Chương 1

1

Điều cuối cùng Nina Askew cần là Fred.

“Tôi muốn mua một con cún,” cô nói với người phụ nữ mặc bộ đồng phục màu nâu đứng sau cái quầy kim loại sứt sẹo trong Trạm Kiểm soát Thú vật Riverbend. “Một con thật vênh váo.”

“Vênh váo.” Người phụ nữ thở dài. “Hẳn rồi. Chúng tôi có vênh váo.” Bà ta hất đầu về phía cánh cửa kim loại xám ở cuối quầy. “Đi qua chỗ kia, xuống dưới một bậc.”

“Phải rồi.” Nina vén những lọn tóc xoăn ngắn cũn cỡn ra sau tai, nắm lấy túi xách và bước qua cửa, quyết tâm tự mình chọn bằng được món quà sinh nhật bốn chân vênh váo nhất. Hôm qua là sinh nhật lần thứ bốn mươi của cô thì sao chứ? Bốn mươi là độ tuổi hay ho đối với phụ nữ. Nó có nghĩa là tự do. Đặc biệt là sự tự do khỏi gã chồng cũ quá tham vọng và cái tòa lâu đài ở vùng ngoại ô xa hoa kia cuối cùng cũng đã đẩy đi được sau một năm ròng rã rao bán. Điều tuyệt vời trong chuyện này là cô đã thoát khỏi ngôi nhà quái quỷ đó.

Và giờ cô đã bốn mươi. Chà, cô sung sướng khi đã bốn mươi tuổi. Nói cho cùng thì đó chính là lý do cô đang tìm một con chó cho riêng mình.

Người phục vụ đi cùng cô bảo, “Đường này,” và Nina đi theo bà ta qua một cánh cửa kim loại nặng nề khác. Cô sẽ mua một con cún. Cô luôn muốn nuôi chó nhưng Guy không chịu hiểu. “Chó rụng đầy lông,” anh ta đã nói thế khi cô gợi ý nên mua một con để tặng nhau làm quà cưới. Lẽ ra cô phải biết đó là Dấu hiệu đáng báo động. Nhưng không, cuối cùng thì cô cũng cưới anh ta và chuyển đến cái lăng tẩm được thiết kế làm nhà ở đó. Và rồi cô đã trải qua mười lăm năm dõi theo sự nghiệp của chồng mình, không có con chó nào, trong một ngôi nhà mà càng ngày cô càng căm ghét. Mười sáu năm trong ngôi nhà đó, nếu tính thêm một năm tù ngục trong tình trạng đã ly hôn vừa rồi khi phải chờ đến khi bán được nhà. Nhưng giờ cô đã được tự do, có một căn hộ của riêng mình cùng với một công việc tuyệt vời, dù là tạm thời. Điều duy nhất cô cần là một cơ thể ấm áp, vui vẻ chờ đợi mỗi khi cô về nhà.

Người phục vụ mở cửa, và tiếng sủa văng vẳng Nina nghe thấy trước đó trở nên điên cuồng và inh ỏi. Nina bước vào căn phòng bê tông và dừng lại, cảm giác mê mẩn bị thổi bay trước dãy chuồng làm bằng kim loại xám, bên trong là bọn chó sủa ầm ĩ thu hút sự chú ý của cô. Cô thở hắt ra, hoảng hồn. “Ôi Chúa ơi, thật dễ sợ.”

“Nhớ triệt sản thú nuôi đấy.” Người phục vụ dừng lại trước cái chuồng kế cuối. “Đây rồi.” Bà ta hất đầu lần nữa. “Vênh váo.”

Nina bước tới liếc nhìn vào trong cái chuồng mà người phục vụ đã chỉ cho cô. Bọn cún thật đáng yêu – giống chó lai nhỏ xíu, mắt sáng, lông đốm – chúng trèo lên nhau, ngã lăn xuống, rên ư ử và sủa ăng ẳng. Vênh váo đến chết người. Giờ tất cả những gì cô phải làm là chọn lấy một con…

Cô đến gần hơn và hoàn toàn tình cờ liếc nhìn vào chuồng cuối cùng. Thế rồi cô khựng lại.

Chỉ có một con chó trong cái chuồng đó, kích thước tầm tầm và trông ủ dột, quá to đối với căn hộ và quá sầu muộn đối với tâm trạng của cô. Nina cố quay lại với đám cún con, nhưng chẳng hiểu sao cô không thể làm thế. Dưới đôi mắt tối tăm của con chó đó có những cái bọng lớn, hai vai nó gồ lên và bộ lông trắng bị thứ gì đó trông như những đốm màu nâu sậm khổng lồ dây bẩn. Nó ngồi trên nền bê tông ẩm ướt như một con kền kền cỡ bự và nhìn cô chòng chọc, không sủa, không cử động. Trông nó giống ông Fred của cô trước khi ông qua đời năm cô lên sáu. Cô rất quý ông Fred, và rồi một ngày nọ trái tim ông ngừng đập, theo cách nói của mẹ cô, và mọi chuyện là thế.

“Chào,” cô lên tiếng. Con chó khẽ ngẩng đầu lên, thế là cô ngồi thụp xuống thò tay qua cửa chuồng và gãi lên tai nó. Nó nhìn cô rồi nhắm mắt lại, cảm kích trước hành động của cô.

“Nó bị làm sao thế?” Nina hỏi người phục vụ.

“Chẳng sao cả, nó lai một phần chó lùn, một phần chó săn thỏ.” Bà ta vừa nói vừa kiểm tra tấm thẻ trên chuồng. “Hoặc có thể nó bị đần. Hôm nay là ngày cuối cùng của nó.”

Nina tròn mắt. “Ý bà là…”

“Phải.” Người phục vụ xoẹt bàn tay ngang cổ họng.

Nina quay lại nhìn con chó. Nó nhìn lại cô, vẻ chết chóc hiện lên trong mắt.

Ôi Chúa ơi.

Cô đứng dậy, vén tóc ra sau tai, cố tỏ ra hiệu quả và thực tế trong nỗ lực trở nên hiệu quả và thực tế. Cô không cần con chó này. Cô cần một con cún vui nhộn, vênh váo, trong khi vào ngày tuyệt nhất đời mình, trông con chó này sẽ như một kẻ kh

khóc thuê chuyên nghiệp. Và nó thậm chí còn chẳng phải là một con cún.

Bất kỳ con chó nào ngoài con này.

Cô nhìn xuống con chó lần cuối cùng, tóc cô đổ về trước, làm thành cái khung màu đen uốn lượn viền quanh vẻ ủ dột của con chó. Nó hơi cúi đầu như thể với nó như thế là đã quá nặng nề, và hai tai nó cụp xuống.

Cô không thể chọn con chó này. Nó quá ủ dột. Nó quá to. Nó quá già. Cô lùi lại một bước và con chó thở dài nằm xuống, chẳng trông đợi bất kỳ điều gì, cam chịu trước sàn nhà lạnh cứng cùng với thực tế là chẳng ai yêu thương nó và cái chết cầm chắc trong sáng nay.

Ít ra thì đó là những gì mà Nina chắc chắn là nó phải cam chịu. Không chịu nổi điều đó, cô quay sang người phục vụ và nói, “Tôi lấy con này.”

Người phục vụ nhướn mày. “Đây là quan niệm của cô về vênh váo à?”

Nina chỉ về phía đám cún. “Bọn nó rồi sẽ được nhận nuôi hết, đúng không?”

“Chắc thế.”

Nina đưa mắt nhìn bọn cún mũm mĩm, tưng bừng kia lần cuối. Một loại thuốc chống trầm cảm có bốn chân và một cái đuôi. Thế rồi cô nhìn con chó kia, ủ dột, đơn độc, quá già, không còn thấy dễ thương được nữa nếu nó từng có thời dễ thương. “Tôi và con chó này có rất nhiều điểm tương đồng,” cô bảo người phục vụ. “Hơn nữa, tôi sẽ chẳng thể ngủ được nữa khi biết rằng mình có thể cứu nó nhưng lại không chịu cứu.”

Người phục vụ lắc đầu. “Cô không thể cứu tất cả bọn chúng.”

“Chà, tôi có thể cứu con này.” Nina ngồi thụp xuống ngang với tầm mắt con chó. “Ổn rồi, Fred. Tao vừa mới cứu mạng mày đấy.”

Con chó đảo tròn mắt nhìn cô chòng chọc.

