Sinh năm 1897 tại New York, sau hơn 20 năm cầm bút , tên tuổi nhà báo MỸ Paul Gallico bỗng nổi bật trên văn đàn với "Con chim trốn tuyết ", truyện vừa gây chần động dư luận bạn đọc cả trong và ngoài nước Mỹ . Trong sáng và thơ mộng , Paul đã nhẹ nhàng đi vào thế giới bên trong đầy nhân ái khát khao yêu đương của nhân vật Rhayader , một hoa. sĩ tật nguyền , phải tìm nơi ẩn dật ở một hải đăng hoang phế ven biển. Cái chết cao đẹp của Rhayader bên dưới vòng cánh lượn đầy tình nghĩa của "Con chim trốn tuyết", sự tuẫn tiết của chính nó , sự bùng nổ tình yêu trong lòng Frith , cô gái gây thơ và trong trắng . . . . tất cả đã biến câu chuyện thành một bài thơ viết bắng văn xuôi ca ngợi vẻ đẹp cả trong tâm hồn lẫn ý thức trách nhiệm của con người. . . . .

Cánh đồng lầy rộng mênh mông chạy dọc theo bờ duyên hải Essex (Phía đông nam nước Anh, gần miền bắc nước Pháp), giữa thôn Chelmbury và Wickaeldroth , một bến chài của dân Saxon xưa . Đây là miền hoang địa cuối cùng còn sót lại tại nước Anh, một miền sình lầy , hẻo lánh còn đầy cỏ lác và lau ssạy với những bãi cỏ ngợp nước trải dài tới bên bờ những ruộng muối lớn. Những bãi bùn non và những vũng nước thuỷ triều sát bên đại dương đầy sóng gió.

Những đường mương rạch do nước thuỷ triều xẻ vào nội địa và những nhánh sông nhỏ lượn uốn quanh co trước khi tuôn ra biển cả , qua miền lầy lội , mặt đất bập bềnh lên xuống như hô hấp theo nhịp thuỷ triều lên xuống mỗi ngày . Cảnh tượng vắng vẻ, cho ta cảm giác càng thêm hiu quạnh bởi tiếng kêu. tiếng gọi hoang dã của loài đà điểu làm tổ trong nhuẽng đầm lầy hay ruộng muối - những con ngỗng trời , những con hải âu, vịt trời, le le, cò lửa , cò hương mò mẫm tìm mồi trên những hồ nước mặn . Còn sự hiện diện của loài ngưòi thì không có, không thấy một ai , hiếm lắm mới thấy một ngưòi lưới chim hoặc vài thổ dân mò sò, tới đó tiếp tục làm cái nghề đã cũ mèm ngay từ hổi những ngưòi Normand đặt chân lên miền Hastings (Dân Normand thuộc miền bắc nước Pháp, đối diện với nước Anh, tới xâm chiếm nước Anh năm 1066. Trận Hastings bên bờ eo biển Anh đánh dấu sư toàn thắng của họ . )

Màu xám , màu xanh và màu xanh lá cây nhạt là những màu nổi bật , bởi vì suốt trong những mùa đông dài dằng dặc , nhiều vũng nước trên bãi biển, trên đầm lầy phản chiếu ánh sáng lạnh lẽo và xám đen của bầu trời . Nhưng đôi khi , vào buổi bình minh hoặc lúc hoàng hôn, màu trời sắc đất hực lên như ánh lửa vàng, lửa đỏ.

Sát bên một nhánh quanh co của con sông Aelder nhỏ bé có một quáng đê thuộc bức tường thành trấn giữ bờ biển ngày xưa , khúc đê nhẵn và kiên cố , không một kẽ hở , đó là thành luỹ bảo vệ đất liền chống lại sự xâm lấn của biển cả . Con đê chạy sâu vào tận hồ muối, sâu vào đất liền tới ba dặm kể từ eo biển nước Anh, rồi từ đó rẽ theo hướng Bắc. Chính ở góc đó mặt đê bị sóng biển nhồi vỗ đã rạn vớ tan tành. Con đê bị chọc thủng và qua chỗ hỏng, biển cả như con thú đói ùa vào tranh giành đất đai, cả bức tường thành và cả vật gì còn lại nơi đó.

Lúc thuỷ triều rút , trơ ra những tảng đá vỡ màu xám đen, vết tích của ngọn hải đăng hoang phế, nằm phơi trên mặt nước , lác đác quanh đó tựa như những cái phao cột xác chết , rải rác đầu những cây cọc của một hàng rào đã bị lún xuống. Ngày xưa ngọn hải đăng nhô cao trên biển và ánh đèn đã từg soi sáng dọc miền duyên hải Essex. Theo dòng năm tháng, sóng biển xói đất lở dần , ngọn hải đăng hoá thành vô dụng.

