Phần 1
Dịch theo nguyên bản tiếng Pháp : Selma Lagerlöf : La Chariette Fantôme, Le livre des Légendes, Les liens invisibles, Le monde des Trolls. Librairie académique Perrin. Selma Lagerlöf : Les écus de messire Arne, Nhà xuất bản “Je sers” Paris. LỜI NHÀ XUẤT BẢN Selma Lagerlöf (20/11/1858 – 16/3/1940) là một nhà văn nữ Thụy Điển, từ trẻ đã say mê văn học dân gian vùng Vemoland là quê hương bà., những truyền thuyết cổ, những bài hát dân gian, những trường ca và sử thi mang màu sắc dân giã đã in đậm dấu ấn vào tâm hồn bà gúp bà viết tác phẩm Truyện Cổ Gôxta Becling (1891), đã lập tức chinh phục lòng người đọc. Sau đó bà cho ra tập truyện Những xiềng xích vô hình; Những Bà Hoàng ở Cungahela (1899); Các tiểu thuyết nhà Libiêcron (1911); Sáclô Lôvenxcondơ (1925); chiếc vòng của họ Lôvenxcondơ (1925) v..v… của bà đề cao con người với những giá trị truyền thống, yêu cái đẹp thiên nhiên…Các tiểu thuyết Jêrusalem (1901- 1902); Hoàng Đế Bồ Đào Nha (1914) đã diễn tả sự suy thoái về đạo đức ở nông thôn và muốn tìm kiếm một lối thoát về tinh thần trong sự cách tân tôn giáo và tín ngưỡng. Trong những tác phẩm xuất sắc nhất, bà đã thể hiện được lòng tin ở sức sáng tạo của nhân dân, vào thắng lợi của tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa và dân chủ. S. Lagerlóf cũng thể hiện tình yêu chân thành và sâu sắc của mình đối truyền thống văn hóa dân gian Thụy Điển. Cuốn Cuộc du lịch kỳ diệu của Ninx Hongecxơn trên khắp đất nước Thụy Điển (1906- 1907) là một tác phẩm được các thiếu nhi rất thích. Năm 1918, bà bày tỏ – thông qua tác phẩm Người Tháo Lui – lòng yêu hòa bình, phản kháng những tai họa do cuộc đại chiến lần thứ nhất gây ra cho nhân loại. Những năm cuối đời, bà tích cực tham gia các hoạt động xã hội, chống nguy cơ một cuộc chiến tranh mới, bảo vệ những thành quả của nền văn minh nhân loại. Bà đã được trao giải thưởng Nobel (1919), và được bầu làm Viện sĩ Viện Hàn lâm Thụy Điển. Chiếc xe Thần Chết là tập truyện ngắn gồm những truyện khá đặc trưng cho những truyện ngắn của Lagerlóf. Những truyện này nói lên tinh thần truyền thống, phản ánh những lối sống vụ lợi , tính toán. Chiếc xe Thần Chết mang tính chất những câu chuyện cổ tích. Một trong những thành công lớn của Lagerlóf là bà có khả năng cảm hóa được con người. Về Selma Lagerlóf, Nhà Xuất Bản Văn Học đã giới thiệu khá đầy đủ trong gần một trăm trang ở lần xuất bản cuốn Truyện Cổ Gôxta Becling năm 1974. Nhà Xuất Bản Văn Học CHIẾC XE THẦN CHẾT 1 Một cô gái tội nghiệp của Đội quân cứu tế đang hấp hối. Nàng đã mắc một chứng lao phổi phát triển nhanh và ác liệt, không sao cưỡng được quá một năm. Khi còn đủ sức, nàng vẫn tiếp tục đi thăm kẻ khó và làm tròn nhiệm vụ của mình; nhưng khi sức nàng đã kiệt, người ta đưa nàng vào một viện điều dưỡng. Ở đấy nàng được chăm sóc mấy tháng, nhưng sức khỏe chẳng tăng lên được tí nào,và khi hiểu rằng mình đã hết phương cứu chữa, nàng trở về bên mẹ, bà có riêng một căn nhà nhỏ trong một đường phố ngoại ô. Ở đó, nằm trong một căn buồng hẹp tồi tàn, nơi nàng đã trải qua thời thơ ấu và tuổi thanh xuân, nàng chờ đợi cái chết. Bà mẹ ngồi cạnh giường con, lòng đau thắt, nhưng mải mê với công việc chăm sóc người ốm nên chẳng có thì giờ mà khóc nữa. Một nữ đội viên Cứu tế cùng thuộc lớp đi thăm kẻ khó như người bệnh ngồi lăng lẽ ở chân giường và lặng lẽ khóc. Đôi mắt cô nhìn lên khuôn mặt người hấp hối với một vẻ tận tâm vô hạn và mỗi khi mắt bị mờ đi vì những giọt lệ, cô lại đưa tay lên chùi rồi bỏ xuống ngay. Ngồi trên một chiếc ghế dựa thấp, rất bất tiện, chiếc ghế mà người bệnh vẫn ưa dùng và lần nào dọn nhà cũng đều mang theo, là một phụ nữ cao lớn, cổ áo thêu một chữ S, dấu hiệu của đội viên Cứu tế. Người ta đã mời bà ngồi vào một chỗ tốt hơn, nhưng bà lại muốn ngồi trên chiếc ghế kém tiện nghi này , như thể tỏ lòng trọng vọng người sắp chết. Ngày hôm ấy không giống như tất cả những ngày khác: đó là ngày lễ Xinvecxtrơ. Bầu trời xám và nặng trĩu. Ở trong nhà thì cảm thấy lạnh và tưởng như thời tiết xấu; nhưng ra ngoài trời thì không khí lại ấm áp và êm ả lạ lùng. Mặt đất toàn màu đen và không có tuyết. Chỉ một vài bông tuyết lạc lõng từ từ rơi, vừa chạm đất là đã tan thành nước. Một trận mưa tuyết lớn có vẻ như sắp sửa đến nơi, nhưng vẫn chưa chịu đến. Tưởng như là gió và tuyết thấy như chưa cần hoạt động vào lúc cuối năm này và để giành sức lực cho năm mới đã tới gần lắm rồi. Mọi người hình như cũng tê liệt đi với cùng một ý nghĩ như vậy. Họ không định tâm làm được một việc gì. Đường phố hoàn toàn yên ắng, trong mọi nhà chẳng ai làm việc. Trước mặt căn nhà người sắp chết là một thửa đất người ta đã bắt đầu đóng cọc để xây dựng nhà cửa. Buổi sáng, một vài người thợ đã tới, như thường lệ, họ vừa hát vừa nâng cái máy đóng cọc to tướng lên rồi lại thả xuống. Nhưng họ làm không lâu, và chẳng mấy chốc công trường đã trở lại quạnh quẽ. Mấy người đàn bà đi qua, tay cắp rổ đến chợ, nhưng cảnh ấy cũng chỉ diễn ra trong chốc lát. Người ta đã gọi đám trẻ con chơi ngoài đường phố về để sửa soạn cho buổi lễ tối nay, và chúng không chạy ra nữa. Mấy con ngựa kéo những chiếc xe không, đi đến nhà để xe ở tận cuối ngoại ô để nghỉ một đợt hai mươi bốn tiếng. Trời càng về chiều thì yên tĩnh càng tăng thêm. Mỗi tiếng động tắt đi càng làm cho không khí dịu lại. – Em nó mất trong đêm nay trước ngày lễ như thế này mà lại hay, – bà mẹ nói. – Chẳng mấy chốc sẽ không còn tiếng gì ở bên ngoài có thể khấy động những giây phút cuối cùng của em nó nữa. Người bệnh đã bất tỉnh từ sáng hôm nay, và ba người đàn bà ngồi quanh giường nàng muốn nói gì nàng cũng chẳng có thể nghe thấy được. Tuy vậy họ cũng biết rằng nàng chưa đến tình trạng hôn mê. Nét mặt nàng đã thay đổi nhiều lần trong ngày: nét mặt ấy đã biểu lộ sự ngạc nhiên và lo lắng; khi thì có vẻ cầu khẩn, lát sau lại như bị tra khảo đau đớn. Từ nãy đến giờ, trên gương mặt ấy lại in dấu một sự phẫn nộ mạnh mẽ, sự phẫn nộ ấy dường như làm cho nét mặt nàng cao cả lên và xinh đẹp ra. Nét mặt cô Xơ của kẻ khó này đã thay đổi nhiều đến nỗi cô bạn của nàng ngồi ở chân giường nghiêng người sang bà thành viên của đội Cứu tế kia và thì thầm: – Nhìn kìa đội trưởng! Xơ Êđi trở nên xinh đẹp biết bao! Nom chị ấy như một hoàng hậu. Người phụ nữ ngồi trên cái ghế thấp liền đứng dậy để ngắm kỹ hơn người con gái hấp hối. Chắc hẳn bà chưa bao giờ nhìn cô gái đi thăm kẻ khó mà không thấy nàng có cái vẻ nhẫn nhục vui vẻ mà nàng giữ mãi cho đến phút cuối, mặc dù ốm đau mệt mỏi đến đâu. Bởi thế cho nên sự thay đổi của nàng làm cho bà ngạc nhiên đến nỗi bà không ngồi lại xuống chỗ cũ nữa mà cứ đứng nguyên như vậy. Với một động tác đột ngột gần như là sốt ruột, cô xơ bé nhỏ trường người lên gối, thiếu chút nữa thì đã ngồi hẳn lên giường. một vẻ tôn quý khôn tả làm cho vầng trán của nàng có dáng uy nghi lạ lùng, và đôi môi của nàng mặc dù mím chặt, hình như đang thốt ra những lời chê trách và khinh bỉ. Bà mẹ ngẩng mặt nhìn hai người của đội Cứu tế đang ngạc nhiên: – Những hôm trước nó cũng cứ như thế này – bà nói – Có phải lúc này là giờ nó đi thăm kẻ khó không nhỉ? Người đội viên Cứu tế nhỏ tuổi liếc nhìn chiến đồng hồ nhỏ mệt mỏi của người bệnh đặt ngay cạnh giường: – Phải đấy – cô nói, giờ này là giờ chị ấy vẫn đi thăm những người khốn khổ. Cô ngừng lại và đưa khăn lên lau mắt. Cô vừa định nói tiếp thì tiếng nức nở lại trào lên cổ họng. Bà mẹ đưa hai tay nắm lấy bàn tay bé nhỏ khô cứng của cô con gái và nhẹ nhàng vuốt ve: – Nó vất vả quá khi giúp người ta quét dọn những căn nhà tồi tàn của họ và quở trách họ vì những thói hư tật xấu của họ. – Bà nói, giọng để lộ một niềm oán hận ngấm ngầm. – Khi phải làm một công việc quá nặng nhọc thì đầu oác con người ta không thể dứt ra khỏi những công việc ấy được. Bây giờ nó vẫn tưởng nó đang ở trong nhà của họ đấy. – Đôi khi làm những công việc người ta ưa thích quá thì cũng vậy đấy. – Bà “đội trưởng” dịu dàng nói. Họ nìn thấy người bệnh cau mày lại và một vết nhăn ở giữa hai lông mày hằn xuống mỗi lúc một sâu thêm, trong khi làn môi trên của nàng nhếch lên. – Trông cô ấy như một thiên thần trong buổi phán xét cuối cùng. Bà đội trưởng nói giọng hân hoan ca ngợi. – Hôm nay thì ở nhà Cứu tế có thể xảy ra việc gì nhỉ? – Cô bạn của bà nói và dịch hai người đàn bà ra để đặt bàn tay vuốt ve lên trán người hấp hối. – Xơ Êđi, đừng lo lắng gì cả! – Cô vừa vuốt ve vừa nói: – Xơ Êđi, chị vất vả nhiều vì những người khốn khổ rồi. Những lời này hình như có sức giải thoát cho người bệnh khỏi những ảo tưởng đang ám ảnh nàng. Trên nét mặt nàng sự căng thẳng và phẫn nộ đã biến mất. Vẻ dịu dàng và đau đớn quen thuộc của nàng trong suốt thời gian bị bệnh lại trở lại với nàng. Nàng mở mắt, và khi nhìn thấy người bạn gái đ đang cúi xuống nhìn mình, nàng đặt bàn tay lên cánh tay cô và muốn kéo cô lại. Cô đội viên Cứu tế đoán ra hơn là nắm được ý nghĩa của sự động chạm nhẹ này. Cô hiểu ra lời cầu khẩn thầm lặng trong đôi mắt người ốm và cúi sát xuống môi nàng: – Đavit Hôm – Người hấp hối thì thào nói. Cô đội viên Cứu tế lắc đầu, cô sợ rằng mình đã nghe không rõ. Người ốm cố gắng đến cực độ để diễn đạt ý mình. Nàng nhắc lại, sau mỗi tiếng lại dừng một chút: – Đa…vid…Hôm. Cho người đi tìm Đa…vid…Hôm. Vừa nói nàng vừa nhìn chằm chằm vào mắt bạn, cho đến lúc cô bạn cuối cùng hiểu được ý nàng. Bấy giờ nàng mới buông mình thiêm thiếp; và mấy phút sau nàng đã lại ở rất xa, ở giữa một cảnh tượng tàn khốc nào đó làm cho tâm hồn nàng tràn đầy tức giận và lo âu. Cô bạn của nàng ngồi thẳng dậy. Cô không khóc nữa. Cô đang bị một nỗi xúc động dày vò làm cạn hết những dòng nước mắt. – Chị ấy muốn chúng ta cho người đi tìm Đavit Hôm! Lời yêu cầu của người hấp hối có vẻ thật kinh khủng. Bà đội trưởng cao lớn đãy đà nghe thấy thế cũng choáng váng cả người như bạn gái của nàng. Đavit Hôm à? – Bà kêu lên – Không thể được – Làm sao có thể để Đavit Hôm đến gần một người hấp hối? Bà mẹ người ốm đã theo dõi những thay đổi trên nét mặt con gái bà, khuôn mặt này đã trở lại dáng vẻ vị một quan tòa phẫn nộ. Bà đưa mắt hỏi thăm hai người phụ nữ. – Xơ Êđi muốn cho người đi tìm Đavit Hôm. – Bà đội trưởng đội quân Cứu tế nói, – nhưng chúng tôi không biết có nên làm như vậy không? – Đavit Hôm? Bà mẹ ngơ ngác hỏi – Đavit Hôm là ai? – Đó là một trong những người đã làm cho xơ Êđi rất vất vả, một trong những người mà Chúa đã không để cho xơ tác động đến bằng quyền lực của nàng. Bà mẹ người bệnh đưa mắt cay đắng nhìn cô đội viên trẻ: – Khi con gái tôi còn giữ được một đốm lửa của sự sống thì nó đã thuộc về các người rồi. Bây giờ nó sắp chết, các người phải để nó lại cho tôi. Vấn đề có vẻ như đã được giải quyết. Cô đội viên trẻ lại ngồi xuống chân giường. Bà đội trưởng lại ngồi xuống chiếc ghế nhỏ, bà nhắm mắt và đắm mình trong một bài cầu nguyện lầm rầm. Hai người thoáng nghe được một vài tiếng trong bài cầu nguyện của bà thì hiểu rằng bà đang cầu xin Chúa cho linh hồn của cô xơ trẻ tuổi được yên ổn rời khỏi cõi đời, không phải bận tâm và day dứt vì những nghĩa vụ và những lo âu trên trái đất đau thương gian khổ này nữa. Bà bị dứt khỏi bài cầu nguyện vì cô đội viên trẻ nhẹ nhàng đặt tay lên vai bà. Một lần nữa người ốm lại tỉnh lại. Nhưng lần này nàng không còn cái vẻ dịu dàng và nhẫn nhục như trước nữa. Vầng trán nàng sẫm tối lại phản ánh một cơn giông tố trong lòng. Cô đội viên bé nhỏ lập tức cúi xuống phía nàng, và cô nghe rõ mồn một câu hỏi này của nàng với giọng đầy trách móc: – Xơ Maria, tại sao xơ không cho đi tìm Đavit Hôm? Cô gái hẳn cũng muốn nêu lên vài câu từ chối, nhưng cô đọc được trong mắt người hấp hối một điều gì làm cho cho phải nín lặng. – Tôi sẽ đi tìm anh ấy ngay. Xơ Êđi ạ! – Cô nói. Rồi quay lại phía bà mẹ cô nói như để xin lỗi: – Cháu chưa bao giờ có thể từ chối Xơ Êđi một điều gì, và tối nay cháu không thể bắt đầu làm trái ý chị ấy được. Người bệnh lại nhắm mắt, buông một tiếng thở dài nhẹ nhõm, và cô bạn trẻ của nàng rời khỏi căn phòng nhỏ bé đã trở lại yên tĩnh. Bà đội trưởng vẫn nhiệt thành và âu lo cầu nguyện. Lồng ngực của người bệnh khò khè, và người mẹ nàng xích lại gần giường hơn nữa như thể để che chở cho đứa con tội nghiệp của bà chống lại sự đau đớn và cái chết. Một lát sau, người bệnh nhìn chung quanh mình, cũng với vẻ sốt ruột như ban nãy. Nhưng khi thấy chỗ ngồi của bạn mình bỏ trống, nàng hiểu rằng ý muốn của nàng đã được coi trọng; và vẻ mặt của nàng dịu đi. Nàng không muốn nói gì nữa; nàng cũng không trở lại trạng thái mê man nữa; nàng tỉnh táo ra. Bỗng có tiếng một người nào đó đi vào nhà và bước qua gian phòng ngoài. Người bệnh hầu như nhỏm dậy trên giường. Cô bạn của nàng ló mặt vào cánh cửa hé mở. – Tôi không dám vào ngay trong phòng. – Cô nói – Tôi mang theo nhiều hơi lạnh quá. Đội trưởng Andecxơn, chị ra đây một lát được không? Cô trông thấy ánh mắt đầy vẻ đợi chờ của người bệnh chăm chăm nhìn vào mình. – Tôi không sao gặp được anh ấy. – Cô nói – nhưng tôi đã tìm được Gúttapxơn và mấy đội viên Cứu tế khác, họ đã hứa với tôi sẽ đưa anh ấy đến. Gúttapxơn đã hứa như vậy, và nếu có thể anh ấy sẽ được đưa đến đây. Cô chưa dứt lời thì người bệnh đã lại nhắm mắt và lại thiếp đi giữa những ảo ảnh đã thu hút nàng suốt cả ngày. – Chị ấy nhìn thấy anh ta chắc? – Cô đội viên trẻ thì thầm. Trong giọng nói của cô lộ ra một vẻ gì như là sự bực bội, song cô vội sửa lại ngay. – Lạy Chúa lòng lành vô cùng! Khi Chúa đã muốn như thế, điều đó chẳng bao giờ là một tai họa cả. Cô rón rén đi ra, và bà đội trưởng đi theo cô. Một người đàn bà đang đứng ở phòng ngoài. Chị ta chưa quá ba mươi tuổi. Nhưng da mặt chị xám xịt và nhăn nheo – dường như là bị một bàn tay thô bạo vò cho nhàu nát. Tóc chị thưa và người gầy đét đến nỗi nhiều cụ già còn có vẻ trẻ hơn khi đứng cạnh chị. Hơn nữa, chị ăn mặc rách rưới đến nỗi người ta thật sự ngờ rằng chị cố tình ăn mặc như vậy để đi ăn xin. Bà đội trưởng Đội quân Cứu tế ngắm người đàn bà này và bỗng thấy lòng rộn lên một mối lo sợ. Không phải vì quần áo chị ta rách rưới thảm hại, cũng không phải chị ta già trước tuổi làm cho người ta sợ hãi; chính là vì nét mặt đờ đẫn chết cứng của chị ta. Đó là một con người cũng đi lại, cử động như mọi người khác, nhưng hoàn toàn không hay biết gì cả. Hình như chị đã đau khổ quá nhiều đến nỗi linh hồn chị dừng lại trước một nơi như là một ngã tư đường, có thể trong phút chốc chìm vào điên dại. – Đây là vợ của Đavit Hôm.- Cô xơ trẻ giải thích – Khi tôi đến nhà họ để tìm anh ta thì gặp chị ấy như vậy. Anh ta đi vắng; chị ấy ở nhà một mình và không thể trả lời được những câu hỏi của tôi. Tôi không dám để chị ấy ở lại đấy, thế là tôi đưa chị ấy đến đây. – Vợ của Đavit Hôm! – Bà đội trưởng kêu lên. – Chắc chắn là tôi đã có lần gặp chị ta rồi; nhưng tôi không nhận ra chị ta. Có chuyện gì xảy ra cho chị ấy thế nhỉ? – Chuyện gì xảy ra cho chị ấy à? Tôi tưởng cứ nhìn là biết ngay thôi. – Cô xơ trẻ trả lời với một cử chỉ giận dữ bất lực. – Chồng chị ta đang giết chị ta chết làn chết mòn. Bà đội trưởng vẫn nhìn người đàn bà tội nghiệp. Đôi mắt chị ta trợn trừng; hai con ngươi bất động một cách bướng bỉnh. Những ngón tay chị ta móc xoắn lại với nhau và lâu lâu đôi môi chị ta lại run rẩy một cách yếu ớt. – Lậy Chúa, anh ấy đã làm gì chị ta thế kia? – Bầ đội trưởng hỏi. – Tôi chẳng biết gì cả. Chị ta không thể trả lời tôi được. Khi tôi đến, chị ta cũng run rẩy như thế. Mấy đứa con chị không có nhà, và chẳng có một ai để hỏi thăm cả. Ôi lạy Chúa, lạy Chúa, làm sao mà mọi việc lại xảy ra đúng ngày hôm nay? Làm sao tôi có thể chăm sóc chị ta khi bụng dạ tôi chỉ còn nghĩ đến xơ Êđi thôi? – Có lẽ anh ấy đã đánh chị ta. – Ồ, chắc còn phải tệ hơn thế nữa. Tôi đã nhiều lần thấy những người vợ bị đánh; họ không bao giờ có vẻ mặt như thế này. Không, không, chắc hẳn là có một điều gì trầm trọng hơn thế. Cô nhắc lại với một vẻ khủng khiếp mỗi lúc một tăng thêm. – Chúng ta đã thấy tren vẻ mặt của xơ Êđi một điều gì khủng khiếp đang xảy ra ở đây. – Thật thế! – Bà đội trưởng kêu lên. – Đó chính là điều mà xơ Êđi đã nhìn thấy. Đội ơn Chúa là xơ Êđi đã nhìn thấy được điều đó, và xơ đã đến kịp, xơ Maria ạ! Xin ngợi ca và cảm tạ Chúa! Chắc hẳn rằng Chúa muốn chúng ta cứu chị ấy khỏi bị mất trí. – Nhưng tôi làm gì được cho chị ấy bây giờ? Dắt tay, chị ấy đi theo, nhưng nói thì chị ấy chẳng nghe thấy gì cả. Linh hồn chị ấy đã bay đi mất rồi. Làm sao bắt lại được và trả linh hồn cho chị ấy? Tôi chẳng có quyền lực gì đối với chị ấy cả. Có lẽ chị làm thì kết quả hơn, chị đội trưởng ạ. Người phụ nữ cao lớn đẫy đà nắm lấy bày tay của người phụ nữ tội nghiệp và nói với chị ta bằng một giọng khi thì dịu dàng, khi thì nghiêm khắc, nhưng khuôn mặt khô héo tội nghiệp kia không tỏ ra hiểu được tí gì. Giữa lúc họ đang cố gắng một cách vô hiệu như vậy thì mẹ của người bệnh ló đầu ra cửa. – Êđi trở nên lo lắng. – Bà nói – hai chị vào xem sao? Hai đội viên Cứu tế vội trở vào căn phòng nhỏ. Người ốm vật vã trên giường. Nàng vật vã có lẽ không phải vì đau đớn về thể xác mà là do một nỗi lo lắng về tinh thần. Nhưng vừa nhìn thấy hai người bạn của mình ngồi ở chỗ cũ, nàng lại dịu đi ngay và nhắm mắt lại. Bà đội trưởng khẽ ra hiệu cho bạn mình ở lại bên người ốm, còn bà sắp sửa lẻn ra ngoài. Vừa lúc ấy cánh cửa mở ra và vợ của Đavit Hôm bước vào. Chị ta đi thẳng đến giường và dừng lại, đôi mắt dại đờ, người run rẩy như lúc nãy và những ngón tay khô cứng đan xoắn vào nhau làm cho các khớp xương kêu răn răng rắc. Một lúc lâu chị ta hình như không trông thấy gì, nhưng dần dần đôi mắt chị ta bớt đờ đẫn. Chị ta hơi cúi xuống phía trước và từ từ xích lại gần khuôn mặt Êđi. Bỗng nhiên chị ta có một vẻ đe dọa hung dữ, những ngón tay chị rời ra và uốn cong lại như những cái vuốt. Hai người đội viên Cứu tế chồm dậy, sợ người đàn bà mất trí sẽ vồ lấy người con gái đang hấp hối. Lúc ấy cô xơ bé nhỏ mở mắt ra; trông thấy con người đáng sợ khốn khổ nửa điên nửa dại kia, nàng ngồi nhổm dậy trên giường và đặt hai cánh tay ôm quanh cổ chị. Nàng kéo chị ta về phía mình với tất cả sức lực mà nàng còn có thể có được và hôn lên mặt lên má , lên trán, lên mắt chị ta và thì thào: – Ôi, chị Hôm tội nghiệp! Chị Hôm tội nghiệp! Người đàn bà khốn khổ mới đầu như có vẻ muốn gớ ra khỏi vòng tay của bạn, nhưng đột nhiên người chị ta rung lên. Chị ta òa khóc và sụp quỳ xuống cạnh giường, đầu vẫn ấp vào má người hấp hối. – Chị ta khóc, xơ Maria, chị ta khóc! Bà đội trưởng ngây ngất thầm thì. – Thế là chị ta đã được cứu thoát. Cô đội viên Cứu tế trẻ tuổi nắm chặt chiếc khăn tay đẫm nước mắt và thì thầm, cố gắng một cách tuyệt vọng để giữ cho giọng nói được bình tĩnh: – Chỉ có xơ Êđi mới có thể làm những việc như vậy, đội trưởng ạ! Khi chị ấy không còn nữa thì chúng ta sẽ ra sao? Vừa lúc ấy họ bắt gặp cái nhìn khẩn khoản của bà mẹ. – Vâng, vâng – Bà đội trưởng nói, – chúng tôi sẽ đưa chị ấy đi. Vả chăng không nên để chồng chị ấy gặp chị ấy ở đây…Không, xơ Maria, xơ cứ ở lại với bạn của xơ. – Bà nói tiếp khi thấy cô đội viên Cứu tế trẻ tuổi định ra khỏi phòng. – Tôi sẽ chăm nom người đàn bà tội nghiệp này. 2 Cũng trong buổi chiều cuối năm này, nhưng muộn hơn, lúc đêm đã buông xuống, ba người đàn ông ngồi uống bia và rượu trắng trong cái công viên nhỏ bao quanh ngôi nhà thờ thành phố. Họ ngồi trên một bãi cỏ héo, dưới mấy cây đoạn có cành màu đen lấp lánh ướt. Họ đã qua buổi tối trong một quán rượu nhỏ, và khi quán đóng cửa, họ kéo đến đây ngồi uống rượu ngoài trời. Họ thừa biết đêm nay là đêm lễ thánh Xinvetxtrơ, chính vì thế mà họ đến ngồi ở công viên nhà thờ. Họ muốn gần cái đồng hồ, nghe mười hai tiếng chuông nửa đêm và chạm cốc mừng năm mới. Chỗ họ ngồi không tối, những bóng đèn điện hình cầu mắc cao ở những đường phố gần đấy chiếu ánh sáng xuống công viên. Hai người trong số họ đã có tuổi và tàn tạ, hai kẻ lang thang già dày dạn mò vào thành phố trong những ngày lễ này, đem những đồng xu thảm hại đi ăn xin góp nhặt được để mua rượu uống. Người thứ ba là một người đàn ông trạc ngoài ba mươi tuổi. Anh ta cũng ăn mặc thảm hại như hai người kia, nhưng vóc người cao lớn và có thân hình đẹp. Cuộc sống hình như chưa đánh gục được sức lực của anh ta. Họ sợ cảnh sát phát hiện và xua đuổi nen ngồi sát lại với nhau và nói chuyện thì thào. Người trẻ tuổi hơn đang nói, hai người kia chăm chú nghe đến nỗi có lúc quên cả uống rượu. – Phải, trước kia tôi có một thằng bạn nối khố, – anh ta nói, giọng trầm xuống, gần như bí hiểm, một tia sáng hóm hỉnh lóe lên trong đôi mắt, – và cứ đến ngày cuối năm là thằng bạn nối khố ấy của tôi trở nên khác hẳn. Không phải là hắn bận tính toán tiền nong gì, hoặc phải kêu ca phàn nàn gì về việc lỗ lãi trong năm. Không, hắn nghe người ta nói rằng có một điều gì nguy hiểm và hung dữ có thể xảy đến với hắn trong ngày hôm ấy. Tôi quả quyết với các anh rằng hắn lầm lì và lo lắng suốt cả ngày và ngay đến cốc rượu cũng không dám ngó đến. Thường thường hắn không phải là người rầu rĩ, nhưng đến đêm lễ thánh Xinvetxtrơ thì không thể nào lôi hắn đến một cuộc vui nhỏ như thế này, cúng như các bạn không thể nào chạm cốc với quan Thống đốc vậy!.. “Các anh muốn hỏi rằng hắn sợ cái gì ư? Hắn không đi rêu rao điều ấy cho mọi người biết; nhưng có một lần hắn đã thổ lộ với tôi. Nhưng có lẽ các anh chẳng thích nghe câu chuyện này vào đêm nay đâu nhỉ? Ở trong cái công viên nhà thờ người ta thấy có phần không được thoải mái, ở nơi này chắc chắn ngày xưa là một cái nghĩa địa, các anh có thấy thế không?” Hai kẻ lang thang liền cam đoan rằng họ chẳng sợ ma, nên bạn của họ nói tiếp: – Bố mẹ hắn nhà giàu. Hắn đã theo học một thời gian ở đại học Upxan, cho nên hắn hiểu biết hơn chúng ta nhiều, và các anh hãy tưởng tượng rằng hắn ở yên như vậy trong ngày cuối năm là chỉ vì hắn sợ bị lôi kéo vào một cuộc ẩu đả hay bị một tai nạn gì đó làm cho hắn có thể mất mạng. Hắn chỉ sợ phải chết vào ngày hôm đó, vì hắn tin rằng nếu bị chết vào ngày hôm đó thì sẽ bị buộc phải đi đánh xe bò cho Thần Chết.. – Đánh xe bò cho Thần Chết? – Hai kẻ lang thang đồng thanh nhắc lại với một giọng dò hỏi. Gã đàn ông cao lớn thích thú gợi trí tò mò của họ bằng cách lên giọng trịnh trọng hỏi họ rằng, dù thế nào đi chăng nữa họ có nhất quyết nghe chuyện này ở chỗ họ đang ngồi hiện nay hay không? Nhưng hai người kia cứ thúc anh ta tiếp tục kể. – Vậy thì thằng bạn của tôi cho rằng có một cái xe bò cũ kỹ, kiểu như xe nông dân dùng để chở thực phẩm đi chợ, nhưng mà cũ kỹ hư nát đến nỗi cái xe ấy chẳng bao giờ dám ló mặt ra trên những con đường lớn. Cái xe ấy lấm bê bết bùn và bụi bặm, đến nỗi người ta không còn biết được nó làm bằng gì. Một chiếc trục đã gãy, còn vành bánh xe thì lúc la lúc lắc; những bánh xe này không bao giờ được tra dầu mỡ nên kêu cót két đến kinh người. Thùng xe đã mục, đệm ghế rách toác. Một con ngựa già chột, chân đi khập khiễng, bờm và đuôi đã lốm đốm bạc, kéo lê cái xe tàng này. Lưng nó gãy đến nỗi xương sống nó nhô lên như một cái lưỡi cưa; xương sườn thì có thể đếm được từng chiếc. Bốn vó đã bị cứng khớp đến một nửa. Nó lười nhác, mang bộ yên cũ kỹ bạc phếch vá víu bằng những sợi dây và cành liễu. Không còn một thứ trang trí bằng bạc nào cả, chỉ có những túp len lơ thơ bẩn thỉu, và những dây cương thì thắt nút và khâu nối nhiều chỗ, rất tương xứng với bộ yên. Anh ta dừng lại và với tay nắm lấy chai rượu để cho những người nghe chuyện của mình có đủ thời giờ hiểu được. – Có lẽ các anh không thấy như vậy là tuyệt diệu, – anh ta nói tiếp – nhưng lại còn người đánh xe nữa. Lão ta ngồi còng lưng và ủ rũ trên cái ghế nát. Môi lão tím đen, mặt tái mét, mắt lờ đờ như những chiếc gương đã mờ hết nước thủy. Lão khoác một chiếc áo choàng không có tay, rộng, màu đen, với một cái mũ trùm đầu kéo đến tận mắt, và lão cầm trong tay một chiếc hái cán dài, gỉ và cùn. Bởi vì các anh biết không, con người ấy không phải là người đánh xe bình thường, lão ta phục dịch một vị chúa tể lớn nghiêm khắc mệnh danh là Thần Chết. Ngày đêm lão đi khắp nơi để làm nhiệm vụ. Có người nào sắp chết là lão đến ngay trên chiếc xe bò cọt kẹt của lão, con vật khập khiễng khốn khổ của lão chạy nhanh được bao nhiêu lão đến nhanh được bấy nhiêu. Người kể chuyện dừng lại và nhìn mặt hai kẻ lang thang. Họ nghe rất chăm chú, và anh ta kể tiếp: – Các anh chắc đã thấy những bức tranh vẽ Thần Chết, bao giờ cũng thấy Thần Chết đi bộ. Cho nên người đánh xe bò mà tôi nói đây không phải chính Thần Chết, mà chỉ là đầy tớ của Thần Chết mà thôi. Các anh hiểu rằng một nhân vật lớn như vậy chỉ thèm thu hoạch một vụ mùa tốt đẹp nhất, còn người đánh xe bò chỉ được giao cho nhặt nhạnh những cọng cỏ thảm hại và những cây thuốc mọc ở mép hố. Nhưng đây mới là điều ly kỳ nhất trong tất cả câu chuyện này: ít ra thì cũng hình như là, mặc dù xe cộ ngựa nghẽo tồi tàn thì vẫn là một trong những người đánh xe bò không phải bao giờ cũng là người đó. Người chết cuối cùng trong năm người trút linh hồn đúng vào lúc chuông đồng hồ đánh mười hai tiếng nửa đêm, đó là người được số phận định sẵn phải làm người đánh xe cho Thần Chết. Thể xã người ấy sẽ được chôn cất như tất cả những người chết khác; nhưng linh hồn y sẽ bị buộc phải đội chiếc mũ trùm đầu và phải cầm cái hái để đi từ nhà người chết này đến nhà người chết nọ trong suốt cả năm cho đến khi một người khác đến thay phiên cho y vào ngày lễ thánh Xinvetxtrơ. Người kể chuyện dừng lại và đưa mắt hìn hai người đàn ông bé nhỏ với một cái nhìn đợi chờ hóm hỉnh. Anh ta nhận thấy họ ngửa cổ ra đàng sau để cố nhìn, nhưng chẳng nhìn thấy đồng hồ chỉ mấy giờ. – Chuông đồng hồ vừa điểm mười một giờ ba khắc, – anh ta nói tiếp – như vậy là thời điểm nguy hiểm chưa đến. Chưa có nguy cơ gì đâu. Nhưng bây giờ các anh hiểu thằng bạn tôi sợ cái gì rồi chứ? Hắn sợ phải chết vào đúng lúc giao thừa và trở thành người đánh xe bò cho Thần Chết. Tôi cho rằng suốt cả ngày hắn cứ tưởng tượng như nghe thấy tiếng xe bò kêu cót két chạy lộc cộc trên những phiến đá lát đường. Và các anh có biết không, hắn hình như đã chết năm ngoái đúng vào buổi tối, ngày lễ thánh Xinvetxtrơ. – Và đúng vào lúc nửa đêm à? – Tôi chỉ biết hắn chết vào buổi tối, còn giờ nào thì không rõ. Vả lại tôi cũng có thể đoán trước c cho hắn biết rằng hắn sẽ chết đúng ngày hôm ấy, vì hắn cứ luôn bị điều đó ám ảnh. Nếu các anh cũng bị một ý nghĩ như vậy len vào tâm trí, các anh cũng rất có thể sẽ đi tong. Hai người đàn ông rách rưới mỗi người nắm lấy một cổ chai, tu một ngụm mạnh ra trò làm cho họ thêm mạnh bạo. Uống xong, chậm chạp và lảo đảo, họ bắt đầu đứng dậy. – Thế nào, các anh định bỏ rơi tôi trước giờ giao thừa và không chạm cốc với nhau à? – Người kể chuyện kêu lên và bắt đầu hối vì hậu quả của câu chuyện mình vừa kể – cái chuyện ba lăng nhăng cũ rích này mà các anh cũng cho là quan trọng đến thế ư? Thằng bạn tôi vừa nói chuyện với các anh ấy hắn có phần nhu nhược, các anh thấy đấy, hắn không như chúng mình đây, gốc gác Thụy Điển kỳ cựu. Thôi