“Không, đừng cảm ơn tao. Rất vui khi được giúp mày.” Nina đứng dậy và theo người phục vụ đi xuống đường luồng. Đến cuối đường, cô quay lại và thấy Fred bước tới trước, thò mũi qua những thanh chắn. “Này, không sao đâu,” Nina gọi với lại. “Tao sẽ quay lại ngay khi cứu được mày ra khỏi chốn ngục tù này.”

Fred rên ư ử và lếch thếch lùi vào sâu trong chuồng.

“Ồ, phải rồi, rồi mày sẽ làm tao phấn chấn lên,” nói rồi Nina đi ký các loại giấy tờ và trả tiền.

Con chó cũng chẳng vui vẻ gì hơn khi người phục vụ mở cửa chuồng và nó loạng choạng bước vào vòng tay Nina, toàn thân bốc mùi ngoài sức tưởng tượng. “Mày hôi lắm, Fred,” cô bảo nó rồi bế nó lên ôm chặt vào người, tự nhủ rằng bộ vest lụa của cô có thể giặt khô được, và rằng ít nhất nó cũng màu nâu, cùng màu với Fred, thế nên sẽ không thấy lông chó dính vào. Con chó ngẩng lên nhìn và cô thêm vào, “Và mày nặng cả tấn ấy.” Nó giống như một vật nặng không chút sức sống trên tay cô, tròn và đồ sộ, phần lớn trọng lượng cơ thể dường như tập trung ở phía đuôi, làm phần mông hoàn toàn trĩu xuống khi cô giữ hông nó thăng bằng trên hông mình. Thế nhưng, mặc dù cực kỳ bốc mùi, cô vẫn cảm thấy thật dễ chịu khi ôm con chó. “Tao đã cứu mày đấy, Fred,” cô thì thầm vào tai nó, làm nó co người lại vì hơi thở của cô làm nó nhột, nhẫn nhịn nhưng chẳng tỏ ra chút hào hứng nào trước bước ngoặt mới của cuộc đời.

Nó hơi nhổm dậy khi cô đưa nó ra ngoài ánh mặt trời tháng Năm, nhưng lại dường như bực bội khi cô cố giữ nó thăng bằng trên một bên hông trong lúc xoay xở mở cửa chiếc xe Civic trắng của mình.

“Tao đã định… tìm… một con cún,” cô bảo con chó, vừa thở hồng hộc vừa dùng hông bên kia đẩy cửa xe mở rộng hơn. “Tao không định… tìm một con… nửa chó lùn… nửa chó săn thỏ… lại còn nặng mông nữa.” Cô hì hục đẩy nó vào ghế, đóng cửa lại rồi tựa người vào xe thở dốc. Người Fred nghiêng ngả yên vị trên lớp vải bọc ghế màu xanh, rồi nó quay sang dí mũi dây bẩn lên kính chắn gió. “Giỏi.” Nina thở dài. “Cứ tự nhiên như ở nhà đi.”

Cô chui vào trong chiếc Civic và tra chìa vào ổ khóa. Fred chống chân lên bậu cửa sổ và dí mũi lên cao hơn. Nina thèm thuồng nghĩ đến đám cún con. “Mày sẽ làm tao ốm mất.” Cô nhoài người sang phía con chó, hạ kính xuống một nửa. “Đừng nhảy ra ngoài đấy. Mọi chuyện với mày sẽ chỉ khá hơn thôi.”

Nghe thấy tiếng cô, Fred quay lại, và trong khi cô nhoài người trên nó, tay vẫn đang hạ kính xuống, nó liền nhìn thật chăm chú vào mắt cô. Nina ngừng quay kính và nhìn thẳng vào đôi mắt nâu sâu thẳm ấm áp kia. Nó thực sự là một con chó đáng yêu. Dĩ nhiên nó sẽ chẳng hăng hái lắm đâu. Trong hoàn cảnh của nó, cô cũng sẽ thận trọng. Nó chẳng biết gì về cô. Cô chẳng biết gì về xuất thân của nó. Có thể người chủ cũ đã đối xử tàn nhẫn với nó. Điều đó chẳng quan trọng. Quan trọng là nó cần được yêu thương. Ai mà chẳng cần được yêu thương. Kể cả cô cũng cần vậy. Và giờ cô đã có Fred.

Fred.

Nina nhắm mắt lại. Thật tuyệt quá. Cô đã có Fred. Thậm chí đến người bạn thân nhất của cô cũng sẽ nghĩ rằng cô điên rồi.

“Cậu mua cái gì cơ?” Charity sẽ gào lên như thế, và rồi khi cô ấy thấy Fred, già cả, ốm yếu và mệt mỏi, cô ấy sẽ… Nina nhìn vào đôi mắt nâu nhẫn nhịn của Fred lần nữa và cảm thấy hổ thẹn. “Sẽ ổn thôi, Fred à.” Cô vuốt ve đầu nó. “Giờ mày là con chó của tao. Sẽ ổn thôi.”

Fred nhìn cô, so hai vai lại và rồi lao vào cô, liếm một phát từ cằm lên đến tận trán.

“Ôi, Fred.” Nina òa lên khóc và ôm chầm lấy con chó. Thân hình nó thật to lớn, ấm áp và mềm mại.

Nina ôm nó chặt hơn, vui mừng biết mấy khi lại có ai đó còn hơi thở trong cuộc đời mình và nhẹ nhõm biết bao khi cuối cùng cũng có thể òa khóc để giải tỏa nỗi thất vọng và cô độc trong lòng, đến nỗi cô thậm chí chẳng thèm để tâm đến việc ai đó có tận bốn chân và bốc mùi như chó hoang bẩn thỉu. “Chúng ta sẽ rất hạnh phúc cho xem, Fred à,” cô nói với nó bằng giọng nức nở. “Thực sự đấy. Chúng ta sẽ thật vui vẻ bên nhau cho xem.”

Fred thở dài và bắt đầu liếm nước mắt trên mặt cô, làm Nina càng khóc tợn hơn. Đây là cảm xúc tuyệt nhất mà cô có được trong nhiều tuần qua.

Cô sụt sịt thêm lần cuối, buông Fred ra và nổ máy xe để có thể chỉ cho nó xem ngôi nhà mới của mình và rồi gọi dì Charity của nó đến gặp nó.

“Giờ mày đã có gia đình rồi, Fred à,” cô bảo nó. “Mày đang về nhà đấy.”

***

Alex Moore đang nằm dài trên giường trong phòng khám vắng tanh của Khoa cấp cứu Bệnh viện Đa khoa Riverbend, cố không nhớ đến gia đình mình và chợp mắt một lát trước khi một ca cấp cứu khác ập đến, thì anh trai anh bước vào và thả cái túi giấy nâu chứa một lốc sáu lon bia lên bụng anh.

“Này!” Alex cuộn người lại đỡ đòn tấn công và nhận ra đó là Max, thế là anh lại duỗi người ra. Cảm giác tê tái liên quan đến gia đình anh chẳng có gì mới mẻ. “Em đang ngủ. Đi chỗ khác đi. Và mang đống bia chết tiệt đó theo cùng trước khi có người nhìn thấy.”

Max lôi đống bia ra khỏi túi rồi lấy riêng ra một lon. Anh bật nắp và vừa thả năm lon còn lại xuống bụng Alex vừa buông phịch người xuống một chiếc ghế nhựa màu cam. Chiếc ghế rít lên kèn kẹt trên sàn nhà, và chiếc áo lụa màu tía của Max cọ vào bức tường màu xanh lục. Alex nhăn mặt nhắm mắt lại, hy vọng Max hiểu ý mà bỏ đi.

Nhưng Max không hiểu. “Em biết đấy, nếu không mất cả đêm theo đuổi đám phụ nữ, em sẽ không mệt mỏi thế này trong các ca trực,” vừa nói, Max vừa nhâm nhi lon bia.

Alex chẳng buồn mở mắt ra. “Em chẳng mất cả đêm theo đuổi phụ nữ. Em chỉ đưa Debbie đi ăn tối. Rồi cô ấy bắt đầu nói về con cái. Thế là em đưa cô ấy về nhà. Chuyện về đời sống tình cảm của em là thế.”

“Đó là bởi em mang cái dáng vẻ thư sinh tóc vàng hiền lành đó,” Max bảo em trai. “Khắp người em toát ra chữ chàng trai tử tế. Chứ nhìn anh xem, trông như một tay hư hỏng ấy.”

Alex vẫn nhắm mắt ra ý đuổi. “Phải, đúng đấy. Biến đi, đồ hư hỏng.”

“Dĩ nhiên, giờ em mới giả vờ mình là đồ hư hỏng thì đã quá muộn, vì ai mà chẳng biết em rồi. Lẽ ra em nên thay đổi chủ đề, như ‘Nhân tiện nói về con cái, Debbie này, hú hí với nhau một tí thì sao nhỉ?’ Em phải học cách ứng phó nhanh hơn mới được.”

