Mở đầu

Chăn dê nơi đất Hồ anh hùng huyết tận - Vung roi về cố quốc hiệp sĩ đau lòng

Độc lập thương mang mỗi trướng nhiên, ân thù nhất lệ phó vân yên, đoạn hồng linh nhạn thặng tàn thiên.

Mạc đạo bình tung tùy thệ thủy, vĩnh tồn hiệp ảnh tại tâm điền, thử trung tâm sự thanh thùy truyền.

(Một mình lẻ bóng đơn côi, ân thù tựa áng mây bồng, cô hồng độc hạc còn riêng chút này.

Đừng tưởng dấu bèo trôi theo nước xiết, bóng hiệp còn mãi nơi nào, tâm sự biết tỏ cùng ai bây giờ).

Theo điệu “Cán khê sa”.

Bên ngoài Nhạn Môn Quan, gió bấc thét gào trong trời chiều.

Lúc này là năm Chính Thống thứ nhất thời nhà Minh (tức niên hiệu của Minh Anh Tông), Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương đã chết không đầy bốn mươi năm. Người của Mông Cổ lại trỗi dậy, dấy lên ở phía Tây Bắc, trong đó bộ tộc Ngõa Thích là lớn mạnh hơn cả, năm nào cũng đánh vào Trung Nguyên, đến thời Chính Thống thì chỉ còn cách Nhạn Môn Quan hơn trăm dặm, vùng đất không một bóng người này đã trở thành nơi hưu chiến giữa Minh triều và Ngõa Thích. Gió Tây hiu hắt, chỉ có cát vàng và lá khô xao xác rơi trong hoàng hôn, tiếng vó ngựa gõ lộc cộc trong tiếng xáo dìu dặt, một cỗ xe lừa phóng nhanh trên con đường núi.

Phía sau cỗ xe ngựa là một thớt tuấn mã, hán tử trung niên ngồi trên ngựa trông rắn chắc, lưng đeo túi tên, eo mang trường kiếm, chốc chốc quay đầu nhìn xung quanh.

Gió bấc càng dữ dội hơn, trong gió văng vẳng tiếng ngựa hí và tiếng binh khí chạm nhau, một tiếng hú dài thê lương chợt vang lên, tiếng vó ngựa cũng dần im hẳn, một ông già đầu tóc bạc phơ vén rèm xe lên, run rẩy hỏi:

“Phải chăng Đăng nhi gọi ta? Tạ hiệp sĩ, ông không cần lo cho tôi nữa, ông hãy đi tiếp ứng bọn họ, đến được nơi này tôi chết cũng đã nhắm mắt!”.

Hán tử trung niên ấy vâng một tiếng, chỉ ra xa nói:

“Lão bá hãy yên lòng, ông có nghe tiếng vó ngựa ấy không, có lẽ quân Hồ đã rút lui. Ồ, ông xem, họ đã đến!”, thế rồi giật đầu ngựa, thớt ngựa phóng tới như bay. Ông già trong xe thở dài rơi nước mắt. Một bé gái trong xe ngồi bật dậy, mặt cô bé ửng hồng tựa như trái táo chín đỏ vì lạnh, cô dụi mắt, hình như cô vừa mới thức dậy. Cô bé lên tiếng hỏi:

“Gia gia, đây đã là đất Trung Hoa chưa?”.

Ông già ấy ghìm dây cương, nhìn xuống mặt đất ở dưới xe, thì thầm:

“Ồ, đây đã là Trung Hoa. A Lối, con xuống xe bốc một nắm đất cho gia gia!”.

Bên ngoài cửa cốc, ba thớt ngựa bị thương đang chở trên lưng những kỵ sĩ quần áo tả tơi hí dài trở về, kỵ sĩ đi đầu là một nhà sư. Hán tử trung niên họ Tạ chạy tới hỏi:

“Triều Âm sư huynh, Vân Đăng sư đệ thế nào rồi?”.

Nhà sư ấy kìm cương ngựa, buồn bã nói:

“Y đã chết! Không ngờ vượt muôn núi nghìn sông về đến đây, Nhạn Môn Quan đã ở trước mặt, y vẫn không thoát khỏi tay người Hồ. Song, y không hổ là một thiết hán tử, sau khi trọng thương mà vẫn giết chết kẻ địch, một tên lãnh binh Thát tử đã chết dưới tay y, quân Mông Cổ hoảng hồn tháo chạy, không dám đuổi theo nữa. Con người ai cũng chết, nhưng chết như y rất có giá trị, đồ nhi của đệ cũng khá lắm, hắn cũng giết được nhiều kẻ địch, đã chết cùng Vân Đăng sư đệ”.

Hán tử trung niên ấy mở mắt trừng trừng nhìn lên trời cao, đột nhiên buông giọng cười lớn:

“Nhạn Môn Quan phía trước, chúng ta rốt cuộc không phụ lòng Vân Đăng sư đệ, đưa cha của y về đến nơi, Vân Đăng đã có thể nhắm mắt. Nhưng Vân đại nhân sẽ rất đau lòng, chúng ta hãy tạm thời giấu chuyện này”. Thế rồi vỗ ngựa chạy về phía chiếc xe lừa, chỉ thấy ông già trên càng xe, tay nắm một nắm đất, vẻ mặt rất kỳ lạ, bé gái ấy đứng ở dưới đất sững người nhìn gia gia.

Triều Âm hòa thượng kêu:

“Vân đại nhân, chúng tôi đã trở về”.

Ông già ấy hỏi:

“Đăng nhi đâu?”.

Triều Âm hòa thượng nói:

“Quân Thát tử đã bị chúng tôi đánh lui, y đã bị thương nhẹ, cùng với đồ đệ của Thiên Hoa sư đệ chặn hậu”.

Tuy ông ta cố gắng giữ bình tĩnh nhưng cũng không thể nào kìm chế được nỗi bi phẫn. Ông già ấy biến sắc, Triều Âm hòa thượng và Tạ Thiên Hoa đều là những hiệp khách khí phách hào hùng, nhưng trước ánh mắt của ông ta, cũng bất giác thối lui mấy bước, không dám nhìn thẳng, chỉ nghe ông ta buông giọng cười nói:

“Cha là trung thần, con là hiếu tử, trung thần hiếu tử ở chung một nhà, Vân Tĩnh này còn tiếc gì nữa! Ha ha!”.

Trong tiếng cười thê lương hàm chứa nỗi phẫn uất cực độ, kỵ sĩ bên cỗ xe lừa không dám lên tiếng. Đứa bé ấy ngẩng mặt lên hỏi:

“Gia gia, người cười gì thế? Con sợ lắm, gia gia, người đừng cười như thế nữa. Tại sao cha con không quay về?”.

Ông già ấy chợt ngừng cười, im lặng một hồi rồi chậm rãi hỏi:

“Sáng sớm ngày mai có thể đến Nhạn Môn Quan không?”.

Tạ Thiên Hoa nói:

“Được, đêm nay là ngày mười lăm tháng mười, trăng rất sáng, sáng mai sẽ tới nơi”.

Ông già ấy nâng niu nắm đất trong tay tựa như báu vật, ông đưa nắm đất lên mũi, hít sâu mấy hơi, nắm đất tỏa mùi lá mục, ông buồn bã mỉm cười:

“Đã hai mươi năm, đến nay mới ngửi được mùi vị của nắm đất quê hương”.

Tạ Thiên Hoa nói:

“Lão bá thân ở nước người mà vẫn giữ lòng trung, còn hơn cả Tô Vũ, tấm lòng này thật khiến cho người và trời đều kính ngưỡng!”.

Ông già dang rộng vòng tay, ôm bé gái lên xe rồi chậm rãi nói:

“A Lối, năm nay con đã bảy tuổi, đêm nay gia gia sẽ kể cho con nghe một câu chuyện, con phải nhớ cho kỹ”.

Bé gái ấy lặp lại:

“Vâng, phải nhớ kỹ. Con biết, gia gia sẽ kể chuyện của người!”.

Ông già ngạc nhiên nhìn đứa bé gái rồi nói:

“Con quả thật rất lanh lẹ, so với ta hồi còn nhỏ, thông minh hơn rất nhiều!” ông quên rằng bé gái này từ khi ra đời, tháng trước mới gặp gia gia của nó, lúc đó nó từng hỏi cha, tại sao đột nhiên lại có một gia gia, người cha bảo rằng:

“Cha đã nhiều lần kể cho con nghe câu chuyện Tô Vũ chăn dê, câu chuyện của gia gia còn hay hơn cả câu chuyện Tô Vũ chăn dê, sau này gia gia sẽ kể cho con nghe, con phải nhớ cho kỹ”.

Cho nên đêm nay gia gia bảo sẽ kể chuyện, cô bé biết đó là câu chuyện của ông ta.

Mọi người đi quanh chiếc xe la, cũng say sưa lắng nghe như cô bé, chỉ thấy ông già ấy lấy ra một cây gậy tre, trên đầu cây gậy tre có mấy sợi cờ mao lơ thơ, ông già thở dài nói:

“Cờ tiết này đã không còn nguyên vẹn. A Lối, con có biết sứ cờ là gì không? Ta nói cho con nghe. Hai mươi năm trước, gia gia của con là sứ thần của thiên tử triều Minh, phụng lệnh đi sứ đến nước Ngõa Thích của Mông Cổ, hoàng đế triều Minh đã ban cho ta cây gậy tre này, gọi là cờ tiết, cờ tiết đại diện cho thiên tử, tính mạng có thể mất nhưng cờ không thể hỏng. Lúc đó Mông Cổ chia làm hai phần, một phần là Ngoã Thích, một phần là Thát Đát, sức nước vẫn còn yếu ớt. Theo lý họ phải tôn trọng sứ thần của thiên tử triều Minh, trong ngày trình quốc thư, vua nước Ngoã Thích còn cung kính giữ lễ, nhưng không ngờ sau đó có một người Hán mặc Hồ phục, mang bội kiếm lên triều, kéo vua Ngoã Thích sang một bên, thì thầm to nhỏ mấy lời, vừa nói vừa nhìn ta. Người Hán ấy chỉ khoảng hai mươi tuổi, nhưng trong mắt đầy vẻ oán hận, tựa như ta có thù với y!”.