Gần đây nó lại được dùng làm nơi trú ngụ của loài ngưòi. Có một ngưòi đàn ông cô độc đến đó ở. Thân hình méo mó , nhưng tâm hồn anh tràn đầy tình thương đối với những loài hoang thú bị săn đuổi . Trông anh thật xấu xí nhưng chính anh lại là ngưòi tạo ra cái đẹp. Câu chuyện sau đây thuật về chính chàng trai đó , và một cô bé tìm hiểu được chàng , tìm hiểu đưọc chàng , tìm hiểu được một vẻ đẹp nào đó tiềm ẩn bên trong cái thân hình thô kệc của chàng.

Đây không phải là loại truyện có bố cục với những tình tiết nhịp nhàng hấp dẫn. Cốt truyện được thu góp từ nhiều nguồn và từ nhiều người , một phần dưới hình thức những mẩu chuyện vun vặt của chính những ngưòi đã chứng kiến cả những cảnh tưởng khốc kiệt và kỳ lạ. Rốt cuộc , biển cả đã trở lại nguyên vị, bao phủ lên nơi chiến trận lớp sóng nhấp nhô, và bóng chim trắng khổng lồ, hai đầu cánh đốm đen, cánh chim đã từng chưngs kiến sự việc từ đầu đến cuối , cũng đã quay về miền yên lặng huyền bí, cóng lạnh của vùng Bắc cực, là nơi mà từ đó nó đã bay đi.

Vào cuối mùa xuân năm 1930, Philip Rhayader tìm đến ngọn hải đăng hoang phế ở cuối sông Aelder . Chàng mua vọng đèn bỏ hoang cùng nhiều mẫu đất lầy và đồng cỏ nước mặn quanh đó.

Chàng sống cô đơn và cặm cịu làm làm việc một mình quanh năm . Chàng là hoa. sỹ chuyên vẽ chim và phong cảnh thiên nhiên . Vì nhiều lý do , chàng đã trốn lánh khỏi xã hội loài ngưòi. Ngưòi ta có thể tìm ra một vài trong số nhữg lý do đó , trong đó những chuyến chàng xuống làng Chelmbury , nửa tháng một kỳ để mua thực phẩm , phơi bày tấm thân lệch và bộ mặt đen đúa của chàng dưới những cái nhìn soi mói của dân làng . Bởi vì chàng gù lưng và cánh tay trái có tật teo đi, cổ tay khèo lại tựa như móng loài chim.

Ít lâu sau dân làng quen dần với hình dáng kỳ quái của chàng nhỏ nhưng đầy swúc lực, quen dần với chiếc đầu vững chăc s , toc đen , râu rậm hơi tụt xuống phía dưới chiếc gò bí hiểm mọc trên lưng chàng , quen dần với đôi mắt sáng ngời , cánh tay hình móng chim, và đối với họ chàng trở thành "anh chàng vẽ tranh kỳ quái sống ở hải đăng".

Hình thù quái dị thưòng làm ngưòi có tật hận thù loài người . Nhưng Rhayader không hề thù hận, chàng thương yêu tha thiết con ngưòi , mọi loài muông thú và cảnh vật thiên nhiên. Tâm hồn chàng tràn đày lòng thưong xót và sự cảm thông. Chàng đã làm chủ được điều bất hạnh , nhưng chàng không thể chế ngự nổi sự hắt hủi phải hứng chịu, sự hắt hủi gây ra bởi hình thù quái dị của chàng . Sự kiện dồn chàng đến thế ẩn dật là sự thất bại không tìm thấy từ nơi đâu sự đền đáp lại mối cảm tình nồng nàn từ nội tâm chàng tuôn trào ra. Phụ nữ lẩn tránh chàng. Còn đàn ông có thể đối tối với chàng, nếu họ hiểu chàng. Nhưng chỉ nghĩ rằg người đó phải cố gắng mới hiểu được chàng cũng khiến chàng tủi hổ và cũng đủ để chàng lánh xa kẻ ấy.

Năm chàng đến Vùng đồng lầy chàng đã hai mươi bảy tuổi. Chàng đã đi du lịch khá nhiều và đã chiến đấu một cách anh dũng trước khi đi đến quyết định rút lui ra khỏi cái thế giới mà chàng không có chỗ đứng như những ngưòi đàn ông khác . Ngoài sự nhạy cảm của ngưòi nghệ sỹ và sự hiền dịu đầy nữ tính chứa chất trong lồng ngực căng phồng, chàng cũng đàn ông như ai.

Trong cuộc sống ẩn dật , chàng còn có chim chóc , hội hoa. và cánh thuyền buồm. Chàng có một chiếc thuyền buồm dài mưới sáu bộ, mà chàng sử dụng rất tài tình . Những lúc một mình , kông bị ai dòm ngó xét nét, chàng điều khiển nó rất khéo léo bằng ngón tay có tật , chàng cũng thường vận dụng đến hai hàm răngvững chắc để điều chỉnh những cánh buồm bập bùng khi gặp cơn gió chướng.