Alex nghĩ đến chuyện gầm vào mặt Max và bảo ông anh biến đi nhưng rồi quyết định không làm thế. Anh rất yêu quý Max, và trong gia đình anh, rất hiếm có một người họ hàng nào mà anh thường cảm thấy vui vẻ khi gặp mặt. “Em không muốn ứng phó nhanh hơn. Em chỉ muốn có vài buổi tối yên tĩnh vui vẻ cùng với một người phụ muốn có em hơn là đám nhóc tì và nhẫn cưới. Tất cả đám phụ nữ em quen biết đều nằm trong độ tuổi sinh sản và có nhu cầu cháy bỏng về chuyện hôn nhân. Em muốn một người phụ nữ có nhu cầu cháy bỏng được ở cùng em, cùng nhau cười vang khi xem những bộ phim cũ. Nhưng ngay lúc này, tất cả những gì em muốn là được đánh một giấc, đó là lý do vì sao anh sẽ rời khỏi đây.”

Max uống thêm chút bia. “Đó là vì em là bác sĩ. Phụ nữ luôn muốn kết hôn với bác sĩ.”

Alex mở một mắt, cố phớt lờ hình ảnh chiếc áo tía trên nền tường màu xanh. “Anh cũng là bác sĩ. Sao chuyện đó lại không xảy đến với anh?”

“Vì anh cố chẳng hẹn hò ai quá hai lần,” Max nói. “Như thế sẽ ngăn chặn được cái chủ đề cưới xin kia.”

“Anh thật chín chắn quá, Max à.” Alex lại nhắm mắt lại. “Giờ thì đi đi. Ít

Ít nhất là cũng có lúc ngoài kia chẳng có thảm họa nào, và em cần chợp mắt một lát.”

Max lại nhấm nháp bia. “Hôm nay là ngày cuối cùng em còn ở độ tuổi đầu hai đấy, nhóc ạ. Cảm giác thế nào khi già đi?”

“Anh thử nói xem,” Alex nói. “Anh sắp bốn mươi rồi còn gì.”

“Ba sáu không phải là bốn mươi,” Max nói với vẻ nghiêm trang. “Và em sẽ rụng tóc trước anh cho xem. Lúc này tóc tai đã tạm biệt cái trán của em rồi. Từ đây anh có thể nhìn thấy đấy. Đó là vì tóc em màu vàng. Những gã tóc đen giống anh chẳng bao giờ hói đầu cả.” Lần này anh đang nghiêng lon bia vào miệng và dốc sạch nửa lon còn lại.

“Không phải anh vẫn đang đi thăm bệnh à?”

“Xong từ một giờ trước rồi.” Max ném lon bia vào trong thùng rác gần đó rồi thụp người xuống hết mức có thể trong chiếc ghế nhựa. “Em xong việc sớm chứ?”

“Ba giờ nữa. Đi đi.”

“Vậy là em đã sẵn sàng cho ngày mai rồi?”

“Mai là sinh nhật em,” Alex nói, mắt vẫn nhắm nghiền. “Đâu phải là cái gì mà em phải sẵn sàng. Người khác phải sẵn sàng mới đúng. Ví dụ như anh. Đi mua tặng em thứ gì đó thật đắt đi. Anh kiếm được nhiều tiền lắm mà.”

“Chính xác,” Max nói. “Và em biết lý do vì sao.”

Alex rên lên rồi lăn người tránh xa ông anh trai, và Max phải nhoài người tới để đỡ lấy năm lon bia bị nghiêng suýt rơi xuống sàn.

“Này!” Max kêu lên. “Cứ lảng tránh thực tế nếu em buộc phải làm thế, nhưng đừng đổ bia đi chứ.”

Alex vẫn quay lưng về phía ông anh. “Em chẳng lảng tránh thực tế. Em đang lảng tránh anh đấy. Đi đi.”

“Anh là thực tế đây, anh bạn,” Max nói, và Alex nghe thấy tiếng ghế kèn kẹt khi Max ngồi xuống và tiếng lách cách khi mấy lon bia được đặt xuống sàn nhà. “Anh vừa tình cờ gặp bố. Bố đang tìm em.”

Alex lại rên lên.

Giọng Max có vẻ cảm thông, “Ừ, anh biết. Tối mai bố muốn dùng bữa với em.”

“Không,” Alex nói.

“Anh đã bảo bố là em sẽ đi rồi. Quỷ tha ma bắt, em cũng chẳng có cơ hội để thoát được chuyện này. Bố bảo em gặp bố ở The Levee lúc bảy giờ. Đầu tiên là uống chút ít đã.”

“Ôi, quỷ tha ma bắt.” Alex lại lăn ngửa ra và nhìn chằm chằm lên trần nhà cách âm loang lổ. “Lẽ ra anh có thể bảo bố là em bị ốm. Anh có thể bảo bố là anh chẩn đoán em mắc một loại bệnh truyền nhiễm kinh khủng gì đó.”

“Anh là bác sĩ phụ khoa,” Max nói. “Anh phải bảo bố gì đây? Rằng em bị nấm nên không thể ăn tối à?”

“Nói thế bố có phát hiện ra không?”

“Có,” Max nói. “Bố đang làm việc nên vẫn còn tỉnh.”

“Tuyệt. Đúng điều em cần trong ngày sinh nhật của mình, nhét một ông già vào taxi vào lúc nửa đêm.”

“Anh đã lo vụ đó rồi,” Max nói. “Anh đã bảo với bố là anh em mình có kế hoạch lúc chín giờ. Bố hiểu mà.”

Alex ném cho ông anh trai cái nhìn chán ghét. “Vậy là em sẽ phải nhét bố vào taxi lúc chín giờ. Cảm ơn anh.”

“Chuyện còn tệ hơn nữa.” Max tươi cười với cậu em trai, vui vẻ như thường lệ. “Bố bảo mai mẹ em sẽ đến đây.”

Alex ngồi bật dậy. “Mẹ em bay đến đây nhân sinh nhật em á?”

“Không,” Max nói. “Bà ấy bay đến tham dự hội nghị chuyên đề một ngày về kỹ thuật laser mới. Chỉ là tình cờ nó lại trùng với ngày sinh nhật của em thôi.”

“Ơn Chúa.” Alex thả người rơi bịch xuống gối trở lại. “Trong một phút kinh hoàng, em cứ tưởng tự nhiên mẹ lại trỗi dậy tình mẫu tử với em chứ.”

“Bà ấy bảo bố là bà ấy muốn ăn trưa với em,” Max nói. “Ăn trưa ở Hilton. Nhớ đúng giờ đấy, bà ấy sẽ phát biểu lúc một giờ.” Anh cầm lấy một lon bia từ dưới sàn lên và bật nắp. “Thật chán là em vẫn đang trong ca trực. Không thì em có thể uống một lon.”

“Mẹ em,” Alex nói với trần nhà. “Một giờ đồng hồ với mẹ.”

“Em sẽ mất một giờ đồng hồ với mẹ anh nữa,” Max nói sau khi uống thêm một ngụm bia. “Mẹ muốn đi uống nước với em lúc bốn giờ. Mẹ có ca mổ lúc một giờ, thế nên bà cho là đến lúc đó mình sẽ rảnh rỗi.”

“Em nghĩ mình có thể chịu được một giờ với mẹ anh,” Alex nói.

“Và anh nghĩ Stella sẽ gọi điện,” Max mở lời.

“Chị ấy gọi rồi.” Alex giơ tay xoa mắt. “Ăn sáng trước khi chị ấy đi thăm bệnh.”

Max nhăn mặt. “Em có nghĩ chị ấy làm mọi việc trong buổi sáng bởi vì chị ấy là chị lớn không?”

“Không, chị ấy làm mọi việc trong buổi sáng vì chị ấy cực kỳ ngứa mắt,” Alex nói. “Ngay cả khi chị ấy là người họ hàng mà em yêu quý nhất.”

“Này!” Max ngồi thẳng người trên ghế. “Còn anh thì sao? Anh đã giúp em không phải mất trọn buổi tối để biện hộ về việc thất nghiệp của mình với ông già. Em nợ anh.”

“Em có nghề nghiệp mà,” Alex nói lần thứ một nghìn. “Em là bác sĩ.”