Tạ Thiên Hoa ngạc nhiên nói:

“Người ấy có quen lão bá không?”.

Vân Tĩnh nói:

“Không, ta không hề quen y. Ta tự thấy mình trong sạch, cả đời không có kẻ thù, càng chẳng thể kết thù với người Hồ, cũng không biết tại sao y lại oán hận ta như thế! Song lúc đó ta thấy y mặc Hồ phục, ta đã không thèm bắt chuyện với y.

Y nói với vua Ngoã Thích một hồi, đột nhiên hạ lệnh bắt ta, lại còn cướp cờ tiết của ta.

Ta nổi giận cự lại:

“Tính mạng có thể mất, cờ tiết của thiên tử đại Minh không thể hủy”.

Đáng hận y là người Hán, nghe xong thì lại cười lớn nói rằng:

“Thiên tử đại Minh, thiên tử đại Minh! Ha ha, ngươi định làm trung thần cho thiên tử đại Minh đấy ư? Được! Ta sẽ giúp ngươi toại nguyện, ngươi sẽ được làm Tô Vũ thứ hai, Tô Vũ chăn dê, vậy thì ngươi hãy chăn ngựa!” từ lúc đó trở đi ta đã chăn ngựa hai mươi năm ở miền cực bắc lạnh lẽo!

Lúc đầu ta còn mong triều Minh sai binh đến cứu, nhưng năm này qua năm nọ vẫn chẳng có tăm hơi gì. Sau đó nghe nói hoàng đế của đại Minh tức Minh Thành Tổ Chu Lệ đã qua đời, Nhân Tông kế vị không đầy một năm thì chết ỉu, ấu chúa nối ngôi, trong nước không có người, uy phong của đời trước đã không còn nữa, ta đã hết hy vọng, đoan chắc sẽ chết già ở nước người, khó lòng trở về đất Hán, nào ngờ cũng có hôm nay!”.

Tạ Thiên Hoa và Triều Âm hòa thượng nhìn nhau, im lặng không nói, mặt lộ vẻ khác lạ, tựa như vừa khâm phục vừa cảm thấy đó là chuyện bình thường. Vân Tĩnh không để ý, giọng nói càng lúc càng trầm, ông ta bẻ khớp tay kêu lên rôm rốp rồi lại nói:

“Đã hai mươi năm qua, ta chịu bao nhiêu đau khổ, trong sa mạc không có nước uống, có lúc phải uống nước tiểu ngựa, đến mùa đông thì phải uống băng ăn tuyết! Đó chưa phải là khổ cực nhất, điều đáng hận hơn, gã ấy lâu lâu lại sai người đến sỉ vả thiên tử đại Minh trước mặt ta. Hai mươi năm qua lúc nào ta cũng chuẩn bị sẽ chịu chết, nhưng đáng hận là kẻ ấy không giết mà chỉ hành hạ ta”.

Vân Lối nghe xong rất phẫn nộ, hỏi:

“Kẻ xấu ấy tên là gì? Gia gia hãy nói cho con nghe, sau này Lối Lối lớn lên chắc chắn sẽ báo thù cho gia gia”.

Vân Tĩnh tiếp tục nói:

“Không lâu sau thì ta biết gã ấy họ Trương tên là Tôn Châu, tên là Tôn Châu nhưng thực sự không “tôn Châu”, thử hỏi nhà Châu là chủ của thiên hạ, đã là “tôn châu” nhưng lại mắng nhiếc thiên tử nhà Minh đó chẳng phải đã tự sỉ vả mình rồi ư?”.

Bé gái ấy không hiểu nhà Châu, cũng chẳng hiểu là chủ của thiên hạ, định hỏi thì nghe gia gia tiếp tục nói:

“Những chuyện trong lịch sử, lớn lên con đọc sách thì sẽ biết, gia gia không nói nhiều nữa”.

Vân Tĩnh thực ra không chỉ nói cho cháu gái mình nghe mà cũng nói cho hai hiệp sĩ kia. Lúc này ngập ngừng rồi mới cao giọng nói:

“Hai vị hiệp sĩ, hai vị bảo gã này có đáng giết hay không?”.

Triều Âm hòa thượng gõ cây thiền trượng xuống đất rồi nói:

“Đáng giết!”.

Vân Tĩnh mỉm cười, vuốt đầu cháu gái mình rồi tiếp tục nói:

“Trương Tôn Châu vốn là con nhà gian tặc, cha của y đã làm quan ở Mông Cổ, đến đời y thì càng được trọng dụng hơn, hơn hai mươi tuổi thì đã làm hữu thừa tướng của nước Ngoã Thích, được Khả hãn của nước Ngoã Thích là Thóat Thóat Bất Hoa trọng dụng như hữu thừa tướng Thóat Hoan Bất Hoa, y rất khỏe mạnh, chắc là vẫn còn sống được hai ba mươi năm nữa.

Ta luôn ngày đêm mong ngóng y đừng chết sớm!”.

Triều Âm hòa thượng là người bộc trực, nghe thế thì ngạc nhiên hỏi:

“Tại sao?”.

Vân Tĩnh đã kìm nén nỗi phẫn nộ mấy mươi năm nay, nói đến đây thì ông ta cười lạnh. Vân Lối rùng mình, chỉ thấy gia gia rút ra một tấm da dê, trên miếng da dê có viết mấy dòng chữ đỏ, thoang thoảng mùi máu.

Tạ Thiên Hoa ngạc nhiên nói:

“Vân lão bá, đây là huyết thư của ông?”.

Vân Tĩnh điềm nhiên nói:

“Đây là mảnh thứ hai. Lúc đầu ta mong triều đình dấy binh hỏi tội, bắt tên gian tặc ấy, sau đó chẳng còn hy vọng, bản thân ta muốn chính tay giết chết tên gian tặc, nhưng lại là một thư sinh trói gà không chặt, suy đi nghĩ lại chỉ còn mong bầy con cháu bỏ văn học võ, có thể báo mối thù cho ta. Quả nhiên trời không phụ lòng người, ta chăn ngựa mười năm thì Đăng nhi đã đến biên giới Ngoã Thích, mai danh ẩn tích tìm ta. Trước khi ta đi sứ, hắn vừa mới thi đậu tú tài, chỉ là một thư sinh yếu ớt, nhưng khi gặp lại, hắn đã là một võ phu mạnh mẽ. Té ra hắn biết triều đình không muốn dấy binh vì một mình ta, cho nên bỏ văn học võ, một mình đến Ngoã Thích cứu cha. Nghe nói hắn đã theo đệ nhất kiếm khách Huyền Cơ dật sĩ học bảy năm, võ công tuy chưa đại thành nhưng có thể đối phó với năm ba người, Đăng nhi nôn nóng cứu cha nên chưa học xong thì đã bỏ đi”.

Vân Lối say sưa lắng nghe, cô bé cứ nhìn qua liếc lại, trong lòng đầy nỗi nghi hoặc, hỏi rằng:

“Cha đã có bản lĩnh như thế, tại sao con không hề biết? Con chỉ thấy hàng ngày cha cùng mẹ đi chăn dê, ngày nọ quân Thát tử đến bắt nạt người, cướp dê của người mà người chẳng dám làm gì”.

Vân Tĩnh thở dài nói:

“A Lối, con còn nhỏ, có rất nhiều chuyện ta nói con cũng không hiểu. Song sau này dù ta có chết đi, không kịp nhìn thấy con lớn lên, hai vị bá bá cũng sẽ cho con biết”.

Tạ Thiên Hoa biết đêm nay Vân Tĩnh tiết lộ thân thế, thực sự là muốn nói cho họ nghe, trong đó chắc có hàm ý khác. Chỉ thấy Vân Tĩnh run rẩy, hơi thở hơi mệt nhọc, thế rồi đỡ ông ta nói:

“Lão bá, ông hãy nghỉ một lát, thời gian vẫn còn nhiều, đợi sau khi vào Nhạn Môn Quan hẵn kể tiếp, lão bá sau này có gì căn dặn, vãn bối nhất định sẽ nghe theo”.

Vân Tĩnh ho một tiếng rồi thở dốc nói:

“Không, ta nhất định phải kể tiếp. Chuyện này đã dồn nén trong lòng quá lâu, không nói ra sẽ khó chịu”. Ông ta ngừng một lát rồi nói tiếp:

“Đăng nhi đã xem chuyện này quá dễ dàng, tưởng rằng nhờ vào võ công của hắn thì có thể cứu ta trở về. Nào ngờ ngoài trời có trời, trên người có người, ở đất Mông Cổ cũng có rất nhiều cao thủ, ngay cả trong số các thủ hạ của Trương Tôn Châu cũng có vài nhân vật bản lĩnh phi phàm. Ta chăn ngựa ở nơi phủ tuyết, bị bọn chúng âm thầm theo dõi. Đăng nhi khó khăn lắm mới tìm được ta, chưa kịp bàn cách trốn chạy thì đã bị người ta phát hiện, nếu ta không bảo hắn chạy trước, e rằng cả hắn cũng bị bắt giữ. Sau đó Đăng nhi lại âm thầm thương lượng với thủ hạ của Trương Tôn Châu vài lần, vì chẳng được ích gì cho nên mới bỏ ý định một mình cứu cha. Vì thế theo lời dặn của ta, hắn sống mai danh ẩn tích ở Mông Cổ, giả vờ chẳng biết võ công, âm thầm tìm cơ hội lén liên lạc với ta, lại còn cưới thiếu nữ Mông Cổ làm vợ, mục đích là giúp ta sinh con đẻ cái, sau này báo mối đại hận thâm thù. Ta nhớ lại câu chuyện Ngu Công dời núi, nếu con trai ta không thể báo được thù này, còn có cháu của ta, cháu ta không thể báo thì còn có chắt, chỉ cần nhà họ Vân còn có hậu nhân thì chắc chắn phải báo được thù. Còn Trương gia, dù cho Trương Tôn Châu chết đi, hắn cũng có hậu nhân, hậu nhân của hắn phải chịu báo ứng thay cho hắn! Bảy năm trước ta nghe hắn sinh được một đứa con trai, ta đã viết một bức huyết thư dặn dò cháu trai của ta, ngày sau lớn lên gặp được kẻ hậu nhân của Trương Tôn Châu thì bất luận là nam nữ già trẻ đều phải giết!”.