nào, làm thêm một ngụm nữa! Ngồi xuống đi chứ? – May làm sao mà họ để chúng mình yên. – Anh ta nói tiếp khi họ đã lại ngồi xuống đất, – đây là nơi đầu tiên tôi được yên ổn trong ngày hôm nay. Còn ở khắp các nơi khác, nơi nào tôi cũng bị các cô đội viên Cứu tế quấy nhiễu, họ muốn đưa tôi đến gặp một người trong bọn họ là xơ Êđi đang hấp hối. Tôi đã từ chối. Tôi chẳng thiết gì nghe những lời thuyết giáo và cái giọng sùng đạo ỏn ẻn của họ; chắc chắn là chẳng có ai tự nguyện đến với họ đâu. Hai người đàn ông bé nhỏ, mặc dù đầu óc đã rối tinh sau những cốc rượu đầy tràn, vẫn giật mình khi nghe nói đến tên xơ Êđi. Họ hỏi đó có phải là người chủ trì ở trung tâm cứu tế hay không? – Phải, phải. – Người trẻ tuổi trả lời. Mùa đông này tôi đã vinh dự được cô ấy đặc biệt chú ý. Tôi hy vọng cô ấy không phải trong số những người bạn thân thiết của hai anh, và cái tang cô ấy đối với các anh sẽ không quá đau đớn. Chắc hẳn trong trái tim của hai người già lang thang này còn giữ lại kỷ niệm của xơ Êđi vì cả hai cùng đồng thanh tuyên bố một cách cương quyết rằng nếu xơ Êđi đã gọi người nào thì người ấy phải đến để cho cô ta gặp. – Các anh nghĩ như vậy à? – Người bạn thứ ba đáp lại. – Tôi sẽ đến nếu các anh nói cho tôi biết xơ Êđi gặp tôi thì sẽ được li lộc gì? Hai kẻ lang thang chẳng người nào thử tìm cách trả lời câu hỏi này. Họ chỉ tiếp tục thúc dục anh kia phải đi, và thấy anh này cứ từ chối mãi lại còn chế diễu họ, họ bèn nổi cáu đến mức dọa sẽ nện anh ta nếu anh ta không vui lòng đi gặp xơ Êđi. Họ lại còn đứng lên, xắn tay áo, trong tư thế sẵn sàng thực hiện lời đe dọa của mình. Đối thủ của họ tin chắc mình là kẻ cao lớn nhất và khỏe mạnh nhất trong thành phố này lấy làm thương hại cho hai kẻ thân tàn ma dại đáng thương kia. – Nếu nhất thiết phải đánh nhau, – anh ta nói, – thì tôi sẵn sàng. Nhưng tôi nghĩ rằng chúng ta có thể cố gắng thỏa thuận với nhau được, nhất là vì việc này lại quan hệ đến cái chuyện tôi vừa kể với các anh lúc nãy. Hai người say rượu có lẽ không còn hiểu tại sao họ lại nổi giận, nhưng cái máu thích ẩu đả của họ đã bị kích thích, và họ xông vào đấm đá anh ta. Anh này tự tin ở ưu thế của mình đến nỗi cứ ngồi không thèm đứng dậy. Anh ta chỉ đưa tay gạt họ ra và xô họ ngã sang bên phải và bên trái như hai con chó con. Nhưng cũng như những con chó con, họ lại xông vào tấn công, và một trong hai người đã tống được một cú khá mạnh vào giữa ngực anh chàng cao lớn. Lát sau, người trẻ tuổi cảm thấy có cái gì nong nóng dâng lên cổ họng và trào ra đầy mồm. Vì anh ta biết một lá phổi của mình đã bị tổn thương một nửa nên hiểu rằng mình bị thổ huyết. Anh ta thôi không chống cự nữa và nằm vật xuống đất, trong khi máu ồng ộc phun ra khỏi mồm. Điều đó đã là rất trầm trọng rồi, nhưng cái làm cho tai họa hầu như không thể nào cứu chữa được, đó là hai kẻ lang thang kia, khi cảm thấy có một tia máu nóng bắn vào tay mình, và thấy đối thủ nằm sóng soài dưới đất, tưởng rằng họ đã giết chết anh ta, ben bỏ chạy. Một lát sau, cơn thổ huyết ngừng lại, thật thế, nhưng anh ta chỉ hơi cố sức để đứng dậy thì máu lại ộc ra. Đêm nay không rét lắm; nhưng nằm sóng soài trên đất, người đàn ông cảm thấy hơi lạnh thấm vào người. Anh ta hiểu nếu không có ai đến cứu thì mình đi đứt. Cái công viên này gần như là ở trung tâm thành phố, và đêm nay là lễ thánh Xinvetxtrơ, ngoài đường có nhiều người đi lại, nên anh ta nghe thấy tiếng người đi trên con phố xung quanh nhà thờ, nhưng không ai đi vào khu vườn này cả. Thật là đau xót khi nghe được tiếng chân và giọng nói của họ, mà lại có lẽ sẽ chết ngay bên cạnh họ. Anh ta chờ một lúc nữa, nhưng bị hơi lạnh đâm buốt vào người và không đủ sức đứng lên được, anh ta quyết định lên tiếng kêu cứu. Lại một lần nữa không may cho anh ta, vì đúng lúc anh ta cất tiếng kêu thì đồng hồ trên tháp chuông bắt đầu đáng mười hai tiếng. Tiếng kêu tội nghiệp của con người bị chìm vào làn sóng âm thanh của chiếc chuông đồng, và chẳng có ai nghe thấy được. Vì gắng sức, cơn thổ huyết lại tiếp tục, mạnh đến mức anh ta sợ sẽ mất hết máu. “Ta sẽ chết đúng vào lúc chuông điểm giao thừa sao?” – Anh ta tự bảo, và cùng lúc đó anh ta cảm thấy mình lịm đi. Khi tiếng chuông cuối cùng vang lên báo hiệu năm mới bắt đầu, anh ta chìm vào bóng tối đen ngòm và không còn hay biết gì nữa. 3 Đồng hồ vừa điểm tiếng cuối cùng xong, một tiếng cọt kẹt lạc điệu và chói tai xuyên qua không khí. Tiếng cọt kẹt vang lên cách quãng như là phát ra từ một chiếc bánh xe khô dầu, nhưng đó là một tiếng kêu xé tai và khó chịu đến nỗi một chiếc xe tồi tàn nhất cũng không thể phát ra tiếng kêu như vậy. Tiếng kêu ấy gây nên sự lo âu. Nó làm thức dậy như một mối linh cảm về tất cả những nỗi khổ ải và đau đớn mà người ta có thể tưởng tượng được. Cũng may mà phần đông những người thức đón giao thừa không nghe được tiếng cọt kẹt ấy. Đavit Hôm, sau cơn thổ huyết dữ dội, dãy dụa và thử cố tỉnh lại. Anh ta nghe thấy hình như có một cái gì đánh thức anh ta, giống như tiếng kêu xé tai của một con chim bay qua đầu, nhưng anh ta bị giữ chặt trong cơn tê cóng không thể nào dứt ra được. Chẳng bao lâu, anh ta biết chắc rằng không phải là tiếng chim kêu: đó là chiếc xe bò cũ kỹ của Thần Chết mà anh ta đã kể chuyện cho hai kẻ lang thang nghe, chiếc xe đang đến gần và đang đi qua công viên nhà thờ, kêu cọt kẹt và rên rỉ. Nhưng mặc dù đang nửa tỉnh nửa mê, anh ta cũng gạt bỏ cái ý nghĩ về chiếc xe của Thần Chết. Chẳng qua là vì lúc nãy anh ta nghĩ đến nó nhiều quá nên bây giờ tưởng tượng thấy tiếng kêu của nó đấy thôi. Anh ta lịm đi, và tiếng cót két bướng bỉnh lại vang lên xé không khí. Đúng là tiếng một chiếc xe. Không phải điều tưởng tượng mà chính là sự thực. Thế là anh ta lại muốn thoát ra khỏi tình trạng tê cóng. Trước hết anh ta nhận thấy mình vẫn nằm nguyên ở chỗ cũ và không có ai đến cứu. Tất cảvẫn như cũ, chỉ có thêm tiếng kêu cót két chói tai, lặp đi lặp lại. Tiếng kêu có vẻ phát từ xa, nhưng nó mạnh xé tai đến nỗi anh ta không còn nghi ngờ gì là nó đã đánh thức anh ta dậy. Anh ta tự hỏi không biết mình ngất đi đã lâu chưa; chắc là không lâu. Những người đi qua gần đấy đang gọi nhau và chúc nhau năm mới, do đó anh ta kết luận rằng giao thừa chỉ vừa mới điểm mà thôi. Tiếng cọt kẹt vẫn cứ vang lên; và vì Đavit Hôm vốn ghét những tiếng kêu chói tai, nên anh ta rất muốn đứng dậy để đi ra khỏi chỗ này. Anh ta sẽ thử xem sao. Bây giờ anh ta đã thức dậy rồi, thì không thể nói trong phổi anh ta đang có một vết thương rộng hoác. Anh ta còn không thấy rét vì hơi lạnh ban đêm, và anh ta có cảm giác về cơ thể anh ta y như chúng ta có cảm giác về cơ thể của mình khi khỏe mạnh. Anh ta vẫn nằm nghiêng như lúc anh ta nằm vật xuống khi bắt đầu thổ huyết; anh ta định nằm ngữa ra để xem cơ thể bị đau ê ẩm của mình có thể chịu đựng được như thế nào. “Trước hết, ta sẽ chống cùi tay để ngồi dậy thật nhẹ nhàng. – anh ta nghĩ, – rồi ta sẽ lật người và sẽ lại nằm xuống.”. Mỗi khi ta nghĩ rằng ta sẽ làm việc này việc nọ, thường thường ta thấy việc ấy thực hiện ngay. Những lần này thì một điều kỳ lạ xảy ra: cơ thể anh ta vẫn bất động và không chịu làm những động tác mà anh ta ra lệnh. Hay là vì đã nằm yên một chỗ quá lâu nên cơ thể anh ta bị lạnh cứng? Nhưng nếu như vậy anh ta đã chết rồi. Mà anh ta thì đang sống, vì anh ta nghe được và thấy được. Vả lại thời tiết lúc này không phải là lúc băng giá: những gịot nước trên cây vẫn rơi xuống đầu anh ta. Anh ta quá bận tâm đến sự tê liệt lạ lùng này của cơ thể, nên trong một lúc anh ta quên bẵng mất tiếng cọt kẹt gớm ghiếc kia, nhưng bây giờ anh ta lại nghe thấy nó. Nó đang đến gần. Nghe rõ tiếng cỗ xe đang từ từ đi xuống Phố Lớn. Và chắc chắc đó là chiếc xe cà khổ cũ kỹ thảm hại, vì không những người ta nghe thấy tiếng bánh xe cọt kẹt, tiếng thùng gỗ răng rắc, mà còn nghe thấy tiếng con ngựa đi một bước lại trượt và vấp trên đường phố trơn nhầy. Chắc hẳn chiếc xe bò của Thần Chết mà người bạn cũ của anh ta vô cùng kinh sợ cũng k không thể gây nên nhiều tiếng ồn ào hơn thế. “Này, cái lão Đavit Hôm – anh ta tự bảo, – nói chung mày chẳng ưa gì cảnh sát, nhưng nếu lần này cảnh sát vui lòng can thiệp để chấm dứt cái tiếng inh ỏi này đi, ta sẽ biết ơn họ đấy”. Đavit Hôm vẫn thường tự khoe mình là người vui tính, nhưng cái tiếng cọt kẹt này, cộng thêm tất cả những gì đã xảy với anh ta vào đêm nay, làm cho anh ta bực bội cáu kỉnh. Anh ta mơ hồ cảm thấy lo sợ bị người ta tìm thấy ở trong tình trạng như thế này, tê liệt như một người chết, và biết đâu? Sẽ bị đem đem khâm liệm và đem chôn. “Ta sẽ nghe thấy tất cả những gì người ta nói xung quanh thi hài ta, và đó có lẽ là những điều cũng khó nghe như tiếng cọt kẹt này.” Điều đó làm anh ta nghĩ đến xơ Êđi, không phải với ý hối hận, mà với một sự bực bội mơ hồ, như thể là bằng một cách nào đó, cô ta đã thắng được anh. Bỗng nhiên anh ta ngừng lại và chăm chú lắng nghe một lúc lâu. Đúng rồi! Cỗ xe đã đi xuống tận cuối Phố Lớn, nhưng không rẽ ra quảng trường. Con ngựa không còn lọc cọc trên những phiến đá lát đường gồ ghề nữa, mà đang dẫm lên một lối đi rải cát. Nó đến từ phía nhà thờ. Nó đã đi vào công viên. Sung sướng vì sắp được cứu giúp, anh ta lại cố sức một lần nữa để nhỏm dậy. Nhưng kết quả vẫn như cũ, chỉ có ý nghĩ của anh ta hoạt động mà thôi. Ngược lại anh ta nghe thấy rất rõ tiếng cỗ xe cũ kỹ lại gần. Khung xe kêu răng rắc, trục xe cọt kẹt; cái xe cà khổ thảm hại kia liệu có đến được tận chỗ anh ta nằm không? Chiếc xe tiến lại cực kỳ chậm chạp, làm cho nỗi sốt ruột của con người khốn khổ càng tăng thêm. Mà nó là xe gì mà đang nửa đêm lại đi vào công viên nhà thờ? Người đánh xe đi vào con đường này hẳn phải say rượu, có lẽ say bí tỉ nên khó mà cứu giúp được ai. Bây giờ chắc là chiếc xe đã đến ngay bên cạnh anh ta. Tiếng cọt kẹt kinh khủng làm cho Đavit Hôm xúc động và nản lòng. “Tối nay mình thật xúi quẩy, – anh ta tự bảo, – bây giờ lại sắp thêm một tai họa mới: đây chắc phải là một chiếc xe bò rất nặng hay là một chiếc xe lu nó sắp cán bẹp mình.” Lát sau, cuối cùng Đavit Hôm nhìn thấy chiếc xe xiết bao mong đợi này, và mặc dù nó chẳng phải là chiếc xe lu cán đường, anh ta cũng sợ nhũn người ra. Vì anh ta không thể đảo được đôi mắt cũng như không thể cử động được các phần còn lại của cơ thể, nên anh ta chỉ nhìn thấy những gì ở ngay trước mặt mình mà thôi. Chiếc xe cọt kẹt từ phía bên cạnh đi đến, dần dần hiện ra. Trước hết là cái đầu của một con ngựa già với lông bờm màu trắng, mù hoặc chột, quay về phía anh ta một con mắt lờ đờ; rồi đến thân trước của nó với bộ yên vá víu bằng những sợi dây thừng; rồi đến cả người con vật gầy xơ; cuối cùng là một chiếc xe bò cũ kỹ hư nát với đôi bánh xe lỏng lẻo, với chiếc ghế dài lắc la lắc lư. Người đánh xe ngồi trên ghế dài. Bộ dạng của y hoàn toàn giống như hình ảnh mà Đavit Hôm đã tả cho các bạn anh nghe lúc nãy. Hai sợi dây cương y nắm ở tay toàn là những nút thừng thắt lại. Y đã kéo sụp cái mũ trùm đầu xuống tận mắt; lưng y còng còng, như thể bị một sự mệt mỏi thường xuyên đè nặng lên. Khi Đavit Hôm bị ngất đi sau cơn thổ huyết dữ dội, anh ta thấy hình như linh hồn mình đã lìa bỏ mình như một ngọn lửa bị thổi tắt. Bây giờ thì không như vậy nữa. vì bây giờ anh ta thấy hình như linh hồn mình đang bị lắc, bị khuất, bị vặn xoắn lại. Tất cả những gì xảy trước khi chiếc xe đi đến, lẽ ra phải chuẩn bị cho anh ta chứng kiến một chuyện gì phi thường, nhưng anh ta không muốn cho tâm trí mình bị bận bịu về chuyện đó. Và giờ đây khi anh ta thấy trước mắt mình những cảnh hiện ra từ một chuyện cổ tích quái dị, anh ta sửng sốt cả người. “Cái này sẽ làm cho ta phát điên lên mất – giữa cơn thác loạn, anh ta tự bảo mình như vậy, – không những thể xác của ta sẽ bị nguy, mà cả lý trí của ta cũng thế.” Vừa lúc ấy anh ta nhìn thấy mặt người đánh xe bò, và cảm thấy mình được cứu thoát! Con ngựa đã dừng lại, và người đánh xe nhổm lên như thức dậy từ một giấc mơ. Y hất ngược cái mũ trùm đầu lên với một cử chỉ vô cùng mệt mỏi và đưa mắt nhìn xung quanh như tìm kiếm một vật gì. Đavit Hôm bắt gặp cái nhìn của y và nhận ra người bạn cũ: – Giorgiơ đấy à! – Anh ta thầm kêu lên. – Hắn ăn mặc lôi thôi kỳ cục, nhưng đúng là hắn thật. Lâu nay hắn ở nơi quái nào ấy nhỉ? Có lẽ ít nhất đến một năm nay mình không gặp hắn. Nhưng Giorgiơ là một người rảnh rang, không vợ không con. Hắn có vẻ như từ xa đến, có lẽ ở tận Bắc cực về. Nom người hắn nhợt nhạt và giá cóng. Anh ta chăm chú nhìn người đánh xe bò vì có một vẻ gì xa lạ trên mặt y. Nhưng đó chỉ có thể là người bạn nối khố cũ Giorgiơ, bạn rượu của anh ta. Anh ta nhận ra cái đầu to ấy với cái mũi khoằm khoằm, hàng ria đen to tướng và bộ râu cằm nhọn hoắt. Một con người có cái đầu như vậy, cái đầu mà bất cứ một viên đội nào, nếu không nói là bất cứ một ông tướng nào cũng lấy làm tự hào, một con người như vậy mà tưởng rằng người ta không nhận ra mình dù ăn mặc bất cứ như thế nào, thì thật là lầm to. – Thế nhưng mình đã nghe người ta kể, – Đavit Hôm tiếp tục độc thoại, – rằng Giorgiơ đã chết trong một nhà thương ở Xtôckhôm năm ngoái, đúng vào ngày cuốn năm. Chắc chắn đó là một sự nhầm lẫn, vì chính hắn đang ở đây, bằng xương bằng thịt. Chỉ cần thầy hắn nhổm dậy là biết ngay! Đích thị là Giorgiơ với cái thân hình thảm hại không tương xứng chút nào với cái đầu hạ sĩ của hắn. Và lúc hắn từ trên xe bò nhảy xuống, và cái áo choàng của hắn hé mở ra, thì mình nhìn thấy rõ hắn vẫn mặc chiếc áo đuôi tôm rách mướp dài đến tận gối. Cái tay Giorgiơ tội nghiệp này áo cài khuy lên tận cổ như mọi khi, chiếc cà vạt đỏ dài lồng phồng dưới cằm, và chẳng có gilê, cũng chẳng có áo lót, y hệt như ngày xưa vậy. Đavit Hôm cảm thấy phấn chấn hẳn lên. – Tớ mà khỏe lại, – anh ta tiếp tục nói một mình, – tớ sẽ cho lão Giorgiơ biết tayvì cái tội trêu tớ như thế này. Suýt nữa hắn làm tớ phát hoảng vì cái kiểu ăn mặc lố lăng của hắn. Chỉ có Giorgiơ mới nảy ra ý nghĩ “sắm” một chiếc xe bò và một con ngựa như vậy để đến tìm tớ như thế này. Tớ thì chẳng bao giờ bày ra được một trò như vậy. Bao giờ Giorgiơ cũng là bậc thày của tớ về mọi mặt. Trong lúc ấy, người đánh xe bò đã đến gần người đàn ông nằm sóng soài dưới đất. Y dừng lại và ngắm người này. Vẻ mặt của y nghiêm khắc và bất động. Chắc y không nhận ra người nằm trước mặt y. – Có một điều mà tớ không thể nào hiểu được trong chuyện này. – Đavit Hôm tiếp tục. – Trước hết là làm sao mà hắn lại biết được rằng hai lão bạn kia đã cùng với tớ ngồi trên đám cỏ này? Rồi thì, mặc dù là với mục đích đến đây dọa cho chúng tớ một mẻ, làm sao hắn lại dám cải trang thành Người đánh xe bò cho Thần Chết, điều mà hắn rất đỗi kinh sợ? Người đánh xe bò cúi xuống Đavit Hôm mà vẫn có vẻ như chưa nhận ra anh ta. “Kẻ khốn khổ này sẽ chẳng mấy vui lòng khi biết rằng hắn sắp phải thay phiên cho ta”. Y thầm thì. Chống tay lên cái hái, y đưa sát hơn nữa mặt mình vào người nằm dưới đất, và bỗng nhận ra anh ta. Thế là y cúi sát vào anh ta, hất mạnh cái mũ trùm đầu lên và nhìn vào tận đáy mắt người bạn cũ của mình. – Ồ! – Y kinh hoàng kêu lên. – Đây là Đavit Hôm! Thế mà trước đây ta chỉ có một lời cầu nguyện: đó là chuyện này đừng xảy đến cho ta. – Đavit, Đavit, có thể nào lại là cậu đấy ư? – Y vừa nói vừa ném cái hái xuống đất và quỳ bên cạnh Đavit. – Trong suốt cả năm nay, – y nói tiếp với một giọng đau đớn và yêu thương, – tớ cứ mong mỏi có cơ hội nói với cậu một câu, chỉ một câu thôi, trước khi quá muộn. Có một lần, tớ đã suýt gặp cái cơ hội ấy, nhưng cậu đã chẳng muốn cho tớ được gặp, nên tớ đã không thể đến với cậu được. Tớ đã hy vọng đạt được điều đó trong một giờ nữa khi tớ đã hết hạn phục vụ và được rảnh rang. Nhưng mà cậu đã ở đây rồi, Đavit ạ. Tớ không kịp báo cho cậu biết mà đề phòng nữa. Đavit Hôm rất đỗi ngạc nhiên nghe những lời này. “Thế nghĩa là thế nào?” – Anh ta tự hỏi. – Giorgiơ nói như là hắn đã chết. Và hắn đã ở gần mình lúc nào mà lại không đến được với mình nhỉ? Nhưng chắc là hắn nói vậy cho thích hợp với cái điệu cải trang của hắn đấy thôi.” – Tớ biết, Đavit ạ, – người đánh xe bò nói tiếp với một giọng run run xúc động, – rằng do tớ mà cậu đến nỗi như thế này. Nếu cậu không gặp tớ, có lẽ cậu đã sống một cuộc đời yên ổn và lương thiện. Vợ chồng cậu có lẽ đã sung túc, vì cả hai người đều chịu khó làm ăn. Cậu có thể tin chắc rằng, Đavit ạ, trong suốt cả cái năm dài dằng dặc này, không có một ngày nào trôi qua mà tớ không lo lắng tự bảo rằng chính tớ đã làm cho cậu rời bỏ cuộc sống cần cù của cậu và nhiễm lấy những thói hư tật xấu này. Than ôi! – Y thở dài và vuốt tay lên mặt bạn, – tớ rất sợ rằng cậu đã lầm lạc nhiều hơn cả tớ có thể ngờ được! Nếu không như vậy thì sao tớ lại có thể nhìn thấy xung quanh mắt và miệng cậu nhữn những dấu vết kinh khủng và khắc sâu như thế này. Tâm trạng của Đavit Hôm bắt đầu chuyển thành sốt ruột. – Thôi đừng đùa nữa, Giorgiơ! – Anh ta nghĩ bụng mà vẫn không thể thốt lên được một lời nào. – Tốt hơn là cậu hãy đi tìm một người nào đó để giúp cậu khiêng tớ lên chiếc xe bò của cậu! Rồi thì đi đến nhà thương! – Chắc cậu đã hiểu, Đavit ạ, là năm nay tớ đã làm nghề gì, – người đánh xe bò nói tiếp. – Tớ không cần phải nói thì cậu cũng biết là ai sẽ thay thế tớ cầm lấy cái hái này và nắm lấy giây cương này. Nhưng trong mười hai tháng khủng khiếp đang chờ đợi cậu đây, cậu chớ bao giờ tự bảo rằng việc gặp cậu đêm nay là do ý muốn của tớ! Cậu hãy tin chắc rằng nếu tớ được phép làm theo ý tớ thì tớ đã tìm mọi cách để tránh cho cậu những điều mà tớ phải chịu đựng. – Có lẽ tay Giorgiơ này đã phát điên hay sao ấy! – Đavit Hôm tự bảo, – nếu không hắn phải hiểu rằng tính mạng của mình đang bị đe dọa, và để chậm phút nào là chết người phút ấy. Trong khi những ý nghĩ này thoáng qua đầu óc anh ta, người đánh xe bò nhìn anh ta với một nỗi buồn rầu vô hạn. – Đừng nghĩ đến bệnh viện làm gì vô ích, Đavit ạ. Khi tớ đã đến gần một người ốm thì chẳng còn kịp đi tìm một thầy thuốc nào đâu. – Hình như tất cả bọn phù thủy và bọn quỷ sứ đêm nay kéo nhau ra để làm trò quấy đảo hay sao ấy! – Đavit nghĩ, – khi mà cuối cùng có được một người có thể cứu giúp được mình, hẳn phải là điên hoặc độc ác quá nên mới để cho mình nghẻo. – Tớ muốn nhắc lại cho cậu nhớ một chuyện đã xảy đến với cậu vào mùa hè vừa qua, Đavit ạ – người người đánh xe bò tiếp tục nói. – Hôm ấy là một buổi chiều chủ nhật, cậu đi theo một con đường lớn chạy qua thung lũng rộng. Khắp xung quanh là cánh đồng lúa mì, và những trang trại tươi đẹp với những mảnh vườn đầy hoa. Chiều hôm ấy ngột ngạt, giữa mùa hè đôi khi có những buổi chiều ngột ngạt như vậy, và hình như cậu nhủ thầm rằng cậu là người độc nhất còn động đậy trong suốt cả vùng. Cả những con bò cái cũng đứng im trong những đồng cỏ, không muốn ra khỏi bóng cây râm mát. Không nhìn thấy một ai ở ngoài. Chắc hẳn người ta đã chui vào nhà để tránh cái nóng. Đúng như vậy, phải không, Đavit? – Có thể là đúng như vậy, – người đàn ông đồng ý trong thâm tâm của mình. – Duy có điều là tớ đã không biết bao nhiêu lần đi giữa trời nóng bức và giá rét đến nỗi tớ không dễ dàng gì nhớ lại tất cả những cuộc đi dạo của tớ nữa. – Vào cái lúc êm ắng nhất, Đavit ạ, thì cậu nghe thấy một tiếng cọt kẹt trên đường cái. Cậu quay đầu lại, tưởng có chiếc xe nào, nhưng chẳng thấy gì cả. Cậu nhìn đi nhìn lại nhiều lần, và cậu tự nhủ rằng đó là điều kỳ lạ nhất cậu gặp từ trước đến nay. Cậu nghe thấy tiếng bánh xe cót két, và nghe rất rõ; nhưng tiếng động ấy từ đâu đến? Đang giữa ban ngày, và xung quanh hoàn toàn im lặng nên không hề có tiếng gì lẫn vào át mất tiếng động ấy được. Cậu không hiểu làm sao lại có thể nghe tiếng trục xe cót két mà chẳng nhìn thấy xe. Nhưng cậu không muốn thừa nhận rằng điều đó chẳng có gì là lạ kỳ cả. Lúc ấy chỉ cần cậu chú ý suy nghĩ đến điều đó thì tớ đã có thể hiện ra cho cậu thấy trước khi quá muộn. Đavit Hôm chợt nhớ lại buổi chiều hôm ấy. Phải, anh ta đã nhìn kỹ vào đằng sau những hàng rào và dưới những cái hố, và đã tìm khắp mọi chỗ cái nguyên nhân gây ra tiếng động này. Cuối cùng cảm thấy khó chịu và bối rối, anh ta đã đi vào một cái trại để không nghe thấy tiếng động ấy nữa. Khi anh ta trở ra, tiếng động ấy đã chấm dứt. – Đó là lần duy nhất tớ nhìn thấy cậu năm vừa qua, – người đánh xe bò nói tiếp, – và hôm ấy tớ đã làm mọi cách để cho cậu nhìn thấy tớ. Nhưng tớ chỉ có thể làm cho cậu nghe thấy tiếng xe của tớ mà thôi. Lúc ấy cậu đi như một thằng mù bên cạnh tớ. – Điều hắn kể đúng đấy, ít ra cũng đúng là mình đã nghe thấy tiếng cót két, – Đavit Hôm nghĩ. – Nhưng hắn muốn chứng minh điều gì ở đây? Làm sao hắn lại muốn cho mình tin rằng lúc ấy hắn đang đi đằng sau mình trên đường? Rất có thể là mình đã kể câu chuyện này cho ai đó, rồi người này lại kể cho Giorgiơ nghe. Lúc này người đánh xe bò cúi sát xuống anh ta và nói với anh ta bằng cái giọng mà người ta dùng để dỗ một đứa trẻ bị ốm: – Cậu chớ có băn khoăn vô ích. Không thể đòi hỏi cậu hiểu được cái gì đã xảy ra cho cậu, nhưng cậu biết rất rõ rằng tớ, người đang nói chuyện với cậu đây, tớ không còn sống nữa. Cậu đã nghe nói đến cái chết của tớ, nhưng cậu không muốn tin. Và dù cậu có không biết tin tớ chết đi nữa, cậu cũng đã thấy tớ đi đến đây, trên chiếc xe này, một chiếc xe mà không một người còn sống nào đi cả. Y đưa ngón tay chỉ chiếc xe thảm hại dừng ở giữa lối đi. – Không chỉ nhìn chiếc xe đâu Đavit ạ. Hãy nhìn cả cây cối ở đằng sau chiếc xe nữa. Đavit Hôm tuân theo, và lần đầu tiên anh ta buộc phải thú nhận rằng mìng đang gặp một điều gì không thể giải thích được. Anh ta nhìn xuyên qua chiếc xe và thấy những cây cối như là nhìn xuyên qua một tấm vải mỏng. – Trước kia cậu đã nhiều lần nghe tớ nói, Đavit ạ.- người đánh xe bò nói. – Không thể nào cậu lại không thấy rằng bây giờ tớ nói một giọng khác trước. Đavit Hôm buộc phải công nhận lời người đánh xe bò nói, là đúng. Giorgiơ vốn có giọng nói hay, người đánh xe bò cũng có giọng nói như vậy, nhưng mặc dù giống nhau, âm sắc hoàn toàn khác hẳn. Nó vừa mảnh vừa thanh, nhưng không dễ dàng nghe thấy được. Người đánh xe bò giơ bàn tay ra, và Đavit Hôm nhìn thấy một gịot nước trong suốt từ đám cành cây trên đầu họ rơi xuống, xuyên qua bàn tay ấy, và rơi bẹp xuống đất. Dưới lối đi rải cát có một cành cây khô. Người đánh xe bò luồn lưỡi hai của y xuống dưới cành cây ấy rồi đưa lưỡi hái lên mà cành cây vẫn không động đậy. – Đừng tự tìm cách đánh lừa mình nữa, Đavit ạ. – Người đánh xe bò nói, – hãy cố mà hiểu thì hơn. Cậu trông thấy tớ và cậu nhận ra tớ; nhưng cái thể xác của tớ hiện nay chỉ có những người hấp hối và người chết mới nhìn thấy được. Tuy vậy cậu đừng tưởng cái thể xác ấy không tồn tại. Cũng như thể xác của cậu và những người còn sống khác, nó dùng làm nơi trú ngụ cho một linh hồn, nhưng nó không còn ở thể rắn, và nó cũng không còn trọng lượng. Cậu hãy cho rằng đó là một hình ảnh như cậu vẫn thường thấy trong những chiếc gương, và cái hình ảnh này đi ra khỏi gương, và nó nói được, nhìn được, và cử động được. Ý nghĩ của Đavit Hôm không còn vùng lên nữa để đấu tranh chống lại một sự thật hiển nhiên. Anh ta nhìn thẳng vào sự thật và không tìm cách thoát khỏi sự thật ấy nữa. Đây là anh ta đang giao tiếp với hồn ma của một người đã chết, còn chính thân thể của anh ta là một thi hài. Nhưng anh ta càng thừa nhận điều này thì một nỗi tức giận mạnh mẽ lại càng sôi sục trong lòng anh.. “Ta không muốn chết, – anh ta tự nhủ, – ta không muốn chỉ còn là một hình ảnh, là không có gì nữa. Ta còn muốn có một qủa đấm để tự vệ, một cái mồm để nói.” Cơn điên giận dâng lên và dồn nén lại trong con người anh ta như một cơn giông tố tối đen và mờ mịt chỉ còn chờ dịp để nổ bùng ra. – Tớ có một điều cầu xin cậu Đavit ạ. – Người đánh xe bò nói tiếp, – chúng mình trước kia là bạn tốt với nhau, cậu biết rằng đến một lúc, đối với tất cả chúng ta thể xác sẽ tàn tạ đi và linh hồn ở trong cái thể xác ấy buộc phải rời bỏ nó. Linh hồn ngập ngừng và run rẩy lo sợ trước khi đi vào một thế giới chưa hề quen biết. Nó giống như một đứa trẻ đứng trên bãi biển không dám thả mình vào những lớp sóng. Muốn cho linh hồn vượt qua bước cuối cùng, nó cần phải được nghe tiếng gọi của một người nào đã sống ở thế giới bên kia. Tớ đã là tiếng nói ấy trong suốt một năm, và bây giờ đến lượt cậu là tiếng nói trong năm sắp đến. Điều tớ muốn yêu cầu cậu là đừng có chống lại cái đang chờ cậu, mà hãy vui lòng phục tùng nó. Nếu không, cậu chỉ có đưa lại cho cả cậu và tớ những nỗi đau khổ lớn lao mà thôi. Người đánh xe bò cúi đầu cúi đầu xuống để tìm gặp đôi mắt của Đavit Hôm, nhưng y vội ngẩng lên như là bị cái nhìn thách thức và giận dữ của anh ta làm cho hoảng sợ. - Cậu nên biết, – Đavit ạ, – giọng khẩn khoản, – rằng cậu không thể trốn tránh được việc này đâu. Tớ còn chưa biết rõ cuộc sống ở bên kia nấm mồ này ra sao, bởi vì tớ còn ở lại trên đường ranh giới, nhưng tớ biết rằng không có chiếu cố miễn giảm gì cả. Anh buộc phải thi hành thì cứ phải thi hành, dù muốn hay không. Một lần nữa y lại tìm đôi mắt của Đavit Hôm, và một lần nữa y lại chỉ gặp ở đôi mắt ấy1 màu đen giận dữ. – Tớ thừa nhận, Đavit ạ, – y nói tiếp, – rằng không có ciệc gì khủng khiếp hơn lac việc đánh chiếc xe bò ấy từ nhà này sang nhà khác. Bất cứ nơi nào người đánh xe bò ló mặt đến đều là những giọt nước mắt và những tiếng rên rỉ chờ đón anh ta; nơi nào cũng đều là bệnh tật tàn phá, là máu, là những vết thương, là sự kinh hoảng. Và lại còn có cái tệ hơn nữa: tệ nhất là thấy linh hồn dãy dụa trong hối hận và lo lắng về những nỗi thất vọng, một sự phân phối không công bằng, lao động vô ích và sự rối loạn mất trật tự. Cái nhìn của anh ta không phóng được đủ xa vào thế giới bên kia để phát hiện ra ý nghĩa của cuộc đời trần thế. Đôi khi anh ta cũng thoáng thấy được một điều gì đó, nhưng phần nhiều anh ta dãy dụa trong tối tăm và trong nghi hoặc. Và cậu chớ quên, rằng cái năm mà người đánh xe bò bị buộc phải điều khiển chiếc xe Thần Chết, cái năm ấy không được đo bằng giờ bằng phút như trên cõi trần: để cho người đánh xe bò có đủ thời gian đến được tất cả những nơi nào cần có mặt để làm nhiệm vụ, cái năm độc nhất ấy kéo dài ra đến hàng trăm hàng nghìn năm. Và điều khủng khiếp nhất, khủng khiếp trong tất cả mọi điều, đó là người đánh xe bò cũng gặp trên đường đi của mình những hậu quả của tội lỗi anh ta đã phạmtrong suốt cuộc đời anh ta. Và làm sao anh ta có thể thoát khỏi cái đó được? Giọng nói của người đánh xe bò trở nên gần như là một tiếng thét, và y chắp hai tay một cách tuyệt vọng. Nhưng đột nhiên y cảm thấy như là từ người bạn cũ của mình phát ra một luồng thách thức lạnh lùng và nhạo báng. Y chùm kín người trong chiếc áo choàng của y và y run rẩy. – Đavit! – Y khẩn nài – vì lợi ích của chính cậu và của tớ, tớ van cậu đừng có kháng cựlại tớ. Tớ bị buộc phải dạy lại nghề của tớ cho cậu trước khi tớ được thôi việc. Tùy thuộc ở cậu nếu tớ bị chậm lại hàng tuần, hàng tháng. Phải, cho đến tận đêm thánh Xinvetxtrơ năm sau, bởi vì tớ chỉ được trả lại tự do, khi mà cậu đã học được lại nghề này. Người đánh xe bò, trong khi nói vẫn quỳ bên cạnh Đavit Hôm, và thương xót trìu mến mênh mông mà lời nói của y thấm đượm, làm tăng gấp đôi sức mạnh của lời nói ấy. Y giữ nguyên tư thế như vậy trong một lúc nữa, thăm dò tác dụng lời nói của mình. Nhưng ở người bạn cũ của y chỉ duy trì một quyết tâm man dại kháng cự đến giới hạn cuối cùng sức lực của anh ta.. Ta chết rồi, được, – anh ta tự nhủ, – không thể làm gì để chống lại điều đó. Nhưng không đời nào bắt ta chấp nhận có liên quan đến chiếc xe và con ngựacủa Thần Chết. Phải tìm cho ta một hình phạt khác thôi. Người đánh xe bò sắp đứng lên lại thay đổi ý định: – Cậu hãy nhớ rằng – y nói thêm – cho đến lúc này là Giorgiơ, bạn cũ của cậu, nói chuyện với cậu. Nhưng bây giờ thì là một kẻ khác nói chuyện với cậu đấy. Cậu hẳn biết rằng khi nói đến một kẻ không biết thương xót là gì thì người ta nghĩ đến ai. Liền đó y đứng dậy, tay cầm chiếc hái, cái mũ trùm lên đầu. – Tù nhân, hãy ra khỏi nhà tù của ngươi! – Y thét lên, giọng lanh lảnh. Lập tức Đavit Hôm đứng dậy. Anh ta không biết việc đó diễn ra như thế nào; đột nhiên anh ta thấy mình đã đứng lên. Anh ta loạng chọang, xung quanh anh ta mọi vật như quay cuồng, nhưng anh ta mau chóng lấy lại được thăng bằng. – Hãy nhìn lại đằng sau ngươi, Đavit Hôm! Vẫn cái giọng mạnh mẽ ấ ra lệnh. Đavit Hôm làm theo. Trên mặt đất nằm sóng sượt một người cao to, lực lưỡng, nhưng ăn mặc rách rưới tồi tàn. Người hắn bê bết máu và bùn, xung quanh hắn là những vỏ chai. Hắn có bộ mặt đỏ và sưng phồng, hầu như không thể nào đoán được những nét cũ. Ánh phản chiếu của ngọn đèn đường hắt ra một tia sáng hằn học và độc ác từ đôi mí mắt hé mở của hắn. Đavit Hôm đứng trước cái thây người nằm dưới đất này, anh ta cũng là người cao to, cũng mặc những quần áo rách rưới bẩn thỉu gớm ghiếc như cái thây người chết. Anh ta thấy đó chính là con người thứ hai của mình. Thế nhưng không phải, không phải là con người thứ hai của anh ta , vì anh ta giờ chẳng là gì cả. Anh ta chỉ là một cái bóng, một cái bóng của con người kia ở trong gương, và cái bóng ấy bước ra khỏi chiếc gương, và nó cử động, nó sống! Anh ta đột ngột quay lại. Giorgiơ đứng kia, và anh ta thấy Giorgiơ cũng chỉ là cái bóng của thân hình Giorgiơ trước kia mà thôi. – Hỡi linh hồn đã mất quyền thống trị thể xác củ ngươi vào đúng lúc giao thừa, – giọng Giorgiơ tuyên bố, – ngươi sẽ là người thay thế làm nhiệm vụ của ta. Trong năm mới đang bắt đầu này, ngươi sẽ giải thoát cho những linh hồn khỏi cái vỏ bọc trần thế. Nghe những lời này, Đavit Hôm sực tỉnh lại. Giận điên lên, anh ta xông vào người đánh xe bò, tìm cách giật lấy cái hái của y để bẻ gãy đi, giằng lấy cái áo choàng của y để xé tan ra. Thế là anh ta cảm thấy tay mình bị trói, và mình chân bị hẫng đi. Một vật gì vô hình quấn lấy cổ tay anh ta, trói chặt cả tay lẫn chân anh ta lại. Rồi anh ta bị xốc lên, bị ném một cách phũ phàng như một vật nặng bỏ đi vào đáy thùng xe, anh ta nằm nguyên ở đó. Cùng lúc ấy, chiếc xe bò chuyển bánh. 4 Đó là một gian phòng hẹp và dài, khá rộng rãi; cái căn nhà nhỏ ở ngoại ô này chỉ gồm có gian phòng ấy và một gian khác nhỏ hơn dùng làm buồng ngủ. Gian phòng có một bộ đèn treo chiếu sáng, và dưới ánh sáng đèn, gian phòng trông có vẻ niềm nở và tươi vui. Người ta thấy những người trong nhà này thích thú bày biện làm cho gian phòng này có vẻ là một căn hộ. Cửa ra vào mở ra ở một bên, và bên cạnh cửa là một bếp lò nhỏ. Đó là nhà bếp, và tất cả các dụng cụ gia đình đều được tập trung tại đó. Chính giữa gian phòng được bày biện thành phòng ăn với một cái bàn tròn, hai ba chiếc ghế dựa bằng gỗ sồi, một chiếc đồng hồ treo tường lớn, và một tủ buýp phê nhỏ để đựng bát đĩa. Bộ đèn treo ở trên bàn, đủ để chiếu sáng cả phòng khách, tức là phía cuối gian phòng, gồm cái tràng kỷ bằng gỗ gụ, cái bàn tròn độc trụ, tấm thảm hoa, một cây cọ trồng trong chậu bằng sứ xinh đẹp, và rất nhiều ảnh. Cách sắp xếp gian phòng như thế này hẳn phải mang kại nhiều thích thú. Nhưng những người đi vào đó trong đêm tất niên, sau giao thừa một lúc thì jhg có những ý nghĩ tươi vui và nhẹ nhõm như vậy. Đó là hai người đàn ông, ăn mặc rách rưới và thảm hại. Người ta có thể tưởng tượng rằng đó là hai kẻ du thủ du thực, nếu một trong hai người không mặc trùm lên những quần áo rách rưới của mình một cái áo choàng đen có mũ trùm và cầm ở tay một cái hái. Đối với kẻ kẻ du thủ du thực, cách ăn mặc lố lăng đó thật là kỳ dị, và kỳ dị hơn nữa là cách hắn đi vào trong nhà mà không xoay núm ổ khóa và không mở cánh cửa đang đóng chặt. Người thứ hai không mang những biểu trưng đáng sợ, nhưng y cũng miễn cưỡng đi vào nhà, bị bạn y lôi theo, và nom y còn có vẻ hung dữ hơn cả người kia nữa. Mặc dù y bị trói cả chân tay và bị quăng ở dưới đất như là một đống giẻ rách, nhưng y làm cho người ta sợ hãi trước cơn thịnh nộ man rợ đang hừng hực trong đôi mắt và làm cho gương mặt y co rúm lại. Hai người đàn ông khi vào nhà, thầy trong nhà không phải là không có người. Ngồi cạnh cái bàn tròn là một chàng trai có nét mặt thanh tú, đôi mắt thơ ngây và dịu dàng, và một phụ nữ nhiều tuổi hơn một ít, bgg nhỏ nhắn mảnh dẻ. Chàng trai mặc một chiếc áo săngđay màu đỏ, có in dòng chữ “Đội quân Cứu tế” ở ngang ngực. Người phụ nữ mặc toàn màu đen không có huy hiệu nào cả, nhưng ở trên bàn bên cạnh chị để một cái mũ kiểu những đội viên Cứu tế thường đội. Cả hai người hết sức buồn rầu. Người phụ nữ lặng lẽ khóc và luôn chùi nước mắt với một chiếc khăn tay nhàu nát. Cử chỉ của chị vội vàng tưởng như những giọt nước mắt ngăn chị làm một nhiệm vụ nào đó. Đôi mắt chàng trai cũng đỏ lên vì xúc động, nhưng anh ta nén được sự đau buồn bởi vì đâu phải chỉ có một mình anh ta. Lâu lâu hai người lại trao đổi với nhau một vài câu, qua đó thấy rằng ý nghĩ của họ không rời khỏi gian buồng bên cạnh ở đó có một cô gái hấp hối và bà mẹ cô ta. Nhưng mặc dầu họ tập trung tư tưởng đến thế nào vào câu chuyện của họ, thì cũng thật lạ lùng là cả chàng trai lẫn cô gái đều không chú ý gì đến hai kẻ lang thang vừa đi vào nhà kia. Quả thật là hai kẻ kia đều lặng câm, một người đứng dựa vào khung cửa, người kia thì nằm sóng soài dưới chân người này. Nhưng làm sao mà giải thích được rằng hai người ở trong nhà không hề sợ hãi khi thấy hai người khách giữa đêm tối kia đi vào nhà qua cánh cửa vẫn đóng kín? Ít ra, đó cũng là câu hỏi mà người nằm dưới đất đặt ra cho mình, y còn ngạc nhiên hơn nữa vì rất nhiều lần họ quay mặt về phía y. Y chưa bao giờ đặt chân vào phòng này, nhưng y nhận ra hai người ngồi cạnh cái bàn; và y hiểu rằng y đang ở nhà của ai. Nếu có một cái gì đó có thể làm tăng cơn thịnh nộ của y, thì đó chính là y thấy mình đột nhiên bị đưa đến cái nơi mà hôm qua y đã từ chối không chịu đến. Bỗng chàng Đội viên Cứu tế đẩy chiếc ghế dựa: – Bây giờ đã quá nửa đêm, – chàng trai nói, – chị vợ của Đavit Hôm tin rằng anh ta sẽ trở về nhà vào giờ này. Tôi sẽ đến thử một lần cuối cùng nữa xem sao. Chàng trai từ từ đứng dậy, như là luyến tiếc và cầm lấy chiếc áo khoác của mình vắt trên lưng chiếc ghế dựa. – Tôi hiểu, – Guttapxơn ạ, anh cho là đưa anh ta đến đây cũng chẳng có ích lợi gì lắm, – người phụ nữ trẻ vừa nói vừa cứ phải nén những giọt nước mắt đang làm chị nghẹn lời, – nhưng anh tự bảo mình rằng đó là việc làm cuối cùng anh có thể giúp được cho xơ Êdi. Chàng Đội viên Cứu tế đang mặc áo khoác bỗng dừng lại. – Xơ Maria, – chàng nói, – mặc dù như chị nói đây là việc làm cuối cùng tôi có thể giúp chị ấy; nhưng tôi cũng cứ mong rằng Đavit Hôm không về nhà, hoặc là không chịu theo tôi. Hôm nay tôi đã theo lời đội trưởng và của chị đi tìm anh ta nhiều lần, nhưng tôi vẫn hài lòng rằng cả tôi lẫn mọi người không ai đưa được anh ta đến. Người đàn ông nằm ở dưới đất giật mình khi nghe nói đến tên y, và miệng méo đi vì một cái nhếch mép hằn học. “Thằng cha này ít ra còn biết điều đôi chút” – y nói thầm. Người phụ nữ nhìn người lính của Đội quân Cứu tế và nói với giọng có phần chua chát, giọng nogi của chị không còn bị nghẹn lại vì những tiếng khóc nữa: – Lần này, anh nên truyền đạt thế nào cho Đavit Hôm để cho anh ta hiểu là cần phải đến. Với vẻ mặt của một người thi hành lệnh mà tin tưởng vào kết quả, người đội viên Cứu tế đi đến gần cửa. Đến đây, chàng ta đột nhiên quay mặt lại: – Thế nếu anh ta say bí tỉ thì cũng phải đưa đến à? Chàng hỏi. – Chết sống gì thì cũng đưa anh ta đến , Guttapxơn ạ. Trường hợp xấu nhất, ta sẽ để cho anh ta ngủ cho giã rượu ở đây. Điều quan trọng là tìm cho được anh ta. Chàng đội viên Cứu tế đã đặt tay lên núm ổ khóa bỗng quay phắt lại và trở về cạnh cái bàn: – Tôi không thể chịu đựng được để cho Đavit Hôm đến đây. – Chàng kêu lên và mặt tái đi vì xúc động. – Chị cũng biết rõ như tôi, xơ Maria, anh ta là hạng người như thế nào. Chị cho rằng nơi đây là chỗ của anh ta hay sao? Xơ Maria? – Và chàng chỉ vào cánh cửa dẫn sang buồng bên cạnh. – Nếu cho tôi cho rằng…chị thầm thì. Nhưng chàng trai không để cho chị nói hết câu. – Chị không biết, xơ Maria, anh ta sẽ chế nhạo chúng ta hay sao? Con người huyênh hoang khoác lác ấy sẽ nói rằng có một nữ đội viên Cứu tế đã mê anh ta đến nỗi nếu không gặp được anh ta thì không thể nhắm mắt được. Xơ Maria ngẩng đầu lên và mấp máy môi như để đập lại ngay, nhưng rồi chị ta mím môi lại và ngẫm nghĩ. – Tôi không sao chịu nổi để cho anh ta nói đến chị ấy, nhất là sau khi chị ấy mất! – chàng trai hùng hổ nói tiếp. Sau một lúc im lặng, xơ Maria trả lời, nghiêm trang và kiên quyết: – Anh có dám chắc rằng Đavit Hôm không có quyền nói như vậy không, Guttapxơn? Người bị trói rùng mình vì một nỗi vui đột ngột. Chính y cũng ngạc nhiên vì điều đó.Và y lấm lét nhìn Giorgiơ xem hắn có nhận thấy gì không. Người đánh xe bò vẫn bất động và thản nhiên như thường. bị câu trả lời của xơ Maria làm cho choáng váng đến nỗi đưa bàn tay quờ quạng nắm lấy một chiếc ghế dựa. Bốn bức tường của gian phòng quay cuồng trước mặt anh ta. – Tại ao chị nói với tôi một điều như vậy – Xơ Maria? – Chàng lắp bắp nói – Chị không muốn cho tôi tin rằng… Xơ Maria bồn chồn xúc động đến cực độ. Nàng nắm chặt chiếc khăn tay, trong khi những lời nói từ môi nàng tuôn ra vội vã. Nàng dường như sợ không nói hết được hết mọi điều trước khi phải dừng lại để suy nghĩ. – Vậy ai là người chị ấy yêu hơn cả? Cả hai chúng ta, Guttapxơn, và tất cả mọi người biết chị ấy, tất cả chúng ta đều để cho chị ấy cải hóa và thu phục. Chúng ta không hề kịch liệt cưỡng lại chị ấy đến cùng. Chúng ta không hề biến chị ấy thành trò cười và nhạo báng chị ấy. Cả anh và tôi, Guttapxơn ạ, chúng ta không phải là nguyên nhân làm cho chị ấy đến nông nỗi như bây giờ. Chàng đội viên Cứu tế có vẻ nhẹ nhõm đi vì những lời nói này. – Tôi không hiểu là chị nói về tình yêu đối với kẻ phạm tội, Xơ Maria ạ. – Tôi cũng không phải nói thế đâu, Guttapxơn. Nghe những lời nói rõ rệt này, Đavit Hôm lại cảm thấy vui mừng như lúc nãy. Tuy nhiên y cố nén cảm giác này lại, vì y mơ hồ ý thức được rằng cơn thịnh nộ của y, sự quyết tâm của y dứt khoát chống lại Người đánh xe bò của Thần Chết, sẽ có nguy cơ bị tan biến trong cảm giác vui mừng này. Xơ Maria im lặng một lúc, cắn chặt đôi môi để kềm chế cơn xúc động. Bỗng nhiên nàng như có một quyết định. – Tôi có thể kể anh nghe điều tôi biết, Guttapxơn ạ. – Nàng nói. – Bây giờ chị ấy sắp mất thì không có gì quan hệ nữa. Anh ngồi xuống đây một lát rồi tôi sẽ giải thích cho anh nghe điều tôi nghĩ. Chàng trai lại cởi áo khoác ra và ngồi lại chỗ cũ cạnh bàn. Không nói một lời nào, nóng lòng chờ đợi, chàng đưa đôi mắt đẹp chân thật của mình nhìn Xơ Maria… – Tôi sẽ bắt đầu kể cho anh nghe buổi tối ngày lễ thánh Xinvetxtrơ năm ngoái của tôi và xơ Êđi. – Nàng nói, – Mùa Thu năm ngoái ban chỉ huy đội đã quyết định đặt một trạm ở đây, trong thành phố này của chúng ta. Êđi và tôi đã làm việc cật lực để tổ chức nhà cứu tế , và ngoài ra chúng tôi cũng được các thành viên khác giúp sức. Và đến ngày trước năm mới thì mọi việc đã khá tươm tất để có thể dọn đến nhà mới. Nhà bếp và phòng ngủ cũng đã sẵn sàng. Và chúng tôi hy vọng là ngày đầu năm là có thể mở cửa được; nhưng rồi không thể được vì lò hấp khử trùng và nhà giặt chưa làm xong. Lúc bắt đầu nói, Xơ Maria rất khó khăn mới ngăn được nước mắt, nhưng càng nói, giọng nàng càng rành rọt hơn: – Thời kỳ ấy anh chưa tham gia Đội quân Cứu tế, Guttapxơn ạ. Nếu không, anh đã được tham dự ngày lễ thánh Xinvetxtrơ vui vẻ ấy. Nhiều đồng đội đã đến thăm chúng tôi, và lần đầu tiên chúng tôi mời khách uống trà ở nhà mới. Guttapxơn, giá mà anh biết được xơ Êđi đã vui sướng biết bao vì được đặt cái trạm này ở ngay trong thành phố mà chị ấy đã sinh ra và biết rõ từng người nghèo khổ. Chị ấy ngắm không chán mắt những tấm nệm và những chiếc khăn mới tinh và những bức tường quét sơn men và những đồ dùng nhà bếp bằng đồng sáng loáng treo trên tường. Chị ấy hớn hở như một đứa trẻ. Và anh hẳn biết, Guttapxơn, khi xơ Êđi vui sướng thì ai nhìn chị ấy cũng phải vui lây. – Lạy Chúa lòng lành vô cùng! Tôi biết chứ, – chàng đội viên Cứu tế trả lời. – Niềm vui của chị ấy kéo dài suốt trong thời gian các đồng đội còn ở chơi. – Xơ Maria nói tiếp, – nhưng sau khi họ ra về, chị ấy bị một cảm giác bồn chồn và lo lắng dữ dội xâm chiếm, và chị ấy yêu cầu tôi cùng cầu nguyện với chị ấy để cho điều dữ đang lảng vảng khắp nơi không thể thắng được chúng tôi. Chúng tôi quỳ xuống, và chúng tôi cầu nguyện cho nhà cứu tế và cho cả chúng tôi, và cho tất cả những ai mà chúng tôi hy vọng sẽ cứu giúp. Và trong khi chúng tôi đang quỳ như vậy, thì chuông cửa vang lên. Các đồng đội mới vừa về xong, chúng tôi tự nhủ có lẽ một người nào đã bỏ quên cái gì đó và quay lại lấy. Cả hai chúng tôi đi xuống mở cửa. Chúng tôi không thấy đồng đội nào cả, mà thấy một người đàn ông, một trong những kẻ mà nhà cứu tế lập ra để phục vụ họ. Thú thật với anh, Guttapxơn ạ, người đàn ông mà chúng tôi thấy hiện ra ở khung cửa, cao lớn, rách rưới và say lảo đảo, đối với tôi có vẻ đáng sợ đến nỗi những muốn không cho vào, bởi vì nói chung nhà cứu tế chưa mở cửa. Nhưng xơ Êđi thì vui mừng vì Chúa đã đưa đến cho chị ấy một người khách. Chị ấy tin rằng là như vậy Chúa muốn tỏ ý khen ngợi ciệc làm của chúng tôi, và chị ấy đưa người đàn ông vào. Chị ấy mời anh ta ăn tối, nhưng anh ta trả lời bằng một lời rủa: anh ta chỉ muốn ngủ thôi. Được đưa vào phòng ngủ, anh ta nằm vật xuống giường sau khi đã cởi áo vét tông ra, và anh ta lập tức ngủ say. – Đấy! – đấy Đavit Hôm thốt ra. – Cô ta đã sợ mình. Y hy vọng rằng con người đứng trơ trơ ở đằng sau y sẽ hiểu rằng y vẫn là Đavit Hôm như trước kia. – Tiếc rằng cô ta không thể thấy được mình bây giờ như thế này. Nếu thấy được, cô ta sẽ ngất đi vì khiếp sợ. – Xơ Êđi vẫn có ý nghĩ sẽ làm một việc tốt lành nho nhỏ cho người khách đầu tiên đến nhà cứu tế của chúng tôi, người nữ đội viên Cứu tế tiếp tục kể, – và tôi thấy chị ấy đã có vẻ thất vọng khi người ấy ngủ ngay đi như thế.. Nhưng chị ấy đã nhanh chóng tự an ủi mình, vì chị ấy đã nhìn thấy cái áo vét tông mà anh ta vừa ném xuống đất. Guttapxơn ạ, tôi tin rằng tôi chưa hề nhìn thấy một cái gì rách rưới đến thế, kinh tởm đến thế, tồi tệ đến thế. Nó sặc sụa mùi rượu và mùi hôi hám bẩn thỉu, phải, chỉ chạm vào cũng đủ ghê cả tay. Thấy xơ Êđi vồ lấy cái áo và xem xét nó, tôi đâm sợ, và tôi van chị ấy bỏ nó ra, vì chúng tôi chưa có xưởng giặt và lò hấp khử trùng. Nhưng anh phải hiểu, Guttapxơn ạ, xơ Êđi, người đàn ông này là người khách mà Chúa đã đưa đến, và đối với chị ấy, sửa sang lại chiếc áo vét tông thảm hại của anh ta là một việc làm thú vị xiết bao, nên tôi không thể thuyết phục chị ấy từ bỏ được. Và chị ấy nhất định không cho phép tôi cùng làm giúp. Vì chính tôi đã nói rằng mó vào chiếc áo ấy là có thể bị nguy hiểm vì lây bệnh nên chị ấy không để cho tôi được sờ vào. Nhưng chị ấy thì lại sửa sang khâu vá lại chiếc áo vét tông kia trong suốt suốt cả đêm lễ thánh Xinvextrơ ấy. Chàng đội viên Cứu tế ngồi ở phía bên kia bàn ngây ngất giơ hai cánh tay lên và chắp hai bàn tay lại. – Lậy Chúa lòng lành vô cùng. – Anh ta thốt lên. – Xin đội ơn Chúa đã ban xơ Êđi cho chúng con. – Amen! Amen! Xơ Maria nói, và mặt nàng tươi sáng hẳn lên. – Thật vậy, xin đội ơn cảm tạ Chúa đã ban xơ Êđi cho chúng ta. Đó là điều ta phải nhắc đi nhắc lại khi đau buồn cũng như khi vui sướng. Xin đội ơn Chúa đã ban cho chúng ta xơ Êđi, một người có thể suốt đêm ngồi gập mình trên chiếc áo rách rưới ghê tởm kia mà lòng vui sướng như thể đang cầm trong tay một cái áo choàng của nhà vua. Con người trước kia là Đavit Hôm có một cảm giác lạ lùng và thư thái khi hình dung thấy người con gái trẻ, một mình trong đêm khuya, ngồi mạng lại cái áo vét tông của một kẻ lang thang khốn khổ. Sau tất cả những nỗi xúc động và sự giận dữ của y, ý nghĩ này tác động vào y như một thứ dầu thơm. Nếu như không có Giorgiơ đứng đằng sau, lầm lì, bất động theo dõi tất cả những cử chỉ của y, thì y cũng muốn để cho ý nghĩ của mình lưu luyến với hình ảnh ấy. – Lại xin đội ơn Chúa thêm nữa. – Xơ Maria tiếp tục, – vì xơ Êđi không bao giờ hối tiếc là đã thức suốt đêm ấy để đính lại những chiếc khuy, và vá lại những chỗ rách cho đến tận sáng, không hề nghĩ đến sự hôi hám và sự truyền nhiễm mà chị ấy hít phải! Vâng, xin đội ơn Chúa vì chị ấy không hề hối tiếc đã ở lại trong gian phòng rộng không được sưởi ấm ấy, nơi cái rét tê buốt đêm đông luồn vào và ngấm khắp người chị. – Amen! Amen! Đến lượt chàng trai thốt lên. – Chị ấy rét cóng cả người khi làm xong việc. – Cô xơ nói, – tôi thấy cô ấy cứ nằm trăn trở trên giường, chị ấy không làm sao cho người ấm lại được. Chị ấy mới ngủ được một tí thì đã phải thức dậy nhưng tôi đã thuyết phục được chị ấy cứ nằm trên giường để tôi lo liệu cho vị khách của chúng tôi khi anh ta thức giấc. – Chị vẫn luôn luôn là người bạn tốt.- Chàng đội viên Cứu tế nói. – Tôi biết rằng đó là một điều hy sinh đói với chị ấy, – Xơ Maria hé cười nửa miệng. – Chị ấy đã hy sinh cho tôi. Nhưng chị ấy cũng không nằm yên được lâu bởi vì người đàn ông, khi ngồi uống cà phê đã hỏi tôi có phải tôi đã sửa sang lại cái áo vét tông của anh ta không? Và khi tôi trả lời là không phải thì anh ta yêu cầu tôi đi tìm cô xơ là người đã làm việc ấy cho anh ta. Anh ta bình tĩnh, cơn say của anh ta đã hết, và anh ta nói năng với những từ ngữ chọn lọc hơn là những người thuộc loại như anh ta nói chung thường dùng.. Vì tôi biết xơ Êđi sẽ vui sướng khi được nghe những lời cảm ơn của anh ta và được nói chuyện với anh ta, nên tôi đã đi gọi chị ấy. Khi chị ấy đến, rõ ràng chị ấy không có vẻ gì là một người đã thức suốt đêm, má chị ấy đỏ hồng, và trong nỗi vui mừng chờ đợi, chị ấy đẹp đến nỗi người đàn ông khi trông thấy chị ấy có vẻ như bị sững sờ mất một lúc. Anh ta đợi chị ấy ở cửa, vẻ mặt cáu kỉnh nhưng rồi lại tươi lên. Điều đó chẳng có gì lạ: ai mà lại muốn làm điều không hay cho chị ấy? – Lạy Chúa lòng lành vô cùng. Chàng đội viên Cứu tế đồng tình. – Nhưng mặt anh ta lại trở nên sa sầm, và khi chị ấy đến gần anh ta, anh ta mở phanh cái áo vét tông mạnh đến nỗi làm văng ra cả những chiếc khuy vừa mới được đơm lại. Rồi anh ta thọc mạnh hai tay vào hai túi áo đã vá lại làm cho chúng bục ra và cuối cùng anh ta giật đứt lần vải lót làm cho nó chẳng mấy chốc lại lòng thòng rách bươm còn tệ hơn trước nữa. – “Cô thấy đấy, – thưa cô – anh ta nói, – tôi có thói quen ăn mặc như thế này. Tôi thấy như vậy thoải mái và tiện lợi hơn. Tôi lấy làm tiếc vì cô đã tự chuốc lấy bao vất vả một cách vô ích, nhưng tôi không thể làm khác được.” Đavit Hôm thấy khuôn mặt rạng rỡ đọt nhiên tối sầm; và suýt nữa thì y thú nhận rằng cái trò tinh nghịch trẻ con ấy thật là độc ác và vô ơn, nhưng nghĩ đến Giorgiơ, y lại ngăn cái cử chỉ tốt đẹp đó lại. Y tự nhủ: “Cần phải để cho Giorgiơ biết ta là người thế nào, nếu như hắn chưa biết. Đavit Hôm không chịu đầu hàng ngay từ cái đánh đầu tiên đâu. Hắn tàn nhẫn và độc ác, và hắn ưa làm cho những kẻ nhạy cảm phát điên lên được.” – Cho đến lúc ấy tôi vẫn chưa nhìn kỹ người đàn ông, – Xơ Maria kể tiếp. – Nhưng khi thấy anh ta giở trò phá tung cái áo mà xơ Êđi đã khâu vá lại với biết bao ân cần dịu dàng như thế, tôi mới nhìn kỹ anh ta. Tôi thấy đó là một người đàn ông cao lớn và có thân hình đẹp đến nỗi nhìn anh ta, người ta chỉ có thể khâm phục đấng Tạo hóa đã sáng tạo nên một tác phẩm như vậy. Tư thế của anh ta cũng chững chạc và rất khoan thai. Khuôn mặt anh ta nay đã đỏ mọng và phị ra, nhưng trước kia hẳn là phải đẹp. “Mặc dù anh ta hành động với một cái cười độc ác, đôi mắt vàng khè giữa những mi mắt đỏ cạch của anh ta nhìn chúng tôi một cách dữ tợn, nhưng tôi tin là Xơ Êđi chỉ nghĩ rằng trước mặt chúng tôi là một con người sinh ra để sống một cuộc đời cao thượng mà lại đang tự dấn mình vào con đường sa đọa. Tôi đã thấy rõ là lúc đầu chị ấy lùi lại như bị một cái tát, nhưng trong đáy mắt chị ấy lóe lên một ánh sáng, và chị ấy lại tiến thêm một bước đến gần anh ta. “ Chị ấy chỉ nói với anh ta một vài câu: chị ấy nói rằng trước khi anh ta ra đi, chị ấy muốn yêu cầu anh ta sẽ trở lại ngôi nhà này vào dịp lễ thánh Xinvetxtrơ năm sau. Và khi thấy anh ta nhìn mình một cách ngạc nhiên, chị ấy nói thêm: “Anh có biết không? Đêm nay tôi đã cầu Chúa ban cho người khách đầu tiên của nhà Cứu tế chúng tôi một năm tốt lành và tôi muốn gặp lại anh để xem Chúa có chấp nhận lời nguyện ước của tôi không”. “Cuối cùng khi đã hiểu chị ấy muốn nói gì, người đàn ông văng ra một tiếng rủa: “ Tôi xin hứa với cô như vậy, – thật đấy, anh ta nói, tôi sẽ đến để cho cô thấy rằng ông ấy chẳng hề quan tâm đến cô cũng như những điệu bộ nhõng nhẽo của cô”. Đavit Hôm sực nhớ lại lời hứa đã quên đi ấy, nhưng đã được thực hiện ngoài ý muốn của y, trong một lúc tự cảm thấy mình như một cây sậy trong tay một kẻ mạnh hơn mình. Sự phản kháng đối với người đánh xe bò phải chăng cũng sẽ là một điều vô ích?- Y tự hỏi. – Nhưng y vội ngăn ý nghĩ này lại. Y không muốn khuất phục, y sẽ không chịu khuất phục. Y sẽ kháng cự cho đến ngày phán xét cuối cùng nếu cần thiết. Chàng đội viên Cứu tế mỗi lúc một bồn chồn trong khi Xơ Maria kể chuyện. Anh ta không còn có thể ngồi yên được nữa, mà vừa đứng dậy vừa kêu lên: – Chị chưa nói cho tôi biết tên của kẻ du thủ du thực kia, Xơ Maria, nhưng tôi hiểu đó là Đavit Hôm. Cô Xơ trẻ gật đầu. – Lạy Chúa! Lạy Chúa! Xơ Maria, – chàng kêu lên và giơ hai tay ra như để đẩy lùi một vật gì, – làm sao chị có thể muốn tôi đưa y đến đây được? Chị có nhận thấy y tốt hơn một chút nào không? Vậy ra chị muốn cho Xơ Êđi tự nhủ rằng chị ấy đã cầu khẩn Chúa một cách vô ích? Tại sao lại gây cho chị ấy một nỗi buồn lớn như vậy? Cô đội viên Cứu tế nhìn anh ta với một vẻ sốt ruột gần như tức giận: – Tôi vẫn chưa kể hết…- cô nói. Nhưng chàng trai ngắt lời cô: – Xơ Maria ạ, chúng ta phải đề phòng những cái bẫy, mà ý muốn phục thù dù là không nói ra đoi khi giăng ra để bẫy chúng ta. Trong tôi có con người tự nhiên đầy tội lỗi muốn đưa anh ta đến đây để anh ta ngỡ ngàng và chỉ cho anh ta thấy con người đã vì anh ta mà chết. Tôi tin, Xơ Maria ạ, rằng chị hy vọng sẽ làm cho Đavit Hôm bàng hoàng, chị sẽ nói với anh ta rằng chính cái áo đã được vá lại và bị xé rách bởi sự vô ơn của anh ta, đã truyền bệnh cho Xơ Êđi. Tôi đã nghe chị nhắc đi nhắc lại nhiều lần rằng Xơ Êđi không có một ngày khỏe mạnh kể từ ngày lễ thánh Xinvétxrơ năm ngoái. Nhưng phải dè chừng, Xơ Maria ạ. Chúng ta, những người đã từng sống gần Xơ Êđi và bây giờ còn nhìn thấy chị ấy ở trước mặt mình, chúng ta phải tránh đừng có làm theo ác tâm của chúng ta. Xơ Maria cúi người ra phía trước và nói mà không ngẩng đầu lên, như thể là nói với những hình vẽ trên bàn: – Sự báo thù ư? – Cô nói. – Phải chăng là sự báo thù khi làm cho một người hiểu anh ta đã nắm được một kho báu hiếm quý nhất mà anh ta lại để mất đi ư? Nếu như tôi bỏ một thanh sắt gỉ vào lửa để cho nó trở lại sáng và bóng, thì như vậy là báo thù hay sao? – Tôi ngờ là như vậy đấy, Xơ Maria ạ! – Chàng trai kêu lên – Chị hy vọng cải hóa Đavit Hôm bằng cách làm cho sự ăn năn như một gánh nặng đè lên anh ta! Nhưng Xơ Maria, chị có dám chắc rằng, dù sao đó cũng không phải chính là ý muốn báo thù của chúng ta mà chúng ta đã nung nấu trong lòng? Ở đây có một cái bẫy tinh vi, Xơ Maria ạ. Người ta dễ bị đánh lừa lắm. Cô Xơ bé nhỏ mặt nhợt nhạt nhìn người đội viên Cứu tế với đôi mắt sáng long lanh niềm vui của sự hy sinh quên mình. “Tối nay tôi không đi tìm lợi ích riêng cho bản thân tôi”, cái nhìn của cô nói rõ như vậy. – Quả thật là bẫy có nhiều loại lắm, – cô trả lời, nhấn mạnh vào từng chữ. Chàng trai đỏ bừng mặt. Anh ta muốn đáp lại nhưng không thể nói lên được tiếng nào. Đột nhiên anh ta gục xuống bàn, hai tay che lấy mặt và òa khóc nức nở. Xơ Maria yên lặng để cho anh ta khóc, nhưng môi nàng bật ra một lời cầu nguyện: – Lạy Đức Chúa Trời, Đức Chúa Giêsu khoan hòa của chúng con, xin Chúa hãy giúp anh ấy vượt qua cái đêm khủng khiếp này. Xin Chúa hãy ban cho con sức mạnh để trợ lực và an ủi những người bạn của con, xin Chúa ban cho con đây là kẻ yếu đuối nhất và ít am hiểu nhất về chuyện đó. Kẻ bị bắt ở cạnh cửa không hề nghĩ đến lời buộc tội là y đã làm cho Xơ Êđi bé nhỏ ấy bị lây bệnh, nhưng khi thấy chàng đội viên Cứu tế bật khóc thì y rùng mình dữ dội, và y hình như không che dấu sự xúc động của y với người đánh xe bò. Y lấy làm hài lòng vì người con gái mà anh chàng đẹp trai kia yêu dấu đã yêu y hơn, chính y, Đavit Hôm. Khi những tiếng khóc nức nở của chàng trai đã bắt đầu dịu đi, Xơ Maria nói với anh ta bằng một giọng dịu dàng và thương hại: – Tôi hiểu anh đang nghĩ đến điều tôi đã nói với anh ban nãy về Xơ Êđi và Đavit Hôm. Đầu anh ta cúi gục nghẹn ngào thốt lên một tiếng “Vâng”, và tòn thân anh rùng mình đau đớn. – Ý nghĩ này gây cho anh một nỗi đau khổ lớn lao, – tôi hiểu như vậy, – nàng nói tiếp. – Tôi biết một người khác cũng hết lòng yêu mến Xơ Êđi, và khi chị ấy nhận ra điều đó thì lúc đầu chị ấy không thể tin được. Lúc ấy tôi đã tự bảo mình rằng nếu chị ấy yêu một người nào đó thì đó phải là một người hơn hẳn chị ấy. Chúng ta có thể hiến đời mình cho những kẻ nghèo đói và những người khốn khổ, nhưng tình yêu của chúng ta thì chúng ta để dành cho những người khác. Bây giờ khi tôi nói với anh rằng Xơ Êđi không phải như chúng ta, thì anh coi đó là một điều làm chị ấy bị hạ thấp xuống, và anh đau khổ vì điều đó. Người trai trẻ không nhúc nhích. Anh ta vẫn gục đầu trên bàn. Kẻ bị bắt trói vô hình ở cánh cửa làm một động tác như muốn dịch lại gần để nghe cho rõ hơn, nhưng người đánh xe bò nghiêm khắc ra lệnh cho anh ta phải nằm yên. – Lạy Chúa lòng lành vô cùng! – cô đội viên Cứu tế kêu lên, vẻ mặt kích động. – Chúng ta là ai mà được phán xét chị ấy? Anh thấy không, Guttapxơn, khi một trái tim tràn đầy kiêu hãnh, nó hiến tình yêu của mình cho những người cao