“Ừ, nhưng em đã chọn sai chuyên khoa,” Max nói. “Em phải chọn cái khoa hái ra tiền chứ không phải khoa cấp cứu. Bọn họ đã ép anh xong, giờ sẽ đến lượt em. Khoa tim, khoa ung thư, phụ khoa…”

“Không,” Alex nói. “Em thích công việc mình đang làm. Đi đi. Em đang cố chớp mắt.”

Một cô y tá nhỏ nhắn với mái tóc sẫm thò đầu qua cửa. “Này Alex, bọn tôi cần anh. Có tai nạn. Đi thôi.” Cô nàng biến mất trước khi anh kịp ngồi dậy.

Alex lẳng chân ra mép giường và trừng mắt nhìn Max. “Nếu không phải vì anh thì em đã có thể thăng được mười lăm phút rồi.”

“Đó lại là chuyện khác,” Max nói. “Nếu em không phải bác sĩ chuyên khoa cấp cứu thì hẳn cô ấy đã gọi em là Đốc tờ Moore rồi.”

Cô y tá lại thò đầu vào. “Alex, đi thôi. Ồ, chào Max. Tôi không thấy anh.” Cô nàng cau mặt nhìn Max. “Bỏ lon bia đó đi ngay lập tức.”

“Chào Zandy.” Max giơ lon bia về phía cô y tá. “Trông em ổn quá.”

Cô nàng đã biến mất trước khi anh nói xong.

“Cô ấy dành cho anh sự tôn trọng thật đáng khiếp sợ,” Alex nói. “Hẳn là vì anh không phải là bác sĩ chuyên khoa cấp cứu.”

“Anh từng hẹn hò với cô ấy một lần,” Max nói.

“Điều đó giải thích lý do vì sao.” Alex đứng dậy đi ra cửa. “Đi đi. Em phải làm việc rồi.”

“Đừng quên ngày mai,” Max gọi với theo sau. “Ngày của gia đình đấy. Toàn bộ gia đình Farkle[1].”

“Phải, phải,” Alex lẩm bẩm trong lúc sải bước xuôi theo hành lang lát gạch màu xanh. “Bác sĩ Farkle, và bác sĩ Farkle, và bác sĩ Farkle, và bác sĩ Farkle, và bác sĩ Farkle.”

“Gì cơ?” Zandy vừa hỏi vừa cố bắt kịp anh.

“Đừng bao giờ dính dáng đến chuyện gia đình, Zan ạ,” Alex nói. “Phải làm kẻ kém cỏi trong cả một vương triều đúng thực là địa ngục.”

“Họ đang cố thuyết phục anh bỏ khoa cấp cứu à?” Zandy lỡ vài nhịp chân để bắt kịp anh, chân cô ngắn hơn chân anh đúng mười lăm phân, thế nên anh đi chậm lại chờ cô.

“Ừ,” Alex nói.

“Đừng nghe theo họ.”

Alex nhìn xuống cô, ngạc nhiên. “Không à?”

“Không,” Zandy trả lời. “Anh cần nơi này. Và nơi này cũng cần anh. Phớt lờ họ đi. Họ toàn là những kẻ bóng bẩy.”

Alex cười toe với cô. “Kể cả Max à?”

“Max là đồ khỉ hình người,” Zandy nói. “Nhưng anh là người tốt. Hãy ở lại với chúng tôi.”

“Chà, tôi đang định thế,” Alex nói, rồi khi nghe thấy tiếng còi hú, anh liền chạy về phía cửa, quên hẳn Zandy, Max và toàn bộ gia đình Farkle trong khi tiến hành công việc mà mình yêu thích nhất, cứu sống mạng người trên đường đi.

***

“Cậu đã mua cái gì!” Charity đứng giữa căn hộ trần cao của Nina và trố mắt nhìn Fred, vô cùng sửng sốt.

“Charity, đây không phải con chó tầm thường đâu.” Nina cứng người lại, vẫn còn nghi ngờ sự khôn ngoan của bản thân trong chuyện kiếm tìm sự khuây khỏa bằng cách mua một con vật về nuôi. Charity sẽ chẳng mua chó để khuây khỏa đâu. Cô ấy sẽ mua một cái váy da màu đỏ ngắn cũn cỡn ở cái cửa hàng mà cô ấy quản lý, lôi ngược mái tóc xoăn dài màu đỏ của mình lên đỉnh đầu và lấy cái tất quần màu đen buộc túm lại thành nút, rồi ra ngoài và tìm một gã đàn ông mới. Ít ra thì lần gần đây nhất Charity đã làm thế khi bị một trong những mối quan hệ của mình đá bay, trước khi cô ấy tìm thấy Sean, Tình yêu Đích thực Duy nhất của cô ấy. Sean thực ra là Tình yêu Đích thực thứ Mười hai của Charity, nhưng như cô ấy nói đấy, ai mà thèm đếm chứ?

Bởi vì cơ hội Nina mặc váy da ngắn cũn là tiệm cận đến không, nên cô thở dài và dồn sự chú ý vào Fred, lúc này đang ngồi một đống chù ụ giữa sàn nhà bằng gỗ cứng, ngước mắt nhìn cô với vẻ ngưỡng mộ đáng sửng sốt. Fred vẫn còn khá hơn một cái váy da ngắn cũn. Có thể nó chẳng kiếm được cho cô một người đàn ông mới, nhưng nó sẽ trao cho cô tình yêu vô điều kiện. Fred tuyệt đối khá hơn.

Charity lại không thấy thế. “Cậu chuyển từ tòa lâu đài ở Lehigh Terrace đó sang một căn hộ trong tòa nhà Victoria tồi tàn này, trên tầng ba của cái tòa nhà Victoria tồi tàn này, và thậm chí còn chẳng có lấy một cái thang máy…”

“Nếu cậu không đi đôi giày cao mười phân thì hai đợt cầu thang bộ cũng chẳng thành vấn đề,” Nina lầm bầm.

“… nhưng thế vẫn chưa đủ tệ, cậu còn phải mua một con chó nữa cơ.” Charity chớp mắt nhìn Fred. “Nó là chó, đúng không?”

Fred ngồi dậy, xoay lưng về phía Charity và bỏ đi về phía bên kia phòng, mông ngoáy một cách oai vệ.

“Charity, mình cần Fred,” Nina nói. “Mình đã cảm thấy khá hơn rồi. Con chó này có cá tính đấy.”

Charity gật đầu. “Mình có ng

ngửi thấy rồi. Cá tính của nó ấy.”

“Mình không muốn tắm cho nó ngay lập tức.” Nina nhìn Fred khám phá phòng khách, trước mắt là đang dừng lại để nghiên cứu cây sung của cô. “Đừng nghĩ đến chuyện đó, Fred,” cô cảnh cáo nó, rồi quay sang nói với Charity, “Mình muốn nó cảm thấy như ở nhà trước đã. Nó mới đến đây có một giờ thôi, nhưng mình phải gọi cậu ngay. Mình biết cậu sẽ muốn gặp nó.”

“Nếu đã ở đây đến một giờ thì nó đã biết nhà là gì rồi.” Charity quan sát căn hộ với vẻ ghê tởm. “Làm sao cậu có thể chuyển từ chỗ của cậu đến cái…”

“Mình đâu có chuyển từ chỗ của mình, mình chuyển từ chỗ của Guy đấy chứ.” Nina theo ánh mắt của Charity dạo quanh căn phòng, âu yếm nhìn lớp gỗ sồi ốp chân tường và giấy dán tường in ảnh màu be tí hon, khu lò sưởi đánh véc ni và chiếc đi văng bọc nệm màu ngọc đỏ cùng chiếc ghế tựa nghiêng. “Đây mới là nơi của mình, nơi đầu tiên mình từng sở hữu mà hoàn toàn thuộc về mình. Mình yêu nơi này ngay từ ánh mắt đầu tiên. Đến giờ mình đã ở đây được một tháng rồi, và mình cảm thấy thân thuộc hơn bao giờ hết so với mười sáu năm trong cái lăng tẩm của Guy.” Ý nghĩ về Guy làm cô lắc đầu. “Lẽ ra bọn mình không bao giờ nên cưới nhau. Bọn mình không hề muốn những thứ giống nhau. Mình chưa bao giờ muốn ngôi nhà ở Lehigh Terrace. Anh ấy chưa bao giờ muốn nuôi chó.” Fred lại bắt đầu di chuyển, và Nina thấy nỗi căng thẳng như được nhấc ra khỏi hai vai khi cô ngắm nhìn cái tập hợp hỗn tạp gồm các bộ phận riêng lẻ thuộc loài chó có tên gọi là Fred đi ngang qua mình trên đường đến đi văng. “Mình đã luôn muốn nuôi chó. Và giờ mình đã có Fred.”

