh cũng không hề xa lạ với bạn đọc Việt Nam, như “Nhân chi sơ, tính bổn thiện” (con người sinh ra, ai cũng vốn hiền lành).

[2]Thuyết văn giải tự, hay gọi tắt là Thuyết văn, là một bộ từ điển chữ Hán do Hứa Thận đời Đông Hán biên tập, cũng là bộ từ điển đầu tiên phân chia chữ Hán theo các bộ thủ.

Trước đây ta từng đọc một cuốn thoại bản[3], vị kiếm khách trong đó có nói một câu thế này: “Ta học kiếm năm bảy tuổi, bảy năm sau đạt được thành tựu, tới nay vẫn chưa gặp được địch thủ xứng tầm”. Lúc đó ta thấy chàng ta thật là ngầu, lại chẳng ngờ có ngày mình cũng đạt được cái cảnh giới cao ngất nọ. Sáu tuổi bắt đầu học võ, mười năm sau coi như thành công, trong hoàng cung rộng lớn này chưa từng bị ai đánh bại.

[3]Thoại bản chính là tiểu thuyết bạch thoại nổi lên từ đời nhà Tống, dùng những văn tự thông dụng viết thành, phần lớn lấy đề tài là những câu chuyện lịch sử và sinh hoạt xã hội thời đó. Tiểu thuyết bạch thoại phân biệt với tiểu thuyết văn ngôn ở đề tài và những câu chữ nó dùng, rất đời thường và dân dã.

Đối với tài năng võ học của ta, ban đầu phụ hoàng cực kỳ vui vẻ, có điều từ khi cùng đạo sĩ tu luyện thuật trường sinh bất lão thì bắt đầu trở nên mê tín dị đoan, nghi thần nghi quỷ. Gã đạo sĩ nọ lại là người của Hoàng hậu, vốn đã nhìn kẻ do phi tần sinh ra như ta không vừa mắt, giả vờ vô tình bóng gió rằng, ta ham võ mê quyền như thế, không chừng lại chính là sát tinh chuyển thế mà thành. Thậm chí mầm tai họa làm mưa làm gió bao năm qua không thể dẹp bỏ được, chắc hẳn có mối liên hệ cực kỳ mật thiết với ta.

Cũng bởi một câu “sát tinh chuyển thế” này, phụ hoàng lại bắt đầu ngứa mắt với ta. May là ta vốn đã quen với cung cách đối xử lạnh nhạt đó rồi, cũng không cảm thấy khó chịu, chỉ tận lực che giấu võ công của mình, nhất là trong hoàng cung.

Thế nhưng từ trước tới nay, dã tâm của Tây Ương Quốc vẫn bao trùm thiên hạ, đó vốn là chẳng phải là chuyện ngày một ngày hai, đâu thể chỉ vì “sát tinh chuyển thế” ta đây biết thân biết phận mà thay đổi được. Một Đông Nguyên Quốc với Hoàng đế đắm chìm trong thuật trường sinh, Hoàng hậu một tay đùa giỡn quyền hành, các đại thần sống trụy lạc xa hoa, tiếng oán than của bách tính vang trời dậy đất, hoàn toàn không phải đối thủ của Tây Ương. Đại quân trăm vạn ùn ùn tràn vào lãnh thổ Đông Nguyên Quốc, dễ dàng hệt như cơn gió Tây Bắc lạnh thấu xương năm nào cũng thổi qua vào những ngày đông giá.

Tây Ương không tốn bao nhiêu thời gian đã hạ được Liễu Thành, mảnh đất thuộc biên giới phía tây nam của Đông Nguyên Quốc. Nơi đây non xanh nước biếc, màu mỡ phì nhiêu, loại lương thực tốt nhất chúng ta ăn hàng ngày đều được chuyển tới từ Liễu Thành, ngày đêm không nghỉ; quần áo và trang sức trên người chúng ta, phần lớn cũng bắt nguồn từ vải vóc cùng với bàn tay tài hoa của những người con gái Liễu Thành.

Liễu Thành cách Vân Thành – kinh đô của Đông Nguyên Quốc không quá xa, nhìn khí thế chẻ tre của quân địch hiện nay, lâu thì một tháng, sớm thì nửa tháng là đã có thể tấn công tới nơi này.

Hoàng thượng lạm dụng thuốc nhiều năm, thân thể đã sớm suy kiệt như đèn dầu trước gió. Sau khi nghe tin Tây Ương Quốc đã hạ được Liễu Thành, nhất thời không chịu nổi đả kích, lập tức về chầu trời. Hoàng đệ tuổi còn nhỏ của ta lập tức nối ngôi, Hoàng hậu, lúc này nên gọi là Thái hậu, buông rèm nhiếp chính, thế nhưng vẫn không nghĩ ra được biện pháp nào khả dĩ có thể ứng phó với quân đội của Tây Ương Quốc.

Đoàn quân này do thái tử Vô Mẫn Quân thống lĩnh, cái tên ấy đúng là đặt không tốt chút nào, nó khiến hắn hoàn toàn mất đi nhân tính, cũng không hề có chút từ bi nào với đối thủ của mình[4] .

[4]Đây là cách chơi chữ của tác giả: nguyên văn tên thái tử chữ mẫn trong tên chàng có nghĩa là xóa sạch, biến mất, phai mờ, nên mới có chuyện nữ chính nói chàng mất sạch nhân tính. Đồng thời chữ “mẫn” này cũng đồng âm với chữ mẫn có nghĩa là thương xót, đồng cảm với người khác, nên tên Vô Mẫn Quân còn có nghĩa là chẳng có chút từ bi nhân đạo nào cả.

Sau khi Liễu Thành thất thủ, những câu truyện về Vô Mẫn Quân bắt đầu lan truyền rộng rãi. Đám thái giám truyền tai nhau với giọng điệu hoang mang hoảng hốt, nói rằng hắn đứng ở nơi cao, ngông cuồng tự đại, dung mạo chẳng rõ ràng nhưng giọng nói lại cực kỳ trầm ổn: “Dân Đông Nguyên Quốc, đầu hàng thì tha, nếu không hàng, bất kể người già hay trẻ nhỏ, giết tại trận”.

Về sau, hắn biết được chuyện phụ vương ta vì trường sinh thuật mà chết sớm, mới cười nhạo mà ngâm một câu thơ: “Chỉ mê trường sinh thuật, chẳng sống được bao lâu”.

Có hai câu ngắn ngủi thế thôi, lại khiến toàn bộ hoàng thất Đông Nguyên không ngẩng đầu lên được. Về điểm này, ta có chút bất đắc dĩ, lại chẳng thấy buồn khổ là bao, ta vốn chẳng có chút cảm tình gì với Đông Nguyên Quốc, đối với phụ hoàng cũng không ngoại lệ. Ấn tượng của ta về ông ấy, bất quá cũng chỉ là người đã tùy hứng ban cái chết cho mẫu thân khi ta còn nhỏ xíu, sau đó tùy tiện ném ta cho một phi tần thất sủng chăm nom, đến khi vị phi tần kia mắc bệnh qua đời thì không để tâm gì đến ta nữa.

Có điều bách tính của Đông Nguyên Quốc lại cần cứu giúp, trong số họ có những người dù đã đầu hàng cũng không tránh khỏi họa sát thân. Chuyện là hoàng thất Đông Nguyên Quốc tuy hèn nhát bất tài nhưng dân chúng lại rất kiên cường. Ngày trước khi Tây Ương tiến quân vào đã vài lần bị những đội cảnh vệ do người dân tự thành lập đánh trả, vậy nên binh lính Tây Ương Quốc vẫn ngầm ghi hận những con người tay không tấc sắt ấy, tùy ý hà hiếp, lăng nhục.

Quân Tây Ương đã gần trong gang tấc nhưng hoàng tộc của Đông Nguyên Quốc vẫn còn đây, chưa đầu hàng cũng chưa bị giết, bởi vậy vẫn chưa coi là mất nước. Chỉ có điều, tình huống này e cũng chẳng kéo dài được bao lâu nữa.

Mãi tới mấy ngày trước, Thái hậu vẻ mặt như già đi mấy tuổi kéo ta tới bên người, hỏi: “Trường Nghi công chúa, có phải con rất hận ta, cũng rất hận phụ hoàng con?”.

“Phụ hoàng mẫu hậu có ơn sinh dưỡng, con đương nhiên không hận”, ta thành thực đáp lời.