cả, và những kẻ có quyền lực trên thế gian này; nhưng khi trái tim ấy chỉ chứa sự khiêm nhường và lòng từ thiện, nó sẽ hiến tình yêu nồng nhiệt nhất của nó cho ai nếu không phải là kẻ nào đáng thương xót nhất, sa đọa nhất, lầm lạc nhất, chai sạn nhất? Chàng trai trẻ ngẩng đầu lên nhìn cô Xơ với một vẻ nài nỉ. – Cũng còn những điều khác nữa, Xơ Maria ạ, – chàng chậm rãi nói. – Phải, Guttapxơn, tôi hiểu điều anh muốn nói. Nhưng ta nhớ rằng lúc đầu Xơ Êđi không biết Đavit Hôm đã có vợ. Vả chăng, – nàng nói tiếp sau một vài giây lưỡng lự, – tôi nghĩ rằng ít ra thì tôi cũng khó hình dung sự việc một cach khác, tôi nghĩ rằng tất cả tình yêu của chị ấy là nhằm để cải hóa anh ta. Đến ngày nào mà chị ấy thấy anh ta xưng tội trên bục nhà thờ, ắt chị ấy sẽ lấy làm sung sướng. Chàng trai đã nắm lấy bàn tay cô Xơ, và mắt anh ta uống từng lời nói của nàng, anh ta thốt ra một tiếng thở dài nhẹ nhõm. – Vậy thì đó chẳng phải là tình yêu. Anh ta kết luận. Xơ Maria khẽ nhún vai trả lời: – Tôi chưa bao giờ được nghe Xơ Êđi tâm sự về vấn đề ấy. Có thể là tôi đã nhầm. – Nếu Xơ Êđi chưa nói với chị một điều gì đặc biệt, thì quả thật là tôi tin rằng chị đã nhầm, – chàng trai nghiêm trang nói. Cái bóng ma ở cạnh cửa sa sầm mặt lại. Câu chuyện xoay ra như vậy chẳng làm cho y thích thú. – Tôi không nói rằng Xơ Êđi đã cảm thấy một điều gì khác ngoài lòng thương hại đối với Đavit Hôm lần đầu tiên chị ấy gặp anh ta, – cô đội viên Cứu tế trả lời. – Và chắc chị ấy cũng chẳng có nhiều lý do để yêu anh ta về sau này, vì trên đường đi của mình, chị ấy đã nhiều lần gặp anh ta, và anh ta luôn đối đầu với chị ấy. Có những người vợ công nhân đến than phiền với chúng tôi rằng chồng họ bỏ công bỏ việc vì bị Đavit Hôm lôi kéo. Những hành động hung bạo và thói trụy lạc tăng lên. Bất kỳ nơi nào chúng tôi đến thăm những người khốn khổ, chúng tôi đều nhận thấy điều đó, và ở đâu người ta cũng cho là có bàn tay của Đavit Hôm dính vào. Và với tính nết của Xơ Êđi, anh phải hiểu rằng điều đó càng làm cho chị ấy hăng hái thêm trong việc cảm hóa anh ta trở về với Chúa. Anh ta giống như một con thú mà chị ấy truy đuổi với những vũ khí tốt, tin tưởng ở thắng lợi cuối cùng bởi vì chị ấy cảm thấy trong hai bên thì chị ấy mạnh hơn. – Lậy Chúa lòng lành vô cùng! – Chàng đội viên Cứu tế trẻ tuổi kêu lên. – Phải, chị ấy mạnh, Xơ Maria, chị có nhớ một buổi tối chị cùng chị ấy đến một quán rượu để phân phát những tờ áp phích mới về nhà cứu tế mới thành lập của các chị không? Xơ Êđi nhìn thấy Đavit Hôm ngồi cùng bàn với một chàng trai trẻ đang nghe anh ta kể chuyện và hùa với anh ta mà cười nhạo chế diễu những người đội viên cứu tế. nhưng Xơ Êđi đã chú ý đến chàng trai trẻ, và chị ấy xúc động vì thương xót. Chị ấy dịu dàng nhìn chàng trai trẻ, đến gần anh ta, và van xin anh ta đừng để bị lôi kéo vào vòng sa đọa. Chàng trai không trả lời, nhưng không còn có thể nhếch mép cười được nữa. Anh ta vẫn ngồi yên ở chỗ cũ và lại còn rót đầy cốc rượu của mình một lần nữa, nhưng không thể quyết định đưa cốc rượu lên môi. Đavit Hôm và những người uống rượu khác chế nhạo anh ta, nói rằng cô đội viên Cứu tế đã làm cho anh ta sợ. Không phải là sợ đâu, Xơ Maria ạ, đó là sự thương xót mủi lòng trong cái nhìn của chị ấy đã làm cho anh ta cảm động và chịu khuất phục để đi theo chị ấy. Chị biết rằng điều tôi nói đây là có thật, và chị cũng biết người trai trẻ ấy là ai, Xơ Maria. – Amen! Amen! Thật thế. Tôi biết người ấy là ai, và tôi cũng biết rằng từ ngày hôm ấy anh ta là bạn và là người trợ thủ tốt nhất của chúng tôi. – Cô Xơ trả lời với một cái gật đầu thân ái. – Tôi không phủ nhận rằng Xơ Êđi đã ngẫu nhiên thắng được Đavit Hôm một lần. Nhưng phần lớn là chị ấy thua. Chị ấy cũng đã bị cảm lạnh nặng trong cái đêm năm mới ấy và cứ vật lộn với một chứng ho dai dẳng mà rồi ra cũng không bao giờ khỏi được nữa. Người ta cảm thấy ở chị ấy một sự nản lòng do bệnh tật gây nên; có lẽ vì thế mà chị ấy không còn có được khả năng chiến thắng trong đấu tranh như trước nữa. – Xơ Maria, chàng trai bác bẻ, – trong những điều chị nói không có gì chứng tỏ là chị ấy yêu anh ta vì ái tình cả. – Anh nói có lý. Lúc đầu thì chẳng có gì làm ta tin như vậy. Nhưng tôi sẽ kể điều đã làm cho tôi tin như thế. Chúng tôi quen một người đàn bà khốn khổ làm nghề khâu thuê bị mắc bệnh lao, chị ta tìm đủ mọi cách đề phòng cực kỳ cẩn thận để tránh cho con chị ta khỏi bị lây bệnh. Chị ta kể với chúng tôi rằng một hôm đi ngoài phố chị ta đang bị một cơn ho dữ dội thì một kẻ lang thang đến gần chị ta và nói: “ Tôi, tôi cũng bị bệnh lao, và bác sĩ khuyên tôi giữ gìn cẩn thận. Tôi đếch cần, tôi ho vào mũi mọi người, tôi khạc nhổ khắp nơi và tôi hy vọng như vậy sẽ làm lợi cho họ. Tại sao họ lại được sung sướng hơn chúng ta? Tôi muốn biết điều đó”. Kẻ lang thang ấy nói xong bỏ đi, nhưng người đàn bà trẻ thì xúc động đến nỗi phát ốm ngày hôm đó. Chị ta tả cho chúng tôi hình dáng người qua đường này là một người cao lớn tuyệt đẹp mặc dù ăn mặc rách rưới. Chi ta không nhớ được gương mặt người ấy, nhưng trong suốt mấy giờ liền, chị ta không thể quên được đôi mắt của anh ta, giống như những cái vạch màu vàng dữ tợn, sáng lóe lên dưới những mi mắt sưng đỏ. Điều làm chị ta sợ hãi nhất, là người đàn ông này không hề có vẻ say rượu hoặc hoàn toàn trụy lạc, mặc dù anh ta biểu lộ một sự hằn học hung dữ đối với đồng bào của mình. Xơ Êđi chẳng do dự gì mà đoán được ngay đó là Đavit Hôm, nhưng tôi ngạc nhiên thấy chị ấy bênh vực anh ta. Chị ấy muốn thuyết phục người đàn bà trẻ rằng anh ta chỉ đùa để làm cho chị ta sợ mà thôi. Chị ấy nói: “Chị hẳn hiểu rằng một người đàn ông có dáng lực lưỡng như vậy không thể là người mắc bệnh lao. Tôi tin là anh ta khá độc ác nên mới làm cho chị sợ hãi, nhưng anh ta sẽ không cố tình đi gieo rắc sự truyền nhiễm nếu anh ta có bệnh. Dù sao, anh ta cũng không phải là con quái vật.” Chúng tôi không đồng ý với chị ấy: chúng tôi tin chắc rằng anh ta chẳng làm ra vẻ độc ác hơn là anh ta ác thật. Nhưng chị ấy bênh vực anh ta một cách hăng hái đến nỗi cuối cùng chị ấy phát cáu lên. Lúc này người đánh xe bò lại một lần nữa tỏ ra y vẫn theo dõi câu chuyện, vì y cúi xuống người tù của y và nhìn vào tận đáy mắt hắn: – Tớ nghĩ rằng cô đội viên Cứu tế có lý. Đavit ạ: cái người con gái không chịu tin là cậu xấu chắc phải yêu cậu ghê lắm. – Điều ấy chẳng có nghĩa lý gì hết, Guttapxơn ạ. – Xơ Maria nói tiếp, – và điều mà tôi quan sát được hai ngày sau đó có lẽ lại ít ý nghĩa hơn. Đó l là một buổi tối, Xơ Êđi và tôi đi về nhà. Xơ Êđi mệt mỏi và chán nản vì những chuyện phiền phức đã xảy đến cho một số người đang được chị ấy che chở. Vừa lúc ấy Đavit Hôm đến gần chị. Anh ta nói bằng cái giọng ngạo mạn nhất của anh ta , rằng anh ta chỉ muốn báo cho chị biết từ nay chị có thể yên tâm và sung sướng bởi vì anh ta sẽ rời khỏi thành phố này. Lúc ấy tôi nghĩ rằng quả thật Xơ Êđi sẽ hài lòng, nhưng nghe giọng nói của chị ấy chị ấy, tôi lại thấy là chị ấy buồn vì điều đó. Chị ấy nói thành thật với anh ta rằng chị ấy những muốn anh ta ở lại để chị ấy được thêm một thời gian nữa có dịp đọ sức với anh ta. Anh ta trả lời cũng bằng một giọng ngạo nghễ như vậy, rằng anh ta lấy làm tiếc, nhưng anh ta buộc lòng ra đi để tìm khắp nước Thụy Điển một người mà anh ta nhất thiết phải tìm cho được. Và anh biết không, Guttapxơn, Xơ Êđi hỏi bằng một giọng lo lắng rõ rệt rằng người ấy là ai, đến nỗi tôi suýt nữa phải rỉ tai nói chị ấy một lời nhắc nhở. Anh ta trả lời rằng lúc nào anh ta tìm được người ấy thì chị sẽ nghe nói đến. Lúc ấy, chị sẽ có thể mừng cho anh ta, vì anh ta sẽ chẳng còn phải chạy rông khắp xứ như một kẻ lang thang hay một tên du đãng nữa. Nói xong anh ta bỏ đi, và anh ta chắc chắn đã làm đúng như lời anh ta nói. Một thời gian dài chúng tôi không gặp lại anh ta. Tôi đã hy vọng rằng sẽ không bao giờ nghe nói đến anh ta nữa, bởi vì anh ta chỉ đem tai họa đến bất cứ nơi nào mà anh ta ló mặt tới. Ấy thế mà có một hôm, một người đàn bà đến gặp Xơ Êđi và hỏi tin tức về Đavit Hôm. Chị này thổ lộ với Xơ Êđi rằng chị là vợ của Đavit Hôm, nhưng chị không thể tiếp tục sống với anh ta vì anh ta nghiện rượu và phóng đãng. Chị đã bỏ anh ta và đưa con trốn đi, và chị đã đến ơt thành phố này là nơi chị cho rằng khá xa nên anh ta sẽ không nghĩ đến việc đến đây để tìm chị. Chị đã tìm được một việc trong nhà máy đủ để nuôi sống chị và các con. Đó là một người đàn bà ăn mặc tươm tất và gây được lòng tin cậy. Chị ta rất nhanh chóng trở thành hướng dẫn viên ở nhà máy và đã có được một căn nhà xinh xắn. Trước kia khi còn sống với chồng, chị và các con chị đói khát khổ sở. Ấy thế mà bây giờ chị ấy lại nghe nói rằng chòng chị ở trong thành phố này và các đội viên Cứu tế có biết chồng chị. Vậy nên chị đến để hỏi tin tức anh ta. Guttapxơn ạ, nếu lúc ấy anh có mặt ở đấy, nếu anh thấy và nghe Xơ Êđi nói, anh sẽ không bao giờ quên được. Khi người đàn bà xưng tên ra, Xơ Êđi tái mét mặt đi như người sắp chết, nhưng rồi chị ấy trấn tĩnh lại, và đôi mắt chị ấy có một vẻ đẹp cao siêu. Rõ ràng là chị ấy đã tự thắng được mình và không còn đòi hỏi gì ở cuộc sống nữa. Và chị ấy nói với người đàn bà bằng một giọng nói dịu dàng đến nỗi làm cho chị ta cảm động ứa nước mắt. Chị ấy không hề trách người đàn bà một câu, nhưng gợi cho chị ta một ít hối hận vì đã bỏ chồng mà đi. Tôi cho rằng người đàn bà này cuối cùng cũng thấy mình tàn nhẫn quá. Và Guttapxơn ạ, anh có biết không, Xơ Êđi đã biết cách làm thức dậy mối tình xưa, mối tình thời son trẻ, mối tình của chị ta đối với chồng khi họ mới cưới nhau. Chị ấy gợi cho người vợ nhớ lại thời kỳ trăng mật và luyến tiếc người chồng. Chị ấy không hề dấu diếm tình trạng thảm hại của ông ta, nhưng chị ấy đã truyền cho người vợ sự khát vọng y như chính của chị ấy đã muốn vực Đavit Hôm dậy. Lần thứ ba, người đánh xe bò lại cúi xuống tù nhân của mình, nhưng lần này hắn ngẩng lên ngay không nói với kẻ kia một tiếng nào. Có biết bao bóng tối âm u tụ đặc xung quanh khuông mặt to lớn nằm ở dưới đất khiến cho người đánh xe bò phải dựa lưng vào tường và kéo sụp cái mũ trùm đầu xuống đến tận mắt để không nhìn thấy hắn. Chắc hẳn là trong lòng người vợ đã có mầm mống hối hận. Xơ Maria nói tiếp. – Những mầm mống này cứ phát triển lên trong những nói chuyện giữa chị ta với Xơ Êđi. Nhưng trong buổi nói chuyện đầu tiên này, chúng tôi thỏa thuận với nhau rằng không cho người chồng biết chỗ ở của người vợ. Chỉ sau đó rất lâu, sau nhiều lần gặp gỡ khác, chúng tôi mới thay đổi ý định. Xơ Êđi không trực tiếp khuyên, nhưng tôi biết chị ấy mong cho người vợ gọi người chồng về, và tôi buộc phải thú nhận rằng sự xích lại gần nhau đac đem tai họa đến cho chị vợ của Đavit Hôm này chính là công trình của Xơ Êđi. Tôi đã suy nghĩ nhiều, và tôi chắc rằng Xơ Êđi sẽ không dám gánh lấy trách nhiệm như vậy nếu chị ấy không yêu Đavit Hôm. Xơ Maria nói những lờ cuối cùng này một cách tin tưởng đén nỗi hai con người lúc nãy đã bối rối khi lần đầu nghe nàng nói đến mối tình của cô xơ nhỏ, lần này thản nhiên không dao động. Chàng đội viên Cứu tế ngồi yên, tay vẫn che lấy mặt, và người đàn ông nằm cạnh cửa lại trở lại vẻ mặt hằn học ủ ê như là lúc bị cưỡng bức lôi vào căn nhà này. – Lúc ất chẳng ai biết Đavit Hôm đi đâu. – Xơ Maria nói tiếp – nhưng Xơ Êđi qua những kẻ lang thang khác đã nhắn với anh ta rằng có thể cho anh ta biết tin tức vợ con, nếu anh ta trở lại. Và Xơ Êđi đã làm cho hai vợ chồng đoàn tụ, sau khi sắm sửa cho anh ta ăn mặc tươm tất và tìm cho anh ta công việc làm ở một nhà thầu xây dựng. Chị ấy không yêu cầu anh ta sẽ tu chí làm ăn, cũng không bắt anh ta cam kết bất cứ một điều gì. Chị ấy biết không thể ràng buộc một con người như anh ta bằng những lời hứa, nhưng chị hy vọng trồng lại trong mảnh đất tốt hạt lúa mì đã bị rơi vào đám cỏ gai, và chị ấy tự tin chắc chắn sẽ đạt được kết quả. Và có lẽ Xơ Êđi sẽ hoàn thàng công trình tốt đẹp của mình nếu như chị ấy có thể tiếp tjc chăm nom nó. Nhưng không may là chị ấy đã bị bệnh. Đầu tiên là sung huyết phổi, rồi sau khi khỏi bệnh sung huyết, đáng lẽ hồi phục, chị ấy lại héo hon mòn mỏi đi, và phải đưa chị ấy vào bệnh viện điều dưỡng. Đavit Hôm đã đói xử với vợ như thế nào tôi chẳng cần nói, anh cũng biết, Guttapxơn ạ. Người duy nhất không biết điều đó, hay ít nhất là do chúng tôi cố dấu kín không cho biết, đó là Xơ Êđi, bởi vì chúng tôi thương hại chị ấy. Chúng tôi hy vọng là chị ấy sẽ không nghe nói gì đến chuyện này trước khi mất, nhưng bây giờ, tôi không còn hiểu ra sao nữa, tôi sợ rằng chị ấy đã biết hết rồi. – Làm sao mà chị ấy biết được? – Sợi dây nối liền chị ấy với Đavit Hôm bền chặt đến nỗi tôi nghĩ rằng chị ấy biết được tất cả những gì liên quan đến anh ta bằng những con đường tinh tế chứ không phải bằng cách thông thường. Chính là vì chị ấy biết hết nên chị ấy mới một hai đòi gặp anh ta cho bằng được như vậy, ít ra đó cũng là điều mà tôi tin chắc. Chị ấy đã đưa đến cho vợ con anh ta một nỗi đau khổ vô hạn, và bây giờ chị ấy cảm thấy chỉ còn một ít thời gian ngắn ngủi nữa để sửa chữa lại điều tai họa chị ấy đã gây ra. Và chúng ta thì nhu nhược đến nỗi không thể nào đưa anh ta đến đây được. – Nhưng, Xơ Maria, đưa anh ta đến đây liệu có ích gì? – Chàng trai vẫn bướng bỉnh hỏi, – chị ấy sẽ không thể nói chuyện được với anh ta. Chị ấy yếu quá rồi. – Tôi sẽ nói thay chị ấy, – cô xơ trẻ tuổi trả lời, giọng đày tin tưởng, – và anh ta sẽ nghe được những lời người ta nói với anh ta ta bên cạng giường của Xơ Êđi đang hấp hối. – Thế vhị định nói gì với anh ta? – Chị định nói là chị ấy yêu anh ta à? Xơ Maria đứng dậy. Nàng chắp tay trước ngực, ngẩng mặt lên trời và nhắm mắt lại: – Lạy Chúa! – Nàng cầu nguyện. – Xin người hãy xui khiến cho Đavit Hôm đến đây trước khi Xơ Êđi mất! Lạy Chúa xin Người hãy khiến cho anh ta thấy và cảm nhận được mối tình của chị ấy, xin Người hãy khiến cho ngọn lửa của mối tình này làm tan chảy tâm hồn băng giá của anh ta! Lạy Chúa chẳng phải là Người đã linh nghiệm gây nên mối tình này để cho nó chiến thắng trái tim sắt đã kia sao? Lạy Chúa xin Người hãy ban cho con lòng dũng cảm để không nghĩ đến chuyện gượng nhẹ đối với chị ấy mà dám dìm linh hồn người đàn ông này vào trong tình yêu của chị ấy. Lạy Chúa xin Người hãy để cho anh ta cảm nhận mối tình ấy như một làn gió nhẹ êm dịu và ấm áp, như hơi thoảng của một cánh chim, như ánh hồng tỏa rạng ban mai đẩy lùi màn đếm tăm tối. Lạy Chúa xin Người đừng để cho anh ta tưởng lầm rằng con muốn báo thù anh ta! Xin Người hãy làm cho anh ta hiểu rằng Xơ Êđi chỉ yêu cái bản thể sâu kín nhất của anh ta, cái bản thể mà chính anh ta muốn bóp nghẹt và giết chết! Lạy Chúa… Xơ Maria rùng mình và mở mắt ra. Chàng trai trẻ đang mặc áo khoác vào người. – Tôi đi tìm anh ta đây!- Chàng nói, giọng bối rối. – Tôi sẽ không trở về nếu không có anh ta đi theo. Kẻ nằm cạnh cửa quay về phía người đánh xe bò và cuối cùng nói với hắn: – Giorgiơ, câu chuyện này kéo dài như thế là đủ rồi đấy chứ? Lúc đầu những chuyện họ nói cũng có đôi chút gì đáng cảm động đấy, lẽ ra cậu đã có thể làm tớ dịu đi như vậy, nhưng đáng lý phải báo trước cho họ đề phòng: tại sao họ lại nói đến vợ tớ? Người đánh xe bò không trả lời mà chỉ tay về phía căn buồng kia. Cửa Cửa buồng mở ra và một bà già đi vào. Bà rón rén đi lại gần hai người đội viên Cứu tế và nói với một giọng run run điều bà báo cho họ biết: – Em nó không muốn nằm trong căn buồng nhỏ ấy nữa. Nó muốn ra ngoài này. Bây giờ thì cũng chẳng còn được bao lâu nữa. 5 Cô xơ bé nhỏ tội nghiệp đang hấp hối, cảm thấy mỗi lúc một yếu đi. Nàng không đau đớn, nhưng nàng cố chống lại sự mệt mỏi và cái chết, như trước kia khi đang chăm sóc người ốm, nàng thường chống lại cơn buồn ngủ. “Ôi! Giá được nằm nghỉ thì thích biết mấy, nhưng chưa thể nghỉ được”, lúc ấy nàng đã nói với cơn buồn ngủ như vậy, và nếu nàng vẫn phải chợp mắt đi một lát, nàng cũng nhanh chóng thức dậy để trở lại với nhiệm vụ của mình. Bây giờ nàng thấy như là đang ở một nơi nào đó, trong một căn phòng rộng mát mẻ mà không khí vô cùng tinh khiết và êm nhẹ sẽ thật ngọt ngào cho buồng phổi ốm đau tội nghiệp của nàng. Trong căn phòng ấy, người ta đang sửa soạn cho nàng một cái giường rộng và sâu với những chiếc gối mềm mại êm ái. Nàng biết là người ta sửa soạn cái giường này cho nàng, và nàng sốt ruột muốn được khỏi mệt mỏi vô hạn đang làm tình làm tội nàng. Nhưng nàng có cảm tưởng nếu nằm xuống, nàng sẽ ngủ say đến nỗi sẽ không còn thức dậy nữa. Vậy là nàng tiếp tục đẩy lùi sự cám dỗ của sự nghỉ ngơi. Nàng chưa có quyền được nghỉ. Khi cô Xơ bé nhỏ nhìn quanh mình, trong đôi mắt nàng có một vẻ trách móc. Nàng có dáng nghiêm khắc hơn mà từ trước đến nay nàng chưa bao giờ như vậy. “Sao mà các người nhẫn tâm đến thế? Các người chẳng chịu giúp tôi cái việc duy nhất mà tôi hằng tha thiết ấp ủ trong tim! Cái nhìn của nàng như muốn nói, – khi tôi còn khỏe mạnh, tôi chẳng đã đi đây đi đó để phục vụ tất cả các người hay sao, thế mà bây giờ các người lại không giúp tôi đi gọi được đến đây con người mà tôi muốn gặp ư?” Phần lớn thời gian nàng nhắm mắt nghe ngóng từng tiếng động nhỏ nhất. Bỗng nàng có cảm giác là một người lạ đi vào phòng ngoài và đang chờ để được đưa đến gần bên nàng. Nàng mở mắt ra và nhìn bà mẹ với một vẻ cầu khẩn: – Anh ấy đang ở cạnh cửa nhà bếp. Mẹ, mẹ hãy để cho anh ấy vào đây. Bà mẹ nàng đứng lên và đi sang phòng bên cạnh. Bà trở vào và lắc đầu: – Chẳng có ai ngoài này đâu, con gái bé bỏng của mẹ ạ! – Bà nói, – chẳng có ai ngoài Xơ Maria và Guttapxơn. Người bệnh thở dài và lại nhắm mắt. Nhưng một lần nữa nàng lại có cảm giác rõ rệt là anh ta đang ngồi cạnh cửa và đang chờ. Nàng tự bảo rằng chỉ cần có quần áo của nàng để trên bàn cạnh giường là nàng sẽ dậy và và tự mình đi ra xem. Nhưng bây giờ nàng không biết làm thế nào để đi ra gian phòng ấy, nơi mà nàng tin chắc rằng anh ta đang chờ đợi nàng. “Mẹ ta không muốn cho anh ta vào đây, – nàng tự nhủ, – chắc mẹ thấy bộ dạng anh ta thiểu não lắm nên không muốn đưa anh ta vào. Hẳn là mẹ nghĩ rằng để cho ta gặp và nói chuyện với anh ta cũng chẳng ích gì.” Cuối cùng nàng nảy ra một ý nghĩ mà nàng cho là rất tài tình. “Mình sẽ xin mẹ cho chuyển mình ra ngoài gian kia. Mình sẽ nói với mẹ rằng mình rất muốn được trở lại gian phòng ấy một lần nữa. Chắc mẹ sẽ không từ chối mình điều ấy đâu.” Nàng trình bày ý muốn của mình, nhưng mẹ nàng nêu lên bao nhiêu lý lẽ để phản đối làm nàng phải tự hỏi không biết mưu mẹo của nàng có bị phát giác hay không?. “Con ở đây không thấy dễ chịu sao?” – Bà mẹ nói, – mấy hôm trước con ở đây vẫn thấy dễ chịu cơ mà?” Và ngồi ở chân giường, bà già chẳng chịu nhúc nhích. Xơ Êđi làm như là lúc còn bé khi nàng vòi mẹ nàng một điều gì mà mẹ nàng không muốn cho. Và lần này cũng vậy, nàng cứ đòi đi đòi lại nhiều lần khiến cho mẹ nàng phát nản không cưỡng lại ý muốn của nàng nữa. – Con muốn sang bên phòng lớn lắm! Guttapxơn và Xơ Maria se khiêng ngay giường của con ra ngoài ấy nếu mẹ nhờ họ. Giường của con sẽ không ở đấy lâu đâu mẹ ơi. – Con ạ, – rồi con xem, – bà mẹ bác lại, – con mà ra ngoài ất một lát là lại muốn vào lại ngay trong này thôi. Tuy vậy rồi bà cũng đứng dậy và đi ra ngoài gặp hai người bạn của con mình. May làm sao người bệnh lại nằm ngay trên chiếc giường xếp mà nàng vẫn ngủ lúc còn bé, cho nên Xơ Maria, Guttapxơn, và bà mẹ có thể dễ dàng khiên ra. Vừa mới ra khỏi ngưỡng cửa buồng, nàng vội nhìn về phía cửa ra vào: chẳng có một ai. Nàng cảm thấy sững sờ cả người: nàng cầm chắc sẽ thấy anh ta ở đấy. Thất vọng, nàng nhắm mắt lại. Nhưng một lần nữa nàng lại có cảm giác là một người lạ đang đứng cạnh cửa. “Mình không thể nhầm được,- nàng nghĩ,- nhất định phải có một người nào đấy, hoặc là anh ta, hoặc là một người nào khác .” Nàng lại mở mắt ra và chăm chú nhìn khắp gian phòng. Cuối cùng nàng mường tượng thấy, không rõ rệt…có một người nào đó ở cạnh cửa, hầu như chỉ là một cái bóng, hay nói đúng hơn, là cái bóng của một cái bóng. Bà mẹ cúi xuống hỏi nàng: – Bây giờ con có thấy dễ chịu hơn không? Xơ Êđi ra hiệu và thì thầm rằng nàng thấy dễ chịu ở đây. Nhưng mắt nàng vẫn nhìn dán vào cửa. “Cái gì ở đấy thế nhỉ?” – nàng tự hỏi. Nàng muốn nhìn cho thật rõ: nàng tưởng chừng như cái đó quyết định cả cuộc đời nàng, và còn hơn thế nữa. Và vì Xơ Maria đứng che mất cửa, người bệnh đã khiến được cho cô tránh ra. Cái giường của nàng được đặt vào phần của gian phòng mà nàng và mẹ nàng thường gọi đùa là phòng khách. Sau một khoảnh khắc ngắn, người con gái hấp hối nói bằng một giọng nói nhẹ yếu ớt như hơi thở: – Mẹ ơi, bây giờ con đã thấy lại được phòng khách rồi, con rất muốn được chuyển đến phòng ăn. Nàng nhận thấy mẹ nàng trao đổi một cái nhìn lo lắng với hai người kia, và hai người này gật đầu. Nàng cho rằng họ không muốn chuyển chỗ là vì họ muốn giữ nàng cách xa con người giống như cái bóng ở cạnh cửa. Nàng đưa mắt cầu khẩn, và mẹ nàng và hai người bạn im lặng làm theo ý của nàng. Khi nàng đã ởtrong “phòng ăn”, nàng thấy rõ hơn ở phía ngoài cùng một hình thù đen đen cầm trong tay một dụng cụ. Đó không phảilà người mà nàng muốn gặp, nhưng nàng cần nói chuyện với người đó. Nàng cần phải đên gần hai người đó. Đôi môi nàng phác ra một cái mỉm cười đáng thương để xin lỗi và nàng ra hiệu rằng bây giờ nàng muốn được chuyển đên “nhà bếp”. Thế là bà mẹ bật lên tiếng khóc. Nàng hiểu rằng hẳn là mẹ nàng đang nhớ lại cái thời mà đứa con gái nhỏ của bà thường ngồi xổm trước bếp lò, người đỏ hồng trong ánh sáng của ngọn lửa, bi bô kể lại những chuyện ở trường, trong khi bà nấu bữa tối. Nàng hiểu rằng mẹ nàng lại thấy nàng ở tất cả những chỗ quen thuộc, và cảm thấy rã rời cả người khi nghĩ đến lúc bà phải chịu cảnh cô đơn. Nhưng Xơ Êđi không được quyền nghĩ đến mẹ nàng trong kúc này: trách nhiệm của nàng là phải tập trung tất cả sức chú ý của nàng vào cái việc quan trọng nhất còn lại mà nàng phải làm trong khảnh khắc ít ỏi khi nàng còn được sống. Bây giờ nàng đã được chuyển đến tận phía ngoài gian phòng, cuối cùng nàng đã nhìn thấy rõ con người vô hình đứng ở cạnh cửa. Đó là một người đàn ông đầu đội một cái mũ trùm đen kéo sụp xuống và tay cầm một cái hái. Lập tức nàng nhận ra ngay. “Đó là Thần Chết”, nàng tự nhủ. Nàng chỉ một điều lo lắng là sẽ bị bắt đi quá sớm không còn kịp làm cho xong nghĩa vụ của nàng ở cõi đời này. Người bệnh càng được đưa lại gần thì người tù nằm dưới đất càng co rúm người lại: hắn cố thu nhỏ người thêm như là để cố thoát khỏi nàng. Hắn nhận thấy nàng vẫn cứ nhìn vào cửa, và hắn không muốn bị nàng nhìn thấy. Hăn không muốn chịu đựng sự nhục nhã này. Vả chăng cái nhìn của Xơ Êđi không bao giờ bắt gặp cái nhìn của hắn: cái nhì ấy dán chặt vào người đánh xe bò, và Đavit Hôm tự nhủ rằng, nếu nàng nhìn thấy một người nào thì đó là Giorgiơ. Cái giường của nàng vừa được đặt vào khoảng giữa gian phòng dùng làm nhà bếp, thì Đavit Hôm liền nhìn thấy nàng gật đầu ra hiệu gọi Giorgiơ đến bên cạnh. Giorgiơ vẫn trùm cái mũ lên đầu như là bị rét run, bước lại bên nàng. Nàng chào hắn bằng một cái mỉm cười: – Ngươi thấy rằng ta không sợ ngươi, – nàng thều thào nói. – Ta chẳng muốn gì hơn là đi theo ngươi, nhưng ngươi phải thư lại cho ta đến ngày mai để cho ta làm xong cái nhiệm vụ ta được Chúa trao cho khi Người phái ta xuống cõi đời này. Trong khi nàng nói với Giorgiơ, Đavit Hôm ngẩng đầu lên và nhìn nàng. Y thấy nàng mang một vẻ đẹp mà trước kia nàng không có: một vẻ cao quý, tuyệt vời, bất khả xâm phạm và quyến rũ lạ lùng đến nỗi y không thể rời mắt khỏi nàng được. – Có lẽ ngươi không nghe rõ lời ta nói chăng? – Nàng nói với Giorgiơ, – hãy cýi xuống gần ta một chút. Không nên để cho người khác nghe được lời ta nói. Giorgiơ cúi đầu xuống thấp đến nỗi cái mũ trùm đầu của hắn gần chạm vào trán cô gái: – Cô muốn nói nhỏ thế nào cũng được, ta vẫn nghe thấy, – hắn nói. Nàng bèn bắt đầu nói, giọng khẽ đến nỗi cả ba người ngồi chung quanh không một ai ngờ rằng nàng đang nói thì thầm một điều gì đó. Riêng chỉ có Giorgiơ và bóng ma ở cạnh cửa nghe được mà thôi. – Không biết ngươi có hiểu rằng để thư lại cho ta đến ngày mai là cần thiết cho ta biết bao nhiêu không? – Nàng nói, – ta cần phải nói chuyện với một người. Ngươi không biết được rằng ta đã vô tình gây ra một tai họa như thế nào đâu. Ta đã quá tự tin và hành động quá độc lập. Làm sao ta dám đến trình diện trước mặt Chúa, ta, kẻ đã gây nên một tai họa lớn lao đến thế kia? Đôi mắt nàng mở trừng trừng vì khủng khiếp, và nàng thở một cách khó nhọc; nhưng nàng lại nói tiếp: – Ta cần phải nói cho ngươi biết rằng người ta muốn gặp là người mà ta yêu quý, ngươi có hiểu không? Người mà ta yêu quý… – Nhưng Xơ ơi,- người đánh xe bò nói, – người này… Nàng không để cho hắn nói tiếp, vì nàng vội vã muốn giải thích cho hắn nghe tất cả những lý lẽ để cho hắn xiêu lòng. – Ngươi phải biết rằng ta đang ở trong một nỗi tuyệt vọng lớn lao nên ta mới thú nhận với ngươi là ta yêu người ấy. Ta cảm thấy một nỗi xấu hổ vô cùng khi yêu một người đã có vợ con. Ta đã đấu tranh và cầu nguyện. Đáng lẽ phải là một người dẫn lối và là chỗ dựa tinh thần cho những kẻ khốn khổ, thì ta lại tồi tệ hơn tất cả những kẻ tồi tệ nhất trong bọn họ. Giorgiơ vuốt bàn tay lên trán nàng để cho nàng dịu đi, nhưng y không nói gì. – Điều nhục nhã dù sao cũng không phải là yêu một người đã có vợ. Yêu một kẻ độc ác mới là điều nhục nhã hơn. Ta không hiểu tại sao ta đã phải đem tình yêu của mình cho một kẻ khốn nạn. Ta đã hy vọng và tưởng rằng trong con người anh ta có một cái gì tốt đẹp; ta đã chờ đợi và đã luôn bị nhầm. Con người ta hẳn phải là xấu xa lắm nên trái tim ta mới lầm lạc như vậy. Ngươi hiểu chứ? Ta không muốn chết trước khi cố gắng một lần cuối cùng để làm thức tỉnh cái có thể là phần tốt đẹp trong con người anh ta. – Cô đã cố gắng bao nhiêu rồi đấy chứ, – Giorgiơ nói. Nàng nhắm mắt lại và ngẫm nghĩ, nhưng rồi nàng lại vội mở mắt ra và một niềm tin tưởng mới làm rạng rỡ khuôn mặt nàng. – Chắc ngươi phải tưởng rằng ta muốn thư lại vì lợi ích riêng của bản thân ta, còn thật ra ta không hề lo lắng gì cho những người còn ở lại trên cõi đời này, bởi vì ta sắp rời bỏ nó. Vậy ta sẽ kể cho ngươi nghe một chuyện trong ngày, và ngươi sẽ thấy rằng chính là để cứu những người khác mà ta cần phải sống thêm vài giờ nữa. Nàng nhắm mắt lại và nói tiép: – Lúc ấy là buổi sáng. Tôi thấy mình như đang ở ngoài đường, tay cắp cái rổ, chắc là đang mang bữa ăn cho một người nghèo nào đó. Tôi đi đến một cái sân mà không nhận ra được là ở đâu . Xung quanh đều là những ngôi nhà to cao, sạch sẽ và tươm tất có vẻ giàu có. Tôi không hiểu mình đến đây làm gì cho tới khi tôi thấy một căn nhà nhỏ dựng sát một bức tường giống như một cái lán để hàng mà người ta chuyển thành chỗ ở. Trên mái một làn khói nhỏ bay lên chứng tỏ căn nhà tồi tàn này có người ở. Tôi tự nhủ: “Tất nhiên là mình sẽ vào nhà này.” Tôi leo lên một cầu thang bằng gỗ dốc thẳng đứng rồi