Chàng thường thả thuyền dọc theo con lạch hay chạy ra khơi , mỗi lần chàng đi tới mấy ngày liền, tìm kiếm những loài chim mới để chụp ảnh hay vẽ phác thảo và chàng cũng đã lưới chim khá thiện nghệ để tăng thêm cho bầy hoang điểu mà chàng đã thu thập về nuôi trong chiếc chuồng dựng bên phòng vẽ vốn là trung tâm ở ẩn của chàng.

Chàng không hề bắn chim bao giờ và chàng không chịu cho những ngưòi săn chim lại gần khu vực chàng ở. Chàng là bạn thân của mọi chim hoang dã và chúng cũng đền đáp lại chàng bằng tình thân hữu.

Dọn nhà xong, đi chợ mua cây xong, giờ thì post tiếp câu chuyện ấm áp tặng các bác. Cuối năm. ..

Thuần thục trong khu vườn nhà chàng có giống ngỗng hoang hàng năm cứ đến tháng Mười lại từ miền Băng _đảo và từ quần đảo Spitbergen bay dọc miền duyên hải mà xuống , từng bầy lớp rợp trời và thinh không rào rào tiếng cánh vỗ mỗi khi chúng bay ngang - những con ngỗng thân lông nâu , chân màu hồng, ngực lông trắng với những chiếc cổ lông đen và bộ mặt ngộ nghĩnh , những con hải âu lông trắng ngực có sọc đen và nhiều loại vịt trời , le le, mòng két , mòng đốc. . ..

vài con được xén lông cánh ở lại làm chim hiệu và mỗi đầu mùa đông chúng sẽ nhử những loài hoang điểu dừng cách nơi đây là chỗ trú ẩn an toàn và sẽ có miếng ăn.

Hàng tr ăm con đã đến và ở với chàng suốt mùa đông lạnh buốt từ tháng mười cho mãi tới đầu mùa Xuân , khi chúng lại di chuyển về phương Bắc, trở về đất tổ của chúng, gần bên những vòm băng đá. (Ở những xứ thấp lạnh về phía Bắc tuyết trên núi không bao giờ tan. )

Rhayader thấy mãn nguyện khi biết rằng dù cho bão táp có sự dập vùi , sự lạnh buốt có ngiệt ngã và mồiawn có khan hiếm hay những cây súng lớn mũi nhọn của những người thợ săn đeo túi đựng túi thú ở xa có nổ, thì những con chim của chàng vẫn bình an - những con chim mà chàng đã tụ tập vào nơi an toàn dưới sự bảo trợ của dôi cánh tay và con tim chàng, những con chim hoang dã hiểu biết và đã đặt lòng tin cậy nơi chàng.

vào xuân chúng sẽ đáp lại tiếng gọi của quê hương miền bắc, nhưng sag thu chúng sẽ trở lại, trở lại kêu la rối rít tru tréo om sòm, huyên náo cả vòm trời thu muộn, lượn quanh ngọn hải dăng xưa cũ rồi cùng hạ cánh xuống gần đấy để lại đóng vai khách quý của chàng - Những con him mà chàng còn nhớ rõ là đã nuôi chúng từ năm trước.

Và điều này khiến Rhayader sung sướng, bởi vì chàng biết rằng ẩn bên trong chúng có mần mống tri giác về sự có mặt và nơi ẩn náu an toàn của chàng, rằng sự tri giác này đã tham dự vào cuộc doid của chúng để mỗi khi bầu trời trở sáng và gió bấc thổi lộng chúng sẽ tìm lại với chàng không hề lầm lãn.

Ngoài ra chàng đê hết tâm trí vào việc cảnh vật nơi chàng đang sống cùng với những sinh vật trong miền. Khônng có nhiều tranh của Rhayader ngoài thị trường. Chàng say sưa giữ lại, chồng chất chúng trong hải đăng, và xếp đống ở những tầng trên có tới hàng trăm bức. Chàng không hài lòng về chúng, vì người nghệ sĩ không mấy khi mãn nguyện về những gì mìh sáng tạo.

Nhưng vài bức đến tay người thưởng ngoạn đều là những kiệt tác, tràn ngập nguồn sáng và mầu sắc từ mặt nước loáng lên, từ những cánh chim bay rung động toa? xuống, từ sự gắng gỏi mãnh liệt của những cánh chim bay ngược luồng gió sớm mai đang thổi rạp những ngọn lau lớn xuống. Chàng diễn tả vẻ cô tịch và bầu khí lạnh đượm vị muối, sự vĩnh cửu, vẻ thiên thu của cánh đồng lầy, những sinh vật hoang dã, những đàn chim bay trong bình minh, hoặc hao?ng hốt vút lên trời và những bóng chim xoải cánh bay trong đêm lẩn trốn ánh trăng.