“Chỉ là không có tình cảm gì thôi, đúng không?” Bà ta cười bất đắc dĩ, “Ta thật chẳng ngờ sẽ có ngày này…”.

Nói rồi, bà ta quỳ sụp xuống trước mặt ta.

Ta không ngạc nhiên hay hoảng hốt bởi sớm đã biết tại sao bà ta lại quỳ xuống trước mặt mình. So với cái giá đó, một cái quỳ của bà ta có đáng là gì.

Bà ta nói: “Trường Nghi công chúa, trong lãnh thổ Đông Nguyên, người có võ công như con quả thực ít ỏi vô cùng. Chỉ mong con có thể dùng năng lực của mình, giết chết Vô Mẫn Quân, thay phụ hoàng con, thay cả đất nước này báo mối thâm thù…”.

Ta đã đồng ý. Tuy không có chút tình cảm nào với bọn họ nhưng dù sao ta vẫn là công chúa của Đông Nguyên Quốc, sống được mười sáu năm nay không phải nhờ ơn dưỡng dục của phụ hoàng, mà là do bách tính của đất nước này nuôi nấng. Cơm trắng ta ăn được ươm mầm bởi những người nông phu chân chất chốn đồng quê, tơ lụa ta mặc thành hình dưới tay những người con gái trong phường dệt, cung điện ta ở cũng được xây trên bao mồ hôi nước mắt của bách tính Đông Nguyên.

Trừ võ công ra thì ta chẳng còn tài năng gì đáng nói, nếu ném vào giữa dân gian, chỉ sợ cuộc sống sẽ cực khổ vô cùng. Hiện tại, dù ta không được sủng ái nhưng cuộc sống vẫn rất đủ đầy, tất cả đều nhờ sưu thuế của hàng nghìn hàng vạn dân chúng ngoài kia.

Thế là ta liền dùng sở trường duy nhất của mình – võ công, đi báo đáp bách tính của Đông Nguyên Quốc.

Ta cũng hiểu, lần này là có đi mà chẳng có về.

Hiện tại, Vô Mẫn Quân đã trở về Tây Ương Quốc, nguyên nhân không phải ở hắn mà do hoàng đế Tây Ương, Tây Thành Đế bệnh tình nguy kịch. Thân là thái tử duy nhất, lại là tướng quân tuổi trẻ tài cao lập công liên tiếp, Vô Mẫn Quân đương nhiên là sự lựa chọn số một cho việc kế vị ngai vàng. Huống gì Đông Nguyên Quốc đã sớm trong cảnh gió mưa vần vũ, hắn cũng chẳng cần tự mình xuất trận.

Đối với Vô Mẫn Quân mà nói, hiện giờ túc trực bên cạnh Tây Thành Đế chờ ông ta tắt thở mới là việc cấp bách nhất cần làm.

Sau bao ngày dò la, ta đã biết Vô Mẫn Quân ở tại Chưởng Càn điện. Chỉ nghe cái tên này thôi đã biết gã ngông cuồng tự đại tới cỡ nào, lại muốn nắm giữ càn khôn vô tận trong lòng bàn tay mình cơ đấy.

Ta cẩn thận gỡ một phiến ngói trên nóc nhà, tiếng động rất nhỏ, không ai phát hiện ra. Cả Chưởng Càn điện rộng lớn tối đen, ta nghiêng tai nghe ngóng, chỉ thấy tiếng hô hấp nhỏ xíu mà đều đặn, chắc là Vô Mẫn Quân đang say ngủ, nếu hắn vẫn còn thức thì hơi thở sẽ hỗn loạn hơn một chút.

Ta thả người xuống, đánh ngất mấy gã thị vệ trước khi bọn họ kịp có phản ứng gì, mọi chuyện thuận lợi ngoài mong đợi. Ta vội vàng mở cửa tiến vào trong, bước chân nhẹ nhàng mà thận trọng, không tạo ra bất kỳ tiếng động nào, từ từ tiếp cận giường của Vô Mẫn Quân.