Tạ Thiên Hoa cảm thấy lạnh lẽo trong lòng, môi mấp máy nhưng nén được, nghĩ bụng:

“Mối thù này thật ghê gớm! Cứ báo thù như thế há chẳng phải tàn khốc hơn cả chuyện thù sát trên giang hồ hay sao? Chắc là ông ta chăn ngựa ở nơi tuyết phủ hai mươi năm, bị hành hạ đủ điều cho nên mất đi lý tính. Chờ sau khi ông ta về Trung thổ, tinh thần đã hồi phục thì từ từ khuyên nhủ”.

Vân Tĩnh chỉ bức huyết thư, hơi thở dốc, nói tiếp:

“Đăng nhi nghe lời ta dạy đã may bức huyết thư này vào trong áo của đứa trẻ, gởi đến cho một sư huynh dạy dỗ. Sau đó vì đã đổi chỗ chăn ngựa, lại mất liên lạc, cho đến ba tháng trước, hắn mới lén lút gặp ta một lần, ta mới biết rằng, hắn đã hẹn đồng môn đến đây cứu ta. Lúc đó, ta nghĩ thời gian dài dằng dặc, cũng không muốn bỏ chạy, ta cũng không để ý lời nó, chỉ hỏi trong bảy năm sau này có sinh con nữa không? Nó bảo lại sinh được một đứa bé gái, đó chính là con. Ta lập tức viết thêm một bức huyết thư, có nghĩa là cháu gái cũng phải báo thù cho ta. Lối Lối, sau này con hãy nhớ rằn, hễ gặp hậu nhân của Trương Tôn Châu bất luận nam nữ già trẻ đều phải giết chết, rồi giã xương thành tro!”.

Vân Lối nghe thế thì trên mặt lộ vẻ hoảng sợ, cô bé đột nhiên khóc òa lên:

“Gia gia, phải giết bao nhiêu người? Lối Lối sợ lắm, mẹ đã dạy không được giết chóc bừa bãi.

Ôi, mẹ đâu rồi? Cha nói mẹ sẽ quay về, sao không thấy mẹ quay về, còn cha con đâu rồi?”.

Cô bé nào biết, người cha của mình mai danh ẩn tích ở Mông Cổ, cho nên chẳng hề nói cho mẹ biết thân thế lai lịch, một tháng trước đã giấu vợ bỏ nhà trốn đi.

Vân Tĩnh đột nhiên nổi giận:

“Lối Lối, con không nghe lời ta ư? Ta cho con biết, cha của con, cha của con, hắn đã ...” Vân Lối hoảng sợ đến nỗi im bặt, Vân Tĩnh lại thở dài, ông ta không nỡ cho cô bé biết cha mình đã chết.

Tạ Thiên Hoa thầm thở dài, lắc đầu, chỉ thấy Vân Lối hạ giọng nói nhỏ:

“Con nghe lời gia gia!”.

Vân Tĩnh nhét tấm huyết thư vào trong áo cô bé, ngửa đầu cười rằng:

“Không ngờ Vân Tĩnh này cũng có lúc thóat khỏi đất khách, trở về quê cũ. Tạ hiệp sĩ, mong ông nể tình Đăng nhi, nhận con gái của nó làm học trò!”.

Tạ Thiên Hoa sau một hồi do sự thì chậm rãi nói:

“Chuyện này hãy thương lượng sau ... Lão bá đừng hiểu lầm, không phải là tôi không hứa với ông, mà tôi sẽ tìm cho nó một sư phụ giỏi hơn”.

Tạ Thiên Hoa và Triều Âm hòa thượng đều là đồng môn của Vân Đăng. Huyền Cơ Dật Sĩ, sư phụ của họ được người ta gọi là Thiên hạ đệ nhất kiếm khách, không chỉ kiếm thuật tinh thâm mà cả võ công cũng rất cao cường. Nhưng Huyền Cơ Dật Sĩ tính nết kỳ quặc, ông ta nhận cả thảy năm học trò, mỗi học trò chỉ truyền một môn võ công. Ví dụ như Tạ Thiên Hoa chỉ học được một nửa kiếm thuật. Còn một nửa thì sao? Té ra Huyền Cơ Dật Sĩ có hai bộ kiếm pháp tương phản tương thành với nhau. Ông ta lại rèn được một đôi song kiếm thư hùng, thư kiếm tên gọi Thanh minh, hùng kiếm tên gọi Bạch Vân.

Bạch vân hùng kiếm thì truyền cho Tạ Thiên Hoa.

Thanh minh thư kiếm thì truyền cho một nữ đệ tử khác, mỗi người đều học một bộ kiếm thuật của ông ta.

Hai bộ kiếm thuật này là tâm sức cả đời của Huyền Cơ Dật Sĩ, nếu song kiếm hợp bích, thiên hạ không ai địch nổi. Cho nên trong năm học trò của ông ta, võ công của Tạ Thiên Hoa và nữ đệ tử ấy là cao nhất, hai người cũng khó phân cao thấp. Còn Vân Đăng vì vào sư môn muộn hơn, võ công kém nhất. Triều Âm là đệ tử hàng thứ hai, được truyền cho Phục ma trượng pháp, công phu ngoại gia đã đến bước đăng phong tạo cực.

Tạ Thiên Hoa và Triều Âm hòa thượng đều được sư đệ Vân Đăng nhờ cậy, mỗi người dắt theo một học trò, từ Trung thổ đến Mông Cổ cứu cha của y. Vừa lúc đó Khả hãn của nước Ngoã Thích vừa lập thái tử, trong nước có chuyện vui, việc canh phòng lơi lỏng, ba người hợp lực giết vài tên lính, sau đó dễ dàng thóat ra ngoài, nhưng lại không ngờ gần về đến Nhạn Môn Quan thì truy binh đã đuổi tới, Vân Đăng đã đổ máu nơi biên tái, còn đồ đệ duy nhất của Tạ Thiên Hoa cũng chết cùng ông ta.

Vân Tĩnh nói xong thì mệt mỏi chìm vào giấc ngủ. Vân Lối ngẩn người ra nhìn gia gia, không nói cũng chẳng cười. Tạ Thiên Hoa thở dài, phất tay, cỗ xe lừa lại lăn bánh qua con đường núi. Lúc này vầng trăng đã qua khỏi đường chân trời, sơn cốc hoang vắng chìm dưới ánh trăng, tựa như được bao phủ bởi một lớp sương mỏng, càng lạnh lẽo rùng rợn hơn. Tạ Thiên Hoa cho Vân Lối ăn xong mấy miếng thịt, uống một ngụm nước, vỗ nhẹ vào lưng của cô bé rồi không lâu sau cũng ngủ thiếp đi.

Cỗ xe lừa đang chạy, chợt nghe Vân Tĩnh kêu lên trong mơ:

“Kìa, kìa ... sói ... sói đến”.

Triều Âm hòa thượng cười nói:

“Ông già còn tưởng mình đang chăn ngựa ở đất Mông Cổ”.

Lại nghe Vân Lối kêu lên trong mơ:

“Mẹ, Lối Lối không giết người, Lối Lối sợ lắm”.

Tạ Thiên Hoa ngạc nhiên lắc đầu, chợt nghe tiếng tên bay lướt qua sơn cốc, Vân Tĩnh bật dậy kêu lên:

“Sói đến!”.

Mở mắt ra nhìn, thì thấy một ánh lửa màu lam từ trên không sa xuống, Triều Âm hòa thượng đã lướt ra mấy trượng, chạy lên nghênh địch, Tạ Thiên Hoa nói:

“Lão bá đừng sợ, kẻ địch rất ít”.

Vân Tĩnh đã thức dậy, run rẩy nói:

“Không xong, đó là đệ nhất dũng sĩ dưới trướng Trương Tôn Châu, họ Đàm Đài, tên gọi Diệt Minh, tên họ của y tựa như người Hồ, nhưng thực ra là người Hán. Đăng nhi đã từng bị y đánh bại, gã này rất ghê gớm”.

Tạ Thiên Hoa cười nói:

“Đôi song chưởng và cây trượng của sư huynh tôi uy chấn Trung Nguyên, đệ nhất dũng sĩ ở Mông Cổ có đáng là gì. Chỉ cần bọn chúng không nhiều người, dù y có ghê gớm đến mức nào cũng bị chúng tôi thu phục, trao cho lão bá đem về kinh đô lập công, xem thử gã này có dám xưng là diệt Minh nữa không!”.

Tạ Thiên Hoa hành hiệp trượng nghĩa, ghét nhất là hạng bán nước, nghe nói người ấy có ngoại hiệu là diệt Minh, thế là rút trường kiếm phóng ra cửa cốc trợ chiến.