Vào một buổi chiều tháng một , ba năm sau khi Rhayader đến ở vùng đồng lầy , có một cô bé lại gần phòng vẽ trong hải đăng , qua lối bờ đệ Hai tay cô bé khư khư ôm một gói nặng.

Cô bé chạc mười hai tuổi , mảnh mai, lem luốc , lo lắng và nhút nhát như một con chim, nhưng dưới vẻ lọ lem ấy cô ta đẹp kì lạ như một nàg tiên ở vùng đồng lầy. Cô là giống ngưòi Saxon thuần tuý, to xương , da trắng mịn, với một chiếc đầu còn lớn hơn so với thân hình và đôi mắt thăm thẳm màu tím sẫm. Cô gái vô cùng khiếp sợ ngưòi đàn ông xấu xí mà cô phải đến gặp, vì một huyền thoại về Rhayader đã bắt đầu hình thành, và ngưòi thổ dân ưa săn bắn đâm ra thù ghét chàng vì chàng đã cản trở môn thể thao ưa thích của họ.

Nhưng vượt trê sự sợ hãi ấy là tình cảnh nguy khốn của sinh vật mà em đang ấp ủ trong taỵ Trong trái tim nhỏ bé của em, đã gắn sâu sự hiểu biết nhờ nghe người ta đồn đại quanh vùng, rằng con ngáo ộp sống trong hải đăng có bùa phép chữa lành những con vật bị thương.

Trưóc đó chưa bao giờ cô bé nhìn thấy Rhayader và cô suýt hoảng hốt bỏ chạy trưóc bóng dáng chàng xuất hiện nơi khung của phòng vẽ, khi nghe tiếng chân người lại gần - một sự hiện hình dễ sợ với chiếc đầu bù xù và bộ râu đen, chiếc lưng gù buồn thảm và cánh tay khoè hình móng chim.

Cô bé đứng sứng lại, nhướng mắt nhìn chằm chặp như một con chim nhút nhát dưới đồng lầy dễ dàng cất cánh bay xa.

Nhưng khi chàng lên tiếng giọng chàng thật trầm và thân thiện:

"Có chuyện gì đấy em?"

Cô bé không bớt sợ hãi, rụt rè bước tới. vật mà cô bé ôm trong cánh tay là một con chim lớn màu trắng, con vật nằm bất động. Có những vệt máu trên bộ lông trẵng và trên chiếc áo của cô bé và nơi mảnh vải dùng để lót con chim.

Cô bé dặt con chim vào đôi cánh tay chàng. "thưa ông, em bắt gặp nó, nó bị thương. Nó còn sống, phải không ông? ".

"Đúng. Đúng đấy, tôi cũng nghĩ vậy. Vào đây, vào đây em"

Rhayader mang con chim vào trong nhà đặt nó lên bàn, và con vật yếu đuối cựa mình. Tính tò mò lướt thắng sự sợ hãi. Cô bé vào theo và thấy mình ấm hẳn lên trong căn phòng có ngọn lủa than đốt để sưởi, căn phòng sáng rực lên dưới những búc tranh màu treo la liệt trên tường, và tràn ngập một mùi hương là lạ nhưng dễ chịu.

Con chim vẫy cánh. Với bàn tay lành lặn, Rhayader trải rộng một trong hai chiếc cánh trắng lớn ra . Bầu cánh có chấm đen rất đẹp.

Rhayader trầm trồ ngắm nghía và hỏi : " Này em! Em thấy nó ở đâu đấy?"

"Ở trong đồng lầy ông ạ, nơi những ngưòi thợ săn đi quạ Loại chim gì ông nhỉ?"

"Loại ngỗng trốn tuyết gốc Canadạ Mà tại sao nên nông nỗi này?"

Tên con chim hình như chẳng có ý nghĩ gì với cô gái bé nhỏ . Đôi mắt thăm thẳm màu tím sẫm sáng lên làm hết cả vẻ lem luốc của khuôn mặt gầy đét, chăm chú nhìn con vật bị thương đầy vẻ lo âu.

Cô bé hỏi: " Liệu ông có chữa cho nó được không?"

"Được, đươc chứ", Rhayader đáp. " Chúng ta hãy thử xem sao. Lại đây, em giúp tôi một tay nhé. "

Trên kệ có sắn kéo, băng và nẹp gồ để tháp xương bị gẫy , và mặt dù có tật, chàng khéo tay lạ thường, ngay cả cánh tay khoèo hình móng chim cũng vậy, cầm vật dụng rất tài.

Hết