Trong bóng tối tầm nhìn không tốt, ta chỉ có thể mơ hồ cảm thấy có một nam tử thân người cao lớn đang nằm nghiêng trên giường, liền rút dao găm ra, một đao đâm xuống. Chẳng ngờ cái tên đáng lẽ đang say sưa đánh cờ với Chu Công đó, trong giây phút nghìn cân treo sợi tóc này lại đột ngột lật người sang một bên. Vì ta dùng sức quá lớn, dao găm lại cực kỳ sắc bén, thế nên sau khi hắn thoát đi rồi, cả lưỡi dao găm cắm trọn vào giường, nhất thời không sao rút ra nổi.

Nhân lúc ta còn đang vật lộn để rút dao lên, hắn đã nhẹ nhàng bật dậy, chẳng chút lưu tình lấy tay làm kiếm, đánh thẳng về phía ta. Ta vội khom người tránh, chỉ thấy tiếng gió vun vút bên tai, lực tay của Vô Mẫn Quân không ngờ lại lớn nhường này, đúng là khiến người ta kinh ngạc.

Cố hết sức rồi mà con dao kia vẫn nhất quyết không chịu rời mặt giường, ta đành mặc kệ, lao vào đánh tay không với Vô Mẫn Quân trong bóng đêm tăm tối. Tuy nói rằng xưa nay ta chưa từng gặp phải đối thủ xứng tầm, nhưng có vẻ gã Vô Mẫn Quân này chính là người đầu tiên.

Thân thủ hắn cực kỳ linh hoạt, không chậm chạp như những kẻ mới tỉnh ngủ, hơn nữa lực xuất ra cũng rất lớn. Trong bóng đêm tăm tối chỉ có thể nghe tiếng đoán vật, vậy mà hắn vẫn có thể ra đòn vô cùng chuẩn xác vào chỗ trí mạng của ta. Ta vốn lẻn vào từ ngoài cung, thể lực sớm đã không chống đỡ nổi nữa, đánh qua đánh lại một hồi, dần dần rơi vào thế hạ phong.

Thôi cũng được, không thể vì nước báo thù, vậy thì vì nước hy sinh vậy.

Ta thầm nghĩ, trong lòng có chút bất đắc dĩ.

Nghĩ thì nghĩ thế nhưng bản năng sinh tồn vẫn khiến ta dùng toàn bộ sức lực vật lộn với Vô Mẫn Quân. Giằng co một lúc lâu, rốt cuộc hắn cũng lộ sơ hở, ta lập tức duỗi chân đốn ngã hắn. Vô Mẫn Quân không tránh kịp, ngã sấp xuống, song vẫn nhanh tay túm chặt lấy vạt áo ta, thế là cả ta và hắn cùng ngã nhào. Bất hạnh thay, hai cái đầu cũng là thứ đầu tiên chạm đất.

Khi tỉnh lại thì trời đã sáng, đầu đau như búa bổ, ta nghi hoặc tự hỏi lẽ nào mình còn chưa chết, sao vẫn còn cảm giác “đau” là thế nào?

Đợi đến khi mở mắt ra thì cả người ta cũng hóa đá, bởi lẽ ta nhìn thấy “ta”, vẫn đang mặc y phục dạ hành, vẻ mặt vô cùng khó tả trừng mắt nhìn mình. Trên đầu “ta” vẫn còn một vết thương rớm máu, chắc hẳn là do hôm qua đập xuống đất mà ra.

Chuyện này…

Ta hơi cúi đầu, phát hiện bản thân mình đang khoác trên người trang phục của thái tử Tây Ương Quốc, trường bào tay rộng với vạt áo màu đen, viền tay và trên cổ áo đều có thêu hoa văn mây cuộn, khiêm nhường mà sang quý vô song.

Lại liếc mắt nhìn tay chân, thon dài trắng trẻo, có những vết chai do nhiều năm cầm vũ khí mà thành. Vấn đề ở chỗ, đó lại là tay chân của nam nhân.

Ta trợn tròn mắt, ngơ ngác nhìn “chính mình”, nhất thời một câu cũng không thốt nổi.

Ta, Trường Nghi công chúa của Đông Nguyên Quốc, lại hoán đổi thân thể với thái tử địch quốc Vô Mẫn Quân…

[2]

Sau cơn kinh ngạc, “ta” phía đối diện lạnh lùng rút con dao găm vốn đang cắm trên giường ra, ngắm nghía mấy chữ khắc trên đó, cất tiếng: “Vân? Là họ của hoàng tộc Đông Nguyên Quốc. Ngươi là người trong hoàng thất Đông Nguyên, lại biết võ công. Ồ, chẳng lẽ là Trường Nghi công chúa?”.