Chỉ thấy có một viên tướng Hồ, mình mặc giáp vàng, sử dụng song long hộ thủ câu đang đánh rất hăng với Triều Âm hòa thượng. Trượng pháp của Triều Âm hòa thượng như thần long xuất hải, quét ngang bổ dọc kêu lên vù vù, viên tướng Hồ ấy cũng chẳng chịu kém, múa tít đôi câu, gạt cây thiền trượng to bằng miệng bát của Triều Âm hòa thượng ra. Tạ Thiên Hoa thất kinh nhủ thầm:

“Bản lĩnh của kẻ này thật ghê gớm, chả trách nào Vân Đăng sư đệ đã bại dưới tay y, xem ra sư huynh cũng không phải là đối thủ của y”. thế rồi lập tức rút kiếm ra khỏi bao, vung mạnh tay phóng vút lên rồi từ trên không hạ xuống, vung thanh trường kiếm lên đánh ra một chiêu Phất liễu xuyên hoa đâm thẳng vào trung tâm, chiêu kiếm lợi hại do Huyền Cơ Dật Sĩ khổ công nghĩ ra chuyên dùng để đối phó với những binh khí như câu, đoạt.

Hộ thủ câu và vạn tự đoạt vốn là những loại binh khí ngoại môn có thể khống chế đao kiếm, nhưng bộ kiếm pháp này rất nhẹ nhàng phiêu dật, biến hóa muôn hình, có thể nương theo thế của câu và đoạt, kìm chế lại kẻ địch. Nếu kẻ địch vẫn dùng câu đoạt có thể khóa đao kiếm để đánh ra, nhẹ thì ngón tay bị chặt đứt, nặng thì yết hầu bị đâm thủng, mà khi Tạ Thiên Hoa dùng chiêu sát thủ này đâm thẳng vào trung tâm, ông lại xoáy thêm hai vòng trái và phải, có nghĩa là đánh vào thẳng ở giữa là hai bên cánh của kẻ địch, cho nên kẻ địch khó tránh nổi.

Không ngờ tướng Hồ ấy hạ câu trái xuống, câu phải thì kéo ngược lên, thanh trường kiếm của Tạ Thiên Hoa suýt nữa bị y giật tới, nói thì chậm, nhưng sự việc diễn ra rất nhanh, chỉ thấy câu quang lấp lánh, thu duỗi bất định, cũng không biết từ đâu đánh tới, nhân lúc Tạ Thiên Hoa hơi chậm lại, lập tức phản khách làm chủ.

Tạ Thiên Hoa thầm thất kinh, nhưng bất ngờ gặp kình địch, tinh thần đã phấn chấn, vung thanh trường kiếm lên, kiếm chiêu đổi thành Lâu tất ảo bộ, kiếm quang vẽ thành một hình vòng cung dài, người xoay nửa vòng theo kiếm thế.

Chỉ nghe soạt một tiếng, mũi kiếm đâm nhanh ra ngoài. Đó là chiêu số độc đáo công thủ đều có, câu quang của tướng Hồ ấy loang loáng, nhưng không đánh ra chiêu nữa, cả hai cây câu đều bị gạt ra ngoài, y rê ngang một bước. Tạ Thiên Hoa lập tức xốc tới, múa tít thanh kiếm, viên tướng Hồ ấy kêu lên:

“Kiếm pháp hay!”.

Y đánh liên tục ba chiêu đột nhiên la lên:

“Ngừng tay!”.

Tạ Thiên Hoa nào chịu nghe, kiếm quang tỏa ra không ngớt, viên tướng Hồ ấy chợt nổi giận quát:

“Ngươi tưởng ta sợ đấy hử!” rồi đôi câu mở rộng, nào đón, đẩy, cắt, đâm, rút, gạt, toàn là những chiêu số như sấm vang chớp giật, hai cây câu tựa như hai con ngân xà theo sát kiếm quang của Tạ Thiên Hoa, kiếm pháp của Tạ Thiên Hoa tuy thần diệu nhưng cũng chẳng làm gì được y.

Triều Âm hòa thượng gầm lớn một tiếng, múa tít cây thiền trượng phóng lên trợ chiến, tướng Hồ ấy cười lớn nói:

“Nhìn võ công của ngươi chắc chắn là kiếm khách nổi tiếng ở Trung thổ, nghe nói các nhân vật nổi tiếng ở võ lâm Trung thổ rất coi trọng quy củ đơn đả độc đấu, thế nhưng các ngươi lại muốn lấy nhiều thắng ít!”.

Triều Âm hòa thượng quát hỏi:

“Ngươi có phải là Đàm Đài Diệt Minh hay không?”.

Tướng Hồ ấy né tránh nhát kiếm của Tạ Thiên Hoa, trả lại hai chiêu, cười rằng:

“Té ra hòa thượng nhà ngươi cũng biết tên ta”.

Triều Âm hòa thượng quát rằng:

“Ngươi là người Hán mà lại làm tướng Hồ, có nhục nhã hay không? Đối phó với hạng gian tặc phản quốc như ngươi, đâu cần phải giữ quy củ võ lâm Trung Nguyên! Hãy nếm của Phật gia một trượng!”.

Đàm Đài Diệt Minh sầm mặt, đột nhiên buông giọng cười lớn:

“Một mình ngang dọc nơi Mạc Bắc, lòng này chẳng có gì thẹn với ai! Ai là gian tặc phản quốc? Ta phản nước của ai? Chu Nguyên Chương khéo đoạt thiên hạ, chỉ có bọn người chẳng có chí khí như các người mới cúi đầu xưng thần trước con cháu của y”. Rồi lách người qua một bên, tránh được cây thiền trượng, lại múa tròn đôi câu bảo vệ trước thân người, trong kiếm quang câu ảnh y lớn giọng nói:

“Nói ra tên hòa thượng lỗ mãng nhà ngươi cũng không hiểu, thôi được ngươi đã đòi cùng đấu, ta sẽ gọi hai tên tiểu bối tiếp chiêu của ngươi”.

Thế là xỉa đôi câu ra, gạt cây thiền trượng của Triều Âm sang một bên, hai viên tiểu tướng ở phía sau y múa tít đao thương, lập tức phóng lên, đón lấy trượng thế của Triều Âm hòa thượng. Hai viên tiểu tướng này tuy kém Triều Âm một bậc, nhưng cũng chẳng phải tay vừa, suốt nửa đêm qua Triều Âm hòa thượng đã trải qua hai trận kịch đấu, khí lực hao tổn, cho nên chẳng thắng được bọn chúng.

Tạ Thiên Hoa nghe Đàm Đài Diệt Minh nói như thế, lòng nhủ thầm:

“Gã này chẳng phải hạng tầm thường, nhưng giúp Hồ diệt Hán, dù thế nào đi nữa cũng không nên. Thế là khí giận bốc lên, vung kiếm tấn công mạnh mẽ, Đàm Đài Diệt Minh đánh vài chiêu nữa thì chợt hỏi:

“Ngươi có phải là môn hạ của Huyền Cơ Dật Sĩ hay không?”.

Tạ Thiên Hoa ngạc nhiên, chỉ nghe Đàm Đài Diệt Minh lại cười lớn:

“Sư phụ của ngươi năm xưa dốc hết tâm sức cũng chẳng thắng nổi sư phụ ta, ngươi muốn thắng ta thì đâu có dễ! Nếu ngươi không biết tiến thóai, đêm nay mỗi người sẽ vì chủ của mình, đấu thêm vài trăm chiêu nữa!”.

Tạ Thiên Hoa chợt thất kinh, nhớ rằng sư phụ đã kể một câu chuyện xưa. Hai mươi năm trước, sư phụ đã tranh nhau chức minh chủ võ lâm với một ác ma, đấu với y ba ngày ba đêm trên đỉnh Nga Mi, không phân thắng bại. Ma đầu ấy tên là Thượng Quan Thiên Dã, vốn là một đạo tặc ở chốn lục lâm, sau trận chiến ấy y đột nhiên mất tích, không biết đã trốn ở nơi nào. Nghe Đàm Đài Diệt Minh nói như thế, Thượng Quan Thiên Dã chắc chắn đã trốn ở Mông Cổ, còn Đàm Đài Diệt Minh là đồ đệ của y.

Tạ Thiên Hoa vốn định ngừng lại quát hỏi, nhưng nghe y nói mỗi người đều vì chủ của mình, lửa giận lại bốc lên, lập tức thi triển kiếm pháp nhanh đến nỗi gió mưa không lọt, tựa như sấm vang chớp giật, trong công có thủ, trong thủ có công. Đàm Đài Diệt Minh ấy cũng rất lợi hại, chém xéo đôi câu về phía trước tựa như hai luồng cầu vồng, chặn kín môn hộ, thế câu của y trong công cũng có thủ, hư thực thay đổi, cương nhu đều có, trong chớp mắt đã đánh hàng trăm chiêu mà vẫn không phân thắng bại. Tạ Thiên Hoa thầm nhủ:

“Đáng tiếc tứ sư muội không có ở đây, nếu song kiếm hợp bích thì người tên Đàm Đài Diệt Minh cũng chết dưới kiếm này”.

Đàm Đài Diệt Minh múa câu đánh liền ra ba chiêu, Tạ Thiên Hoa cũng không vừa, trả lại bốn chiêu. Đàm Đài Diệt Minh đột nhiên cười ha hả, nhảy ra khỏi vòng chiến nói:

“Thế nào? Chúng ta đều đã dốc hết toàn lực mà không ai thắng được, chi bằng hãy ngừng tay”.