đặt tay lên núm khóa cửa. Tôi xoay nsm khóa thì cửa mở ra. Như vậy là cửa không khóa, tôi gõ cửa và cứ thế đi vào. Không ai để ý đến tôi, và tôi đứng ở góc nhà chờ cho người ta cần đến tôi bởi vì tôi biết rằng tôi được đưa đường dẫn lối đến đây là để thực hiện một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng. Tôi nhìn xung quanh mình: đồ đạc chẳng có bao nhiêu; đến một cái giường cũng không có, dưới đất là những tấm nệm rách toác và mấy ổ rơm; không một cái ghế nào là không gãy chân; một cái bàn bằng gỗ trắng kê trước một cửa sổ nhỏ. Và tôi bỗng hiểu ra rằng tôi đang ở nhà của Đavit Hôm. Vợ anh ta ngồi ở giữa nhà. Như vậy là chị ấy đã chuyển nhà trong thời gian tôi ở viện điều dưỡng. Nhưng sao lại nghèo khổ thế này? Đồ đạc của họ đâu cả? Cái máy khâu, cái bàn giấy xinh xắn ở đâu? Chẳng còn một tí gì, hết sạch. Tôi tự nhủ: “Chị ấy có vẻ tuyệt vọng biết mấy, và ănmặc mới khổ sở làm sao. Chị ấy chẳng giống tí nào như dạo mùa xuân vừa rồi.” Tôi những muốn chạy lại với chị ấy và hỏi xem sự thể ra sao, nhưng lúc ấy trong nhà không phải chỉ có hai chúng tôi : hai bà phước đang sôi nổi nói chuyện với chị ấy. Vẻ mặt họ rất nghiêm trang, và tôi nhanh chóng hiểu ra sự việc. Người ta đề nghị người mẹ tội nghiệp đưa hai đứa con vào nhà cứu tế để khỏi bị lây bệnh lao của cha chúng. Mới đầu tôi tưởng mình nghe nhầm. “Đavit Hôm mà bị lao?” – Tôi nghĩ vậy, – không thể như thế được. Rõ ràng là tôi có nghe nói như vậy một lần, nhưng tôi không muốn tin. Tôi không hiểu vì sao họ chỉ nói đến hai đứa con mà thôi. Tôi nhớ rằng họ có ba đứa. Nhưng chẳng mấy chốc tôi đã hiểu ra. Một bà phước thấy người mẹ tội nghiệp khóc lóc, bèn dịu dàng nói rằng bọn trẻ sẽ không bị khổ sở trong nhà cứu tế: ở đấy chúng sẽ được chăm sóc chu đáo như ở bất cứ gia đình nào. Lúc ấy, tôi nghe thấy chị vợ của Đavit Hôm trả lời rằng: “Xin bà tha lỗi cho tôi vì tôi khóc. Tôi còn khóc nhiều hơn nữa nếu tôi không có hy vọng đưa được các cháu vào nhà cứu tế. Cháu thứ ba, cháu bé nhất ấy đang nằm nhà thương, và khi nhìn thấy những cơn đau của cháu, tôi tự nhủ rằng tôi sẽ biết ơn và sung sướng nếu có ai vui lòng giúp tôi đưa hai cháu kia đi khỏi nơi này.” Nghe chị ấy nói như vậy, tôi thấy tim mình thắt lại vì lo lắng. Đavit Hôm đã làm gì với vợ, với con, với cái tổ ấm của anh ta? Hay nói cho đúng hơn tôi đã làm gì? Chính tôi đã đưa anh ta trở về với họ. Thế là đến lượt tôi, tôi cũng khóc. Và tôi cũng không hiểu được cái điều là ba người kia không hề để ý đến sự có mặt của tôi. Tôi thấy người vợ đi đến gần cửa. “Tôi đi gọi các cháu về, – chị ấy nói, – chúng đang chơi ngoài đường.” Chị ấy đi qua gần sát tôi đến nỗi cái váy vá víu tội nghiệp của chị chạm vào tôi. Tôi liền quỳ sụp xuống và vừa khóc vừa hôn gấu váy của chị. Tôi không thể nói được một tiếng nào. Điều thiệt hại tôi đã gây ra người đàn bà này lớn quá. Tôi ngạc nhiên thấy chị ấy không hề để ý đến tôi, nhưng tôi lại nghĩ rằng chắc chị ấy chẳng muốn nói gì nữa với người đã đẩy chị vào tai họa. Song chị chưa kịp mở cửa vì một bà phước đã gọi chị lại: có một thủ tục phải làm trước khi đi tìm mất đứa trẻ. Bà phước rút trong túi xách ra một tờ giấy và đọc cho bà mẹ nghe. Đó là một cái giấy cha mẹ phải ký vào để chứng nhận rằng họ gửi con cái của họ cho nhà Cứu tế trong suốt thời gian nhà của họ còn bị ô nhiễm vì bệnh lao. “Ở đầu kia gian nhà có một cái cửa khác, cửa ấy bỗng mở ra, và Đavit Hôm xuất hiện. Tôi có cảm tưởng rằng anh ta đã đứng sau cách cửa này đợi đến đúng lúc thì đi vào. Anh ta bận những quần áo cũ, bẩn thỉu rách rưới và mắt anh ta ánh lên vẻ dữ tợn. Anh ta có vẻ hài lòng nhìn vẻ nghèo túng ở quanh mình. Anh ta bắt đầu phản đối, lấy cớ là vì tình thương con: một đứa đã đi nằm bệnh viện, còn hai đứa, anh không đành lòng xa chúng. Hai bà phước hầu như không thèm nghe anh ta nói. Tuy nhiên họ cũng lưu ý anh ta rằng nếu anh ta giữ những đứa trẻ ở với mình thì có lẽ anh sẽ gây tai họa cho chúng một cách chắc chắn hơn. Trong khi họ tranh luận, tôi quay lại nhìn chị vơ của Đavit Hôm. Chị ấy đã lùi lại và đứng dựa lưng vào tường. Và chị ấy nhìn chồng chẳng khác nào kẻ bị nhục hình nhìn tên đao phủ. Tôi bắt đầu hiểu rằng tôi đã hành động dại dột và sai lầm hơn tôi tưởng. Tôi thấy hình hư Đavit Hôm phải có một mối hằn học đối với vợ; và anh ta tìm cách gặp lại vợ không phải vì muốn có lại một tổ ấm mà là để hành hạ chị ta. Tôi nghe anh ta nói với hai bà phước về tình thương con của anh ta. Hai bà đáp lại rằng tốt hơn cả là anh ta hãy chứng tỏ tình thương con bằng cách theo đúng lời chỉ dẫn của thày thuốc và tránh làm lây bệnh; và nếu được như thế thì hai bà chẳng yêu cầu gì hơn và để cho anh ta giữ lại những đứa trẻ. Nhưng hai bà vẫn chưa ngờ được là anh ta đang suy tính điều gì. Tôi là người đầu tiên đoán ra điều ấy. “Anh ta muốn giữ những đứa trẻ lại, – tôi tự nhủ, – chúng có bị lây bệnh thì anh ta cũng chẳng cần gì.” Người mẹ tội nghiệp chắc cũng đi đến một kết luận như tôi, bởi vì đột nhiên chị ấy kêu thét lên một cách tuyệt vọng: “Đồ giết người! Nó không muốn cho tôi đưa mấy đứa trẻ đến nhà cứu tế! Nó muốn nhìn thấy chúng chết vì lây bệnh của nó hơn kia. Nó tính như vậy là vì nó sẽ trả thù được tôi một cách độc ác. Đavit Hôm chỉ nhún vai: “Quả thật là tôi không muốn ký vào tờ giấy này.” Anh ta lạnh lùng nói với hai bà phước như vậy. Thế là những lời ầm ĩ tuôn ra: người vợ thì trút lên anh ta những lời oán trách, hai bà phước má đỏ bừng vì giận dữ,nói với anh ta những lời nặng nề. Tôi kinh hoàng đứng nghe họ nói. Không ai đau khổ bằng tôi, bởi vì ngoài tôi ra chẳng có ai yêu người đàn ông có hành vi độc ác này. Tôi cầu xin Chúa gợi cho họ những lời cần thiết, những lời có thể làm cho anh ta xiêu lòng. Nhưng lạ lùng thay, tôi cứ cứng cả người lại như bị bại liệt. Cản người vợ, cả ha hai bà phước không ai nói đến Chúa. Không ai dọa cho anh ta sợ cơn thịnh nộ của Chúa. Tôi có cảm giác như mình đang nắm sấm sét của Chúa trong tay mà không thể nào tung ra được. Một sự im lặng tiếp theo trrạn huyên náo. Hai bà phước đứng dậy để ra về. Họ chẳng đạt được kết quả gì cả. Người vơ cũng vậy, chị ấy vật mình xuống một chiếc ghế và tuyệt vọng. Một lần nữa tôi lại cố gắng một cách phi thường để cử động và để nói. Những lời lẽ cháy bỏng trong miệng tôi. “Ôi! Đồ đạo đức giả, – tôi những muốn kêu lên, – anh tưởng rằng tôi không thấy ý đồ của anh sao? Tôi là người sắp phải chết đây, tôi sẽ đưa anh ra trước tòa án của Chúa, trước vị thẩm phán tối cao, tôi buộc tội anh muốn giết chết những đứa con của chính anh. Tôi sẽ làm chứng để kết án anh”. Nhưng cuối cùng khi đã đứng được lên để nói những lời nói này thì tôi không còn ở trong nhà Đavit Hôm nữa: tôi lại ở đây, bất lực trên giường mình. Và từ bấy đến nay, tôi đã gọi anh ta, tôi đã gọi anh ta, mà không làm sao cho anh ta đến đây được. Cô xơ bé nhỏ vẫn nắm mắt trong suốt thời gian kể truyện, và bây giờ, nàng mở to mắt nhìn Giorgiơ với vẻ lo âu: – Ông đừng bắt tôi đi trước khi tôi nói chuyện với anh ấy! – Nàng khẩn cầu. – Hãy nghĩ đến vợ con anh ấy. Kẻ nằm dưới đát ngạc nhiên, tại sao Giorgiơ không nói với cô ấy một câu cho cô ấy yên lòng, rằng Đavit Hôm đã chết, và do đó không thể làm hại vợ con nữa? Tại sao hắn không nói thế? Ngược lại hắn còn làm cho cô nản lòng: – Cô có quyền lực gì đối với Đavit Hôm? – Hắn nói, – Hắn không phải là người chịu để cho mình chịu khuất phục. Điều cô nhìn thấy chỉ là một phần của ý định báo thù mà hắn nung nấu trong lòng từ bao nhiêu năm nay. – Ông đừng nói vậy. – Nàng van xin. – Tôi biết rõ hắn hơn cô, – người đánh xe bò nói, – tôi sẽ kể cho cô nghe cái chuyện mà đã làm cho Đavit Hôm trở nên như bây giờ. – Rất sẵn lòng, nàng nói, – tôi muốn được hiểu anh ấy. – Vậy cô hãy cùng tôi đi vào một thành phố lớn, – người đánh xe bò bắt đầu kể, chúng ta sẽ dừng lại trước một nhà tù. Lúc ấy là buổi tối. Một người đàn ông bị giam mười lăm ngày vì say rượu vừa được thả ra. Chẳng có ai chờ anh ta ở cổng, nhưng anh ta vẫn đứng lại và nhìn mãi quanh mình: anh ta hết sức mong mỏi được gặp một người nào vào lúc ấy, bởi vì anh ta ra khỏi nhà tù với một niềm xúc động mạnh mẽ làm đảo lộn cả người. Trong thời gian anh ta bị giam, người em trai anh ta do say rượu đã phạm tội giết người và bị bắt. Người anh được cha tuyên úy cho biết điều ấyvà dẫn anh ta đến xà lim của kẻ giết người chỉ cho anh ta thấy chàng trai trẻ tay còn bị còng vì đã chống cự khi bị bắt. “Con có biết ai đấy không?” Ông mục sư hỏi và Đavit Hôm bị một cú choáng váng mạnh, vì anh ta rất thương đứa em trẻ tuổi này. “Nó sé bị nhiều năm tù, – ông mục sư nói tiếp, – nhưng tất cả chúng ta đều nghĩ rằng, Đavit Hôm, chính con phải chịu cái khổ hình của nó, bởi vì nó bị bắt đến đây là do tội của con: con đã lôi kéo nó vào con đường xấu xa và đã làm cho nó trở thành tên nghiện rượu thảm hại”. Khi trở về phòng giam của mình, Đavit Hôm vật vã khóc lóc và vô cùng hối hận. Và trong giây phút khủng khiếp ấy, anh ta trịnh trọng tự hứa với mình sẽ từ bỏ con đường trụy lạc. Anh ta miên man nghĩ đến đứa em rồi đến người vợ tội nghiệp và những đứa con của mình. Và anh ta thề với mình là sẽ không để cho vợ con phải than phiền về mình nữa. Bởi vậy buổi tối hôm ấy khi ra khỏi nhà tù, anh rất muốn gặp vợ và cam đoan với vợ rằng anh ta sẽ bắt đầu một cuộc sống mới. Nhưng vợ anh ta không đến đón, nên anh ta đã tự về. Về đến nhà, vợ anh cũng không mở to cửa khi nghe tiếng gõ đầu tiên của anh như những lần trước anh ta đi vắng trở về. Một linh cảm khủng khiếp làm trái tim anh ta lạnh buốt: anh ta không chịu tin vào điều ấy. Không thể nào vợ anh lại bỏ đi khi anh đã trở thành một con người khác trở về nhà. Vợ anh ta khi đi đâu thường có thói quen dấu chìa khóa dươí tấm thảm đệm chùi chân; anh ta cúi xuống và quả nhiên tìm được chiếc chìa khóa. Anh ta mở cửa nhưng liền lùi lại. Trong một thoáng anh ta tự hỏi có phải mình nhầm hay không bởi vì căn nhà trống huếch; phần lớn đồ đạc thì vẫn còn đấy, nhưng không có một người nào. Chẳng có màn che cửa sổ, chẳng có củi để nhóm bếp, không một tí thức ăn nào. Căn nhà trống trơn lạnh lẽo chẳng có một chút niềm nở ân cần như một cái nhà lâu ngày không có người ở. Anh ta sang gõ cửa nhà người hàng xóm để hỏi xem có phải vợ anh ta bị ốm trong khi anh vắng nhà hay không; có lẽ người ta đã đưa cô ấy đi nhà thương rồi? – Không, hôm chị ấy đi thì vẫn mạnh khỏe như thường. – Nhưng cô ấy đi đâu? – Chẳng ai biết cả. Anh ta nhận thấy người ta vừa tò mò vừa thích thú, và một lần nữa anh ta lại linh cảm cái điều đã xảy ra. Vợ anh ta đã lợi dụng lúc anh ta không có nhà để bỏ anh. Chị đã mang con theo, đã lấy đi những đồ dùng cần thiết nhất, và đã không chuẩn bị tinh thần cho anh ta về sự bỏ đi này. Chị ta đã để cho anh ta về và nhìn thấy nhà cửa trống trơn như vậy. Thế mà anh ta đã định đem về cho vợ anh ta một niềm vui lớn. Suốt trên dọc đường về nhà, và ngay cả trước đó trong xà lim, anh ta lặp đi lặp lại điều sẽ nói với vợ. Trước hết là anh sẽ xin lỗi, rồi anh sẽ hứa là không đàn đúm nữa với một con người trước đây là bạn trác táng của anh. Anh đã bị lôi kéo bởi người này không phải chỉ vì những chuyện tội lỗi, mà còn vì đó là một người có giáo dục và có học vấn. Anh sẽ không đi lại chơi bời với người ấy nữa. Ngày mai anh sẽ tìm đến ông chủ cũ của anh và xin ông ấy cho anh trở lại xưởng…Anh sẽ làm việc và chịu vất vả vì vợ và các con. Anh sẽ mua quần áo đẹp cho họ và sẽ bảo đảm cho họ một cuộc sống đầy đủ tiện nghi thoải mái. Thế mà chị đã bỏ anh ta mà đi! “Anh thấy ớn lạnh, anh run lên trước sự nhẫn tâm này. Nếu vợ anh bỏ anh một cách công khai, thẳng thắn thì anh còn hiểu được, anh sẽ không có quyền giận dữ và căm tức chị: vì chị hẳn đã không có hạnh phúc khi sống với anh. Nhưng bỏ đi như vậy, không một lời nào thì thật là tàn ác. Anh se không bao giờ tha thứ cho chị ta. Chị ta đã đưa anh ra làm trò cười cho thiên hạ tối hôm ấy, cả khu phố đã cười diễu sự bất hạnh của anh. Anh sẽ tìm gặp được chị ta, và sẽ bắt chị ta phải trả giá cho nỗi nhục nhã và đau khổ này. Đến lượt mình, chị ta sẽ biết được thế nào là lạnh thấu tâm can. “Anh chỉ còn có ý nghĩ này làm niềm an ủi. Và anh bắt đầu đi lùng tìm vợ. Anh tìm vợ trong ba năm, và suốt trong ba năm này anh nuôi dưỡng lòng căm thù của mình bằng cái kỷ niệm về những giờ phút đau khổ ấy. Trước mắt anh, hành động của người vợ là một tội ác không gì sánh nổi. Anh đi theo những chặng đường cô đơn, và trong nỗi cô đơn, ý muốn bào thù của anh càng mạnh mẽ.” Cô Xơ bé nhỏ hấp hối đến lúc này vẫn im lặng nghe; bây giờ nàng kêu lên, ngắt lời kể chuyện của con người ủ ê đang cúi xuóng người nàng: – Thôi! – Ông đừng nói nữa, khủng khiếp quá! Làm sao tôi có thể gánh lấy trách nhiệm về việc làm của mình? Nếu tôi không đưa họ trở về với nhau, thì tội lỗi của anh ta sẽ không lớn đến như thế. – Tôi sẽ không nói gì nữa, – người đánh xe bò nói, – tôi chỉ muốn nói cho cô biết rằng để thư lại cũng vô ích mà thôi. – Ồ, không, không, tôi cần được thư lại! – Nàng kêu lên. – Tôi không thể chết mà chưa nhìn lại anh ấy. Cái bóng ma ở cạnh cửa rùng mình. Từ khi Xơ Êđi và người đánh xe bònói chuyện với nhau, y đã nhìn họ. Mỗi một lời hắn nói và mỗi một vẻ mặt của nàng đã khắc sâu vào tâm trí y. Y sẽ mãi mãi nhớ lại những điều đó. Tất cả những lời nàng nói, cả những lời nặng nề nhất y lại thấy êm ái lạ lùng; nỗi lo sợ và lòng thương cảm của nàng khi nghe Giorgiơ kể chuyện y đã làm cho vết thương của y được băng bó lại. Y không biết gọi tên điều y cảm thấy đối với nàng như thế nào. Y chỉ biết y sẽ chịu đựng tất cả về phần y. Y chỉ biết cái việc nàng yêu y mà đáp lại tình yêu ấy thì y chỉ đem cái chết đến cho nàng, điều ấy thật tuyệt vời, khó mà tả được. Mỗi lần nghe nàng nói nàng yêu y, tâm hồn lại xúc động một cách sâu sắc. Y cố làm cho người đánh xe bò chú ý đến mình, những hắn không một lần nào nhìn lại phía y. Y bèn thử đứng dậy, những lại ngã vật xuống vì những cơn đau ghê gớm. Y nhìn thấy cô Xơ bé nhỏ vật vã bồn chồn, day dứt. Hai bàn tay nàng chắp lại giơ ra trước mặt Giorgiơ; những vẻ mặt người đánh xe bò vẫn nghiêm khắc, trơ trơ không chuyển. – Tôi sẽ có thể thư lại cho cô, nếu như mà có thể giúp ích được điều gì. – Hắn nói. – Những tôi biết cô chẳng có chút quyền lực nào đối với con người ấy cả. Nói xong, người đánh xe bò lại cúi xuống người con gái hấp hối để đọc lên lời giải thoát cho linh hồn khỏi cái vỏ bọc trần thế. Nhưng vừa lúc ấy, một khuôn mặt ảm đạm bò đến gần giường. Bằng những cố gắng phi thường và phải chịu một nỗi đau đớn từ trước đến nay chưa từng cảm thấy, Đavit Hôm đã dứt đứt những dây trói. Y tưởng rằng vì hành động này, y sẽ bị sự trừng phạt bằng sự kéo dài đến vô tận những nỗi đau đớn của y, nhưng Xơ Êđi sẽ không phải đợi chờ và hy vọng một cách vô ích khi mà y đã ở gần nàng đến thế. Y trường sang phía bên kia giường để cho Giorgiơ, kẻ thù của y không thể nhìn thấy y được. Và y đã nắm lấy được một bàn tay của người con gái đang hấp hối. Mặc dù y không thể có một chút sức lực nào để bóp vào bàn tay ấy, nhưng nàng vẫn nhận ra được sự có mặt của y, và nàng đột ngột quay lại. Nàng nhìn thấy y quỳ gối bên cạnh, mặt chạm đát, không dám ngước mắt nhìn nàng; qua bàn tay của nàng mà y muốn xiết chặt, y truyền đến cho nàng lòng biết ơn, trái tim mà cuối cùng đã mềm lại của y. Thế là trên khuôn mặt nàng thoáng lóe lên một niềm hạnh phúc vô biên. Nàng nhìn mẹ, nhìn hai người bạn của nàng, những người mà nàng không kịp nói những lời cuối cùng để vĩnh biệt; nàng muốn họ chứng kiến hạnh phúc của nàng. Nàng đưa bàn tay không bị Đavit nắm, trỏ cho họ con người ngồi xổm dưới đất để cho họ chia sẻ với nàng niềm vui mừng khôn xiết khi thấy Đavit Hôm ăn năn hối hận ở cạnh chân nàng. Nhưng đúng vào lúc ấy, người đánh xe bò cúi xuống nàng và nói: – Hỡi nữ tù nhân, một linh hồn hiền dịu yêu thương, hãy ra khỏi nhà tù của ngươi. Xơ Êđi ngả xuống gối và thở hắt ra từ giã cuộc đời. Đavit Hôm bị kéo mạnh về phía sau. Những sợi dây mà y chỉ có thể cảm thấy lại trói lấy tay y. Nhưng lần này chân y không bị trói, và Giorgiơ nghiêm khắc ra lệnh cho y đi theo hắn. – Đi! – Hắn nói, – Hai chúng ta chẳng còn việc gì ở đây nữa. Những kẻ có nhiệm vụ đón cô ấy đã đến rồi. Hắn lôi Đavit đi không chút gượng nhẹ. Y bỗng thấy gian phòng bỗng đầy những hình người rực rỡ ánh sáng. Ở cầu thang, ở tận ngoài đường, y cũng tưởng như thấy những hình người như vậy, nhưng y bị kéo đi nhanh đến nỗi y không thể phân biệt rõ ràng một thứ gì. 6 Đavit lại thấy mình bị ném vào đáy thùng xe. Tâm hồn y bị xáo trộn vì một nỗi căm giận không những đối với tất cả mọi người mà đối với bản thân y nữa. Sao mà lúc nãy y lại điên rồ quỳ sụp xuống như một kẻ phạm tội ăn năn hối hận dưới chân Xơ Êđi? Giorgiơ hẳn đã chế nhạo y. Một người đàn ông phải biết gánh chịu những hậu quả hành vi của mình. Y không hiểu vì sao y đã có những hành vi ấy.Thật là lố bịch nếu chạy đâm bổ xuống chỉ vì một đứa con gái nói rằng yêu y. Phải, sự điên rồ ấy là thế nào? Phải chăng đó là tình yêu? Nhưng y đã chết, người con gái kia cũng đã chết. Thế thì đó là loại tình yêu gì vậy? Con ngựa khập khiễng cất bước. Nó dẫm lên nền gạch lát của một con đường dẫn ra ngoài thành phố. Nhà cửa thưa dần. Những cây đèn đường hiếm đi. Ra khỏi thành phố thì không còn đèn đường nữa. Càng đi đến gần cây đèn đường cuối cùng thì lòng y càng bị một nỗi buồn rầu và một niềm lo âu không thể nào giải thích được xâm chiếm. Y cảm thấy rằng trong khi rời bỏ thành phố này, y cũng rời bỏ luôn một cái gì mà đáng lẽ y không bao giờ được bỏ mất. Và đúng vào lúc y cảm thấy sự ngột ngạt ấy thì mặc dù có những tiếng cọt kẹt ầm ĩ của chiếc xe bò, y bỗng nghe những tiếng nói chuyện ở đằng sau y. Y ngẩng lên để nghe cho rõ. Đó là Giorgiơ đang nói chuyện với một người nào đó đã ngồi lên xe, một hành khách mà trước đó y không để ý đến. – Tôi không thể đi xa hơn nữa. – Một giọng nói dịu dàng bị nỗi buồn rầu và đau đớn trùm lên đến nỗi chỉ nghe hơi rõ. – Tôi có bao nhiêu chuyện muốn nói với anh ấy, nhưng khi mà anh ấy còn giữ thói độc ác và hung dữ như vậy thì tôi không thể để cho anh ấy nhìn thấy và nghe thấy tiếng nói của tôi. Ông nói giùm tôi với anh ấy rằng tôi đến để gặp anh ầy một lần cuối cùng, nhưng bây giờ thì thôi: tôi đã bị lôi đi và không bao giờ có thể gặp anh ấy được nữa. – Nhưng nếu hắn hối hận và tu tỉnh lại thì sao? – Giorgiơ nói. – Chính ông đã nói rằng không nên trông chờ vào điều đó. – Giọng nói của nàng run lên vì đau khổ. – Ông nói giùm tôi với anh ấy rằng tôi đã tưởng rằng chúng tôi phải vĩnh viễn sum họp với nhau, nhưng từ phút này trở đi thì anh ấy sẽ không bao giờ nhìn thấy tôi nữa. – Thế nhưng nếu hắn chuộc lại những hành vi sai lầm của hắn?- Giorgiơ kiên trì hỏi. – Ông sẽ nói với anh ấy rằng tôi không có quyền đi xa quá nơi này, – giọng nói rên lên, – và ông cho tôi gửi lời vĩnh biệt anh ấy. – Thế nếu hắn ti tỉnh lại trở thành một con người khác? – Giorgiơ lại hỏi. – Ông sẽ nói rằng tôi yêu anh ấy mãi mãi, – giọng nói buồn bã trả lời, – tôi không thể cho anh ấy một hy vọng nào khác. Đavit Hôm quỳ nhổm lên đáy thùng xe. Nghe những lời cuối cùng này của Êđi, y cố hết sức mình và đứng thẳng người dậy. Đôi tay bị trói của y quờ quạng muốn nắm lấy một vật gì, nhưng nó hay bị tuột đi mất. Y không thể nhìn rõ được cái vật gì đó đang phấp phới bay để lại một ấn tượng về ánh sáng lấp lánh, về vẻ đẹp từ trước tới nay không ai ngờ tới được. Y muốn vùng thoát ra để đuổi theo kẻ chạy trốn, nhưng bỗng nhiên y bị một cái gì ngăn lại làm cho y tê liệt đi còn hơn dây trói và xiềng xích. Đó tình yêu, tình yêu của những linh hồn, so với nó thì tình yêu của những con người chỉ là một ánh phản chiếu mờ nhạt; giống như khi ở bên cạnh giường của Êđi hấp hối, tình yêu ấy lại một lần nữa chinh phục được y. Tình yêu ấy chầm chậm thấm vào người y như một ngọn lửa mới nhen dần dần cháy vào gỗ. Không ai biết gì về công việc của nó; lâu lâu nó lại bắn ra một tàn lửa chứng tỏ rằng nó chưa tắt. Chính là một ngọn lửa nhỏ như loại ấy vừa nhen lên trong người y. Ngọn lửa ấy chưa tỏa hết ánh ngời sáng của mình, nhưng cũng đủ cho y thấy con người yêu dấu của y đẹp biết bao đến nỗi y ngã khuỵu xuống; lòng đầy lo sợ, y cảm thấy y không dám, y không muốn đến gần nó, y sẽ không thể nào chịu đựng được nó. Chiếc xe bò của Thần Chết tiếp tục đi giữa tối tăm mù mịt. Hai bên rừng cây vươn lên cao và dày đặc. Và lối đi thì hẹp đến nỗi chỉ thấy loáng thoáng một tí bầu trời. Con ngựa hình như cũng cử động chậm chạp hơn thường ngày; tiếng cọt kẹt của trục xe kêu rít hơn; những ý nghĩ trở nên nghiệt ngã và khắc khoải hơn; sự tẻ ngắt đến não lòng hình như mông lung hơn ở nơi khác. Bỗng nhiên Giorgiơ ghì dây cương; tiếng cọt kẹt lặng đi trong giây lát và người đánh xe bò kêu lên với một giọng vang lanh lảnh: – Nỗi khổ ải ta đang phải chịu, nỗi khổ ải còn chờ đợi ta có nghĩa lý gì so với niềm hạnh phúc của ta thoát khỏi cõi u mê không biết được điều quan trọng duy nhất cần phải biết? Xin cảm tạ Chúa đã kéo con ra khỏi cảnh tối tăm của cuộc đời trần thế. Từ dưới đáy sâu khốn khổ của mình con xin ca ngợi và chúc tụng Người, bởi vì bây giờ con biết rằng Người đã ban cho con cuộc sống vĩnh hằng bất diệt. Cuộc hành trình lại tiếp diễn với tiếng cót két quen thuộc, nhưng những lời nói của người đánh xe bò còn vang mãi trong tai Đavit Hôm. Lần đầu tiên y cảm thấy đôi chút thương hại với người bạn cũ. “Đó là một người dũng cảm. – Y tự bảo mình. Hắn không than vãn mặc dù hắn chẳng còn hy vọng sớm được thoát khỏi nhiệm vụ nặng nề của hắn”. Đó là một chuyến đi kéo dài tưởng như vô tận. Khi Đavit Hôm ước tính là họ đã đi được một ngày một đêm, thì họ đến một cánh đồng rộng dưới một bầu trời không bị mây che nữa mà lại có một mảnh trăng lưỡi liềm lấp lánh trôi giữa những chòm sao Thất tinh và sao Lạp hộ. Con ngựa khập khiễng bước đi giữa cánh đồng, chậm rãi đến làm cho người ta phát bực lên được. Và khi cuối cùng họ đã qua hết cánh đồng, và Đavit nhìn lên mảnh trăng để ước lượng thời gian đã trôi qua, thì y nhận thấy rằng mảnh trăng vẫn chưa đổi chỗ. Y lấy làm ngạc nhiên. Cuộc hành trình vẫn tiếp tục mãi, bất tận, tẻ ngắt từng quãng dài. Đavit Hôm lại nhìn lên bầu trời và những ngôi sao, nhưng lần nào y cũng thấy mặt trăng, chòm sao Thất tinh và sao Lạp hộ vẫn ở nguyên chỗ cũ. Cuối cùng y hiểu ra rằng chẳng có một sự thay đổi nào giữa ngày và đêm: từ khi họ lên đường, vẫn là một màn đêm tăm tối như thế ngự trị. Họ đi như vậy đằng đẳng hàng giờ, nhưng trên cái mặt đồng hồ lớn của bầu trời, kim đồng hồ vẫn không quay. Đavit Hôm nhớ lại Giorgiơ có nói rằng thời gian kéo dài vô tận để cho người đánh xe bò có thể đến được hết mọi nơi hắn cần đến. Y khiếp sợ hiểu ra rằng đối với y tưởng như đó là những ngày và đêm, thì theo sự tính toán của người đời chỉ là những phút ngắn ngủi. Hồi còn bé y đã nghe kể chuyện một người đến thăm nơi ở của những người ở cõi cực lạc, và khi trở lại giữa những người trần, người ấy nói rằng một trăm năm trên thiên giới của Chúa cũng qua nhanh như một ngày ở cõi thế. Đối với người đánh xe bò cho Thần Chết thì một ngày ắt hẳn cũng bằng một trăm năm. Một lần nữa y lại thấy đôi chút thương hại Giorgiơ. “Không lấy gì làm lạ rằng hắn mong ngày mong đêm cho đến lúc được thay phiên. – Y tự nhủ, – đối với hắn, năm vừa qua quả thật là dài.” Trong khi họ leo một dốc dài họ trông thấy một người còn bước đi chậm hơn cả họ, và họ đuổi kịp người ấy. Đó là một bà già lưng còng, thân hình vẹo vọ và mảnh khảnh. Bà lê bước, dựa người lên một chiếc gậy to và mặc dù yếu đuối vẫn mang một cái gói nặng chĩu đến nỗi người bà nghiêng về một bên. Bà già hình như có cái năng khiếu trông thấy được chiếc xe bò của Thần Chết, bởi vì bà dừng lại và tránh ra cạnh đường, như thể là để nhường đường cho chiếc xe đi qua. Rồi bà lại tiếp tục đi, bước nhanh hơn một chút đến gần chiếc xe để có thể ngắm nó. Dưới ánh trăng bàng bạc, bà nhận thấy con ngựa là một con vật tội nghiệp, chột hoặc mù, bộ yên cương thì vá víu bằng những sợi dây và những cành liễu, còn chiếc xe bò hư nát thì hình như là mỗi lúc bánh xe lại sắp sửa long ra. – Tôi lấy làm lạ tại sao lại có những người liều lĩnh ngồi trên một chiếc xe bò cà khổ và với một con nghẽo như thế này, – bà thì thầm mà không nghĩ rằng hành khách trên xe có thể nghe bà nói.- Ta cũng muốn xin ngồi nhờ một lát, nhưng của đáng tội, con vật khốn khổ này kéo lê cái thân nó cũng đã vất vả lắm rồi. Còn chiếc xe thì chắc gãy mất nếu ta leo lên. Bà vừa lẩm bẩm nói thế thì Giorgiơ đã nghiêng ra khỏi ghế và khoe chiếc xe của hắn: – Ồ! – Hắn nói, – con ngựa và chiếc xe này không tồi như bà nghĩ đâu bà ạ! Với con ngựa và chiếc xe này tôi đã có thể vượt qua được những vùng biển có sóng cao bằng mái nhà và tàu bè nào cũng bị đắm. Bà già sửng sốt nhìn hắn, rồi nghĩ rằng mình gặp một tay đánh xe bò ưa pha trò, bà vừa cười vừa đáp lại: – Ngựa và xe của anh có lẽ đi trên biển giỏi hơn là đi trên đường cái đấy nhỉ? Ít nhất thì theo như tôi nhận thấy, chúng cũng khá vất vả trên con đường này. – Tôi đã theo những cái giếng mỏ mà xuống tận lòng đất, – người đánh xe bò trả lời, – thế mà con ngựa của tôi không hề bị vấp ngã; và tôi đã đi qua những thành phố bị cháy, lửa vây quanh chúng tôi như một cái lò nấu quặng. Chẳng có anh lính cứu hỏa nào dám đánh liều xông vào đám lửa khói ấy như con ngựa tôi đây, nó cứ xông ào vào mà chẳng việc gì cả. – Anh cứ nói đùa để chế diễu bà già này làm gì, anh đánh xe bò kia, – bà lão nói. – Đôi khi tôi phải trèo lên đỉnh núi mà chẳng có đường sá gì cả, – người đánh xe bò nối tiếp, – nhưng con ngựa của tôi nó cứ leo lên những bờ đá, nhảy qua những vực sâu và chiếc xe bò vẫn không suy suyển mặc dầu có chỗ mặt đất lổn nhổn những đá chẳng khác gì lòng một cái thác. Tôi đã vượt qua những đầm lầy không có một mảnh đất nào đủ chắc để đỡ một đứa trẻ. Tuyết có chất thành đống cao bằng đầu người cũng chẳng ngăn được tôi đi. Bởi vậy nên tôi chẳng phàn nàn gì về những phương tiện giao thông của tôi cả. – Nếu đúng như anh nói thì tôi chẳng lấy gì làm lạ là anh hài lòng về chúng.