Fred lại ngửi ngửi cái đi văng. Kể từ lúc đến nó đã ngửi vài lần, nhưng giờ mới đưa ra quyết định. Hông nó rung lên rồi co lại khi nó thu mình lấy đà, và rồi với một cú nhảy mạnh mẽ, nó quăng mình lên trên chồng đệm nhồi bọc lùng bùng, treo người ở đó một lúc, hy vọng chiến thắng trước số phận, để rồi từ từ trượt xuống sàn và rơi đánh bịch khi không nhấc được mông lên.

Xét cho cùng thì nó cũng chấp nhận chuyện đó khá tích cực.

Charity nhìn cô bạn như thể Nina đã bị loạn trí. “Và cậu định sẽ chạy lên xuống cái cầu thang này hai mươi sáu lần một đêm để cho cái thứ này đi vệ sinh, hử? Và còn ban ngày thì sao? Cậu đi làm đấy, vì Chúa. Mình chỉ có thể tưởng tượng ra gương mặt của Jessica nếu cậu mang Fred đến văn phòng.” Cô lắc đầu, đôi hoa tai màu đỏ nảy lên lúc lắc. “Cậu điên rồi. Mình quý cậu, nhưng cậu điên rồi. Vụ ly hôn chỉ vừa kết thúc, cậu chỉ mới làm biên tập viên có sáu tháng nên vẫn còn nhiều căng thẳng và rồi cậu chuyển đến nơi ở mới này. Tại sao lại mang thêm một cơn đau đầu khác vào cuộc đời cậu chứ?”

Nina thở dài ngồi xuống. “Nói đến chuyện đau đầu, Jessica bắt mình biên tập một cuốn sách mới. Nó còn tệ hơn cuốn vừa rồi nữa.”

Charity tỏ vẻ ghê tởm. “Chị ta đang cố làm phá sản cái nhà xuất bản đó à? Chị ta cần xuất bản thứ gì đó có chút khêu gợi mới được.”

“Không, chị ấy đang làm điều mà bố chị ấy đã làm trước đây.” Nina nhìn Fred lạch bạch đi về phía họ, rõ là đã quên sạch vụ bẽ mặt với cái đi văng. “Chị ấy đang cố giữ gìn bản sắc.”

Charity gật đầu. “Rồi cứ thế mà đứt bóng luôn. Chị ta cũng có thể gọi cái nhà xuất bản đó là Nhà xuất bản Chán ngắt đấy.”

Nina nhắm mắt lại. “Mình biết. Toàn bộ nơi đó sắp đi đời rồi, mình sẽ thất nghiệp, và Jessica sẽ tự tử vì chị ấy đã tự tay hủy hoại cơ nghiệp của gia đình. Mình thì chẳng biết làm sao để cứu được nơi đó, thế nên chuyện đó làm mình phiền muộn. Mình thích nơi này nhưng ở đây thật đơn độc, rồi mình về nhà với tâm trạng vô cùng chán nản về công việc và về Jessica, mình chỉ cần thứ gì đó ấm áp để làm mình vui vẻ hơn.” Cô hít vào thật sâu. “Và đó là Fred. Nó thực sự đã làm mình vui vẻ hơn. Chỉ cần có nó bên cạnh là mình đã thấy vui rồi.”

Charity nhìn Fred khi cằm nó xệ xuống sát sàn nhà. “Mình có thể thấy nó làm điều đó như thế nào. Một anh chàng nhỏ bé đầy hăng hái.”

Nina phớt lờ cô bạn. “Và mình có kế hoạch cho việc vệ sinh của nó. Đến đây.” Cô bước về phía cửa sổ lớn cạnh đi văng và đẩy mạnh ô kính nặng nề cũ kỹ lên. “Thấy không?”

Charity theo sau, và Nina chỉ về phía lối thoát hiểm bằng kim loại đen sì ở bên ngoài.

“Lối thoát hiểm chỉ ở dưới cửa sổ khoảng ba mươi phân.” Nina thò đầu ra ngoài. “Đây là tầng ba, phía sau lưng nhà toàn bộ đều được rào, còn cổng thì lúc nào cũng đóng trừ ngày đổ rác. Thế nên mình định sẽ huấn luyện Fred dùng lối thoát hiểm này.” Cô thụt đầu vào. “Thế không tuyệt sao?”

Charity gật đầu rồi vỗ lên cánh tay Nina. “Tuyệt lắm, Neen. Thật đấy.”

“Đừng cảm thấy tội nghiệp mình.” Nina khoanh hai tay ngang bụng. “Mình đã có mọi thứ mình muốn. Mình là người đã bỏ Guy, nhớ không? Mình là người đã chán ngấy cuộc sống giàu sang lúc nào cũng phải vì sự nghiệp của anh ấy. Và đây là việc đúng đắn cần phải làm. Mình thích căn hộ này, và mình thích công việc của mình. Chỉ là – mình cảm thấy cô độc.”

“Mình biết.” Charity gật đầu. “Được rồi mà. Mình biết.”

“Mình bốn mươi tuổi rồi,” Nina nói. “Mình biết đây là khởi đầu trong cuộc đời mình, mình biết đây là lúc cuộc sống bắt đầu, mình đã đọc tất cả các bài báo, nhưng mình đã bốn mươi tuổi, mình thấy cô đơn và…”

“Mình biết.” Charity choàng tay quanh người bạn và ôm thật chặt. “Mình biết. Rồi cậu sẽ ổn cả thôi.”

Nina gật gật đầu trên vai bạn.

“Mình chỉ muốn có ai đó để mình có thể nói chuyện lúc đêm về, để ôm ấp và để cùng xem những bộ phim cũ. Cậu hiểu không? Thế nên mình đã mua Fred.”

Fred lạch bạch quay lại chỗ họ.

“Chà, đó là một sự khởi đầu.” Charity thả Nina ra và nhìn Fred. “Fred là loại chó gì?”

“Lai một phần chó lùn, một phần chó săn thỏ, một phần chứng hưng trầm cảm[2],” Nina cau mày nhìn xuống con chó. “Fred, mày có thể làm ơn vui vẻ lên không? Nhìn xem mày đã hạ cánh xuống một nơi tuyệt vời biết bao.”

“Phải rồi, và điều tuyệt nhất vẫn chưa đến đâu,” Charity bảo con chó. “Cứ chờ đến lúc mày thấy lối thoát hiểm mà cậu ấy đã để dành cho mày.”

Fred thở dài và ì ạch bước đi. Hai bọn họ nhìn nó băng qua phòng, móng chân gõ lọc cọc xuống sàn gỗ cứng, rồi Nina nói với Charity. “Mình chỉ cần một chiếu cố nho nhỏ.”

Charity gật đầu. “Chắc rồi.”

“Cậu giúp mình trông Fred trong khi mình ra ngoài mua dây buộc và thức ăn nhé. Mình định đưa Fred đi, nhưng nó cứ thò đầu ra ngoài cửa xe làm gió thốc vào mũi khiến nó hắt hơi, thế là mũi dãi nó cứ thế văng ngược vào trong xe.” Nina âu yếm nhìn Fred. “Cũng khá ghê rợn.”

“Mình có thể hình dung ra.” Charity cầm chiếc áo jacket da lộn màu tía lên. “Nhưng không, mình sẽ không trông nom cái thứ chó lai này cho cậu đâu. Trông nó cứ như thể có thể đi đời bất kỳ lúc nào ấy, và mình không muốn chịu trách nhiệm trong trường hợp nó tự lao mình ra ngoài lối thoát hiểm.” Cô nhìn xuống Fred với vẻ cam chịu. “Lên danh sách đi. Mình sẽ mua cho nó những thứ nó cần. Người ta có làm giày áo cho chó không nhỉ?”

“Nó không thực sự chán đời đâu,” Nina vừa bảo cô bạn vừa đi lấy một tập giấy để lên danh sách. “Nó chỉ bí ẩn thôi. Nó có những ý nghĩ bí ẩn.”

“Phải rồi. Ý nghĩ bí ẩn.” Charity lại lắc đầu. “Lên danh sách đi. Nhân tiện thêm Amaretto[3] và kem vào nữa nhé.”

Nina ngừng lục tìm giấy. Sữa lắc Amaretto chỉ có thể có một ý nghĩa: một bữa tiệc Đời- Tôi- Đầy- Đau- Khổ. Và với Charity, người điều khiển cuộc sống của mình cũng hiệu quả như việc quản lý cửa hàng, đau khổ chỉ có thể mang một ý nghĩa. “Không phải Sean cũng thế chứ?”