Tạ Thiên Hoa giận dữ nói:

“Ta không đội trời chung với Hán tặc, chuyện đêm nay phải giải quyết cho xong!”.

Đàm Đài Diệt Minh vung đôi câu, chặn thanh trường kiếm của Tạ Thiên Hoa lại cao giọng quát:

“Đúng là chó cắn Lữ Động Tân, ngươi không biết ta đã có lòng tốt cứu ngươi ra”. Tạ Thiên Hoa không dám lơi lỏng, gạt đôi câu ra ngoài, quát:

“Bọn ta vượt trăm sông nghìn núi mới đến được đây, còn có nguy hiểm gì nữa, đâu cần ngươi cứu?

Nếu ngươi thực sự cải tà theo chính, bỏ tối theo sáng, mau mau buông đôi câu xuống theo ta quay về!”.

Đàm Đài Diệt Minh cười lạnh, lớn giọng nói:

“Ngươi quả thật không biết tốt xấu, ta phụng lệnh Trương thừa tướng khuyên ngươi đừng trở về Trung Nguyên, e rằng chưa tới Nhạn Môn Quan thì đã gặp họa!”.

Tạ Thiên Hoa giận dữ, đâm thanh trường kiếm tới, miệng mắng rằng:

“Tên cẩu tặc nhà ngươi dám bỡn cợt ta!” Đàm Đài Diệt Minh cũng nổi giận, mắng lại rằng:

“Ngươi đã tự tìm đường chết, đừng trách ta vô tình”.

Tạ Thiên Hoa nghiến răng chẳng nói lời nào, đánh ra như mưa gió, Đàm Đài Diệt Minh cũng không dám phân tâm, múa tít đôi câu, thấy chiêu đỡ chiêu, thấy thức phá thức, lại đánh mấy trăm chiêu nữa mà vẫn không phân thắng bại.

Hai bên đang đánh nhau rất hăng, Đàm Đài Diệt Minh thình lình nghe tiếng tiêu vang lên, nhân lúc sơ hở thì quay người bỏ chạy, hai tên tiểu tướng cũng nhảy ra khỏi vòng chiến đuổi gấp theo sau. Tạ Thiên Hoa và Triều Âm hòa thượng đã nổi sát cơ, nào chịu bỏ qua, thế là cả hai nhảy vọt đuổi theo, trong chốc lát đã đến chân núi. Tạ Thiên Hoa rất cẩn thận, đột nhiên nhủ thầm:

“Gã này chẳng hề nao núng, tại sao lại bỏ chạy?

Chả lẽ có qủy kế? Vân đại nhân ở phía sau, không ai bảo vệ, có lẽ ông ta gặp nguy hiểm!”.

Đang định gọi sư huynh quay đầu lại, chợt thấy Đàm Đài Diệt Minh đột nhiên tung mình nhảy vào trong cốc, Tạ Thiên Hoa thất kinh, nơi y đứng cách đáy cốc đến mười mấy trượng, dưới đáy cốc lại có quái thạch lô nhô, nếu nhảy xuống thì chẳng khác nào tự tìm đường chết!

Tạ Thiên Hoa chưa kịp nghĩ xong, chỉ thấy Đàm Đài Diệt Minh từ trên không trung phóng vút ra một sợi dây dài, ở một đầu dây có một cái móc sắt, cái móc sắt cắm phập vào cành tùng ở phía đối diện, rồi y đu người qua. Địa thế của sơn cốc này rất hiểm trở, hai bờ sơn cốc cách nhau đến hơn mười trượng, dù khinh công giỏi cũng khó vượt qua, không ngờ Đàm Đài Diệt Minh lại nhảy qua bằng cách này, y vừa nhảy qua, chạy thêm một ngã rẽ nữa thì đến chỗ cỗ xe lừa của Vân Tĩnh.

Tạ Thiên Hoa kinh hoảng, nghĩ bụng nếu quay trở về bằng đường cũ, khi đến nơi Vân Tĩnh đã bị giết hại. Nhưng cũng không thể vượt qua sơn cốc này, làm thế nào đây?

Vì nếu đến nước này chỉ đành nén lòng quay trở lại theo đường cũ, liều mạng báo thù cho Vân Tĩnh.

Tạ Thiên Hoa đổ mồ hôi lạnh, khó khăn lắm mới chạy trở về, chỉ thấy Đàm Đài Diệt Minh đã đứng trước cỗ xe ngựa, Vân Tĩnh thì ngồi trên càng xe, hai người đối diện nhau. Đàm Đài Diệt Minh móc đôi câu vào eo, trong tay không có binh khí, mặt lộ nụ cười, tựa như đang hạ giọng cầu khẩn, còn Vân Tĩnh thì đang nghiêm mặt, Tạ Thiên Hoa chạy đến nơi chỉ nghe Vân Tĩnh mắng rằng:

“Nói bậy! Ta và Trương Tôn Châu có thù không đội trời chung, ngươi muốn giết cứ giết, ta nào chịu quay về đầu hàng y?”.

Tạ Thiên Hoa ngạc nhiên lắm, chỉ thấy Đàm Đài Diệt Minh quay đầu, mỉm cười với mình rồi cao giọng nói:

“Ngươi đã thấy chưa? Nếu ta muốn lấy mạng lão già họ Vân thì dễ như trở bàn tay, cần gì đợi ngươi quay trở lại? Lão già họ Vân kia, ta đã cố công khuyên nhủ, chuyện sống chết họa phúc đều tùy nơi ông”.

Vân Tĩnh giận dữ, nhưng vẫn cười lạnh nói:

“Ngươi muốn ta trở về chăn ngựa thêm hai mươi năm nữa cho Trương đại nhân đấy ư?”.

Đàm Đài Diệt Minh buông giọng cười lớn, sau đó nghiệm mặt nói:

“Vì ông chăn ngựa hai mươi năm ở nơi băng thiên tuyết địa mà vẫn không hề cúi đầu cho nên Trương đại nhân mới kính trọng ông, mời ông trở về”.

Vân Tĩnh mắng rằng:

“Trương Tôn Châu là kẻ gian tặc phản quốc, tiểu nhân đê tiện, Vân mỗ này trung thành cẩn cẩn, đâu cần y kính trọng!”.

Đàm Đài Diệt Minh lạnh lùng cười:

“Trương đại nhân quả nhiên nói không sai, ông chỉ có một lòng ngu trung, không biết đến chuyện lớn. Ngài cũng đoán được rằng ông sẽ không trở về, nhưng thấy ông là một trang hán tử, không nỡ thấy chết mà không cứu cho nên ra lệnh cho ta từ vạn dặm đuổi đến đây, đáng tiếc ông đã phụ lòng ngài”.

Vân Tĩnh vịn càng xe, giận đến cùng cực, mắng với giọng run run:

“Hừ, y muốn cứu ta? Vân mỗ này đã chăn ngựa hai mươi năm, may mà thân này có thể được chôn nơi cố thổ, chết cũng nhắm mắt. Ngươi đuổi theo đến đây muốn giết thì cứ giết, đây đã là đất Trung thổ, máu nhuộm quê cũ có gì đáng tiếc nữa?”.

Đàm Đài Diệt Minh giận dữ nói:

“Ai bảo bọn ta giết ông? Kẻ giết ông chẳng phải bọn ta!”.

Vân Tĩnh nghiến răng nói:

“Ngươi đã giết Đăng nhi của ta, lại còn đến đây chọc giận ta?” ông ta run run suýt nữa thì đổ xuống. Đàm Đài Diệt Minh đỡ ông ta dậy nói:

“Bọn ta không giết con trai ông. Dù có nói cho ông nghe, ông cũng không hiểu, hãy theo ta đi về gặp Trương đại nhân thì sẽ biết ngay”.

Vân Tĩnh há mồm phun một bãi nước bọt, Đàm Đài Diệt Minh nhẹ nhàng lách qua một bên, chỉ nghe Vân Tĩnh mắng rằng:

“Không phải các ngươi giết? Chẳng lẽ những kẻ ấy là quân Minh đấy hử?”.

Đàm Đài Diệt Minh cười khổ sở nói:

“Đó là thuộc hạ của tả thừa tướng bọn ta”.

Vân Tĩnh nói:

“Cái gì mà tả thừa tướng với hữu thừa tướng, đều là bọn Thát Tử ác ôn. Ta đang ở trong tay của ngươi, ngươi hãy mau giết chết ta, đừng nhiều lời”.

Tạ Thiên Hoa cũng cảm thấy Đàm Đài Diệt Minh quả thực thâm độc, y là đại tướng của nước Ngoã Thích, quan binh Ngoã Thích đã giết người, y còn đến chọc giận cha của kẻ bị giết, huống chi cha của kẻ bị giết đã bị hành hạ hai mươi năm, làm sao có thể chịu đựng nổi trò đùa cợt tàn ác này?

Hai người càng nói càng hăng, nhưng chỉ thấy Đàm Đài Diệt Minh ôm quyền, lớn giọng nói:

“Vân đại nhân, tôi đã hết lời, nghe hay không là tùy ông”.

Vân Tĩnh giận đến nỗi râu tóc dựng ngược, răng nghiến kèn kẹt, chẳng nói được chữ nào. Tạ Thiên Hoa quát rằng:

“Bức hại một ông già tay trói gà không chặt, đâu có phải là hành vi của kẻ trượng phu, có ngon chúng ta hãy đánh thêm ba trăm chiêu nữa”.

Đàm Đài Diệt Minh chẳng thèm để ý đến ông ta, cố gắng hạ giọng tiếp tục nói:

“Đã như thế, tôi chỉ đành quay về. Trương thừa tướng nói, hại ông chăn ngựa hai mươi năm quả thật cũng rất áy náy trong lòng. Ngài cũng đoán được ông sẽ không chịu quay lại, bảo tôi đưa cho ông ba túi gấm, cứ theo diệu kế của ba túi gấm này thì sẽ thóat nạn.