- Bà già đồng ý. – Anh chắc phải là một người đáng kính nên mới có con ngựa và chiếc xe như vậy. – Tôi là kẻ mạnh, quyền lực tôi bao trùm lên con cái người đời, – người đánh xe bò trả lời, – và giọng hắn trở nên nghiêm trang. – Tôi cưỡng bức họ dù họ ở trong nhà cao cửa rộng hay trong những túp lều tồi tàn. Tôi đem tự do đến cho kẻ nô lệ và lôi vua chúa ra khỏi ngai vàng. Không có pháo đài kiên cố nào mà tôi không vượt qua thành lũy của nó được. Không có khoa học nào ngăn cản được bước tôi đi. Tôi giáng tai họa vào những kẻ đang hưởng yên vui hạnh phúc, và tôi ban gia sản cho những kẻ nghèo khổ đang mòn mỏi trong cảnh cơ hàn. – Đúng là tôi đã nghĩ vậy. – bà già vừa cười vừa nói. Tôi đã gặp những con người tài ba. Nhưng nếu anh là người có quyền thế như vậy và có một chiếc xe tuyệt vời như vậy, thì vó lẽ anh sẽ để cho tôi đi nhờ một quãng đường. Tôi đến nhà con gái tôi để dự lễ thánh Xinvetxtrơ nhưng tôi bị lạc đường, nếu anh không giúp tôi thì có lẽ đêm nay tôi phải ngủ ngoài trời mất. – Bà chớ nên yêu cầu tôi giúp, – người đánh xe bò nói, – bà đi bộ còn dễ chịu hơn là ngồi trên chiếc xe bò của tôi. – Có lẽ anh nói phải đấy, – bà già nói. – Nhưng ít ra anh cũng cho tôi để nhờ cái bọc nhỏ của tôi vào thùng xe của anh, nó chẳng vướng víu gì cho anh đâu. Không đợi trả lời, bà nâng cái gói của mình đặt lên xe, nhưng giống như là người ta đặt nó lên làn khói bay hay những đám mây mù, cái gói rơi ngay xuống đất. Vào đúng lúc ấy, bà già hẳn mất đi cái năng lực nhìn thấy được chiếc xe bò, bởi vì bà đứng lại, ngơ ngác và run rẩy, không dám nói thêm một lời nào với người đánh xe bò. 7 Người đánh xe bò đã đưa Đavit Hôm vào một căn phòng lớn, cửa sổ có chăng lưới sắt, tường màu sáng và trần trụi. Một dãy giường kê dọc tường, nhưng chỉ một giường có người nằm. Họ ngửi thấy mùi thuốc nhạt thếch. Một người mặc đồng phục gác ngục ngồi ở mép giường; và Đavit Hôm hiểu rằng y đang ở trong bệnh xá của một trại giam. Một bóng đèn điện treo trên trần, và nhờ ánh sáng đèn, Đavit Hôm thấy trên giường một người bệnh trẻ tuổi, gương mặt đẹp nhưng hốc hác. Vừa thoáng nhìn thấy người tù, y liền giật mình. Y quên mất rằng y đã có một tình cảm dịu dàng hơn đối với Giorgiơ. Bây giờ y lại sắp sửa xông vào hắn với cơn thịnh nộ của y. – Mày đến đây làm gì? – Y kêu toáng lên. – Nếu mày động đến người đang nằm kia thì mày với tao sẽ là tử thù, và mãi mãi sẽ là như vậy. Mày có nghe tao nói không? Người đánh xe bò quay lại và đưa mắt nhìn y với vẻ thương hại hơn là trách móc: – Bây giờ tớ mới biết ai đang nằm kia, trên cái giường ấy, Davit ạ. Khi mới vào, tớ chưa biết là ai cả. – Mày có biết hay không biết, điều ấy không quan trọng. Nhưng bây giờ mà… Y ngừng bặt. Giorgiơ đưa tay làm một cử chỉ oai vệ và Đavit Hôm lùi lại lặng câm, bị khuất phục vì một nỗi sợ hãi không thể cưỡng lại và không thể giải thích được. – Hai chúng ta chỉ được phép tuân lệnh và phục tùng, – người đánh xe bò nói. – Cậu chẳng có gì để mong muốn và đòi hỏi, cậu chỉ có việc đợi lệnh, bình tĩnh và nhẫn nhục mà thôi. Rồi Giorgiơ kéo sụp cái mũ trùm đầu của hắn xuống để ra hiệu rằng hắn không muốn trao đổi lời nào với y nữa, và trong sự yên lặng tiếp theo đó, Đavit Hôm nghe tiếng người tù bắt đầu nói chuyện với người gác ngục. – Ông có tin rằng cháu sẽ có lúc trở lại thành người tử tế không? Người bệnh hỏi với một giọng nói đã yếu đi rất nhiều, nhưng hoàn toàn không chán nản. – Nhất định thế, Hôm ạ, nhất định thế. – Người gác ngục trả lời một cách nhân hậu mặc dù hơi có vẻ ngập ngừng. – Chỉ cần cậu nghỉ ngơi một ít và cậu khỏi được cái chứng sốt này. – Ông biết rõ rằng cháu không nói về chứng sốt, – người bệnh nói, – cháu hỏi ông rằng ông có tin chắu sẽ có lúc hồi phục được không? Khi đã bị buộc tội giết người thì không dễ dàng gì đâu ông nhỉ? – Đối với cháu rồi thì sẽ tốt thôi, Hôm ạ. Bởi vì cháu đã nói với ta rằng cháu sẽ biết đi đâu không được ra khỏi đây, – người gác ngục trả lời. – Đến đấy cháu sẽ được đón tiếp tốt, có phải không? Trên nét mặt mệt mỏi của người bệnh thoáng qua một nét cười đẹp: – Ông bác sĩ khám cho cháu tối nay…ông ấy bảo, thế nào nhỉ? – Anh ta lại hỏi. – Không có gì nguy hiểm, Hôm ạ, không có gì nguy hiểm cả. Bác sĩ cứ nói mãi rằng: “Chỉ cần cho nó ra khỏi bức tường này là tôi sẽ làm cho nó bình phục chóng thôi.” Người tù ngẩng đầu lên và suýt soa: – Ra khỏi những bức tường này! Anh ta thở dài. – Ta chỉ kể lại lời mà ông bác sĩ quen nói thôi – người gác ngục nói tiếp. – Cháu đừng hiểu nói như vậy là bảo rằng cháu phải trốn đi! Đừng có trốn như cháu đã làm cách đây một năm! Làm như thế thì chỉ tổ kéo dài thời hạn của cháu mà thôi. Đấy, bỏ trốn thì chỉ được lợi như vậy thôi. – Ông đừng sợ, bây giờ cháu đã biết điều hơn rồi. Cháu chỉ còn nghĩ ở cho đến hết hạn tù của cháu. Sau đó cháu sẽ thử làm lại cuộc đời mới. – Cháu nói phải đấy, Hôm ạ, sẽ làm một cuộc đời mới, – người gác ngục nói với vẻ trang nghiêm. Trong thời gian cuộc nói chuyện này diễn ra, Đavit Hôm đã vô cùng đau đớn. – Nó đã mắc bệnh ở đây, – y thầm nghĩ, lắc lư người một cách bồn chồn, – và thế là nó nguy rồi; nó vốn đẹp trai, khỏe mạnh và vui tươi biết mấy. – Ông có…- người bệnh lại bắt đầu nói, nhưng anh ta dừng lại giữa câu vì người gác ngục để lộ ra một cử chỉ hơi sốt ruột, và anh ta hỏi: – Có lẽ nội quy cấm không cho được nói chuyện phải không ạ? – Không, không, đêm nay cháu được phép nói chuyện nhiều bao nhiêu cũng được. – Đêm nay…?- Người bệnh ngập ngừng…- À, chắc là vì lễ thánh Xinvetxtrơ. – Phải đấy, – người gác ngục nói, – bởi vì là một năm mới tốt làng đang bắt đầu với cháu. – Người này biết rằng em ta sẽ chết đêm nay, – Đavit Hôm rên rỉ trong sự bất lực của mình. – Vì thế nên ông ta mới dịu dàng như vậy. – Ông có nhận thấy rằng, – người tù lại tiếp tục câu hỏi lúc nãy bị ngắt quãng giữa chừng. – Ông có nhận thấy rằng từ cái lần cháu bỏ trốn ấy, cháu đã thay đổi nhiều kh không? Từ bấy đến nay cháu không làm ông vất vả nữa chứ? – Cháu đã hiền lành như một con cừu non, và cháu không hề gây cho ta một sự bất bình nào. Nhưng dù sao ta cũng vẫn nói với cháu: đừng có lặp lại chuyện ấy nữa. Người bệnh mỉm cười: – Thế ông có tự hỏi do đâu mà cháu thay đổi như vậy không? Có lẽ ông tưởng rằng đó chỉ là sức khỏe chắu đã kém đi trong lần vượt ngục? – Phải, chúng ta cũng đã nghĩ đại khái như vậy đấy. – Chẳng phải thế đâu, – người bệnh lại nói. – Lý do hoàn toàn khác. Trước đây cháu không dám nói, nhưng đêm nay cháu sẽ kể cho ông nghe. – Ta sợ rằng cháu sẽ phải nói nhiều quá, Hôm ạ, – người gác ngục nói. Nhưng thấy mặt người ốm sa sầm lại, ông ta dịu dàng nói tiếp: – Không phải là ta chán không muốn nghe cháu nói đâu, ta nói thế là muốn có lợi cho cháu thôi. – Ở nhà tù đây các ông không lấy làm lạ là cháu đã tự ý về sao? – Người bệnh nói, – không ai ngờ được chỗ cháu trốn, thế nhưng cháu đã ra cho người ta bắt lại. Các ông có biết vì sao cháu làm vậy không? – Chúng ta nghĩ rằng chắc cháu khổ sở quá nên cháu thấy trở lại là hơn, – người gác ngục nói. – Đúng là những ngày đầu thì cháu có khổ thật. Nhưng cháu đã trốn đến ba tuần lễ. Thế các ông tin rằng suốt cả thời gian ấy, cháu ở trong rừng hoang, ngủ ngoài trời, giữa mùa đông ư? – Cháu đã nói thế thì cũng phải tin như thế thôi. Người tù có vẻ thích thú: – Đó là những điều phải nói với nhà chức trách để khỏi liên lụy đến những người đã giúp đỡ mình. Phải nói như vậy chứ ông? Khi có những người dám cả gan cho người tù vượt ngục trú ẩn, và đối xử tốt với người ấy thì phải tìm cách che chở cho người ta. Ông cũng đồng ý như vậy chứ? – Cháu hỏi ta như vậy ta không thể trả lời được Hôm ạ. – Người gác ngục nói với vẻ dịu dàng mà ông vẫn biểu lộ từ trước đến giờ. Người tù trẻ tuổi buông một tiếng thở dài nuối tiếc. – Chà miễn sao cháu có thể chịu đựng được cho đến ngầy cháu được trả lại tự do và có thể trở về với họ! Nhà của ở họ cạnh bờ rừng. Anh ta ngừng lời, thở hổn hển vì ngạt thở. Người gác ngục lo lắng nhìn anh ta và đưa tay với lấy cốc thuốc nước để trên bàn, nhưng cốc đã cạn. – Ta phải đi lấy thuốc đây. – Ông vừa nói vừa đi ra khỏi phòng. Lát sau, người đánh xe bò đã ngồi vào chỗ người gác ngục. Hắn đặt cái hái sang bên để cho người bệnh không nhìn thấy, và hất cái mũ trùm đầu của hắn ra đằng sau. Đavit Hôm không nén nổi một tiếng rên, giống như là tiếng khóc của một đứa bé, khi thấy người đàn ông đáng sợ kia ngồi gần em mình như vậy. Nhưng chính người em thì lại chẳng tỏ ra sợ hãi chút nào. Bị rối loạn vì cơn sốt, anh ta không nhận ra là có một người vừa mới đến, cứ tưởng là vẫn nói chuyện với người gác ngục của mình. – Căn nhà tồi tàn của họ mới bé làm sao. – Anh ta vừa nói vừa thở hổn hển. – Cậu đừng nói làm gì cho mệt, – người đánh xe bò nói. – Nhà chức trách biết hết mọi chi tiết mọi chi tiết chủa chuyện này, nhưng chẳng bao giờ họ đả động đến cả. Người bệnh ngạc nhiên mở rất to đôi mắt. – Phải, cậu nhìn ta ngơ ngác, – người đánh xe bò nói tiếp, – nhưng cứ đợi rồi cậu sẽ thấy! Cậu tưởng rằng chúng ta không biết một buổi chiều có một người lén lút đột nhập vào một căn nhà nhỏ, căn nhà cuối cùng của một làng dài. Người ấy tưởng sẽ không gặp một ai trong nhà cả. Người ấy đã nấp ở bìa rừng chờ cho bà chủ nhà đi khỏi. Y biết rằng người chồng đi làm vắng, và y cũng không thấy có bóng dáng của trẻ con. Khi người vợ xách xô đi vắt sữa, y liền lấy chiếc chìa khóa mà bà đã giấu trước mặt y và đi vào nhà. – Làm sao, làm sao mà ông biết được chuyện đó?- Người bệnh kêu lên và làm một cử chỉ như muốn ngồi nhổm dậy. – Cứ nằm yên, – người đánh xe bò nói với giọng rất hiền từ. – Đừng lo gì cho những người bạn của cậu. Người ta không vô nhận đạo trong việc quản lý các nhà tù đâu. Ta sẽ kể cho cậy nghe những chuyện khác nữa mà chúng ta đã biết! Khi người đàn ông đã vào căn buồng độc nhất của căn nhà, y sợhãi lùi lại vì trong nhà không phải không có người nào như y đã tưởng: ở phía cuối buồng, trên một chiếc giường rộng có một đứa trẻ ốm đang nhìn y. Y lại gần, nhưng đứa trẻ nhắm mắt lại và nhất định không chịu mở ra, cứ nằm im thin thít như chết. - ”Tại sao giữa ban ngày mà em lại nằm? – Người đàn ông hỏi, – Em ốm à?” “Đứa trẻ không nhúc nhích. “- Đừng sợ gì cả! – Người đàn ông nói tiếp, – ta không muốn làm hại em đâu, chỉ cần em nói cho ta biết có thể tìm thấy cái gì ăn được rồi ta sẽ đi ngay lập tức. “Đứa trẻ cứ nằm yên. Người đàn ông bèn rút một cọng rơm ở ổ rơm ra và cù vào mũi nó. Đứa trẻ hắt hơi, người đàn ông bật cười. Lúc đầu đứa trẻ nhìn y một cách sợ hãi, nhưng rồi nó cũng bật cười nốt. “- Em định làm cho anh tưởng rằng em đã chết, – nó nói. “- Anh đã thấy rõ như vậy, nhưng cần gì phải làm thế? “- Anh hẳn biết rằng nếu anh gặp một con gấu ở trong rừng thì anh phải nằm ngay xuống đất và giả vờ chết, – đứa trẻ giải thích, – thế là con gấu liền đi đào một cái hố để ném anh vào, và lúc ấy anh có thể chuồn luôn. “ Người đàn ông bỗng đỏ mặt. “- Thế em tưởng anh sẽ đi đào hố à? – Y hỏi. “- Em ngốc như thế đấy, – mà lại còn ngốc hơn thế nữa bởi vì dù sao em cũng không thể chạy trốn được. Em bị đau ở hông và không đi được. Người tù mỗi lúc một ngạc nhiên hơn. – Có lẽ cậu chán nghe tôi kể rồi sao? – Người đánh xe bò hỏi. – Không, không, – người bệnh trả lời. Cháu muốn được nghe nhắc lại tất cả những chuyện đó. Nhưng cháu không hiểu vì sao… – Ta biết được những chuyện này thì cũng chẳng có gì là lạ. Ta sẽ nói cho cậu nghe làm sao ta biết được chuyện ấy. Có một kẻ lang thang tên là Giorgiơ; cậu đã nghe nói đến y chưa? Trong một chuyến đi lang thang y biết được chuyện ấy, rồi y kể lại với những người khác, và cứ thế chuyện ấy đến tai chúng ta ở nhà tù. Im lặng một lát, rồi người bệnh hỏi với một giọng rất yếu: – Rồi sau thì người đàn ông và đứa trẻ ấy ra sao? – Thế này, người đàn ông lại hỏi xin thức ăn một lần nữa. “Thường thường có người nghèo đến xin ăn không?” – Y hỏi. “- Có chứ, đứa trẻ đáp. “- Và mẹ em có cho gì không? “- Có, nếu trong nhà có một chút gì thì mẹ em cho. “- Đó là điều anh muốn hỏi em. Anh là một người nghèo đang bị đói. Em hãy nói cho anh biết chỗ để cái gì có thể ăn được, và anh sẽ chỉ lấy vừa đủ ăn cho đỡ đói mà thôi. “Đứa trẻ hìn y với vẻ tinh quái. “- Mẹ em đã nghĩ đến người tù vượt ngục, nghe nói đang trốn ở trong rừng, và mẹ em đóng hết các tủ ở hốc tường rồi. “- Nhưng hẳn em biết mẹ em giấu chìa khóa ở đâu, và em sẽ nói cho anh biết chứ? Nếu không thì anh buộc phải phá cửa tủ. “- Phá cửa chẳng dễ dàng đâu, – đứa trẻ nói. – Tủ đứng và tủ hốc tường nhà em đều có khóa rất chắc.. “- Người đàn ông đi quanh gian phòng để tìm chìa khóa. Y lục lọi trong các ngăn kéo bàn và trên nóc lò sưởi, nhưng chẳng tìm thấy gì. Đứa trẻ ngồi trên giường vẫn nhìn y. Bỗng nó đưa mắt nhìn ra cửa sổ rồi kêu lên: “- Có người đi trên đường,họ đang đi đến đây, mẹ em và mấy người khác nữa. “Người tù nhảy phốc một cái đến gần cửa. “- Anh mà ra thì họ bắt ngay, – đứa trẻ nói, – anh trốn vào cái tủ đứng ấy. “Người đàn ông lưỡng lự. “- Nhưng anh không có chìa khóa, – y nói. “- Em có, – đứa trẻ đắc thắng kêu lên, và nó đưa cho y một chiếc chìa khóa to tướng nó nắm trong tay. “Người tù vượt ngục cầm lấy chiếc chìa khóa, nhảy bổ đến cái tủ và mở ra. “- Bây giờ anh ném chìa khóa cho em rồi đứng trong tủ chốt cửa lại. “ Y làm theo và tự nhốt mình trong tủ. “Trông ngực kẻ vượt ngục khốn khổ chắc phải đập dữ lắm khi y đứng sau cách cửa tủ nghe ngóng những người đuổi bắt mình. Y nghe tiếng mở cửa, một giọng đàn bà the thé kêu lên: “- Có ai vừa ở đây không? “- Có, đứa bé trả lời, – mẹ vừa đi khỏi thì một người đàn ông chẳng gõ cửa gì cả mà cứ thế bước vào nhà. “- Lạy Chúa, người đàn bà rên lên, – đúng như người ta nói với tôi là họ thấy hắn ra khỏi rừng và đi vào đây. “Người tù vượt ngục lẩm bẩm một tiếng rủa đứa trẻ đã phản bội y. Y đã bị mắc kẹt như là trong một cái bẫy chuột. Y sắp sửa đây tung cách cửa để thử lợi dụng lúc mọi người đang sửng sốt chưa kịp trở tay mà nhảy vọt ra khỏi nhà, thì vừa lúc y nghe thấy một giọng nói khác hỏi xem kẻ vượt ngục chạy đi đâu. “- Anh ta không còn ở đây nữa, – cái giọng trong trẻo của đứa bé lại cất lên, – chắc thấy các bác đến nên anh ta sợ. “- Hắn có lấy mất cái gì không? “- Không, anh ta có xin chút gì ăn, nhưng con chẳng có gì cho anh ta ăn cả. “- Thế hắn không làm gì con à? – Giọng nói vẫn lo lắng hỏi. “- Anh ta lấy cọng rơm ngoáy vào mũi con – đứa trẻ nói. “Và kẻ vượt ngục nghe thấy có tiếng cười trong trẻo. “- Anh ta cù con à, bà mẹ reo lên. Bà cũng cười, như đã cất được gánh nặng. “- Hắn đã đi mất rồi thì ta còn đứng đây ngắm mấy bức tường kia làm gì nữa. – Một giọng đàn ông nói. nói. “Và những tiếng chân báo cho người vượt ngục biết là họ đã bỏ đi. “- Thế chị ở lại nhà à, chị Lizza? – Một người nào đó hỏi. “- Vâng, hôm nay tôi không thể để thằng be ở nhà một mình nữa. “Người vượt ngục nghe tiếng đóng cổng ngoài và hiểu rằng chỉ còn hai mẹ con ở nhà. Nhgưng y vẫn không dám ra. “- Ta sẽ ra sao đây? – Y tự hỏi. “- Vừa lúc ấy y nghe tiếng chân bước lại gần cái tủ. “- Này anh kia ơi, đừng sợ gì cả, – tiếng người đàn bà gọi, – nhưng mà anh ra đây cho tôi hỏi chuyện. Cùng lúc ấy, một chiếc chìa khóa cắm vào ổ khóa và một bàn tay kéo cánh cửa tủ. “- Đó là cậu ấy bảo tôi trốn vào đấy, – anh ta nói và chỉ đứa bé. “Thằng bé cười. Cái chuyện mạo hiểm này làm cho nó thích thú quá vỗ tay ầm lên. “- A! Thằng này đấy hả? – Người mẹ nói với vẻ kiêu hãnh. – Nó cứ nằm mãi ở đây mà suy nghĩ và nghiền ngẫm, nên mới trở nên ranh ma như thế này đấy! Rồi chẳng mấy chốc nó sẽ tinh khôn hơn chúng ta cho mà xem. “Người vượt ngục hiểu rằng người mẹ sẽ không tố cáo y, bởi vì y đã được con trai bà che chở. “- Quả thật, – y nói, – cậu bé tinh quái lắm. Tôi vào đây để cố kiếm tí gì đó ăn cho đỡ đói, thé mà cậu nhóc ấy cứ nhất định không nói cho tôi biết chìa khóa để đâu. Cậu ấy còn bạo dạn hơn rất nhiều kẻ có đôi chân lành lặn đấy. “ Bà mẹ thừa hiểu là anh ta khen như vậy để lấy lòng bà, nhưng bà vẫn rất thích thú khi nghe anh ta nói. “- Tôi sẽ dọn cho anh ăn – bà nói. “Trong khi người tù vượt ngục ăn, cậu bé bắt đầu hỏi về chuyện vượt ngục của anh ta, và anh ta kể hết từ đầu đến cuối không dấu diếm một tí gì. Đó không phải là một việc có dự định trước, tự nhiên thời cơ đã đến vào một hôm khi anh ta đang làm việc ở sân nhà giam và cổng thì mở để chở than vào. Cậu bé cứ hỏi và nghe kể không biết chán anh ta làm sao mà vượt qua thành phố và đi được vào rừng. Hai ba lần người đàn ông muốn đi, nhưng đứa bé cứ giữ anh ta lại. Cuối cùng bà mẹ nói: “- Thôi anh cũng nên ở lại đây mà chuyện trò với Bécna. Có thể người ta vẫn còn lùng anh đấy. “Khi ông bố trở về, người vượt ngục vẫn còn ở trong nhà. Trời đã tối và ông tưởng là một người hàng xóm nào đó đang nói chuyện với con ông. “- Cậu Pie đang kể chuyện cho con đấy à? – Ông hỏi. “Tiếng cười của thằng nhóc bật ra. “- Không phải đâu bố ạ!, không phải anh Pie đâu, còn hơn thế rất nhiều. Bố lại đây con nói cho mà nghe. “Ông bố đi lại gần giường, nhưng ông phải đưa sát tai vào miệng nó thì nó mới chịu nói. “- Đó là người tù vượt ngục đấy. – Nó thì thào. “- Hừ Béc na, con cứ nói vớ vẩn. “- Thật đấy mà, – đứa bé đáp. Anh ấy đã kể cho con nghe anh ấy đã vượt ngục như thế nào, rồi anh ấy đã ở ba đêm giữa rừng trong một cái lều của những người đón củi. Con biết hết. “Bà mẹ vội vàng mang lại một cây đèn, và ông chủ nhà nhìn người đàn ông lúc này đã đi đến gần cửa. “- Thế này là thế nào nhỉ? – Ông ta hỏi. “ĐỨa bé và bà mẹ cùng tranh nhau nói, cả hai đều sôi nổi. Ông chủ nhà là một nông dân đã có tuổi, vẻ mặt thông minh và biết điều. Ông ta ngắm người vượt ngục một lúc lâu trong khi vợ con ông kể chuyện. “Anh ta ngó bộ ốm, gần như sắp chết, tội nghiệp! – Ông ta tư nhủ, – rét thế này mà ở trong rừng thêm một đêm nữa thì anh ta đi đứt.” “Còn nhiều kẻ lang thang trên đường chẳng bị ai lùng bắt mà còn nguy hiểm gấp mấy anh, – ông ta nói sau khi vợ con ông ta ngừng kể. “- Tôi chẳng nguy hiểm gì lắm đâu, – người vượt ngục nói.- Một tối tôi say rượu, có một người đàn ông chế diễu và thách thức tôi… “Nhưng người nông dân không muốn nghe anh ta nói nhiều hơn trước mặt đứa trẻ, ông ta ngắt lời anh: “- Phải, tôi cũng cho là sự việc diễn ra như thế. “Im lặng một lúc, người nông dân ngẫm nghĩ, mấy người kia lo lắng nhìn ông. Không ai dám lên tiéng nữa. Cuối cùng ông ta quay về phía vợ: “- Không biết tôi làm thế này là sai hay đúng, nhưng đói với tôi, cũng như đối với mình, con nó đã nhận che chở cho anh ta thì tôi không thể đuổi anh ta đi được. Thế là họ quyết định để cho người vượt ngục ở lại một đêm áy và sẽ ra đi vào sáng hôm sau. Nhưng hôm sau anh ta lên cơn sốt nặng và không đứng lên được. Thế là phải để anh ta ở lại. Suốt hai tuần anh ta ở trong căn nhà nhỏ ấy.” Hai anh em cùng chăm chú nghe kể câu chuyện này, và khi người đánh xe bò kể đến đoạn người vượt ngục bị ốm được nuôi giấu trong nhà người nông dân thì người hấp hối thanh thản và nhẹ nhàng nằm lại xuống giường. Những nỗi đau đớn dường như đã rời khỏi anh ta: anh ta đang sống lai một quá khứ hạnh phúc. Người anh của anh ta còn nghi ngại, lo rằng có một cái bẫy ở trong chuyện này. Nhiều lần y cố gắng một cách vô hiệu cho em mình chú ý, nhưng anh ta vẫn nằm yên. “- Những con người tội nghiệp trong căn nhà nhỏ ấy không dám mời thầy thuốc, người đánh xe bò kể tiếp, – cũng không dám đến hiệu mua thuốc. Người bệnh đành là chẳng có thuốc men gì. Khi có ai đến gần nhà, đứa bé báo cho mẹ nó biết, bà liền ra đứng ở ngưỡng cửa và báo cho khách biết rằng Bécna bị một chứng phát ban khắp cả người kỳ lạ lắm và rất có thể đó là bệnh tinh hồng nhiệt. Vậy nên bà không dám để cho ai vào nhà cả. “Sau hai tuần, người tù vượt ngục bắt đầu khá hơn. Anh ta liền tự nhủ rằng mình không thể là gánh nặng cho những người tốt bụng này nữa. Anh ta cảm ơn họ và muốn ra đi. “Người nông dân và bà vợ ông ta bèn nói với anh ta về một điều gì đó thoạt đầu với anh ta có vẻ ghê tởm. Đó là một buổi tối khi Bécna hỏi anh ta sẽ định làm gì. “- Lại trở vào rừng, – anh nghĩ vậy. Anh ta trả lời. “- Anh biết tôi nghĩ thế nào không? – Người đàn bà nông dân nói. – Lang thang trong những khu rừng vắng vẻ làm gì? Cứ như tôi thì tôi sẽ thu xếp công việc cho xong chuyện với nhà chức trách sớm được ngày nào hay ngày đấy. Vui thú gì mà cứ lang thang trong rừng như một con thú bị đuổi bắt? “- Bị giam thì cũng chẳng vui thú hơn. “- Hẳn là chẳng vui thú gì, nhưng nếu tôi sớm muộn gì cũng phải vào nhà giam, tôi thì cứ muốn là vào quách đi ngay cho xong chuyện. “- Khi tôi bỏ trốn, hạn tù của tôi cũng không còn lâu nữa, – anh ta nói, – nhưng bây giờ họ sẽ giam tôi lâu hơn, tôi đoán thế. “- Có lẽ vậy, cái việc anh trốn tù thật chẳng hay ho gì.- Người đàn bà trả lời. “- Không, – người vượt ngục kịch liệt phản đối. – Không, tôi chưa bao giờ làm một việc gì mà lại ít có lý do hối tiếc như việc này. “Vừa nói câu ấy anh ta nhìn cậu bé và mỉm cười, và cậu bé cũng mỉm cười đáp lại. Anh ta mến cậu bé. Nếu có thể anh đã muốn đưa cậu bé đi theo. Ông bố lúc ấy đang ngồi cạnh bếp lửa và thấy hai người mỉm cười với nhau liền cũng tham gia vào câu chuyện. “- Có lẽ anh sẽ không gặp lại được Bécna nếu anh cứ lang thang suốt đời như một kẻ khốn khổ. “- Nếu tôi bị bắt giam lại thì lại càng ít có cơ hội được gặp cậu ấy hơn nữa. “- Chúng tôi đã quen sống chung với anh. Anh đi rồi chúng tôi sẽ nhớ đấy, – ông ta chậm rãi và nói tiếp theo thói quen của mình. – Nhưng chúng tôi không thể giữ anh lâu hơn nữa vì còn có hàng xóm chung quanh. Nếu anh đã được tha ra thì lại đi một nhẽ. “ Người vượt ngục thoáng có một ý nghi ngờ. Có lẽ những người này muốn thuyết phục anh ta tự ý trở về nhà tù để họ khỏi bị rầy rà chăng? Anh ta trả lời: “- Tôi đã khỏe, mai là tôi có thể đi được. “- Tôi nói thế không phải là muốn bảo anh đi. – bgg nông dân nói, – nhưng nếu như anh đã được tự do thì tôi sẽ đề nghị anh ở lại đây để giúp tôi việc đồng áng. “ Người vượt ngục không lại gì những khó khăn đối với một tên tù khổ sai được tha mà muốn tìm một việc làm, nên rất cảm kích lời đề nghị ấy. Nhưng anh ta thấy ghê tởm nếu phải trở lại nhà tù, và anh ta cứ lặng im. “Tối hôm ấy đứa trẻ bị đau nhiều hơn ngày thường. “- Liệu có phải đưa cậu ấy đi nhà thương không? I Người tù hỏi. “- Nó đã đi nhà thương nhiều lần rồi, nhưng người ta bảo chỉ có một cách chữa cho nó khỏi bệnh là tắm biển, mà chúng tôi làm sao có đủ tiền để cho nó đi tắm biển được? “- Phải đi xa à? – Người tù hỏi. “- Đi thì không ngại lắm, có điều là chúng tôi lấy đâu ra tiền để thuê nhà ở và trả tiền ăn cho nó? – Thật đấy. – Người đàn ông nói. “Anh ta im lặng một lúc, đắm mình trong suy nghĩ. Ý nghĩ anh ta xoay quanh vấn đề này: làm sao kiếm được tiền để cho cậu bé đi tắm biển. “Bỗng anh ta quay lại phía người nông dân và nối lại câu chuyện bỏ dở: “- Bác không sợ thuê một thằng tù khổ sai làm công cho bác à? – Anh ta chậm rãi hỏi. “- Tôi tin chắc mọi việc sẽ đâu vào đấy thôi. – Người nông dân trả lời, – miễn là anh không phải loại người chỉ sống được ở thành thị. “- Khi tôi bị giam trong xà lim, tôi khgg hề nghĩ đến thành thị bao giờ. – Người vượt ngục nói. – Tôi chỉ nghĩ đến cánh đồng xanh và rừng thôi. “- Khi nào anh hết hạn tù, anh sẽ cảm thấy được giải thoát khỏi nhiều cái bây giờ đang đè nặng lên anh. – Người nông dân nói. “- Chính tôi cũn cũng đã nói với anh ấy như vậy đấy.- Bà vợ nói. “- Tối nay con hát cho cả nhà nghe một bài gì có được không Bécna? – Bà mẹ đề nghị. – Nhưng có lẽ con mệt quá chăng? “- Không, không. “- Ấy là mẹ nghĩ sẽ làm cho bạn con vui thích. – Bà mẹ nói. “ Người vượt ngục cảm thấy trong lòng bứt rứt như là trước một tai họa. Anh ta những muốn bảo cậu bé đừng làm gì cả. Nhưng cậu đã cất giọng hát một ca khúc. Cậu có giọng hát trong và êm; và khi nghe tiếng hát của cậu, hơn lúc nào hết, người ta không thể nào không nghĩ rằng chính cậu cũng là một người tù chung thân đang mong mỏi tự do. “Người tù khổ sai đưa hai bàn tay che mặt, và những giọt nước mắt rơi xuống qua kẽ tay của anh ta. “- Ta là kẻ chẳng còn mong thành tựu gì nữa ở trên đời. – Anh ta tự nhủ, – ta phải làm một cái gì đó cho cậu bé này mới được. Sáng hôm sau anh ta từ biệt những con người tốt bụng ấy và ra đi. Không ai hỏi anh đi đâu. Mọi người chỉ chúc anh ta:” Trở về may mắn”. – Phải, đúng thế! – Người bệnh đột ngột kêu lên, ngắt hẳn câu chuyện của người đánh xe bò. – Phải, tất cả họ đã kêu lên với tôi: “Trở về may mắn”. Đó là điều tốt đẹp nhất mà tôi sẽ nhớ mãi suốt đời. Anh ta dừng lại, một vài giọt nước mắt từ từ lăn xuống má. Rồi anh ta nói tiếp: – Cháu lấy làm mừng vì ông đã biết chuyện đó. Từ nay cháu sẽ có thể nói chuyện với ông về Bécna…Trong khi ông kể chuyện, cháu có cảm tưởng cháu đã được tự do. Cháu tưởng như đang ở gần cậu bé ấy…Có ai ngờ rằng cháu đã qua một đêm hạnh phúc như vậy?