Ta ngẩn người, hỏi lại: “Sao ngươi biết?”.

Nói thật nhé, nhìn thấy gương mặt rõ ràng là của mình, lại đi dùng cái thứ giọng quái gở mà nói chuyện với chính mình, cảm giác lúc này, hai chữ “phức tạp” còn lâu mới diễn tả nổi. Giống như khi đang soi bóng trong nước thì có một hòn sỏi rơi xuống, mặt nước gợn sóng lăn tăn khiến dáng vẻ bản thân dưới nước trở nên vừa mơ hồ vừa cổ quái.

“Trường Nghi giỏi võ, thân nhi nữ lại dũng cảm can trường…” Đối phương ngắm nghía con dao, vừa cười vừa đọc mấy câu nịnh nọt mà đám quan văn vẫn dùng để tán tụng ta.

Nghe thì có vẻ hay ho đấy nhưng nghìn bài như một. Các hoàng tỷ của ta cũng đều là mấy câu đại loại như “XX công chúa, tính tình ôn lương, tinh nữ công/thư họa, thông âm luật…”.

Chỉ có mình ta, tính tình thì chẳng được dịu dàng hiền lương, cùng lắm cũng chỉ xem là chất phác hiền lành, không rành nữ công thư họa chứ đừng nói đến âm luật. Bởi vậy, đám quan văn đành vò đầu bứt tóc nặn mấy câu nói về võ công của ta, chứng minh rằng ta cũng không phải thứ vô dụng, cái gì cũng dốt đặc cán mai…

“Ta còn biết ngươi tên là Kiểu. Tên hay đấy, nguyệt xuất kiểu hề[5]…”, hắn ung dung nói.

[5] Nguyệt xuất kiểu hề: là câu đầu tiên trong bài Nguyệt Xuất thuộc mục Trần Phong trong Kinh Thi của Khổng Tử, nôm na nghĩa là trăng ló dạng sáng bừng cả bầu trời. Chữ Kiểu vốn có nghĩa là sáng, là trắng.

“Ngươi là Vô Mẫn Quân?”, ta cắt ngang lời hắn.

Hắn gật đầu: “Đúng”.

Ta chẳng nói một lời, lao tới giật con dao găm, chẳng ngờ hắn không né cũng không tránh, mặc ta đoạt dao về.

Tuy cảm thấy có chút kỳ quái nhưng ta vẫn kề con dao vào cổ hắn… Nói chính xác hơn, là vào cổ ta.

Vô Mẫn Quân cười: “Ngươi muốn tự sát à?”.

Ta lạnh lùng đáp trả: “Cùng lắm thì cả hai cùng chết”.

“Thế ngươi đã nghĩ tới khả năng này chưa, vạn nhất sau khi thân thể của ngươi chết rồi, linh hồn của ta không có chỗ nào để đi, liền trở về thân thể gốc, đến lúc đó ngươi chết mà ta vẫn sống bình an… Hử?”

“…” Bàn tay đang giữ dao của ta cứng lại: “Chuyện đó có thể sao?”.

“Ngươi nói xem?” Vẻ mặt hắn vô cùng bình tĩnh, khoác gương mặt của ta, quăng cho ta một nụ cười cực kỳ đê tiện, “Ngay cả chuyện hoán đổi thể xác còn xảy ra được, ta cũng chẳng nghĩ ra thế gian này còn có chuyện gì không thể xảy ra nữa cả”.

Thật ra, ta cũng thấy thế…

Ta từ từ thu dao về, sau đó lại kề lên cổ mình: “Vậy ta cứ tự sát là xong, thân thể ngươi chết rồi, linh hồn của ngươi cũng đừng hòng về được”.

Vô Mẫn Quân nhướng mày: “Quyết tâm quả là không nhỏ. Đông Nguyên Quốc sắp diệt vong kia đáng để ngươi làm thế sao?”.