Trương thừa tướng nói ba túi gấm này coi như đã chuộc lại công hai mươi năm chăn ngựa của ông”. Nói xong thì xoay người bỏ đi. Tạ Thiên Hoa ngẩn người ra, Đàm Đài Diệt Minh đã lướt qua người ông ta, Vân Tĩnh ngả người xuống trong xe. Tạ Thiên Hoa vội vàng vung tay đánh ra năm mảnh tíù ngọ đoạt hồn đinh, chia nhau đánh vào năm huyệt đạo, Đàm Đài Diệt Minh cũng không thèm quay lại, múa đôi câu một vòng tròn, chỉ nghe mấy tiếng leng keng vang lên, năm mảnh đinh rơi xuống, Đàm Đài Diệt Minh cười lạnh, khuất dạng sau đống quái thạch.

Nắm phi đinh ấy của Tạ Thiên Hoa vốn là có thể đánh ngã kẻ địch, không ngờ y dễ dàng đánh rơi năm mảnh phi đinh, ông ta cũng cảm thấy thất kinh, vội vàng phóng về phía cỗ xe lừa. Chỉ thấy Vân Tĩnh thở phì phò, cổ đỏ ửng, Tạ Thiên Hoa sờ tay vào trước ngực ông ta, Vân Tĩnh phun ra một đống đàm, kêu lớn:

“Tức chết đi được!” rồi gắng gượng ngồi dậy.

Tạ Thiên Hoa biết ông ta tức giận, đàm chặn ở cổ họng, trên người chẳng có vết thương nào, thế rồi mới yên tâm. Đang định khuyên lơn thì chợt nghe bước chân của Triều Âm hòa thượng chạy tới.

Tạ Thiên Hoa lại thất kinh, vội vàng hỏi:

“Sư huynh, huynh sao thế?”.

Triều Âm hòa thượng tức giận nói:

“Tam đệ, ta đã làm mất mặt sư môn! Nếu suốt đời này ta không đánh được Đàm Đài Diệt Minh ba trăm thiền trượng, khó giải mối hận này!”.

Tạ Thiên Hoa biết sư huynh là một người nóng nảy, nên kéo ông ta ngồi xuống, đưa nước cho ông ta uống rồi nói:

“Nhị sư huynh đã xảy ra chuyện gì thế?”.

Triều Âm hòa thượng uống nước ừng ực, tức giận nói tiếp:

“Ta tưởng gã ấy âm thầm hạ độc thủ Vân đại nhân, vội vàng quay về, nhưng hai tên tiểu tặc cứ bám riết mãi, nếu bình thường thì ta chẳng thèm để ý đến bọn chúng. Ta chỉ đành liên tiếp đánh hai trận, khí lực không đủ, bọn chúng lại vừa chạy vừa đấu, tiến tiến lui lui, một hồi mà chẳng quay về được, đến hai trăm chiêu, ta vừa liều mạng mới chiếm được thượng phong, nào ngờ Đàm Đài Diệt Minh đã trở lại. Ta tưởng y đã hại Vân đại nhân, thế là há mồm mắng to. Đàm Đài Diệt Minh gạt đôi câu, kéo cây trượng của ta qua một bên, đột nhiên nhả kình lực ra, khiến cho ta té nhào. Đến đó vẫn chưa tính, y còn tát cho ta một cái, mắng ta là đồ hòa thượng thô lỗ, tát một cái là để trừng trị” ... mắng xong thì dắt hai tên tiểu tặc ấy bỏ đi. Chúng ta đi lại trên giang hồ đã mấy mươi năm, chưa từng bị sỉ nhục như thế này, đệ bảo có tức hay không?” ông ta ngừng lại một lát rồi nhìn xuống đất, đột nhiên lại kêu lên:

“Chuyện gì thế này? Y có giao thủ với đệ không? Vân đại nhân vẫn chẳng có chuyện gì, sao dưới đất lại có ba túi gấm đẹp như thế này?”.

Triều Âm hòa thượng vừa nói vừa nhặt ba túi gấm lên, miệng lẩm bẩm khen:

“Trên túi gấm có thêu con lạc đà. Ồ, đây chẳng phải là túi thêu của người Mông Cổ ư? Túi gấm này của ai thế?”.

Vân Tĩnh nổi giận nói:

“Đồ thối tha của tên Thát Tử thối tha, hãy xé vụn cho xong!”.

Triều Âm hòa thượng ngạc nhiên, toan vận lực xé túi gấm, đột nhiên Tạ Thiên Hoa giật mất, Triều Âm hòa thượng ngạc nhiên nói:

“Sư đệ, đệ làm gì thế ...”.

Tạ Thiên Hoa nói:

“Vân đại nhân, xem một chút cũng chẳng sao, ông hãy xem thử y viết cái gì. Nếu toàn là những lời càn rỡ thì có xé cũng không muộn!”.

Tạ Thiên Hoa rất thắc mắc:

“Đàm Đài Diệt Minh võ công cao cường như thế, y đã không hại Vân Tĩnh, vậy tại sao phải đến đây? Chả lẽ y thực sự muốn “cứu người”?

Nhưng tại sao y lại làm quan ở Mông Cổ, hai mươi năm qua đã giúp Trương Tôn Châu hành hạ Vân Tĩnh? Lại thêm Nhạn Môn Quan đã ở phía trước mặt, bước vào địa phận của Trung thổ, còn có ai dám hãm hại Vân Tĩnh? Chẳng phải y đã nói dối ư? Nhưng nếu bảo y từ ngàn dặm đến đây, mục đích là chỉ nói những câu này thì thật vô lý. Huống chi y ngạo mạn như thế, nhưng hình như đã nương tay, nếu không sư huynh làm sao có thể thóat được, điều này thật khó hiểu!”.

Tạ Thiên Hoa đang trầm ngâm, Vân Tĩnh nhận túi gấm, thấy trên túi gấm có đề hai chữ “mở ngay”.

Vừa nhìn thấy hai chữ ấy, Vân Tĩnh đã tức giận lập tức xé toạc túi gấm, rút ra một tấm giấy, trên có đề rằng:

“Lúc này hãy mau trở lại Mông Cổ, có thể chẳng có chuyện gì xảy ra, Đàm Đài tướng quân sẽ tiếp ứng”.

Vân Tĩnh xem xong, tiện tay xé toạc tờ giấy ném xuống bùn.

Tạ Thiên Hoa thấy ông ta râu tóc dựng ngược, sắc mặt vàng ệch, chẳng dám hỏi nhiều, Vân Tĩnh nhìn tờ giấy rơi xuống bùn, tức giận nói:

“Diệu kế trong túi gấm cái gì, toàn là những lời nhăng nhít!” rồi nhặt túi gấm thứ hai, chỉ thấy có đề rằng:

“Cách Nhạn Môn Quan bảy dặm mới mở ra”.

Vân Tĩnh nói:

“Ta không thèm nghe lời ngươi”. Thế rồi xé ra, trong đó có một mảnh giấy ghi rằng:

“Thời cơ hết, lúc này Nhạn Môn Quan có người đón ông, kẻ đi đầu chẳng phải tổng binh Châu Kiện, ông hãy lập tức lên khóai mã bỏ chạy, để Tạ Thiên Hoa và Triều Âm đoạn hậu, có lẽ sẽ giữ được tánh mạng”.

Tổng binh Nhạn Môn Quan Châu Kiện là đồng hương của Vân Tĩnh, một người học văn, một người tập võ đều là tiến sĩ văn võ cùng khoa. Vân Đăng lần này cứu cha, được ông ta âm thầm giúp đỡ rất nhiều, trước khi thực hiện kế họach cứu cha, đã sai người phi báo cho Châu tổng binh, bảo ông ta mau báo về triều, trên đường đều để lại dấu hiệu liên lạc với ông ta. Vân Tĩnh nghĩ:

“Châu Kiện thấy ta đến, sao lại không tiếp ứng? Ta đi sứ như Tô Vũ, từ nước Thát trở về, thiên tử đại Minh dù cho không lập tượng ghi công cũng phải trọng dụng. Bọn người Hồ muốn li gián, đâu có cái lý này!”.

Thế rồi tiện tay xé vụn tờ giấy ra.

Tạ Thiên Hoa ngồi một bên nhìn, thấy có tên mình trong miếng giấy, ngạc nhiên hỏi:

“Tờ giấy ghi gì?”.

Vân Tĩnh khinh bỉ đáp:

“Toàn là những lời nhăng nhít. Song tên gian tặc này cũng rất lợi hại, bọn chúng hình như đã biết các người vào Mông Cổ cứu ta. Không hiểu tại sao lại không đề phòng?”.

Tạ Thiên Hoa nhíu mày trầm ngâm, trong lòng rất thắc mắc. Vân Tĩnh cầm túi gấm thứ ba lên định mở ra, chợt đặt xuống, Tạ Thiên Hoa liếc nhìn thì không khỏi kêu lên ngạc nhiên. Chỉ thấy ở túi gấm thứ ba có ghi:

“Thư này trao cho Tạ Thiên Hoa”.

Vân Tĩnh lạnh lùng nhìn Tạ Thiên Hoa, trong lòng rất nghi ngờ. Tạ Thiên Hoa đi lại trên giang hồ đã lâu, rất tinh tế, vừa thấy như thế thì mỉm cười nói:

“Gian tặc qủy kế đa đoan, Vân đại nhân cứ mở ra xem y nói gì?”.