… Người đánh xe bò mỗi lúc một cúi sát xuống người bệnh. – Anh nghe ta nói đây, – Hôm, – y bảo. Nếu ta thu xếp cho anh được đi gặp ngay lập tức những người bạn của anh, nhưng bằng cách khác mà anh chưa nghĩ tới, thì anh bảo sao? Nếu ta cho anh được thoát khỏi những năm dài chờ đợi và cho anh được tự do ngay đêm nay anh có đồng ý không? Khi nói những lời cuối cùng này, người đánh xe bò đã kéo cái mũ trùm đầu lên và cầm lấy cái hái. Người bệnh nhìn y với đôi mắt mở to mỗi lúc một chứa đầy niềm luyến tiếc não nùng. – Anh có hiểu ta muốn nói gì không? – Người đánh xe bò hỏi. – Anh có hiểu rằng ta là người mở cửa tất cả các nhà tù, là kẻ có thể đưa anh thoát ra mà những người truy bắt anh không bao giờ đuổi kịp anh không? – Tôi hiểu điều ông muốn nói. – Người tù thì thầm. – Nhưng như thế thì có khổ cho Bécna không? Ông biết rằng tôi trở về nơi đây để một ngày kia sẽ được trả tự do một cách lương thiện và có thể giúp được cậu ấy. – Anh đã làm cho cậu ấy điều hy sinh lớn nhất mà anh có thể làm được, – người đánh xe bò nói, – và để thưởng cho hành động tốt đẹp ấy của anh, nên hạn tù của anh đã được rút ngắn và cõi tự do rộng lớn mà không ai có thể tước đoạt mất của anh nữa sẽ được ban cho anh. Anh không còn gì phải lo lắng cho cậu ấy nữa. – Nhưng lẽ ra tôi phải đưa cậu ấy đi tắm biển, – bgg bệnh phản đối. – Khi chia tay nhau, tôi đã ghé vào tai cậu ấy hứa một ngày kia tôi sẽ trở về và sẽ đưa cậu ấy đi. Đã hứa với một đứa trẻ điều gì, ta có nghĩa vụ phải giữ lời hứa ấy. – Như vậy là anh không đồng ý ta đưa lại tự do cho anh chứ gì? – Người đánh xe bò hỏi và đứng dậy. – Ôi! Ông đừng bỏ đi! Người hấp hối kêu lên và nắm lấy cái mũ trùm đầu của người đánh xe bò. – Ông không biết rằng tôi mong mỏi điều ấy biết bao nhiêu! Giá mà có người nào giúp cậu bé được! Nhưng chỉ có tôi mà thôi. Anh ta ngước mắt lên và bỗng thốt ra một tiếng kêu vui sướng: – Đavit! Anh Đavit của tôi! Anh ấy ngồi kia kìa! Vậy thì ổn rồi. Tôi sẽ yêu cầu anh ấy chăm sóc cho Bécna. – Anh Đavit của anh! – Người đánh xe bò nói với một giọng khinh bỉ. – Đó chẳng phải là người mà ta có thể yêu cầu chăm sóc cho một đứa trẻ. Anh còn không biết anh ta chăm sóc con anh ta như thế nào ư? Y ngừng lại vì Đavit Hôm đã đến ngồi phía bên kia giường và cúi xuống người em trai mình và nóng lòng muốn giúp đỡ anh ta. – Anh Đavit, – người hấp hối nói, – em thấy trước mặt em là những bãi cỏ xanh và một mặt biển rộng rãi phóng khoáng. Anh hiểu không? Em bị nhốt đã lâu biết mấy! Em không thể cưỡng lại được sự cám dỗ bởi vì người ta hứa cho em được tự do mà không làm hại đến ai cả. Nhưng còn đứa bé này, anh biết điều em đã hứa với nó. – Em chớ lo lắng gì! – Đavit Hôm nói, giọng run run, – đứa bé kia, những người đã cứu giúp em, anh nói cho em biết rằng, đến lượt anh, anh sẽ cứu giúp họ. Em hãy đi đến chốn tự do, hãy yên lòng ra đi. Anh đảm nhiệm việc ấy. Em hãy thanh thản mà ra khỏi nhà tù của em. Nghe những tiếng này, người hấp hối liền buông mình xuống gối. – Cậu đã nói với nó những lời của Thần Chết đấy, Đavit ạ, – người đánh xe bò bảo. – Thôi đi thôi. Đã đến lúc chúng mình phải đi thôi. Linh hồn đã được giải thoát không được gặp những linh hồn còn bị đày đọa trong tăm tối. 8 “Nếu có cách nào làm cho người ta nghe được mình nói giữa cái tiếng kêu cọt kẹt và tiếng rít xào xạc kinh khủng như thế này thì ta đã muốn nói với Giorgiơ lời cảm ơn vì hắn đã giúp đỡ cho Xơ Êđi và em trai ta trong cái giờ phút khó khăn nhất ấy, – Đavit Hôm nghĩ thầm. – Nhất định là ta sẽ không chịu phục tùng ý muốn bắt ta phải thay thế chỗ của hắn, nhưng ta sẽ sẵn lòng tỏ cho hắn thấy là ta hiểu sự giúp đỡ của hắn đối với hai người kia.” Những ý nghĩ này vừa lướt qua đầu y thì người đánh xe bò liền kéo dây cương ghìm ngựa lại, tưởng như hắn nghe được những ý nghĩ ấy. – Tớ chỉ là một gã đánh xe bò khốn khổ, – hắn nói. – Đôi khi tớ cũng giúp đỡ được một người nào nó, nhưng phần nhiều là tớ thất bại. Đối với hai người kia thì dễ dàng làm cho họ bước qua ngưỡng cửa, vì một cô đang mong mỏi được về trời, còn cậu kia chẳng có mấy ràng buộc ở thế gian! Cậu có biết không, Đavit, – hắn bỗng lấy cái giọng bạn bè cũ nói tiếp, – đã bao lần ngồi trên chiếc xe bò của tớ, lắng nghe những tiếng xôn xao của thế gian, tớ tự bảo rằng tớ muốn gửi đến thế gian một lời nhắn nhủ. – Tớ hiểu điều đó. – Đavit Hôm trả lời. – Cậu biết rằng, – Đavit ạ, thật vui thích được làm người thợ gặt khi cánh đồng lượn sóng dưới những cánh đồng lúa chín. Nhưng những kẻ nào bị buộc phải phạt đứt những cây lúa non tội nghiệp, kẻ đó sẽ ghê tởm cái công việc ấy. Ông chủ mà tớ đang phục vụ đây, ông ấy cho rằng cái công việc bạc bẽo và tàn nhẫn ấy không xứng đáng với địa vị cao quý của ông ta: ông ta dành việc ấy cho tớ., cho gã đánh xe bò khốn khổ này. – Tớ đã hiểu là cơ sự phải như thế. – Đavit Hôm nói. – Nếu con người biết được, – Giorgiơ nói, – rằng người ta dễ dàng giúp họ bước qua ngưỡng cửa khi họ đã hoàn thành công việc và làm tròn nghĩa vụ của mình, và những sợi dây ràng buộc đã được dứt đi một nửa; ngược lại thật là một công việc nặng nề biết bao khi phải giải thoát cho một kẻ chưa làm xong, chưa thực hiện được một việc gì hết, và còn để lại sau mình tất cả những người mà mình yêu thương; nếu con người biết được như vậy thì họ sẽ làm cho công việc của người đánh xe bò bớt phần cực nhọc. – Cậumuốn nói gì vậy, Giorgiơ? - Cậu hãy nghĩ đến một điều, Đavit! Suốt thời gian cậu đi với tớ, cậu chỉ nghe nói đến có mỗi một thứ bệnh, và tớ có cảm tưởng hầu như suốt cả năm nay tớ cũng chỉ nghe như thế. Ấy là vì cái bệnh này nó ập xuống đúng vào lúc cây lúa còn non, cậy lúa mà tớ bị bắt buộc phải phạt đứt. Thời gian tớ mới bắt đầu đánh xe bò, tớ luôn tự bảo: “ Giá mà người ta trị được thứ bệnh này, thì hình phạt của mình cũng sẽ nhẹ bớt đi”. – Và đó là lời cậu muốn nhắn gửi đến cho con người? – Không, Đavit ạ, con người có nhiều khả năng lắm. Chắc chắn là có ngày con người sẽ chiến thắng được kẻ thù này với những vũ khí của khoa học và của sự kiên trì. Tớ không nói chuyện đó đâu. – Vậy làm sao con người có thể làm cho công việc của người đánh xe bò bớt nặng nhọc? – Chỉ ít nữa là đến buổi sáng ngày đầu năm. Và khi thức dậy, ý nghĩ đầu tiên của mọi người là sẽ hướng vào năm mới: họ sẽ điểm lại tất cả những hy vọng và mong ước đã đạt được trong năm qua, và họ sẽ nghĩ đến tương lai. Vậy tớ muốn có thể khuyên họ chớ nên cầu xin hạnh phúc trong tình yêu, thành đạt trong công việc, giàu có hoặc sống lâu, cả đến sức khỏe nữa. Họ chỉ nên chắp tay và tập trung những ý nghĩ của họ vào một lời cầu nguyện duy nhất: “ Lậy Chúa, xin hãy để cho linh hồn con đạt đến tuổi trưởng thành trước khi bị phạt đứt”. 9 Hai người đàn bà nói chuyện với nhau đã mấy tiếng đồng hồ. Họ ngừng lại một lúc vào buổi xế trưa để đi dự một cuộc họp của Đội quân Cứu tế, rồi cuộc nói chuyện lại tiếp tục và kéo dài đến nửa đêm vẫn chưa dứt. Một trong hai người cố sức đem lại nghị lực và tự tin cho người kia, nhưng hình như không đạt được kết quả. – Bà có biết không, bà Hôm, – người phụ nữ nói, – tôi nghĩ rằng mặc dù nói như vậy bà có thể cho là kỳ quặc, nhưng tôi nghĩ rằng từ nay trở đi bà sẽ bớt đau khổ. Tôi nghĩ đây là vố chơi khăm t tệ hại nhất của ông ấy đối với bà. Ngón đòn cuối cùng này là sự trả thù mà ông ta đã đe dọa bà từ khi bà bỏ ông ấy. Nhưng bà hẳn hiểu rằng, bà Hôm ạ, tự làm cho mình trở nên rất tàn nhẫn và từ chối không để cho bọn trẻ đi, đó là một chuyện, còn nung nấu một ý định giết người và thực hiện ý định đó thì lại là một chuyện khác hẳn. Tôi không tin có người nào lại làm như vậy được. – Bà muốn an ủi tôi, tôi hiểu và cảm ơn bà, – người kia nói. Nhưng căn cứ vào giọng nói của chị ta, người ta cảm thấy nếu người đội viên Cứu tế không tin có một người nào làm được như vậy, thì người đàn bà tội nghiệp này chính chị ta lại biết có một người sẽ làm được việc đó. Người đội viên Cứu tế có vẻ như đã cạn hết lý lẽ, nhưng sau một lúc im lặng bà lại quyết định mặc dù thế nào cũng thử lại một lần cuối cùng nữa xem sao: – Bà phải nhận thấy một điều, bà Hôm ạ. Tôi không biết rằng lúc bà bỏ người chồng của bà mà đi cách đây mấy năm, làm như vậy bà có phạm phải một tội lỗi lớn hay không, nhưng mà như thế bà đã coi nhẹ một nghĩa vụ. Bà đã để ông ta lại trong cảnh bối rối, và chẳng bao lâu hậu quả đã xẩy ra. Năm vừa qua là một năm chuộc tội, và công trình mà bà đã bắt đầu làm với sự giúp đỡ của Xơ Êđi là một công trình tốt, và nó sẽ mang lại một kết quả tốt. Khi người đội viên Cứu tế nói những tiếng cuối cùng này thì không phải có riêng bà với người vợ của Đavit Hôm nữa. Đavit Hôm và anh bạn Giorgiơ của y, hay nói đúng hơn là cái bóng ma của hai người ấy đã đi vào nhà và dừng lại ở cạnh cửa. Đavit Hôm không bị trói chặt nữa, cả hai bàn tay của y cũng không bị buộc. Y vui lòng đi theo người đánh xe bò, nhưng lần này y nhận ra nơi mà Giorgiơ đưa y đến, và y hơi có ý muốn phản kháng. Ở đây, Thần Chết chẳng có việc gì phải làm cả. Vậy tại sao lại bắt y nhìn lại người đàn bà này và căn nhà này? Y sắp sửa hỏi Giorgiơ một câu bực tức thì vừa lúc Giorgiơ giơ tay ra hiệu cho y im lặng. Người vợ của Đavit Hôm, có phần nào phấn chấn hơn nhờ sự tin tưởng nhiệt thành của người đội viên Cứu tế, ngẩng đầu lên: – Nếu như tôi dám tin rằng đó là sự thật, – chị ta thở dài. – Sự thật đấy! – Người đội viên Cứu tế quả quyết với một nụ cười. – Ngày mai sẽ có một sự thay đổi. Bà sẽ thấy, bà Hôm ạ. Năm mới sẽ đem lại may mắn cho bà. – Năm mới? – Người đàn bà lẩm bẩm, – …Phải đêm nay là đêm lễ thánh Xinvetxtrơ, thế mà tôi suýt quên mất. Bây giờ khoảng độ mấy giờ rồi nhỉ, bà đội trưởng Anđecxơn? – Bây giờ đã sang năm mới rồi, – Người trưởng đội Cứu tế nhìn đồng hồ trên tay nói, – hai giờ kém mười lăm. – Vậy thì bà đội trưởng hãy về đi nghỉ đi. Bây giờ tôi đã bình tĩnh rồi. Người trưởng đội quân Cứu tế nhìn người đàn bà một cách dò xét: – Tôi chẳng tin lắm vào sự bình tĩnh ấy đâu.- Bà nói. – Không, không, bà cứ yên lòng về đi. Tôi biết rằng tối nay tôi đã nói những điều bậy bạ, nhưng bây giờ thì hết rồi, tôi đã trở lại biết điều rồi. – Và bà có tin, bà Hôm, bà có thể phó thác mọi chuyện cho Chúa, và tin tưởng rằng Chúa sẽ an bài mọi việc một cách tốt đẹp nhất không ? – Có. – Người đàn bà tội nghiệp trả lời, – có, tôi tin như vậy. – Tôi sẵn lòng ở lại đây với bà cho đến sáng, nhưng bà lại muốn tôi về hơn là tôi ở lại chăng? – Có bà ở lại đây với tôi thì tốt lắm, đội trưởng ạ, nhưng hắn sắp sửa về, bà nên để tôi ở nhà một mình thì hơn. Hai người trao đổi thêm vài câu rồi bà đội trưởng đi ra khỏi phòng. Người thiếu phụ đi theo bà đội trưởng Cứu tế để mở cổng cho bà, sau đó quay lại ngay. Người ta thấy chị định giữ đúng lời hứa và đi ngủ. Chị ngồi xuống một cái ghế dựa và bắt đầu cởi dây giày. Bỗng nhiên trong khi chị đang cúi xuống phía trước thì cánh cửa dưới nhà bị đóng mạnh lại. Chị nhảy chồm lên và lắng tai nghe. “Hắn về chăng? – Chị tự nhủ, – Chắc là hắn về đấy”. Chị chạy lại cửa sổ và thử nhìn vào cái sân tối xem có thấy gì không. Chị đứng nghe ngóng một, hai phút. Cuối cùng, khi trở về lại căn phòng, vẻ mặt chị thay đổi một cách kỳ lạ. Mặt chị xám lại, mắt, má, môi tất cả đều như phủ đầy tro. Cử động của chị cứng đơ và rờ rẫm, đôi môi chị khẽ run run. – Tôi chẳng thiết gì nữa! – Chị thì thầm. – Tôi chẳng thiết nữa…Phải tin tưởng vào Chúa…- Và chị đứng lại ở giữa căn nhà. Ai cũng bảo tôi phải tin tưởng vào Chúa. Thế ra người ta đã tưởng tôi đã không cầu nguyện và van xin và kêu gọi Chúa ư? Làm thế nào bây giờ? Làm sao để Chúa nghe lời tôi được? Chị không chảy nước mắt. Nhưng lời nói của chị là tiếng kêu rên. Chắc hẳn là chị đang bị một nỗi dày vò mà chị không còn chịu trách nhiệm gì về những hành vi của mình nữa. Đavit Hôm cúi nhìn xoáy vào vợ và rùng mình vì một ý nghĩ chợt đến với y. Người vợ đi qua gian phòng, không phải là chị bước, mà lết đến những tấm đệm rơm trải ở góc phòng trên đó hai đứa con chị đang nằm ngủ. – Tội nghiệp quá! – Chị nói và cúi xuống hai đứa trẻ. – Chúng nó xinh đẹp biết bao! Chị ngồi xuống cạnh các con rồi hết nhìn đứa này đến nhìn đứa khác rất lâu. – Nhưng tôi không thể sống được nữa, – chị nói tiếp, – và tôi cũng không thể bỏ chúng lại bơ vơ sau khi tôi chết. Chị đưa tay vuốt đầu hai đứa con với cử chỉ vụng về, như là không quen thuộc. “Đừng giận mẹ, các con yêu quý, – chị nói, – chẳng phải là lỗi của mẹ đâu, nhưng mẹ không thể làm khác được.” Trong khi chị còn ngồi cạnh hai đứa con thì lại nghe có tiếng cánh cổng đi ra đường mở ra khép lại. Chị giật mình và ngồi yên cho đến khi biết chắc là không phải chồng chị trở về. Thế là đột nhiên chị đứng dậy. – Mẹ phải làm thật nhanh, – chị thì thầm, – miễn là hắn đừng về quấy rầy thì mẹ sẽ xong nhanh thôi. Nhưng chị chẳng làm gì cả, chị chỉ bồn chồn đi đi lại lại. – Có một cái gì đó bảo tôi hãy đợi đến ngày mai. Nhưng việc gì nhất thiết phải xảy ra, có hoãn lại cũng chẳng ích gì. Ngày mai cũng là một ngày như mọi ngày khác. Tại sao ngày mai lại tốt hơn đối với tôi và đối với những đứa con của hắn? Đavit Hôm nghĩ đến cái người chết đang nằm trên bãi cỏ nghĩa trang và chẳng bao lâu sẽ bị chôn vùi như một thứ bỏ đi. Y hầu như muốn nói cho vợ y biết rằng chị không còn phải sợ y nữa. Lại nghe một tiếng động. Lần này là một cách cửa trong nhà mở ra và đóng lại. Và một lần nữa người đàn bà giật mình và run rẩy, chị lại nhớ đến cái hành động đang dự định làm. Chị vừa run lập cập vừa lê đến gần bên bếp lò và bắt đầu bẻ những cành củi nhỏ để nhóm lửa. – Nếu hắn có bắt gặp ta đang nhóm lửa thì cũng chẳng sao, – chị nói như để đáp lại một lời phản đối thầm. – Ta rất có thể pha cho mình một tách cà phê buổi sáng đầu năm cho tỉnh ngủ để đợi hắn về. Đavit Hôm nhẹ cả người khi nghe những tiếng ấy. Nhưng y lại tự hỏi tại sao Giorgiơ lại đưa y đến đây. Trong nhà y chẳng có ai hấp hối, cũng chẳng có ai ốm đau cả. – Hắn muốn cho ta nhìn lại vợ con một lần cuối cùng chăng? – Y tự nhủ. – Có lẽ ta sẽ không bao giờ được ở gần vợ con nữa. Vả lại ta cũng chẳng vì thế mà buồn bã tí nào. Y tưởng như trong lúc này trái tim y chỉ còn chỗ cho một người duy nhất, nhưng y cũng đi đến gần góc phòng nơi hai đứa trẻ nằm ngủ. Trong khi ngắm chúng, y nghĩ đến đứa bé mà em trai y đã yêu thương đến mức tự mình trở lại nhà tù để cho nó được vui lòng, và y cảm thấy tiếc là không thể yêu thương con mình theo cách như vậy được. – Mong sao cho chúng được vui sướng và thành đạt trên đường đời. – Y thở dài với một đà cảm xúc đột ngột. – Ngày mai thức dậy, chúng sẽ hẳn thấy vui lòng khi biết rằng chúng không còn phải sợ ta nữa!…Một ngày kia, chúng sẽ là người như thế nào nhỉ? – Y tự hỏi với một sự quan tâm hơn mà y chưa bao giờ có đối với con. Đồng thời y cảm thấy một nỗi lo sợ đột ngột rằng chúng sẽ giống như y vậy. – “Bởi vì ta đã là một con người bất hạnh, – Y tự nhủ. – Ta không biết, ta không hiểu tại sao ta chưa bao giờ lo lắng nhiều cho chúng nó. Nếu như được làm lại từ đầu, ta sẽ thử tìm cách làm cho hai đứa này trở nên một cái gì đáng kể.” Y còn đứng yên lặng thêm một lúc, lòng tự hỏi lòng. – Có một điều lạ, – y tự nhủ. – là ta không còn cảm thấy căm ghét vợ ta nữa. Ta muốn thấy nàng sung sướng và yên lành sau tất cả những đau khổ mà nàng đã phải chịu. Ta tiếc là đã không chuộc lại được những đồ đạc ở hiệu cầm đồ, và không thấy được nàng ăn bận tử tế, mặc một cái áo đẹp đi lễ nhà thờ ngày chủ nhật. Vả lại nàng sẽ không còn khổ nữa một khi ta không còn trở về. Có lẽ Giorgiơ đưa ta đến đây là để ta được vui lòng rằng ta đã ra đi. Bỗng y giật nẩy mình. Y đã mải đắm mình trong suy nghĩ đến nỗi không nhận thấy những cử động của vợ y. Nhưng cũng đúng vào lúc này chị ta khẽ kêu lên một tiếng kinh hãi: – Nước sôi, nước sôi rồi. Sẽ chóng tan thôi, bây giờ thì phải làm, không còn lùi lại được nữa. Nàng lấy một cái hộp để trên nóc lò sưởi và đổ cà phê bột vào phin. Rồi nàng rút ở ngực ra một gói nhỏ đựng một chất bộ bột màu trắng và cũng đổ luôn vào đó. Đavit Hôm nhìn nàng chòng chọc. Y không thể hiểu được ý nghĩa những hành động của nàng. – Đấy Đavít, anh sẽ thấy rằng thế là đủ rồi! – Nàng nói và quay về phía gian phòng tưởng như là nhìn thấy y. – Thế là đủ rồi! Cả đối với bọn trẻ và cả đối với tôi. Tôi không thể đành tâm nhìn chúng nó chết dần chết mòn. Nếu một tiếng nữa anh mới về thì mọi việc sẽ xong xuôi, đúng như ý muốn của anh. Đavit Hôm nhảy bổ lại phía người đánh xe bò. – Giorgiơ! – Y nói. – Giorgiơ, cậu có nghe thấy không? – Có chứ, Đavit, – người đánh xe bò nói, – tớ có thấy và có nghe. Mặc dù tớ đã gặp nhiều lần đến phát ngán, tớ vẫn cứ phải chứng kiến cảnh ấy. Đó là nhiệm vụ của tớ. – Nhưng cậu không hiểu điều cậu nhìn thấy. Không phải chỉ có một mình cô ấy. Còn những đứa trẻ con nữa. Cô ấy định kéo cả những đứa trẻ theo cô ấy. – Phải, Đavit ạ, cô ấy định kéo theo những đứa con của cậu đi. – Nhưng mà không thể như thế được, không được làm như thế. Giorgiơ, Giorgiơ. Cậu biết rằng làm như vậy là vô ích. Cậu có thể nói cho cô ấy biết rằng làm như vậy là vô ích không? – Cô ấy không thể nghe tiếng tớ được, cô ấy ở xa quá. – Vậy thì phải có một người nào đến, Giorgiơ, một người nào đó nói cho cô ấy biết rằng làm như vậy là vô ích. – Cậu yêu cầu cái không thể thực hiện được, Đavit ạ. Tớ có quyền lực gì đâu đối với những con người còn sống? Nhưng Đavit không chịu bỏ cuộc. Y quỳ sụp xuống trước mặt người đánh xe bò. – Cậu hãy nghĩ rằng trước kia cậu là bạn bè thân thiết của tớ. Đừng để xảy ra cái việc khủng khiếp này! Đừng để cho những đứa trẻ ngây thơ tội nghiệp kia phải chết! Y ngước mắt nhìn Giorgiơ cầu khẩn; nhưng hắn lắc đầu. – Tớ sẽ làm tất cả những gì cậu muốn, Giorgiơ, tớ đã từ chối khi cậu yêu cầu tớ thay cậu đánh xe bò, nhưng giờ tớ sẵn sàng ngồi vào chỗ của cậu nếu lần này cậu giúp tớ. Hai đứa kia, chúng còn bé quá, và đúng là tớ vừa cầu mong được sống thêm để nuôi dạy chúng nên người tử tế. Còn cô ấy, cậu thấy rõ là cô ấy không còn trí khôn nữa. Cô ấy không biết cô ấy đang làm gì. Hãy thương đến cô ấy với, Giorgiơ! Thấy người đánh xe bò vẫn đứng yên và không lay chuyển, y liền quay mặt đi: – Tớ cô đơn quá, cô đơn quá! – Y rên rỉ. Tôi không biết cầu cứu ai. Phải, xin Đức Chúa Cha hay là Chúa Giêsu? Tôi là một kẻ mới đến trong thế giới này. Ai là người có quyền phép?Tôi phải cầu nguyện ai?…Kẻ tội lỗi khốn khổ này xin cầu khẩn Đấng chúa tể của sự sống và cõi chết. Con không phải là một người có quyền đến trình diện…Con chắc rằng con vi phạm tất cả những điều luật của Người. Xin hãy để cho con đi vào nơi cực kỳ tăm tối! Xin hãy tiêu diệt con đi! Xin cứ hành phạt con thế nào cũng được, nhưng xin hãy tha cho ba kẻ ấy. Y ngừng lại như rình đợi một câu trả lời. Nhưng y chỉ nghe tiếng vợ y thì thầm: – Thế là tan rồi, bây giờ chỉ cần để nguội đi một lúc là được. Lúc ấy Giorgiơ mới cúi xuống y. Hắn đã hất cái mũ trùm đầu ra sau, và mặt hắn rạng rỡ một nụ cười. – Đavit, – hắn nói. – Nếu cậu thật lòng, có lẽ có một cách cứu được họ. Tự cậu phải nói cho cô ấy biết là cô ấy không còn gì phải sợ cậu nữa. – Nhưng tớ có thể làm cho cô ấy nghe được tiếng nói của tớ không? Giorgiơ. – Không phải dưới hình thù hiện nay của cậu. Muốn cho cô ấy nghe được cậu, cậu phải trở lại vào trong người của Đavit Hôm, đang nằm ở bãi cỏ nghĩa trang. Cậu có đủ can đảm làm việc này không? Đavit Hôm rùng mình kinh hãi. Cuộc đời trần thế hiện ra trong trí óc y như một cái gì ngột ngạt. Liệu rồi đây sự phát triển lành mạnh của linh hồn y có bị ngừng trệ đi không, khi y trở lại làm người? Tất cả những gì là hạnh phúc mà đến một lúc nào đó y có thể đạt được thì đều đang chờ đợi y ở thế giới bên kia. Tuy vậy y không lưỡng lự: – Nếu tớ có thể làm được như thế, xin vâng…Nhưng tớ tưởng rằng tớ phải… – Phải, – Giorgiơ ngắt lời, và vẻ mặt của hắn rạng rỡ lên mỗi lúc một thêm ngời sáng, – phải cậu phải làm người đánh xe bò cho Thần Chết năm nay. Cậu đã bị buộc phải chịu hình phạt ấy, trừ phi là có một kẻ khác bằng lòng thay thế cho cậu. – Một kẻ khác? – Đavit Hôm thốt lên. – Ai mà lại chịu hy sinh vì một đứa khốn nạn như tớ đây? – Đavit, – Giorgiơ nói, – cậu biết rằng có một người đang bị một nỗi hối hận dày vò vì đã lôi kéo cậu ra khỏi con đường chính trực. Người ấy sẽ đảm nhiệm thay thế cho cậu, bởi vì hắn sẽ sung sướng được cất đi cái gánh nặng này. Không để cho Đavit Hôm hiểu được đầy đủ ý nghĩa của những lời hắn nói, hắn cúi xuống nhìn y với đôi mắt sáng ngời tuyệt đẹp và nói với y: – Anh bạn cũ thân thiết, Đavit Hôm, hãy hành động hết sức mình! Tớ ở lại đây cho đến lúc cậu quay trở lại. Cậu không có nhiều thì giờ dâu. – Nhưng mà, Giorgiơ… Người đánh xe bò ngắt lời, và bằng một cử chỉ oai vệ của bàn tay mà y đã biết tuân theo. Hắn đội lại cái mũ trùm đầu và cất tiếng nói với giọng oang oang: – Hỡi tù nhân, hãy trở về nhà ngục của ngươi. 10 Đavit chống khuỷu tay nhổm dậy và nhìn quanh mình. Những cây đèn đường đã tắt đi, nhưng bầu trời đã rạng và mảnh trăng nửa vành đang chiếu sáng. Y chẳng chút khó khăn nhận ra mình đang nằm trên bãi cỏ héo trong công viên nhà thờ, dưới đám cành cây vươn dài trụi lá. Y cố sức để đứng dậy. Y cảm thấy yếu vô cùng, người y lạnh cóng, đầu y quay cuồng. Nhưng rồi y cũng đứng lên được. Y chuyệnh choạng bước mấy bước trên lối đi, nhưng lại phải dực vào thân cây để nghỉ. – Ta không còn đủ sức để đi về nhà, – y tự nhủ, – không bao giờ ta về kịp… Y không một phút nào có cảm giác là chuyến đi của y cùng với Giorgiơ là không có thật. Trái lại y vẫn giữ được ấn tượng rất sáng sủa và rõ ràng về những sự việc xảy ra trong đêm. – Người đánh xe bò của Thần Chết đang ở trong nhà ta, – y ngĩ, – ta phải nhanh lên mới được. Y rời khỏi chỗ dựa ở thân cây và đi được thêm vài bước nữa, nhưng lại khuỵu gối xuống. Thế nhưng trong giây phút bơ vơ và tuyệt vọng này, một cái gì lướt khẽ trên trán y. Đó là một bàn tay,hay một đôi môi, hay một vật ảo mờ mờ trong suốt. Nó đủ để làm cho trái tim y hạnh phúc vô biên. – Nàng đã trở lại bên ta, – y phấn khởi reo lên. – Nàng đang ở cạnh ta. Nàng che chở cho ta. Y giang tay, hân hoan vì hạnh phúc: tình yêu của Xơ Êđi bao trùm cả người y, tình yêu ấy đến bây giờ vẫn còn làm cho trái tim y dạt dào êm ái, mặc dù y đã trở lại cuộc sống trần gian. Bỗng y nghe thấy có tiếng chân. Một người đàn bà nhỏ nhắn, đội sụp trên đầu cái mũ rộng vành của đội viên Cứu tế đang đi lại gần. – Xơ Maria, – Đavit Hôm gọi. – Xơ Maria, giúp tôi với. Cô đội viên Cứu tế hẳn phải nhận ra giọng nói này, vì cô giật mình, quay đầu và tiếp tục đi. – Xơ Maria, tôi không say đâu. Tôi bị ốm. Xơ hãy giúp tôi trở về nhà với. Chắc nàng không hề tin lời y, nhưng không nói một tiếng, nàng tiến lại gần, giúp y đứng dậy và dìu y đi. Vậy là cuối cùng y đã trên đường về nhà! Nhưng ôi, đi mới chậm làm sao! Có thể trước khi y về đến nơi thì mọi việc đã xong xuôi cả rồi. Y dừng lại. – Xơ Maria, chị sẽ giúp tôi một việc rất lớn nếu chị vui lòng về trước và nói cho nhà tôi biết… – Rằng anh sẽ về nhà say mèm như mọi ngày, phải không anh Hôm? Cần gì phải làm thế? Y cắn môi và tiếp tục đi, lấy hết sức lực cuối cùng để bước nhanh hơn. Nhưng cơ thể y bị rét cóng, không thể tuân theo ý muốn. Lần thứ hai, y lại thuyết phục Xơ Maria: – Khi tôi còn nằm ở đằng kia, tôi đã có một giấc mơ, – y nói, – tôi đã thấy Xơ Êđi chết. Tôi đã nhìn thấy chị, Xơ Maria, bên giường của nàng…Tôi cũng đã thấy những người trong nhà tôi, vợ tôi, các con tôi…Vợ tôi nó mất trí rồi. Tôi nói thật với chị, xơ Maria ạ, nếu chị không chạy về nhanh, vợ tôi sẽ gây ra một chuyện gì đó… Tiếng y lắp bắp, thều thào. Cô đội viên Cứu tế không hề chú ý đến. Cô đã có thói quen không để ý đến những lời nói của kẻ say rượu. Nhưng cô giúp đỡ y một cách tận tâm. Y hiểu rằng như thế đối với cô là một sự hy sinh lớn, và cũng là một sự ghê tởm không nhỏ khi để cho con người mà cô coi là đã gây ra cái chết cho Xơ Êđi dựa mình mà đi. Trong khi Đavit Hôm loạng choạng bước đi như vậy, ruột y thắt lại vì một nỗi lo lắng mới: một khi y đã không làm cho Xơ Maria tin y, thì làm sao khi về nhà, vợ y vốn đa nghi, lại chịu tin vào sự thành khẩn của y? Cuối cùng họ dừng lại trước nhà Đavit Hôm, và cô đội viên Cứu tế giúp y mở cửa: – Bây giờ anh có thể tự xoay sở lấy một mình, – cô nói và sắp sửa bỏ đi. – Xơ Maria, chị gọi hộ nhà tôi ra giúp tôi bước lên cầu thang thì tốt quá. Cô đội viên Cứu tế nhún vai. – Đavit Hôm ạ, vào đêm khác, có lẽ tôi sẽ giúp anh nhiều hơn, nhưng đêm nay, tôi không còn hơi sức nữa, thế là đủ rồi. Giọng nàng nghẹn trong một tiếng nức nở, và nàng bỏ chạy. Bước lên cái cầu thang dựng đứng một cách khó nhọc, Đavit Hôm tưởng mình về chậm quá mất rồi. Và làm thế thế nào, làm thế nào để thuyết phục vợ y rằng cô ấy có thể tin vào y? Y đã suýt cam lòng chịu thất bại vì nản lòng và mệt mỏi, nhưng một lần nữa cái vuốt ve dịu dàng lại lướt trên trán y : “Nàng đang ở bên ta, – y tự nhủ. – Nàng vẫn chăm chút đến ta”. Và y lại đủ sức để bước lên bậc thang cuối cùng. Khi y mở cửa thì thấy vợ y đứng ngay trước mặt, hình như chị ta chạy vội ra để chốt cửa. Thấy không kịp nữa chị lùi lại và đứng quay lưng lại bếp lò, như để che khuất một cái gì ở đó. Chị vẫn giữ vẻ mặt đờ đẫn như lúc Đavit Hôm ra đi, và y tự bảo mình “Ta về kịp rồi, cô ấy chưa là được gì cả”. Đưa nhanh mắt nhìn, y yên trí mấy đứa bé đang còn ngủ. Y giơ tay đến chỗ y đã để Giorgiơ ở lại, và cảm như thấy một bàn tay khác đang xiết chặt tay y: “Cảm ơn!” – y khẽ thì thầm. Giọng y run run và một màn sương che mắt y. Y chuyệnh choạng đi vài bước trong căn phòng rồi ngồi phịch xuống một chiếc ghế dựa. Vợ y lấm lét theodõi những cử chỉ của y như người ta rình một con thú dữ sắp xông ra ngoài. “Chắc cô ấy cũng tưởng là ta say” – y nghĩ thầm. Y rời rã cả người, y vô cùng mệt mỏi, rất muốn được nghỉ ngơi. Ở gian buồng nhỏ cạnh bên có một cái giường, y những muốn được nằm duỗi thẳng lên đấy mà ngủ, nhưng y không dám rời khỏi nơi đây một phút nào. Y mà quay lưng đi thì lập tức vợ y sẽ thực hiện ngay cái việc mà chị ta đã sửa soạn. Chỉ còn một cách là chống lại cơn mệt mỏi kinh khủng này và canh chừng chị ta. – Xơ Êđi chết rồi, – Y đánh bạo nói, – tôi đã đến nhà cô ấy. Tôi đã hứa với cô ấy sẽ ăn ở tử tế với mình và các con. Ngày mai mình có thể cho chúng đến nhà Cứu tế. – Tại sao anh nói dối? – Người vợ bảo, – Guttapxơn đã đến đây để báo cho bà đội trưởng biết là Xơ Êđi đã chết. Và anh ấy nói rõ ràng rằng là anh không đến đấy. Đavit Hôm ngã vật ra chiếc ghế dựa. Và chính y cũng ngạc nhiên là y đã òa lên khóc nức nở. Y khóc vì sự trở về vô ích của y trong cái thế giới chậm hiểu và mù tịt này. Y khóc vì chánnản tin rằng không bao giờ y thoát ra khỏi cái hàng rào vây kín do chính những hành vi của y đã dựng lên quanh y. Y khóc vì mong muốn, mong muốn một cách luyến tiếc và thiết tha vô hạn được trở lại bên linh hồn mà y cảm thấy đang phản phất quanh y, gần gụi nhưng không thể nào chạm vào được. Trong khi những tiếng khóc thê thảm đang làm rung động cả tấm thân to lớn của y, y bỗng nghe tiếng nói của vợ: “Anh ấy khóc “. Vợ y tự nói với mình bằng một giọng ngạc nhiên không thể tả được. Một lúc sau chị lại nhắc: “ Anh ấy khóc à?” Chị rời khỏi chỗ đứng ở cạnh bếp lò và đến gần y với một vẻ có phần thông cảm: – Anh khóc à, Đavit? – Chị hỏi y. Y ngẩng bộ mặt đầm đìa nước mắt lên nhìn vợ: – Tôi sẽ trở thành con người khác, – y nghiến răng nói. – Tôi muốn trở thàng một con người tử tế, nhưng không ai tin tôi cả. Như vậy mà không khóc sao? – Mình thấy đấy, Đavit, – người vợ hơi ngập ngừng trả lời, – thật khó tin biết mấy. Nhưng dù sao em cũng tin mình vì mình đã khóc. Em tin mình. Như để chứng tỏ cho y thấy rằng chị tin y, chị ngồi bật xuống đất cạnh chân chồng, gục đầu vào gối chồng. Chị lặng yên một lúc, cuối cùng cũng bật lên khóc nức nở. Y rùng mình. – Mình cũng khóc à? – Em không thể không khóc được. Em sẽ không sao sung sướng được trước khi khóc hết nỗi đau khổ và buồn rầu của em. Lại một lần nữa y thấy luồng gió mát lướt qua trán y. Y thôi khóc và nở một nụ cười bí hiểm. Y đac thực hiện việc thứ nhất trong những điều mà các biến cố đêm qua đã buộc y phải làm. Rồi y còn phải giúp cậu bé mà em trai y đã yêu mến. Y còn phải chứng tỏ cho Xơ Maria và các đồng đội của cô ất thấy rằng Xơ Êđi đã không sai lầm khi ban tình yêu cho y. Y phải vực lại cái gia đình của y đã bị khánh kiệt. Cuối cùng y còn phải truyền đạt đến mọi người lời nhắn nhủ của người đánh xe bò cho Thần Chết… Y ngồi trên cái ghế dựa, cảm thấy mình già đi vô cùng. Y trở nên nhẫn nại và phục tùng như những người già thường quen như vậy. Y chỉ biết chắp hai bàn tay lại và đọc khẽ lời cầu nguyện của người đánh xe bò: – Lạy Chúa, xin hãy để cho linh hồn con đạt đến độ trưởng thành trước khi bị phạt đứt đi! NGỌC THỌ dịch CU CHUYỆN VỢ MỘT NGƯỜI DN CHÀI Ở cuối xóm chài, trên một gò thấp cát trắng có một túp nhà tranh nhỏ. Túp nhà xây dựng chẳng ra gì nên không được đứng cùng hàng với những căn nhà nhỏ khác đều đặn và sạch sẽ ở xung quanh bãi cỏ xanh rộng rãi, nơi những vòng lưới màu nâu nằm phơi nắng. Tưởng như túp nhà này tự tách khỏi hàng lối và bị đẩy ra tận cồn cát. Người đàn bà góa khốn khổ, là người đã thiết kế và tự xây dựng túp nhà này đã xây dựng những bức tường thấp hơn những bức tường của tất cả các nhà khác, còn cái mái nhọn thì cao hơn bất cứ mái nhà nào trong thôn. Nền nhà thấp hơn mặt đất. Cửa sổ dù không cao, không rộng, những cũng chạy suốt từ mặt đất đến mái nhà. Bếp lò cũng như chuồng ngỗng đều không đặt được trong gian nhà độc nhất chật hẹp phải vây thêm ra ngoài tường. Túp nhà này không giống như những nhà khác, chẳng có một mảnh vườn để cho dây bìm bìm leo quanh cây phúc bồn tử, và cây ngưu bàng che mất một nửa tàn lá cây mộc hương. Trong tất cả các loại cây chỉ có cây ngưu bàng là chịu mọc theo túp nhà tranh này đến tận cồn cát. Về mùa hè những cây ấy cũng khá lộng lẫy với tán lá tươi mát màu xanh thẫm và những bông hoa đỏ nở tung giữa đám gai nhọn có móc. Nhưng