“Nếu không phải vì ngươi dung túng cho binh lính tàn sát bừa bãi bách tính ở những nơi bị chiếm đóng, ta đây cũng không rảnh mà tới giết ngươi.”

Vô Mẫn Quân nghĩ ngợi chốc lát, nói: “Nếu ngươi tự sát thì đúng là ta về không được. Có điều ngươi đừng quên, dù đang ở trong thân thể của ngươi đi chăng nữa thì ta vẫn có thể viết ra bút tích giống hệt trước đây. Giả sử ngươi chết, ta lập tức tạo ra một bức huyết thư giả, nói rằng người của Đông Nguyên Quốc đã tới giết ta, nhắn nhủ tất cả binh lính của Tây Ương Quốc thay ta báo mối thù này. Một khi chiếm được kinh đô của Đông Nguyên Quốc, lập tức đồ thành[6], bất kể là kẻ chống đối hay người hàng phục”.

[6] Tàn sát toàn bộ dân chúng trong thành.

Đó là giọng nói của ta, là đầu lưỡi của ta, vậy mà lại bị Vô Mẫn Quân điều khiển phun ra những ngôn từ ác độc tới nhường này, ta cực kỳ tức giận: “Ngươi đúng là đồ mặt dày!!!”.

“Nói cho cùng là mặt ngươi chứ có phải mặt ta đâu”, hắn cười với ta.

“…”

Lúc này trong lòng ta thật chỉ muốn bất chấp tất cả, lôi theo hắn xuống mồ…

Chỉ một khắc sau Vô Mẫn Quân đã thu lại nụ cười, nghiêm túc nói: “Trường Nghi công chúa, bất kể thế nào, hiện giờ chúng ta cũng không nên đối đầu mà nên hợp tác mới phải. Phụ hoàng ta bệnh tình nguy kịch, thúc phụ Hưu Ấp Vương lại rình rập ngai vàng như hổ đói. Tuy ta không thiếu tự tin, nhưng giờ lại đột nhiên xảy ra chuyện này, giả sử ngai vàng bị ông ta đoạt được thì bách tính của Đông Nguyên Quốc thực sự hết đường sống rồi”.

“Vậy phải xử lí thế nào?”

“Ta lấy ngươi.”

Vô Mẫn Quân nhìn ta, cười khẽ: “Hoặc cũng có thể nói là, ngươi lấy ta”.

“…” Từ lúc chui khỏi bụng mẹ tới tận bây giờ ta mới biết cảm giác bị sét đánh là thế nào, bắt đầu từ đỉnh đầu, cảm giác tê dại lan tới tận cổ, vừa ghê tởm vừa đau đớn…

“Trường Nghi công chúa tới Tây Ương Quốc, vô tình tương ngộ với Tây Ương thái tử Vô Mẫn Quân, hai người nhất kiến chung tình, tái kiến khuynh tâm, tới lần thứ ba thì cả đời hẹn ước. Vô Mẫn Quân chỉ cần mỹ nhân chứ chẳng màng tới giang sơn vạn dặm, cam nguyện vì nàng từ bỏ đất Đông Nguyên gần như đã nắm được trong tay.” Vô Mẫn Quân thao thao bất tuyệt mấy câu dài dằng dặc, tựa như trả bài học thuộc lòng vậy, “Trường Nghi công chúa, ngươi thấy câu chuyện này có đủ làm người ta tin không?”.

Ta chậm rãi thốt từng từ: “Cái này còn phụ thuộc vào dung mạo của ‘Trường Nghi công chúa’…”.

Vô Mẫn Quân gật đầu tán thành, sau đó đứng dậy, dáng người có chút cứng ngắc không quen đi đến cầm gương đồng lên, soi trái soi phải.

Sau đó, gương đồng rớt xuống đất.

Hắn quay người lại, đau đớn nhìn ta: “Trường Nghi công chúa, dung mạo của ngươi cũng quá tầm thường đi… Nào có tư sắc gì mà hại nước hại dân!”.

Ta nhặt gương đồng lên, đáp lời vẻ ray rứt: “Ta trông xấu như vậy, đúng là ngại quá, ngại quá…”.