Vân Tĩnh hơi chần chừ, rồi từ từ mở túi gấm ra, rút bức thư chậm rãi đọc:

“Lúc này Vân đại nhân đã bị bắt, trong túi gấm có một viên sáp, ông hãy giấu viên sáp này đừng mở ra, mau chóng vào kinh gặp Vu Khiêm, đàn hặc Vương Chấn, tính mạng của Vân đại nhân có thể giữ được hay không toàn nhờ vào chuyến đi này”.

Vân Tĩnh hừ một tiếng, lại xé vụn tờ giấy ra, mắng rằng:

“Toàn là những lời nhảm nhí! Vân mỗ này là một trung thần, có lý nào bị bắt?” thế rồi ném túi gấm xuống đất. Tạ Thiên Hoa tung mình chụp lấy túi gấm, quả nhiên trong túi gấm có một viên sáp, ông ta cất vào áo. Vân Tĩnh biến sắc, Tạ Thiên Hoa nói:

“Cứ giữ lấy vật này, có lẽ cũng chẳng hề gì”.

Vân Tĩnh hừ một tiếng rồi bực bội nói:

“Ôâng cứ giữ lấy. Vân Tĩnh này chẳng đội trời chung với tên gian tặc, dù cho bị phanh thây thành ngàn mảnh cũng không cần y đến cứu”.

Nhân lúc trăng sáng, mọi người tiếp tục lên đường, lúc này đã có thể nghe văng vẳng tiếng tù và canh đêm của quân Minh, Vân Tĩnh phấn chấn tinh thần, tuy đi đường khổ nhọc nhưng không hề chợp mắt, cũng chẳng thấy mệt mỏi. Thế rồi ông ngửa đầu lên nhìn trời cao, ngâm rằng:

“Mừng còn sống quay về cố thổ, hùng quan chia cách Hoa Di.

Vân mỗ ngày mai sẽ sửa sang áo mũ, tay cầm cờ tiết đến bái kiến minh quân”.

Tạ Thiên Hoa nói:

“Đại nhân trung thành như thế, trăm đời hiếm thấy, thiên tử phong quan ban tước cũng chẳng đủ”.

Vân Tĩnh nói:

“Đó là bổn phận của kẻ làm tôi thần, nào mong triều đình báo đáp”.

Rồi ông ta ngừng một lát, đột nhiên hỏi:

“Khi ta đi sứ, đó là năm Vĩnh Lạc thứ mười, đến nay đã hai mươi năm, thay đổi ba triều, ta chẳng biết gì chuyện triều đình, không biết hiện nay ai đương chính?”.

Tạ Thiên Hoa nói:

“Là Vương Chấn đang nắm quyền”.

Vân Tĩnh nhớ lại lời trong túi gấm thứ ba, buột miệng nói:

“Vậy thì trời đã phù hộ cho triều ta, Vương Chấn ấy chắc chắn là một trung thần, chỉ có tên Vu Khiêm kia mới là gian thần”.

Triều Âm hòa thượng đang phóng ngựa chạy về phía trước, lúc này đi bên cạnh chiếc xe lừa, nghe Vân Tĩnh nói như thế, đột nhiên chống cây thiền trượng xuống đất, lớn giọng nói:

“Địa nhân đã sai rồi, Vương Chấn ấy là một tên gian thần, nếu y gặp phải tay Phật gia, tôi sẽ cho y nếm một trận thiền trượng!”.

Vân Tĩnh ngạc nhiên nói:

“Cái gì, y là gian thần? Không thể, không thể! Nếu y là gian thần, vậy bọn Mông Cổ tại sai xúi giục tên Vu Khiêm ấy ra đàn hặc y”.

Tạ Thiên Hoa nói:

“Đại nhân có điều không biết, Vương Chấn ấy đúng là một gian thần”.

Vân Tĩnh ngạc nhiên nói:

“Cái gì, y là một thái giám kia mà?”.

Tạ Thiên Hoa nói:

“Đúng thế. Nghe nói kẻ này vốn quê ở Quý Châu, đã từng học hành, cũng đã đi thi, làm đến chức quan huyện, sau đó phạm tội nên bị sung quân, gặp lúc hoàng đế hạ chiếu “những người đã có con thì cũng được tịnh thân để vào trong nội cung”, Vương Chấn liền chui vào trong hoàng cung. Sau đó vì hầu hạ thái tử học hành, tức là đương kim hoàng thượng, Vương Chấn được phong làm Tư lễ thái giám, quản lý tấu chương trong ngoài, vì thế cấu kết với triều thần, ra oai làm phước, tuy không quá ba năm nhưng trăm họ đã căm giận y đến tận xương cốt. Đại nhân lần này trở về cũng phải cẩn thận”.

Vân Tĩnh nghe xong thì bất giác ngạc nhiên, trong lòng đầy nỗi nghi ngờ.

Tạ Thiên Hoa lại tiếp tục nói:

“Còn người tên Vu Khiêm ấy là tổng binh thị lang, nghe nói là một vị quan ngay thẳng”.

Vân Tĩnh nghe xong thì im lặng không nói, lòng nhủ thầm:

“Hai người này đều là hạng mãng phu trong giang hồ, lời nói không đáng tin, đợi sau khi ta vào triều thì sẽ hỏi cho rõ ràng”. Rồi lại nhủ rằng:

“Binh pháp có câu, hư chính là thực, thực là hư, dù cho hai người này nói là thực, đó cũng có thể là cạm bẫy Trương Tôn Châu bày ra, cố ý khiến cho mình tin lời y, trong đó chắc chắn có âm mưu”.

Vân Lối đang ngủ rất say, Vân Tĩnh nhìn khuôn mặt bầu bĩnh của cô bé, trông hồn nhiên đáng yêu vô cùng. Nghĩ đến sau khi Vân Lối lớn lên cũng phải đến Mông Cổ, đội sương dầm tuyết thay mình báo thù, không khỏi thở dài. Nhưng trong khoảnh khắc, nỗi khổ ăn tuyết uống băng, nhịn đói chịu rét trong hai mươi năm qua lại dâng lên trong lòng, lửa hận bốc cao, thiêu cháy cả tinh thần, ông ta ngẩng đầu lên trời cao, sóng lòng dâng trào, một hồi sau thì chìm vào giấc ngủ.

Đến như tỉnh dậy thì trời vừa hửng sáng, mọi người có thể nhìn thấy rõ ràng ngọn cờ trên Nhạn Môn Quan. Triều Âm hòa thượng nói:

“Nơi đây là Thất Lý Bổ, cách Nhạn Môn Quan còn bảy dặm nữa. Phía trước chính là trạm kiểm soát bên ngoài Nhạn Môn Quan”.

Vân Tĩnh ngồi bật dậy, vạch rèm xe hỏi:

“Châu tổng binh có đến không?”.

Triều Âm hòa thượng nói:

“Tạ sư đệ đã vào báo cáo. Bảo chốc nữa Châu tổng binh sẽ ra”.

Vân Tĩnh ngẩn người ra, đột nhiên mỉm cười, lẩm bẩm:

“Ta suýt nữa bị túi gấm kia lừa. Châu tổng binh làm sao biết hôm nay ta trở về, sau khi thông báo ông ta đương nhiên sẽ ra đón ta”.

Thế rồi bảo dừng ngựa lại, đứng trước trạm kiểm soát chờ đợi. Bọn sĩ tốt trong trạm kiểm soát đứng nhìn, không hề có động tĩnh gì.

Lại nói Tạ Thiên Hoa là người chu đáo, vào trong Nhạn Môn Quan thông báo trước là chủ ý của ông ta. Tạ Thiên Hoa đã gặp Châu Kiện vài lần, biết ông ta không những là đồng hương với Vân Tĩnh mà còn là một người ngay thẳng, chẳng khác gì bậc hào kiệt trong giang hồ. Lúc này, Nhạn Môn Quan vẫn chẳng có điều gì khác lạ, Tạ Thiên Hoa yên tâm, thầm cười rằng:

“Đàm Đài Diệt Minh cố ý bày binh bố trận, cả mình cũng suýt bị y lừa. Chỉ cần Châu tổng binh vẫn còn giữ ở Nhạn Môn Quan, có ai dám động đến Vân Tĩnh?”.

Vừa ngồi xuống, đã có tên lính bưng trà lên nói:

“Tổng binh đại nhân sắp ra, Tạ hiệp sĩ hãy nghỉ ngơi một lát”.

Tạ Thiên Hoa uống ngụm trà, cởi áo giáp trên người xuống, đang chờ đợi chợt cảm thấy đầu óc chóang váng, thầm kêu lên:

“Không xong!” thế rồi vội vàng rút thanh kiếm ra, tên lính ấy đã bước tới giật thanh kiếm, bên ngoài có hai tiếng tu tu kêu lên, rồi hai sợi dây thừng phóng vút vào giật ngã ông ta xuống.

Tạ Thiên Hoa nội công tinh thâm, tuy đã bị ám toán, nhưng vẫn chưa hôn mê, định vùng vẫy nhưng toàn thân mất sức, vả lại đầu nặng trĩu, mở mắt không ra. Tạ Thiên Hoa âm thầm vận huyền công, chống cự với cơn buồn ngủ, trong mơ hồ hình như đã bị người ta khiêng lên, không lâu sau thì nghe có tiếng khóa cửa, hình như đã bị nhốt vào trong một căn phòng tối đen.

Trong tách trà có thuốc mê cực kỳ lợi hại, người bình thường nếm vào thì ngã ngay, Tạ Thiên Hoa đã luyện công phu Dịch cân tẩy cốt, vận khí chống lại mới có thể giữ được tỉnh táo. Không biết trải qua bao lâu, cửa phòng mở ra, một người thò đầu vào, Tạ Thiên Hoa định thần nhìn lại, đó chính là tổng binh Nhạn Môn Quan Châu Kiện.