Charity gật đầu. “Sean cũng thế. Mình biết phải làm sao đây? Làm sao mình có thể sống trong một thành phố đầy rẫy đàn ông mà lúc nào cũng chọn phải lũ phản bội như thế chứ?”

Nina cố tìm điều gì đó nghe có vẻ an ủi. “Chà, đám bọn họ đâu phải ai cũng là kẻ phản bội.”

“Ồ, thế sao?” Charity khoanh tay lại. “Kể tên một gã xem nào.”

“Chà…” Nina lục tìm trí nhớ. “Dĩ nhiên, mình chẳng biết tất cả bọn họ…”

“Mười hai tên tất cả,” Charity nói. “Mười hai gã kể từ khi mình lên mười sáu, mười hai gã cơ đấy kể từ khi mình lên mười sáu, mười hai gã trong hai mươi hai năm, và mình không thể tìm ra được một kẻ chiến thắng.”

“Cậu chắc là chuyện này qua rồi chứ?” Nina cố tìm ra một mặt sáng sủa. “Có thể anh ta sẽ nghĩ lại vì chuyện của hai người đã quá nghiêm túc. Có thể…”

“Mình bắt gặp anh ta trên giường với cô thư ký,” Charity nói. “Mình không nghĩ cô ta đang viết chính tả. Dù gì với cái thứ mà cô ta đang cầm trong tay thì không.”

“Ồ.” Nina viết Amaretto và kem vào bản danh sách. Sữa lắc Amaretto có thể không phải là cách lành mạnh nhất để vượt qua cú sốc cuộc đời, nhưng đó là cách của Charity. Nhân nghĩ đến điều đó, tự bản thân cô có thể dùng một cách. “Lấy cả si rô sô- cô- la nữa,” cô bảo Charity. “Làm một bữa toàn enchilada[4] thôi.”

Trong khi Charity đi mua đồ, Nina và Fred thực hành trên lối thoát hiểm.

“Đi

nào, mày có thể làm được mà,” Nina dỗ ngọt con chó, rồi cả hai cùng nhau trèo ra trèo vào qua bậu cửa sổ thấp làm bằng gỗ bóng loáng. Fred chẳng thích thú gì lắm cái cầu thang sắt, thế là Nina trải một tấm thảm rách ra để nó có thể rơi xuống thứ gì đó mềm mại.

Không ngờ là Fred lại thích nhảy ra từ cửa sổ.

“Cố đừng có vọt quá đà đấy,” Nina cảnh báo nó, nhưng lối thoát hiểm khá rộng, còn Fred thì chẳng gọn gàng cho lắm, thế nên một giờ sau Nina cảm thấy hài lòng vì Fred sẽ chẳng toi đời vì quá hăng hái.

Cô cũng chắc mẩm là đã đến lúc Fred phải đi vệ sinh rồi. “Tiếc là mày không phải mèo, không thì tao chỉ cần phải chuẩn bị một cái ổ thôi,” cô bảo nó trong lúc dùng một miếng thịt xông khói để dỗ ngọt nó xuống hai đợt cầu thang thoát hiểm.

Fred vừa khẽ rên ư ử vừa hạ mình xuống tầng hai.

“Suỵt.” Nina liếc nhìn ô cửa sổ đóng kín của căn hộ tầng hai. “Tao vẫn chưa biết gì về anh chàng này. Giờ giấc của anh ta lạ lắm. Giữ yên lặng, thật yên lặng đấy, Fred. Chúng ta cần hàng xóm yêu quý mày.”

Fred im thít và thả mình xuống một bậc thang nữa.

“Tao yêu mày, Fred à,” Nina vừa thì thào vừa lùi xuống các bậc thang kim loại. “Mày cừ lắm.”

Đến lúc Charity quay lại thì Fred đã làm hai vòng lên xuống cầu thang thoát hiểm và tỏ ra rất tự mãn về điều đó. “Chúng ta sẽ đi bộ nữa,” Nina hứa hẹn với nó. “Nhưng vụ này sẽ ổn thôi.”

“Nó làm được à?” Charity quay lại sau khi cất chỗ kem vào tủ lạnh và lắc đầu kinh ngạc. “Mình đi có lâu lắm đâu.”

“Fred rất thông minh,” Nina bảo bạn. “Xem đây.” Cô mở cửa sổ. “Đi nào Fred. Bay lên nào.”

Fred chồm người lên cái hộp mà Nina đã đặt cạnh cửa sổ để giúp nó ra ngoài. Nó quay đầu nhìn lại phía sau, và Nina gật đầu.

Thế rồi nó lẳng người qua cửa sổ.

“Ôi, lạy Chúa tôi!” Charity lao về phía cửa sổ, Nina bám theo sau.

Fred đứng trên tấm thảm trên lối thoát hiểm, trông vô cùng ngạo nghễ.

“Một phần chó lùn, một phần chó săn thỏ, một phần liều lĩnh,” Nina nói. “Mình và nó còn phải thực hành xuất phát, nhưng nó khá giỏi, cậu có nghĩ vậy không?”

Charity lùi khỏi cửa sổ. “Mình nghĩ nó tuyệt lắm.” Cô mỉm cười với Nina. “Thật đấy. Tuy bốc mùi, nhưng nó tuyệt lắm.”

“Chà, mình cũng nghĩ thế.” Nina nhìn Fred lắc người tụt xuống theo lối thoát hiểm xuống sân sau.

“Phần đồ đạc còn lại của cậu đây.” Charity giơ cái túi giấy đang cầm trên tay ra. “Tiền thừa ở dưới cùng ấy.”

“Cảm ơn cậu, Char.” Nina đổ tất cả lên cái bàn ăn tròn bằng gỗ sồi rồi lục sơ qua, hài lòng, chỉ dừng lại khi thấy một cái hộp nữ trang nhỏ được buộc nơ bạc nằm ở giữa đống đồ.

“Đó là quà trẻ em,” Charity bảo cô. “Mình sẽ tổ chức tiệc cho cậu sau.”

Nina mở hộp và lấy ra một cái bảng tên hình ô van bằng bạc thật có khắc địa chỉ nhà Nina bên dưới chữ “Fred Askew” viết tay rất đáng yêu.

“Ôi, Charity, đẹp quá,” Nina kêu lên.

“Đề phòng nó đi lạc.” Charity nhìn nửa phần thân trên của Fred xuất hiện trên cửa sổ, nghiêng tới nghiêng lui trong khi móng chân nó cào soàn soạt trên lớp gạch bên ngoài. “Hoặc là bị bắt cóc.”

“Mình nghĩ nên đặt thêm cái hộp ở bên ngoài nữa thì hơn.” Nina đặt cái bảng tên xuống để đến kéo Fred vào trong. “Nó có vẻ bị nặng- mông thì phải.”

“Cùng với các vấn đề khác nữa,” Charity nói. “Nghe này, mình phải đi rồi.”

Nina đặt Fred xuống sàn và đứng dậy. “Thế còn món Amaretto thì sao?”

Charity cắn môi. “Mình dời đến tối mai được không? Sáng mai cả hai đứa mình cùng phải làm việc, và tối mai thì mình sẽ cần cậu hơn rất nhiều vì mai là thứ Sáu và… cậu biết đấy.”

Nina gật đầu. “Mình biết. Thứ Sáu là ngày tồi tệ nhất. Thế sẽ ổn hơn. Cậu có thể ngủ lại đây.”

Charity cụp mắt xuống. “Như thế với mày không sao chứ, hả Fred?”

Fred thở dài và lạch bạch bỏ đi.

“Nó vui lắm,” Nina nói.

“Ừ, mình có thể thấy nó nhảy cẫng lên,” Charity nói. “Mai gặp lại nhé.”

***

Lúc Alex lách người vào trong căn hộ tầng hai đầy ứ đồ đạc của mình thì điện thoại đang đổ chuông. Anh nhấc máy, kẹp ống nghe giữa vai và tai trong lúc hì hục đẩy cửa sổ lên để chút không khí ùa vào phòng.

“Alex à?”

Tuyệt. Là Debbie. “Ừ, anh đây.” Alex thò đầu qua cửa sổ, cố hít vào chút khí trời ban đêm trong lành. Quỷ tha ma bắt. Anh trèo ra ngoài cửa sổ và ngồi trên cầu thang thoát hiểm, tuột cả giày lẫn tất ra, ném ngược chúng vào trong phòng rồi nói tiếp. “Có chuyện gì thế?”