Thật ra từ trước tới nay, ta cũng không có khái niệm gì đặc biệt về dung mạo của mình cả, chẳng qua nếu so với mấy hoàng tỷ giống hoa tươi trăng sáng mà nói, ít nhất ta cũng biết mình kém cạnh rất nhiều. Mà ta cũng chưa từng mất công phấn son váy áo, mặt không trang điểm, quần áo cũng đơn giản gọn gàng, chỉ cần hơi bó người, mặc thấy thoải mái, tiện cho việc luyện võ là tốt rồi. Trang sức thì khỏi cần bàn, một thứ cũng chưa từng đeo, bởi vì nó cứ kêu leng ka leng keng, lộ hết hành tung.

Ta cầm lấy gương đồng, soi trên soi dưới một vòng, vừa nhìn đã giật nảy người. Chàng trai trong gương da trắng như ngọc, mắt phượng mày kiếm, tuy nơi thái dương có vài vệt bẩn và máu khô, lại chẳng hề ảnh hưởng đến dung mạo tổng thể, bộ y phục màu đen lại càng khiến hắn trông như thiên tiên giáng trần. Ta không kìm được mà buột miệng cảm thán: “Vô Mẫn Quân, ngươi lại rất có tư sắc hại nước hại dân đấy…”.

Mặt Vô Mẫn Quân tối sầm lại, cướp gương đồng từ trong tay ta: “Ngươi nói thêm một câu nữa thì hai chúng ta cùng chết luôn cho nhanh”.

“…”

“Thôi vậy, ba phần nhan sắc, bảy phần phấn son, dù ngươi trông có tầm thường một tí nhưng cũng chưa đến nối quá xấu, trang điểm lên thì vẫn có thể ra ngoài gặp người.” Vô Mẫn Quân thở dài một tiếng, “Nói chung hai ta cứ như vậy cũng không ổn, lát nữa còn phải tới gặp phụ hoàng. Trước tiên cứ gọi người tới giúp chúng ta rửa mặt chải đầu cái đã”.

Ta gật đầu: “Được thì được, nhưng trước mắt còn vấn đề quan trọng hơn…”.

Sắc mặt của Vô Mẫn Quân cũng không dễ coi cho lắm: “Ta biết ngươi muốn nói gì, ta cũng thế đây”.

Bình minh ló dạng, đương nhiên sẽ có một đám cặn bã lắng đọng tích cả đêm trong cơ thể chờ được thải ra ngoài. Khụ, trước mắt, hai chúng ta phải đối diện với vấn đề này đã.

Hắn ngẫm nghĩ một lúc, nói: “Ta thì không sao, ta cam đoan sẽ không nhìn đâu”.

Ta nói: “Ta cũng cam đoan”.

Vô Mẫn Quân lắc đầu: “Ngươi muốn… đi nhẹ hay nặng?”.

Ta có chút xấu hổ: “Đi nhẹ”.

“Nam tử đi vệ sinh thì phải đứng.” Hắn giải thích, “Hơn nữa phải nhắm cho chuẩn, cần dùng tay đỡ…”.

Ta hóa đá cả nửa ngày, sau đó mới liều mạng lắc đầu quầy quậy: “Ta không đỡ! Ta, ta ngồi là được…”.

Vô Mẫn Quân nói, có vẻ khó xử: “Nhưng nếu thế thì sẽ ra ngoài mất”.

Ta tức điên người: “Sao đám nam nhân các ngươi lại dung tục như thế chứ!”.

Sắc mặt Vô Mẫn Quân lúc xanh lúc trắng: “Cái gì mà dung tục… Thôi thế này đi, ngươi nhắm mắt vào, ta đỡ giùm ngươi…”.

Khóe miệng ta hơi co giật: “Thế thì tay của ta sẽ bẩn mất…”.

Vô Mẫn Quân bực mình: “Thế ngươi bảo phải làm sao?”.

Ta lưỡng lự một lúc lâu, cuối cùng cũng nghĩ ra một cách. Đó là ta cầm một sợi dây, nhắm chặt mắt lại, chuẩn bị tốt phía dưới xong, mỗi tay cầm một đầu dây, thế cũng coi như đỡ rồi còn gì…

Cuối cùng cả hai chúng ta đều đồng ý với phương án này, chỉ là chẳng hiểu làm sao, ta cứ cảm thấy trên người Vô Mẫn Quân tỏa ra một luồng sát khí mơ hồ…