đến mùa thu, khi những ngọn cây đã cứng lại và hạt đã già thì ngưu bàng không thèm làm dáng nữa, nó khô quắt lại, trở nên xấu xí và đám lá rách của nó phủ đầy tang tóc dưới những mạng nhện bụi bám đầy. Túp nhà tranh này không bao giờ ở được quá hai đời chủ, bởi vì những bức tranh torsi của nó chỉ có thể đỡ được cái mái nặng trong hai thế hệ thôi, và bao giờ chủ túp nhà cũng là những người đàn bà góa khốn khổ. Người quả phụ hiện đang ở trong túp nhà này ưu ngắm những cây ngưu bàng, nhất là về mùa thu, khi cây đã khô đi và bám vào những tảng đá. Những cây này nhắc bà nhớ lại những người đàn bà trước kia ở đây và đã xây dựng lại túp nhà: đó là một người đã khô héo và úa tàn, và cũng có khả năng bám móc và níu giữ, Con người khốn khổ ấy đã sử dụng tất cả sức lực của mình cho đứa con mà bà phải đẩy vào đời. Nghĩ đến điều này, người chủ hiện nay của túp nhà vừa muốn cười lại vừa muốn khóc. Nếu bà lão đã quá cố ấy không có cái bản chất bám giữ như cây ngưu bàng thì sự việc có lẽ đã xoay chuyển khác đi, nhưng biết rằng như vậy có tốt hơn không nhỉ? Người quả phụ thường ngẫm nghĩ miên man đến sự tình cờ đã đưa bà đến giải bờ biển bằng phẳng này của xứ Xcani bên cạnh eo biển hẹp giữa những người dân bình lặng và chậm chạp này. Bởi vì bà sinh ra ở một hải cảng nhỏ của nước Na Uy, dưới những thung núi dốc đứng, trước mặt biển rộng; và mặc dầu gia đình lâm vào cảnh khó nhăn nghèo túng sau khi ông bố mất đi, người con gái con nhà buôn bán này vẫn quen nhìn thấy quanh mình cuộc sống tấp nập. Bà đã nhiều lần tự kể lại cho mình nghe lịch sử của chính mình, như người ta đọc lại một quyển sách khó hiểu để thử rút ra ý nghĩa của nó. Số phận kỳ lạ của con người này đã bắt đầu như sau: một buổi tối, từ cửa hiệu khâu nơi nàng làm việc trở về nhà, nàng bị hai người thủy thủ tấn công; một người thủy thủ thứ ba cứu nàng thoát nạn. Anh ta đã đương đầu với một hiểm họa chết người thật sự; và anh ta đưa nàng về đến tận nhà. Nàng đưa anh vào, giới thiệu anh với mẹ và các em gái rồi phấn khích thuật lại hành động của anh. Nàng thấy như cuộc sống của mình thêm phần giá trị khi có một người khác dám liều thân để bảo vệ nó. Gia đình nàng đã tiếp đón chàng thủy thủ trẻ rất niềm nở và mời chàng luôn luôn trở lại chơi với gia đình mỗi khi chàng có dịp. Chàng tên là Borje Ninxơn, làm thủy thủ trên một chiếc tàu nhỏ có hai buồm của xứ Xcani, tàu Anbectina. Trong suốt thời gian tàu còn đậu ở cảng, chàng hầu như ngày nào cũng đến nhà những người bạn mới của mình.; và chẳng bao lâu, cả nhà không ai muốn tin rằng chàng chỉ là một thủy thủ bình thường. Lúc nào chàng cũng diện với chiếc cổ bẻ trắng lốp và bộ quần áo thủy thủ bằng dạ đẹp. Thẳng thắn, nhanh nhẹn, tư cách của chàng chẳng khác gì người cùng đẳng cấp với gia đình này. Chàng chẳng bao giờ nói gì với họ, nhưng cả nhà đều có cảm tưởng chàng là con trai của một quả phụ giàu có. Sở dĩ chàng đi làm một chân thủy thủ bình thường là vì không sao cưỡng được lòng yêu thích đi biển và là để chứng minh cho mẹ chàng biết sở thích ấy của chàng là nghiêm túc; nhưng sau khi vượt qua thử thách thì mẹ chàng sẽ mua cho chàng một chiếc tàu. Thế là gia đình người Na Uy này, đã từ lâu không đi lại chơi bời với những người quen biết cũ nữa, đón tiếp chàng chẳng chút nghi ngại. Tính tình xốc nổi và ăn nói lém lỉnh, chàng miêu tả ngôi nhà của mình có mái nhọn và cao, trong phòng có cái bếp lò lớn kiểu kiểu cổ, cửa sổ có những ô kính nhỏ. Chàng cũng kể về những đường phố lặng lẽ của thành phố quê hương mình và những dãy nhà cùng một kiểu như nhau. Còn nhà của chàng với những mảng trang trí nhô ra thụt vào đã tạo một sự tương phản thú vị với quang cảnh xung quanh. Và những người nghe chàng kể chuyện đều thấy hiện ra sau lưng chàng một ngôi nhà cổ giàu sang có hình trang trí ở đầu hồi, một kiểu nhà cổ có tầng gác nhô ra gây nên một cảm giác dễ chịu của sự phong lưu và cổ kính. Cô thiếu nữ rất sớm nhận ra là chàng đã yêu mình; và điều đó làm cho mẹ và các em nàng vui mừng. Chàng trai Thụy Điển trẻ tuổi và giàu có này đã được trời phái đến để bù đắp cho sự nghèo túng của họ. Dù nàng không yêu chàng đi nữa thì cũng không bao giờ nghĩ đến chuyện xua đẩy chàng đi. Một người bố, một người anh chắc chắn là đã tìm cách dò la tìm hiểu về người khách lạ này, nhưng mẹ nàng cũng như nàng chẳng hề cẩn thận nghĩ đến điều đó. Về sau này, nàng mới hiểu ra rằng chính mẹ con nàng đã hầu như đẩy chàng đến chuyện nói dối. Lúc đầu không hề có ý nghĩ xấu, chàng đã để cho trí tưởng tượng của họ gán cho chàng những tài sản lớn; rồi đến khi thấy họ sung sướng biết mấy khi tưởng chàng giàu có thì chàng đã sợ mất nàng nên không dám cho họ tỉnh ngộ nữa. Hai người đính hôn với nhau lúc chàng ra đi, và khi con tàu hai buồm trở lại thì họ làm lễ cưới. Nàng có hơi thất vọng khi thấy chàng trở lại mà vẫn chỉ là anh thủy thủ thường; nhưng chắc là hợp đồng thủy thủ của chàng chưa hết hạn. Chàng cũng chẳng mang đến món quà nào của mẹ chàng. Nhưng chắc là bà già đã hy vọng cho con trai bà sẽ lấy một đám khác. Vậy phải chờ đến lúc Axtid về gặp bà và chinh phục được cảm tình của bà. Kể ra nếu họ biết xét đoán cẩn thận thì mặc dầu tất cả những điều nói dối của chàng, họ cũng có thể thấy được là chàng nghèo. Vì người vợ trẻ muốn được đi du lịch trên chiếc tàu buồm, nên ông chủ tàu mời nàng ở trong cabin của ông, và nàng sung sướng nhận lời. Borje hầu như được miễn tất cả mọi công việc, và chàng dành phần lớc thời gian của mình để trò chuyện cùng Axtid trên boong. Chàng hào phóng ban cho nàng cái hạnh phúc tưởng tượng, cái hạnh phúc mà chính chàng đã sống suốt cả đời mình. Chàng càng nghĩ đến túp nhà tranh bé nhỏ nằm ngập trong cát, lại càng vẽ lên thật cao ngôi nhà mà chàng những muốn đưa nàng vào. Theo lời kể của chàng, người thiếu phụ nhẹ nhàng lướt đi giữa một bến cảng kết đầy hoa và giăng đầy cờ để chào đón người vợ mới cưới của Borje Ninxơn. Nàng ngồi xe để chạy qua một cổng chào, trong khi những người đàn ông cứ nhìn theo nàng mãi và những người phụ nữ thì tái mặt đi vì ghen tức. Cuối cùng chàng đưa nàng vào một ngôi nhà cổ kính có những người hầu mái tóc bạc phơ cúi gập mình chào nàng và mời nàng ngồi vào bàn tiệc bày la liệt những bộ đồ cổ bằng bạc. Sau này khi nàng đã biết rõ sự thật, ý nghĩ đầu tiên của nàng là viên thuyền trưởng đã đồng tình với Borje để lừa dối nàng; nhưng rồi nàng phải hoàn toàn thừa nhận là không đúng như vậy. Trên chiếc tàu này, mọu người có thói quen nói về Borje như là một người khá giả. Họ có một kiểu đùa cợt ưa thích là nói chuyện một cách rất nghiêm chỉnh về tài sản và gia đình bề thế của chàng. Họ tưởng rằng nàng cũng nói đùa như họ. Vậy là đến khi chiếc thuyền buồm thả neo ở bến cảng gần làng của Borje nhất, nàng vẫn còn tưởng mình là vợ của một người giàu có. Borje được nghỉ phép một ngày một đêm để đưa vợ về nhà mẹ chàng và sắp đặt lại cuộc sống mới cho vợ. Khi hai người đi đến bến tầu mà dáng lẽ phải có những lá cờ phất phới và đám đông reo hò chào đón đôi vợ chồng trẻ thì ở đó chỉ thấy vắng lặng như thường lệ. Borje nhận thấy cô vợ thất vọng đưa mắt nhìn quanh. – Chúng mình đến sớm quá, – chàng nói. – Thời tiết tốt nên chuyến đi được rút ngắn lại rất nhiều! Họ chẳng cho xe đến, giờ ta phải đi bộ một quãng khá xa, vì nhà ta ở ngoài thành phố. – Có hề gì, anh Borje? – Nàng trả lời. – Ngồi im mãi một chỗ rồi, bây giờ đi bộ càng tốt. Và họ bắt đầu lên đường, con đường ghê tởm mà sau này, cả đến lúc đã già, nàng không thể nghĩ đến mà không rên lên khổ não và co quắp cả hai bàn tay vì đau đớn. Họ đi theo những đường phố rộng và vắng vẻ mà nàng thấy đúng như chàng đã tả. Nhìn cái nhà thờ âm u và những ngôi nhà trát torsi cao bằng nhau một loạt, nàng tưởng như gặp lại bạn cũ của mình. Nhưng còn cái đầu hồi nhọn và cái cầu thang viền lan can đẹp thì ở đâu nhỉ? Borje gật đầu ra hiệu với nàng tưởng như chàng đoán được điều nàng đang nghĩ. – Còn xa đấy, chàng nói. Ôi, sao mà chàng không biết thương xót, sao mà chàng không làm cho bag tiêu tan ảo mộng ngay đi! Giá lúc ấy chàng thú nhận ngay tất cả thì có lẽ nàng không mảy may oán giận vì nàng còn quá yêu chàng. Chàng đã thấy nỗi lo sợ bị lừa dối của nàng mỗi lúc một tăng lên, mà chàng vẫn còn tiếp tục nói dối. Đó là điều làm cho nàng đau khổ, là điều nàng không bao giờ hoàn toàn tha thứ cho chàng được. Mặc dù nàng tự nhủ rằng lúc đầu chàng muốn đưa nàng đi khá xa để không thể bỏ chàng được nữa; nhưng chàng cứ cố tình nói dối mãi làm cho tâm hồn nàng lạnh giá đi như một tảng băng không còn tình yêu nào có thể làm tan đi được. Vậy là họ đã vượt qua thành phố và đi vào cánh đồng. Nàng nhìn thấy những khúc hầm hào tối om và những lũy đất cao mọc đầy cỏ xanh, đó là những di tích thành lũy phòng ngự ngày xưa của thành phố. Ở những chỗ hào lũy nối nhau vây quanh một pháo đài nổi lên những tháp canh lớn màu xám và một ngôi nhà dáng rất cổ. Nàng rụt re bước qua nhưng Borje lại rẽ sang phải đi theo một lũy đất chạy dọc bờ biển. – Đây là đường tắt, – chàng nói khi thấy nàng ngạc nhiên vì phải đi vào một lối hẹp. Chàng trở nên lầm lì. Sau này nàng mới hiểu ra rằng lúc ấy chàng đã thấy khổ tâm lắm vì phải đưa vợ đến túp nhà tranh tồi tàn trong xóm, đã thấy chẳng sung sướng gì khi lấy một người vợ địa vị cao hơn mình, và đã lo sợ không hiểu lúc biết rõ sự thật thì nàng sẽ xử trí ra sao? Sau khi hai người im lặng đi dọc theo các bờ lũy, nàng nói: – Anh Borje, chúng mình đi đâu thế này? Chàng giơ tay chỉ vào xóm, nơi mẹ chàng ở trong túp nhà tranh, trên cồn cát. Nhưng nàng lại tưởng chàng chỉ vào một trong những trang trại đẹp ở rìa cách đồng và nàng lại tin tưởng. Rồi hai người di xuống những đồng cỏ nước mặn vắng tanh vắng ngắt, và nỗi lo âu lại chiếm lấy lòng nàng. Nơi đây, nhiều loại cỏ mọc xanh um vui mắt, nhưng đối với nàng chỉ là một đầm lầy xấu xí. Gió thổi không ngừng, rít lên quanh nàng và thì thầm voéi nàng những chuyện tai ương phản bội. Borje bước nhanh. Họ đã vượt qua đồng cỏ nước mặn và đi vào xóm. Trên đoạn đường cuối cùng, nàng không dám hỏi một câu nào khác. Nhưng khi thấy một dãy nhà nữa hiện ra thì nàng lại khấp khởi mừng thầm. Có lẽ, có lẽ anh ấy đã không nói dối. Những hy vọng của nàng đã bị lay chuyển một cách tàn nhẫn đến nỗi nàng sẽ rất vui lòng bước vào một trong những căn nhà nhỏ bé xinh xẻo có những bông hoa và những riềm cửa trắng hiện ra sau những ô cửa kính sáng loáng này. Nàng thấy tiếc phải vượt qua… Bỗng nhiên nàng thấy ở cuối xóm một túp nhà lụp xụp tồi tàn; và đối với nàng túp nhà ấy hình như nàng đã nhìn thấy từ lâu bằng đôi mắt của tâm hồn trước khi nhìn thấy nó thực sự. – Có phải đấy không? – Nàng hỏi và dừng lại ở chân cồn cát. Chàng gật đầu và tiếp tục đi đến túp nhà tranh. – Khoan đã! – Nàng kêu lên, – chúng ta cần phải nói cho nhau rõ về chuyện này. Chàng quay lại phía nàng. – Anh đã nói dối! – Nàng nói với giọng đe dọa. – Anh đã lừa tôi; anh đã làm điều tàn tệ hơn cả kẻ thù tàn tệ nhất của tôi. Vì sao vậy? – Anh muốn lấy em làm vợ, – chàng khẽ lúng túng trả lời. – Giá anh nói dối vừa vừa thôi thì còn được. Nhưng sao anh lại nhồi vào đầu tôi toàn những chuyện giàu sang? Bịa ra nào là đầy tớ, nào là cổng chào để làm gì? Anh tưởng tôi tham của lắm sao? Anh không cảm thấy tôi yêu anh đến mức độ có thể theo anh đi bất cứ nơi nào à? Sao anh lại nhẫn tâm lừa dối tôi cho mãi đến phút cuối cùng như vậy? – Em có muốn vào nhà nói chuyện cùng mẹ anh không? – Chàng thì thầm trong cơn tuyệt vọng. – Tôi chẳng thiết vào. – Thế em định trở về? – Làm sao tôi có thể trở về được? Làm sao tôi có thể gây cho gia đình tôi một nỗi buồn lớn lao như vậy? Cả nhà tôi đã tưởng tôi được hưởng hạnh phúc và giàu sang! Nhưng tôi cũng sẽ không ở trong nhà anh. Tay làm hàm nhai, tôi chẳng lo gì. – Em hãy ở lại, em hãy ở lại, – chàng van xin. – Anh làm như vậy cũng chỉ vì muốn lấy được em thôi. – Nếu anh thú thật với tôi sớm hơn một chút thì tôi đã ở lại. – Phải, em sẽ ở lại nếu anh như anh giàu mà lại nói là nghèo. Nàng nhún vai và bỏ đi vừa lúc cách cửa túp nhà tranh mở ra và bà mẹ Borje xuất hiện. Đó là một bà già nhỏ bé quắt queo, mồm móm mém, da nhăn nhúm. Trông b bề ngoài bà có vẻ già, song chắc chưa nhiều tuổi và cũng còn minh mẫn. Có lẽ bà đã nghe được một phần câu chuyện và đoán được phần kia, chứng cớ là bà đã tìm được ngay cách thu xếp. – Vậy đó, – bà nói. – Con đã dẫn về cho mẹ cô dâu con nhà tử tế, và theo như mẹ thấy thì con lại còn bịa chuyện dối trả nữa kia. Bà dịu dàng lại gần Axtid và vuốt ve má nàng. – Con vào đây với mẹ, tội nghiệp cho con. Mẹ biết con mệt mỏi và kiệt sức rồi. Đây là túp lều của mẹ, của riêng mẹ, thằng kia sẽ không vào đâu. Vào đi, vào đi con. Bây giờ con là con gái mẹ và mẹ sẽ không để con vào nhà ai khác. Bà vuốt ve thiếu phụ, vỗ về nàng rất dịu dàng và đẩy nàng vào cửa. Cuối cùng Axtid vào nhà, còn Borje ở lại bên ngoài. Bà già hỏi han nàng con cái nhà ai, sự việc xảy ra như thế nào, và bà khóc lóc cho số phận của nàng, làm cho Axtid cũng tự mình phải khóc. Rồi bà nghiêm khắc lên án con trai. Phải, Axtid làm vậy là đúng: không thể trong nhà một người như hắn được. Hắn luôn luôn nói dối. Nhưng xưa nay dáng người và vẻ mặt của hắn vẫn đẹp làm sao! Ngay từ khi hắn còn bé tí tẹo, mẹ hắn đã lấy làm lạ sao hắn lại sinh ra làm con nhà nghèo. Người ta cứ tưởng hắn là một hoàng tử bị lạc. Không bao giờ hắn chịu yên phận. Hăn nhìn mọi vật với con mắt của người quyền quý, và khi lòng tự ái của hắn nổi lên, hắn không còn giữ chừng mực gì nữa. Mẹ hắn đã vì thế mà bao lần phải khóc. Nhưng những chuyện bịa của hắn chưa từng làm hại ai bao giờ. Trong vùng này người ta biết nó, người ta chỉ cười thôi. Thật ra mà nói thì chắc lần này thằng bé tội nghiệp đã bị cám dỗ ghê lắm…Rất lạ lùng là một thằng con nhà dân chài lại biết đi lừa người ta như vậy. Axtid có nghĩ đến điều ấy không? Cái thằng này có thông thạo lề thói lịch sự và những thói quen của người giầu có, đến nỗi ai cũng tin chắc nó là con nhà giầu. Chắc chắn là nó đã bị lầm lạc trong cuộc sống. Chứng cớ là nó chưa bao giờ có ý định chọn một người vợ cùng đẳng cấp. Bà già cứ nói, cứ nói. Axtid lặng im. – Con thấy không, – bà nói tiếp, – mẹ chẳng có thể làm cho nó bỏ được thói kiêu ngạo và ý muốn huyênh hoang, nhưng một người đàn bà khác khôn hơn mẹ có lẽ sẽ làm được. Thằng con của mẹ nó tốt bụng và có năng lực: cái đó chắc cũng đáng để thử xem…Nhưng ngày mai mẹ sẽ để con đi, mẹ hứa như vậy. – Đêm nay anh ấy sẽ ngủ đâu? Đột nhiên Axtid hỏi. – Mẹ nghĩ nó sẽ ngủ ngoài trời, trên bãi cát. Chắc nó không dám đi xa đâu. – Để anh ấy vào nhà thì hơn. Axtid nói. – Không, con yêu quý của mẹ, chắc con chẳng muốn nhìn thấy nó; vả lại nó có ngủ ngoài trời cũng chẳng hề gì; mẹ sẽ đưa cho nó một cái chăn. Quả thật đêm ấy chàng ngủ trên bãi cát, và sáng hôm sao bà mẹ sai chàng ra thành phố vì bà không muốn Axtid nhìn thấy chàng. Và bà tiếp tục nói chuyện với nàng, và bà đã giữ được nàng lại không phải bằng áp lực mà bằng lời nói, không phải bằng mưu mẹo và cung cách màu mè, mà bằng lòng nhân hậu thật sự. Cuối cùng khi bà đã thuyết phục được cô con dâu ở lại với người con trai bà, khi bà đã thấy hai người trẻ tuổi hòa giải với nhau và bà đã làm cho Axtid tin rằng thiên chức của nàng đích thị là làm vợ của Borje Ninxơn và đem lại cho chàng tất cả những điều tốt lành mag nàng có thể làm được; khi bà lão đã hoàn thành cái nhiệm vụ ấy, – cái nhiệm vụ không phải chỉ làm trong một ngày hay một tuần, – khi ấy bà mới nhắm mắt. Trong cuộc đời của người đàn bà luôn luôn lo lắng cho đứa con trai của mình ấy, Axtid thấy ít ra cũng còn có một ý nghĩa, nhưng trong cuộc đời của chính mình, nàng chẳng thấy có một ý nghĩa nào. Cưới nhau được mấy năm thì Borje bị chết đuối; đứa con đọc nhất của họ cũng chết khi còn trẻ. Nàng đã chẳng làm cho chồng sửa đổi được tính nết. Nàng đã chẳng dạy được cho chồng tính thật thà và đứng đắn. Nhưng cuộc sống đã làm cho chính nàng thay đổi. Axtid càng ngày càng hòa mình với đám dân chài. Nàng không bao giờ muốn gặp lại một người nào trong gia đình nàng, bởi nàng lấy làm xấu hổ bởi vì mình giống như những người đàn bà trong xóm chài về mọi mặt. Cuộc đời của nàng đã giúp ích được gì cho ai? Nàng sinh sống bằng việc trông nom và vá lại những tấm lưới cho những người đánh cá; nhưng nàng không biết mình sống để làm gì. Giá như ít ra nàng đã làm cho một người, chỉ một người thôi được sung sướng hoặc trở nên tốt hơn…Không bao giờ nàng tự nhủ rằng một con người đã coi cuộc đời của mình là hoài phí vì đã không làm được điều gì tốt lành cho ai cả, lại có thể do ý nghĩ khiêm nhường như vậy, cứu vớt được linh hồn của mình. NGỌC THỌ dịch BỨC CHN DUNG NGƯỜI MẸ Căn nhà của ông lão Matxơn là một trong số một trăm căn nhà của xóm chài, tất cả đều nhất loạt giống nhau, từ hình dáng, kích thước, số cửa sổ và chiều cao ống khói. Nhà nào cũng bày biện những đồ đạc như nhau; mép cửa sổ nhà nào cũng trồng một thứ hoa, tủ nhà nào những vỏ ốc và những cành san hô giống nhau, tường nhà nào cũng treo những phong tục cổ. Phía trên giường nằm của lão Matxơn, trên vách có treo một bức chân dung bà mẹ của lão. Một đêm kia lão mơ thấy bức chân dung đi ra ngoài khung, đến trước mặt lão và tuyên bố với một giọng quyền uy: “ Matxơn, con phải lấy vợ”. Lão Matxơn ra sức trình bày với bức chân dung rằng lão không thể nào làm được điều ấy: lão đã sáu mươi hai tuổi. Nhưng bức chân dung cứ nhắc lại một cách kiên quyết hơn: “ Matxơn, con phải lấy vợ”. Từ trước đến nay lão Matxơn vẫn rất tôn kính bức chân dung bà mẹ. Bao nhiêu năm nay, trong những trường hợp khó khăn, đó là người cố vấn duy nhất của lão, và lão đã luôn luôn gặp điều tốt lành khi theo đúng những lời khuyên của bức chân dung. Nhưng lần này cái ý kiến mới lạ của nó làm cho lão ngạc nhiên vì trái hẳn với những quan niệm xưa nay của nó. Mặc dầu đang thiu thiu ngủ, Matxơn vẫn nhớ lại rõ ràng cái việc đã xẩy ra lần đầu tiên khi lão muốn lấy vợ. Đúng vào lúc lão đang mặc bộ quần áo cưới thì cái đinh đỡ khung chân dung bị long ra, và bức chân dung rơi ngay xuống. Đó là một lời cảnh cáo mà lúc ấy lão không hề quan tâm. Nhưng chẳng bao lâu sau lão phải hối hận vì điều này. Cuộc hôn nhân ngắn ngủi ấy của lão rất bất hạnh. Lần thứ hai khi lão mặc bộ quần áo cưới, bức chân dung lại đổ xuống một lần nữa. Lần này lão không dám trái ý và bỏ mặc tất cả họ hàng bạn bè cùng cô dâu, lão ba chân bốn cẳng chạy trốn, xuống tầu xin làm thủy thủ, đi hết một vòng quanh thế giới rồi mới dám đánh bạo trở về nhà. Ấy thế mà bây giờ lại chính bức chân dung từ trên tường đi xuống và ra lệnh cho lão phải cưới vợ! Mặc dù lòng kính trọng sâu sắc, lão vẫn cho phép mình nghĩ rằng bức chân dung chế giễu lão. Nhưng bức chân dung một khuôn mặt hết sức dày dạn mà những cơn gió dữ dội và những ngọn sóng mặn chát đã khắc họa nên đường nét, bức chân dung ấy vẫn giữ vẻ nghiêm nghị và, với cái giọng đã quen nói to một cách khác thường sau bao nhiêu năm hò hét mời chào khách mua cá ở chợ, với giọng nói ấy, bức chân dung nhắc lại mệnh lệnh: “Con phải lấy vợ, Matxơn”. Lão Matxơn van xin bức chân dung hãy nghĩ đến cái xã hội mà lão đang sống. Một trăm căn nhà trong xóm đều có những mái nhọn và những bức vách trát torsi trắng như nhau. Tất cả những thuyền trong xóm đều cùng một kiểu và xếp đặt dụng cụ giống nhau. Không người nào trong xóm làm một việc khác đời. Nếu bà mẹ còn sống thì chắc sẽ là người đầu tiên phản đối một cuộc hôn nhân vô lý như vậy. Chẳng phải ngày xưa bà đã rất mực yêu cầu mọi người tôn trọng phong tục và tập quán đó sao? Vậy thử hỏi từ bao giờ đã sinh ra cái phong tục và tập quán cho một người gần thất tuần đi lấy vợ? Thế là bức chân dung giơ bàn tay đeo đầy nhẫn lên nghiêm khắc ra lệnh cho lão phải tuân lời. Từ trước đến nay, mỗi khi bà mẹ xuất hiện như vậy với chiếc áo dài có riềm bằng lụa trơn đen thì cả người bà như toát ra một uy lực thần bí. Nhìn thấy cái trâm cài đầu và sợi dây chuyền nặng trĩu bằng vàng của bà, bao giờ Matxơn cũng bị xúc động mạnh mẽ. Nếu bà chỉ mặc bộ xống áo hằng ngày đi chợ, đầu chít cái khăn kẻ ô vuông, ngực đeo tạp dề bằng vải dầu bám đầy vết máu và vảy cá thì bà đã chẳng gây ra cho lão một niềm kính sợ sâu sắc như vậy. * Sáng hôm sau, lão Matxơn thức dậy lòng đầy lo lắng. Lão chẳng hề có ý cưỡng lại bức chân dung của bà mẹ là người chắc chắn biết rõ hơn lão rằng lợi ích chân chính của lão là như thế nào. Nhưng lão run lên khi nghĩ đến những ngày khủng khiếp sắp tới. Lão liền xin kết hôn với cô con gái xấu nhất của người dân chài nghèo nhất. Đó là một cô gái so vai rụt cổ và hàm răng dưới nhô ra. Bố mẹ cô gái nhận lời và họ ấn định ngày sẽ cùng nhau ra tỉnh để ký hôn ước. Con đường từ xóm ra thị xã đi qua hướng đồng cỏ nước mặn gió thổi vật vờ và những bãi đầm lầy. Đường dài đến một dặm; và có một truyền thuyết cho rằng dân trong xóm giàu đến nỗi có thể rải những đồng bạc bạc trắng đẹp suốt cả chiều dài con đường. Nếu đúng như vật hì con đường mòn này sẽ mang một vẻ duyên dáng kỳ lạ biết! Nó se sáng loáng như cái bụng con cá đầy vẩy trắng, uốn khúc ngoằn ngoèo giữa những bụi cói và những vũng nước thỉnh thoảng vang lên tiếng kêu oàm oạp của bầy nhái bén.Cây bạch cúc trang trang điểm cho vùng đất bị con người bỏ quên này sẽ soi bóng xuống những đồng tiền nhẵn nhụi được gìn giữ giữa những mũi gai nhọn tua tủa của cây gai. Tiếng gió sẽ vang vọng biết bao khi thổi vào đám lau sậy và những sợi điện thoại! Có lẽ lão Matxơn sẽ cảm thấy chút nào êm ái khi đặt những đồng bạc leng keng; có điều chắc chắn là lão phải đi trên con đường này nhiều lần hơn là lão mong muốn. Giấy tờ của lão không hợp lệ. Cái việc liều lĩnh ngày trước, khi lão bỏ rơi cô vợ mới cưới, làm cho việc ký hôn ước bị chậm trễ. Phải chờ ông mục sư viết thư xin hội nghị giáo chủ cho phép lão được ký kết một cuộc hôn nhân mới. Công việc bị kéo dài. Thế là mỗi lần văn phòng của ông mục sư mở cửa là lão Matxơn lại ra tỉnh để gặp ông. Lão im lặng và bình tĩnh ngồi chờ cho đến khi tất cả những người khác về hết. Lúc ấy lão mới đứng dậy và hỏi ông mục sư đã nhận được bức thư nào chưa? – Chưa, chưa nhận được. Ông mục sư nhìn lão già ngồi trên cái ghế dài, mặc bộ quần áo dệt kim bằng sợi thô, chân mang đôi ủng đi biển cao ống, nét mặt thô ráp và thông minh, đầu đội cái mũ vải trùm lên mái tóc dài màu xám, lão già ấy đang chờ được phép cưới vợ. Và ông mục sư kinh ngạc thầm khen tình yêu ở một người già lại có quyền lực mạnh mẽ đến thế, chẳng hề ngả lòng trước bao nhiêu trở lực. – Ông Matxơn nóng lòng ký kết cuộc hôn nhân này lắm nhỉ? – Một hôm ông mục sư hỏi. – Hừm, hừm, xong việc càng chóng càng hay. – Thế ông không cho rằng từ bỏ việc này đi thì lại càng hay hơn sao? Ông chẳng còn trẻ trung gì nữa. – Ông mục sư không nên quá ngạc nhiên như vậy, – lão già trả lời chống chế. Và lão nói thêm: “Tôi biết rằng tôi già rồi, nhưng tôi phải lấy vợ, nhất thiết phải lấy vợ.” Thế rồi tuần này qua tuần khác, lão trở đi trở lại suốt sáu tháng ròng. Vì mãi sáu tháng sau, lời chuẩn y mới được gửi đến. Suốt thời gian này, lão Matxơn mất ăn mất ngủ. Bất cứ ở đâu, từ trên bãi cỏ xanh phơi những tấm lưới nâu, dọc theo những đập chắn sóng bằng xi măng của bến cảng, cho đến tận ngoài khơi, nơi họ đuổi theo những bầy cá mới, đâu đâu lão cũng nghe thấy tiếng xì xào ngạc nhiên và tiếng cười nhạo báng nổi lên rào rào như một cơn bão. – Chả, chả, lão lại sắp lấy vợ. Cái lão Matxơn lần trước đã co cẳng chuồn ngay buổi sáng ngày lễ cưới của lão ấy mà! Cả cô dâu, cả lão cũng chẳng được buông tha. Nhưng điều tệ hại nhất là không ai thấy điều này là lố bịch hơn chính lão. Bức chân dung bà mẹ làm cho lão suýt phát điên lên được. * Buổi chiều ngày chủ nhật hôm ký hôn ước, để tránh sự tò mò và những lời châm chọc phiền toái, lão Matxơn một mình lánh ra con đường kè và đi đến tận tháp đèn biển. Ở chân tháp, lão thấy vị hôn thê của mình đang khóc. Lão hỏi chuyện nàng có phải trước đây nàng đã muốn lấy người khác? Mới đầu nàng không trả lời gì cả. Nàng lấy móng tay cậy những miếng vôi ở tường và thả rơi xuống biển. – Hay cô đã yêu một người khác chăng? – Không, chẳng có ai cả. Ở tháp đèn, cảnh thật đẹp. Nước biển trong vắt vỗ ì oạp xung quanh, bờ biển bằng phẳng, những căn nhà đều tăm tắp trong xóm, thành phố ở phía xa xa. Tất cả đều tắm trong ánh sáng bcủa biển Sund và trong vẻ đổi mới của nó. Thỉnh thoảng từ đám sương mù xôm xốp thường nổi bập bềnh ở chân trời phía tây ló lên một chiếc thuyền chài. Chiếc thuyền chạy theo một đường vát táo bạo và tiến gần bến cảng. Nó vui vẻ lao vào cảng qua một cửa vịnh hẹp, nước reo tung tóe bắn lên mũi thuyền. Những chiếc buồm bỗng hạ xuống, đám bạn chài vẫy vẫy chiếc mũ của họ và giữa khoan thuyền lấp lánh mẻ cá vừa đánh được. Trong khi lão Matxơn đang đứng trên đường kè thì một chiếc thuyền chạy vào bến. Một chàng trai đang ngồi cầm lái bỏ mũ ra và chào cô gái trẻ. Lão già thấy lóe lên một sáng trong đôi mắt vị hôn thê của mình. “Chà, – lão tự nhủ, – cô em đã phải lòng anh chàng đẹp trai nhất xóm. Anh chàng ấy chẳng bao giờ cô em lấy được đâu. Cô em lấy ta còn hơn là chờ đợi hắn.” Thật không có cách nào thoát khỏi ý muốn của bức chân dung bà mẹ! Nếu cô gái yêu một người mà may ra cô có cơ lấy được thì lão Matxơn sẽ cho phép mình từ bỏ cuộc hôn nhân. Nhưng trong trường hợp này thì lão chẳng có lý do gì chính đáng để trả lại tự do cho cô gái. * Mười lăm ngày sau thì tổ chức đám cưới, và sau đó chẳng bao lâu, cơn bão tháng mười một ập đến. Một trong những chiếc thuyền nhỏ của xóm chài bị mất cả cột buồm lẫn bánh lái, và hoàn toàn hư hại trôi bập bềnh trên sóng biển Sund. Lão Matxơn và năm người khác đi trên chiếc thuyền ấy lênh đênh như vậy trong hai ngày hai đêm. Khi người ta cứu được thì họ đã gần chết vì đói và rét. Mọi vật trên thuyền đều đóng băng và quần áo của họ bắt đầu đông cứng lại. Sức khỏe của lão Matxơn chẳng bao giờ hồi phục được nữa. Lão ốm mòn mỏi trong hai năm rồi chết. Bấy giờ nhiều người mới lấy làm lạ rằng làm sao lão lại nghĩ đến lấy vợ đúng vào lúc trước khi xẩy ra tai nạn, bởi vì người vợ bé nhỏ mà lão đã chọn trở thành một người chăm sóc bệnh nhân giỏi. Nếu lão chỉ có một thân một mình thì không biết sẽ ra sao? Cả xóm chài đều thừa nhận rằng cả đời lão chưa bao giờ làm được một việc khôn ngoan hơn thế; và người đàn bà bé nhỏ được mọi người mến phục vì đã tận tụy chăm sóc chồng. Người ta bảo nhau: “ Cô ấy rồi sẽ lấy được chồng khác dễ như bỡn”. Suốt thời gian bị bệnh, ngày nào lão Matxơn cũng kể cho cô vợ trẻ nghe câu chuyện bức chân dung. – Khi tôi chết, em sẽ lấy bức chân dung ấy, – lão nói. – Vả lại tất cả những gì của tôi thì em cũng sẽ lấy hết đi thôi. – Thôi đi, ông đừng có nói chuyện ấy… – Em sẽ lấy bức chân dung bà mẹ tôi, và sau này khi có người đến hỏi làm vợ, em cứ đem bức chân dung ra mà chiêm nghiệm. Tôi quả quyết với em rằng, trong cả xóm này, không có ai thành thạo về hôn nhân hơn bức chân dung ấy. NGỌC THỌ dịch.