Giọng Debbie tỏ vẻ hân hoan không chút nao núng. “Em nghĩ mai chúng ta có thể làm gì đó nhân ngày sinh nhật anh. Mà mấy đứa cháu con chị gái em lại muốn đi xem phim, nên em nghĩ chúng ta có thể…”

“Anh rất tiếc,” Alex nói dối.

“Alex, anh chỉ cần thử…”

“Không, thật đấy, anh kín lịch cả ngày với gia đình rồi. Từng người từng người một trong cả ngày đày đọa.”

“Vì sao chứ?” Debbie có vẻ tức giận. “Sao tất cả bọn họ lại không thể gặp anh cùng một lúc chứ?”

“Vì ai nấy cũng đều đang cố thuyết phục anh đi theo chuyên khoa của họ.” Alex duỗi các ngón chân trước gió và cảm thấy khá hơn. Có khi nếu anh thôi không đi giày nữa…

“À, em nghĩ họ đúng đấy,” Debbie nói. “Nếu chuyên tâm hơn vào khoa nào đó khác, anh sẽ kiếm được nhiều tiền hơn.”

“Anh có đủ tiền mình cần rồi.”

Alex tuột cái áo phông trắng ra trong khi cô nàng vẫn nói, thế nên anh không nghe được câu sau đó. “Em vừa nói gì thế?”

“Em vừa bảo anh còn các khoản nợ phải trả. Độc thân thì nợ nần cũng chẳng tệ lắm, nhưng đến lúc anh muốn kết hôn và có con thì sao chứ?”

Alex thở dài và quăng chiếc áo qua cửa sổ. “Debbie, chúng ta đã thảo luận vấn đề này rồi. Anh không muốn có con.”

“Chà, không phải lúc này, nhưng một ngày nào đó anh sẽ muốn có gia đình và rồi…”

“Anh đã có một gia đình rồi,” Alex nói. “Bọn họ làm anh phát điên. Sao anh lại muốn có một gia đình nữa chứ?”

“Gia đình của riêng anh kìa,” Debbie nói.

“Debbie, em không nghe anh nói à. Anh không muốn có con. Không bao giờ.”

Đầu dây bên kia im lặng thật lâu, và Alex nhận ra đây là lần đầu tiên cô chịu nghe anh nói.

“Em thì muốn,” cô lên tiếng.

“Anh biết,” Alex trả lời. “Đó là lý do vì sao anh cứ cố báo cho em biết trước. Anh rất quý em. Anh đã có thời gian vui vẻ với em. Nhưng anh không muốn có con. Anh thậm chí còn chẳng muốn kết hôn. Trước giờ anh đã có một gia đình rồi. Anh không muốn có thêm nữa.”

“Chà.” Debbie hắng giọng. “Chà, được thôi. Em đoán giờ chúng ta có gặp gỡ nhau thêm nữa cũng chẳng để làm gì, đúng không?”

“Ừ, trừ khi em chỉ muốn thư giãn và vui vẻ chút ít.” Alex biết lẽ ra mình phải tỏ ra hoảng sợ trước tối hậu thư của cô, nhưng tất cả những gì anh có thể gom góp lại chỉ là cảm giác sẵn lòng thử lại lần nữa. “Chúng ta có thể đi xem vài bộ phim. Nói chuyện. Chỉ có hai ta trong một thời gian. Tìm hiểu nhau thêm.”

“Alex.” Giọng Debbie đanh lại với nỗi tức giận bị kìm nén. “Chúng ta đã hẹn hò được sáu tuần rồi. Chúng ta đã tìm hiểu. Chúng ta đã xem đủ những bộ phim ngớ ngẩn và nói đủ thứ chuyện rồi. Em muốn có tương lai. Em muốn tất cả.”

“Chà, anh hy vọng là em hiểu,” Alex phấn khởi nói. “Chúc em may mắn.”

Debbie dập máy.

Alex đặt điện thoại lên bậu cửa sổ rồi ngả người tựa vào cầu thang thoát hiểm, cố kết luận xem bản thân có thất vọng vì Debbie đã ra khỏi đời mình hay không. Không hề. Thực ra, phần thất vọng duy nhất chính là việc anh không hề thất vọng. Anh nên cảm thấy như thế mới đúng. Debbie là một cô gái rất tốt, nhưng anh chẳng để tâm gì đến chuyện cô đã ra khỏi đời anh.

Anh là kẻ đểu cáng. Tệ hơn, anh đang biến mình thành Max.

Thế nhưng, anh đã chịu đựng Debbie suốt sáu tuần. Thế cũng là giỏi rồi. Có lẽ lần sau anh sẽ tìm được một người phụ nữ cảm thấy hạnh phúc khi chỉ cần ở cạnh anh, dễ dàng tận hưởng cuộc sống cùng với cửa hàng video, mà không có nhu cầu phát sinh thêm những nghĩa vụ gia đình sẽ làm anh phát điên hơn nữa so với tình trạng hiện tại lúc này.

Còn có Tricia, đơn cử thế, cô bé tóc vàng trong phòng kinh doanh. Cô nàng từng có lần rủ anh đi ăn tối, nhưng anh đã nhẹ nhàng từ chối vì Debbie. Cô nàng có vẻ dễ chịu. Có thể Tricia sẽ có hứng thú với thức ăn và phim Casablanca hơn là việc lên kế hoạch du hí và tư cách hội viên trong các câu lạc bộ ngoài trời. Có lẽ anh sẽ gọi cho cô nàng nếu ngày mai anh sống sót qua được ngày sinh nhật của mình mà không bị tống vào tù vì tội bóp cổ người thân trong gia đình.

Cầu thang thoát hiểm đang cắt vào bắp thịt trên lưng, thế nên anh ngồi dậy, duỗi người và bò qua cửa sổ. Chiếc đi văng đủ gần để có thể bắt được chút gió trời. Tất cả những gì anh cần là được ngủ. Nếu may mắn, anh sẽ ngủ qua sinh nhật của mình và không phải gặp mặt bất kỳ ai gần gũi nhất, thân thiết nhất trước khi phải quay lại làm việc vào thứ Bảy.

***

Tối muộn hôm đó, Nina nằm thư giãn trên chiếc đi văng nhồi bọc lùng bùng cùng với Fred nặng nề và ấm áp bên cạnh, giờ đã thơm phức mùi sữa tắm dành cho chó lẫn mùi nước hoa Duende được cô

cô xịt lên người nó trong cơn bốc đồng. Fred tỏ ra khó chịu, nhưng cô đã mua chuộc nó bằng đống bích quy loại xịn dành cho chó, và giờ cậu chàng vô cùng vui vẻ, thở dài trong giấc ngủ trong lúc cô xem Mel Gibson[5] thổi bay thứ gì đó trên ti- vi.

Cô đã tắt tiếng để có thể xem Mel diễn mà không phải nghe anh ta nói, và tiếng xe cộ rầm rì từ bên ngoài vọng đến trong đêm tháng Năm đôi lúc bị dội lại bởi tiếng hú của xe cứu thương hướng đến Bệnh viện Đa khoa Riverbend cách đó hai tòa nhà, nhắc cho cô nhớ rằng thế giới loài người ở ngay ngoài kia. Điều tuyệt nhất là Fred thật ấm áp bên cạnh cô, và lần đầu tiên trong ngày, cô cảm thấy đủ an toàn để hoàn toàn chú tâm đến những vấn đề của mình. Với Fred ở bên, những vấn đề ấy dường như không còn tệ lắm nữa.

Một trong những vấn đề đó là công việc của cô. Cô khởi đầu với vị trí thư ký cho Jessica Howard ở Nhà xuất bản Howard, một người phụ nữ che giấu bên trong bộ vest màu be trái tim ấm áp và bộ óc biết thưởng thức, và trong vòng sáu tháng, Jessica đã bổ nhiệm cô làm biên tập viên. Đó đúng ra là chuyện tốt. Thật không may, cô lại đang biên tập những cuốn hồi ký của đám người ngớ ngẩn thuộc tầng lớp thượng lưu vốn chẳng bao giờ có được một ý nghĩ độc đáo, và cả bộ sưu tập những bài luận của các viện sĩ về những vấn đề quá mơ hồ đến nỗi ngay cả nếu chúng có độc đáo thì cũng chẳng ai thèm quan tâm. “Chị có bao giờ nghĩ đến chuyện mở rộng không?” Cô đã từng hỏi Jessica. “Sang lĩnh vực tiểu thuyết chẳng hạn? Thứ gì đó phổ biến như kiểu tiểu thuyết lãng mạn ấy? Em nghe nói sách dạng đó bán chạy lắm.”

Jessica đã nhìn cô như thể cô vừa mới gợi ý hành nghề mại dâm. “Tiểu thuyết phổ biến á? Trong đời chị thì quên chuyện đó đi. Chị sẽ chuyển giao Nhà xuất bản Howard cho thế hệ tiếp theo theo cách đáng kính giống như lúc nó được giao lại cho chị.”

Nina đã phải nén lại cái thôi thúc muốn chỉ ra rằng nhà xuất bản có thể sẽ chẳng tồn tại được đến hết đời Jessica. Trên thực tế, nếu những số liệu mà cô đã thấy trong thời gian làm thư ký cho Jessica là chính xác, thì Nhà xuất bản Howard có lẽ chẳng thể tồn tại được qua bữa ăn trưa. Và điều đó thật đáng tiếc. Jessica là một người tốt và yêu sách; lẽ ra chị ta phải có một nhà xuất bản thành công. Thật không may, Jessica sẽ chẳng biết đến một cuốn sách bán chạy nhất, cho dù nó có đập thẳng vào mắt chị ta đi chăng nữa.

Nina ôm Fred lại gần hơn. “Có muốn viết sách không, hả Fred? Con chó trong Nhà Trắng đó đã kiếm được một món lớn đấy, mà nó thậm chí còn chẳng được đẳng cấp như mày.”

Fred vừa ngáy o o vừa co người lại.

Nina hôn lên đỉnh đầu thơm nức của nó. “Tao sẽ coi đó là câu trả lời ‘không’.”

Một vấn đề khác của cô là sự cô độc. Cái tuần cuối cùng này thật tệ, sống ở một nơi mới toanh và cảm thấy cô đơn. Cuộc hôn nhân của cô trước đây là hàng loạt những bữa tiệc, những buổi từ thiện và những sự kiện nghề nghiệp quan trọng của chồng cô, nhưng sau khi những năm đầu trôi qua thì chúng chẳng còn ấm áp hay vui vẻ gì mấy. Ban đầu cô và Guy cũng cùng nhau cười đùa, nhưng rồi tương lai của anh đã xen vào giữa bọn họ, và phần vui vẻ chấm dứt. Cuộc sống diễn ra như thế đối với những người đàn ông của sự nghiệp: họ nghĩ cuộc đời họ chính là sự nghiệp và quên mất làm thế nào để vui vẻ trong lúc gây dựng đế chế. Và khi đã là Phu nhân Đế chế, cảm giác càng lúc càng trống rỗng hơn cho đến lúc cô góp nhặt được đủ dũng khí để rời khỏi Guy, để ký tên vào đơn ly hôn và đi tìm cuộc sống của riêng mình, hy vọng có được sự ấm áp và cảm giác vui vẻ.

Guy đã sửng sốt khi cô bảo với anh rằng cô sẽ ra đi. “Vì sao?” Anh đã hỏi thế. “Anh chưa bao giờ lừa dối em cả.” Và Nina, vốn rất bực bội vì anh không nhận ra cuộc sống của họ đang trở nên vô nghĩa đến thế nào, đã nói, “Tốt, em cũng chưa bao giờ lừa dối anh.” Và Guy bảo, “Tất nhiên là không rồi. Em không phải loại người như thế. Và giờ em định sống quãng đời còn lại một mình ư? Em đã gần bốn mươi rồi, Nina à. Em sẽ chẳng tìm được ai khác ở độ tuổi này. Sao em không đi làm đẹp da mặt đi? Nó sẽ luôn làm em cảm thấy khá hơn.”

Cô những tưởng anh sai, những tưởng rằng sẽ ổn hơn một khi cô có được nơi chốn cho riêng mình, nhưng mới chỉ ở trong căn hộ này có một tuần thì cô đã nhận ra điều Guy từng đề cập đến: cô độc là cô độc, cho dù người ta có sống ở đâu đi chăng nữa. Anh chỉ không nhận ra rằng sống với anh thì cảm giác còn cô đơn hơn là không có anh. Cô ôm Fred vào lòng và tựa má lên cái đầu nhỏ nhắn đầy lông của nó, cảm kích vì có nó bên mình.

Guy không phải là người duy nhất chỉ ra rằng cô có khả năng gặp một tên khủng bố hơn là một người đàn ông tử tế. Mẹ cô thậm chí còn thẳng thừng hơn. “Con bỏ Guy đúng lúc cơ thể con xuống cấp,” bà cảnh báo cô thế. “Con đã tăng cân, bắt đầu xuất hiện vết chân chim và mẹ tin chắc là con không chỉ bị xệ ở mỗi quai hàm. Đây là sai lầm. Hãy bảo Guy là con đã đổi ý.” Và khi Nina trả lời, “Không,” mẹ cô đã khoát tay bảo cô. “Được thôi. Cứ rời bỏ tiền bạc và địa vị mà làm một kẻ ly dị chồng có tuổi tẻ ngắt đi. Đó là cuộc đời con. Nhưng đừng có mà đến khóc lóc với mẹ khi con nhận ra mình đã làm gì.”

Thậm chí cả Charity cũng đưa ra quan điểm của mình. “Mẹ cậu đã và luôn là một cục đá lạnh. Quên bà ấy đi. Nhưng mình phải báo trước với cậu, Neen à, cuộc sống ngoài kia là một mớ hỗn độn. Toàn hẹn hò kiểu du kích. Chuẩn bị tinh thần đi.”

Chà, cô sẽ không chuẩn bị tinh thần, bởi vì cô chẳng định tìm kiếm người đàn ông nào khác. Kể từ giờ trở đi, cô sẽ sống cuộc sống của riêng mình và tránh xa đám đàn ông nhất có thể. Cô có công việc, có căn hộ này, và giờ cô còn có cả Fred nữa.

Fred lại cựa mình, và Nina ôm chặt lấy nó. Giờ cô có Fred chờ cô ở nhà, và nó là tất cả những gì cô cần đến. Fred sẽ luôn yêu thương cô và sẽ không bao giờ rời bỏ cô. “Chúng ta sẽ sống cùng nhau mãi mãi,” cô bảo nó. Thế rồi cô ngủ thiếp đi, hai tay vẫn ôm con chó, tiếng ngáy của nó vọng lại trong tai cô.

***

Debbie đang trải những nụ hôn ướt át lên khắp mặt anh. “Không,” Alex lầm bầm thốt lên. “Không, tôi không muốn có con.” Anh cố đẩy mũi cô nàng ra xa, cho đến khi ở một nơi nào đó xa xôi trong cái tâm trí mơ màng, anh nhớ ra rằng mũi của Debbie đâu có dài và đầy lông lá như thế. Thế rồi anh mở choàng mắt ra và hét lên.

Có một con vật trên đi văng ngay cạnh anh. Alex ngồi dậy làm con vật lăn kềnh và ngã thịch xuống sàn.

“Cái quái gì chứ?” Alex bật đèn bàn lên, ánh sáng dìu dịu tràn ngập căn phòng soi tỏ thứ ngay dưới chân anh.

Đó là một con chó săn giống lùn đang chổng cả bốn vó lên trời, trông như một con thú bị xe chèn chết trên đường với một vẻ vênh váo.

Alex cúi xuống. “Chào?”

Con chó từ từ lăn người lại, chớp chớp mắt nhìn anh với vẻ trách móc. Con chó này tỏ vẻ trách móc rất giỏi. Thực ra, nó có thể làm Hannibal Lecter[6] cảm thấy có tội.

“Tao xin lỗi,” Alex bảo nó. “Mày làm tao sợ quá.” Anh gãi gãi lên tai con chó, làm nó nhắm mắt lại và thốt lên những tiếng ư ử của loài chó. “Mày từ đâu đến thế, hả anh bạn? Đúng hơn là, sao mày vào được đây?”

Anh nhìn ra cửa: vẫn đóng chặt. Vậy rất có khả năng là cửa sổ. Anh nhìn con chó, sửng sốt. “Mày chui vào từ cửa sổ á? Mày là gì chứ, Siêu Cẩu à?”

Anh bước tới thò đầu ra ngoài cửa sổ. Cổng sau vẫn đóng chặt. “Hẳn là mày sống trong khu nhà này.”

Con chó xoay lưng lại và lạch bạch bước về phía cửa, nhưng trước đó Alex đã thoáng nhìn thấy cái vòng cổ bằng kim loại lóe lên.

“Chờ chút đã.” Alex đi theo nó ra cửa và cúi xuống đọc bảng tên. Trên đó viết: Fred Askew, 2455 River Dr., T. 3. “Mày ở ngay tầng trên, Fred, anh bạn già,” anh bảo với con chó và nhặt áo lên, “lên xem có ai ở nhà không nào.”