Tạ Thiên Hoa nhảy bật dậy, quét ngang ra một chưởng chém vào sau ót của ông ta.

Châu Kiện vội vàng đưa tay lên đỡ, kêu lên:

“Là tôi!”.

Tạ Thiên Hoa vẫn chưa hồi phục chân khí, bị ông ta gạt một cái thì lảo đảo thối lui ra sau, đầu va phải bức tường, tức giận kêu lên:

“Hay lắm, biết người biết mặt mà không biết lòng, tổng binh đại nhân, ông đã dùng thủ đoạn hạ lưu để ám toán tôi, thật là giỏi!”.

Châu Kiện bước tới, đỡ lấy cánh tay ông ta hạ giọng nói:

“Sự việc đã rất nguy cấp, hãy mau uống thuốc giải, tôi và ông sẽ đi cứu Vân đại nhân. Tôi đã lấy kiếm cho ông, mau lên!”.

Tạ Thiên Hoa ngạc nhiên hỏi:

“Cái gì? Ông, ông có ý gì?”.

Trong bóng tối, chỉ thấy Châu Kiện quắc mắt, dáng vẻ rất uy nghiêm, thì thầm:

“Châu Kiện này là người thế nào, ông lại không biết ư? Lúc này sự việc đã rất gấp gáp, có chuyện gì sau này hẵng nói, ông hãy mau theo tôi ra ngoài”.

Tạ Thiên Hoa nuốt viên thuốc.

Tạ Thiên Hoa vốn đã tỉnh, giờ đây nuốt được viên thuốc thì không cảm thấy buồn ngủ nữa, thế là cần lấy thanh kiếm, nhảy vọt ra ngoài cửa.

Bên ngoài Nhạn Môn Quan tiếng tù và hú dài, chỉ thấy tên quân đã đánh thuốc mê Tạ Thiên Hoa bước tới, cao giọng kêu:

“Châu đại nhân, ông phải suy nghĩ cho kỹ, đừng phá hỏng tương lai!”.

Châu Kiện chẳng nói một lời nào, đột nhiên nhảy vọt lên, vung đao chém một nhát, tên quân ấy bị chặt làm hai khúc, thế rồi đoạt ngay hai thớt khóai mã, cùng Tạ Thiên Hoa phóng ra ngoài, quan quân bên ngoài Nhạn Môn Quan không ai dám cản.

Châu Kiện uy phong lẫm lẫm, sát khí đằng đằng, vừa vung roi vỗ vào mông ngựa vừa kêu lớn:

“Bọn chúng đang truy sát ở Thất Lý Bồ, chúng ta hãy đi đường tắt!”.

Thế rồi giật đầu ngựa, đi vòng qua một con đường nhỏ, phía sau quân quan đang đuổi theo, nhiều người gọi to, nhưng Châu Kiện vẫn cứ mặc kệ.

Lại nói Vân Tĩnh đợi ở ngoài Thất Lý Bồ rất lâu, đang tức giận thì chợt thấy cát bụi tung bay, mười mấy thớt khóai mã phóng tới, trong chốc lát trạm kiểm soát mở ra, quan quân trong trạm gọi Vân Tĩnh bước vào. Vân Tĩnh nhìn kỹ lại, thấy chẳng có Châu Kiện, trong lòng rất không vui, nhưng vẫn điềm nhiên cầm cờ tiết bước vào bên trong.

Trong trạm đã bày sẵn chỗ ngồi, chỉ thấy mười sáu tên ngự lâm quân chia thành hai nhóm, đứng từ bậc thang trở xuống, trong sảnh đường có hai viên khâm sai, áo mũ cân đai rất chỉnh tề, bước ra nghênh đón. Vân Tĩnh vui mừng thầm nhủ:

“Té ra thiên tử còn nhớ mình hai mươi năm qua giữ lòng trung, đã sai khâm sai ra Nhạn Môn Quan đón”.

Đang định nói một lời khách sáo, viên khâm sai ở trong sảnh đường đã cao giọng quát:

“Phản thần Vân Tĩnh, quỳ xuống nghe thánh chỉ!”.

Vân Tĩnh kinh hoảng, tay cầm cờ tiết, run run biện bạch:

“Vân mỗ đi sứ nước người, hai mươi năm qua chăn ngựa ở Mông Cổ, vẫn giữ lòng trung, tự thấy không có tội, không dám nhận chiếu thư này!”.

Nói chưa dứt lời, đã bị hai tên ngự lâm quân đến đè nghiến xuống đất. Chỉ nghe một viên khâm sai mở tờ chiếu thư ra, cao giọng đọc:

“Tội thần Vân Tĩnh, trước đây được tiên đế coi là tâm phúc, sai đi sứ đến Ngoã Thích nhưng vẫn không biết báo ơn, ngược lại còn đổi mặt thành thù, quên đi đất nước. Hôm nay tự tiện trở về, mưu đồ làm nội ứng, tội không thể tha. Vốn sẽ xử theo hình điển, nhưng niệm tình y trước kia là cựu thần, nay được ban cho uống thuốc, được chết toàn thây. Khâm thử”.

Vân Tĩnh hồn siêu phách tán, chỉ thấy một tên ngự lâm quân bưng một cái bình màu bạc, trong bình có chứa nước màu đỏ, cao giọng nói:

“Tội thần Vân Tĩnh sao còn chưa tạ ơn lãnh chỉ?”.

Vân Tĩnh nghe như sấm nổ bên tai, vừa kinh hoảng vừa giận dữ, đột nhiên giật lấy bình bạc ấy, quát lên:

“Đem chiếu thư cho ta xem, ta không tin đó là thật!”.

Viên khâm sai cười lạnh quát:

“Ngươi thật lớn gan, ngươi xứng xem chiếu thư sao?”.

Nói chưa dứt lời, chỉ nghe một tiếng bình vang lên, hai cánh cửa đã bị đá bật ra, một nhà sư cầm cây thiền trượng to như miệng bát, lướt vào nhanh như cơn gió cao giọng nói:

“Mặc là giả hay thật, cứ đánh chết hết rồi tính tiếp!”.

Mười sáu tên ngự lâm quân xông đến cản lại, nào có thể chặn được ông ta, chỉ thấy ông ta đánh đông gạt tây, quét nam bổ bắc, trượng thế mạnh mẽ như khai sơn phá thạch, chỉ cần trúng một trượng thì không chết cũng bị thương.

Hai viên khâm sai ấy hoảng sợ đến nỗi mặt tái mét, chân run lẩy bẩy. Nhà sư ấy xông vào đến sảnh đường, tay trái vươn ra tóm lấy một viên khâm sai, nói rằng:

“Vân đại nhân liều mạng trở về, các người lại xử tử ông ta, đó là lý gì?”.

Chỉ nghe bốp một tiếng, cây thiền trượng đã bổ xuống đầu y, nhà sư ấy vung mạnh tay, xác viên khâm sai bay vút ra bậc thềm chết ngay tại chỗ. Viên khâm sai còn lại thì đã hốt hoảng, vội vàng kêu lên:

“Phản rồi, phản rồi! Dám mạo phạm khâm sai, đáng tội gì?”.

Hòa thượng ấy buông giọng cười lớn, lại vươn tay tóm lấy y, mắng rằng:

“Tên khâm sai nhà ngươi đáng được mấy đồng tiền?”.

Cây thiền trượng cắm xuống đất, xé toạc y ra thành hai mảnh. Bọn ngự lâm quân tháo chạy ra ngoài, tiếng tù và rúc lên, trong trạm kiểm soát thây người phơi đầy dưới đất.

Vân Tĩnh mở to mắt, tựa như vừa trải qua một cơn ác mộng, không biết chuyện ở trước mắt là thực hay giả, đến khi định thần lại, thấy Triều Âm hòa thượng bước về phía ông ta, vội vàng kêu lên:

“Đưa chiếu thư cho ta”.

Triều Âm hòa thượng cười lạnh nói:

“Còn chiếu thư cái quái gì nữa, mau chạy theo tôi!”.

Vân Tĩnh ngồi xếp bằng xuống đất, chậm rãi nói từng chữ như chém đi chặt sắt:

“Đưa chiếu thư cho ta!”.

Triều Âm hòa thượng liếc ông ta, thế rồi nhặt mảnh chiếu thư trên bàn, ném cho ông ta nói:

“Được, xem mau! Xem mau!”.

Triều Âm hòa thượng cũng không hiểu tại sao ông ta lại cố chấp như thế.

Vân Tĩnh mở chiếu thư, vừa nhìn thì mặt xám ngoét như xác chết, dấu ngọc tỷ và loại giấy làm chiếu thư đều là thật. Vân Tĩnh còn nhớ khi Minh Thành Tổ đoạt ngôi, đã từng giật ngọc tỷ trong tay nội giám, nội giám ấy ném ngọc tỷ ấy xuống dưới bậc cấp, mẻ mất một góc, sau đó bảo thợ khéo đắp lại, vẫn còn đường vân, nay nhìn kỹ dấu ấn đóng trên chiếu thư này cũng như thế, quyết không thể giả mạo được.

Triều Âm hòa thượng kêu lên:

“Xem xong chưa?”.

Vân Tĩnh nhìn trừng trừng, nghe mà cũng không cảm nhận được gì. Trong khoảnh khắc, nỗi tủi nhục hai mươi năm ở đất Hồ hiện ra trong đầu nhanh như điện chớp. Thế nhưng tất cả những nỗi khổ ải đó chẳng là gì so với nỗi đau đớn của hôm nay. Vân Tĩnh có thể chịu đựng hai mươi năm toàn là nhờ tấm lòng trung, tưởng rằng sau khi trốn thóat trở về, triều đình chắc chắn sẽ thăng quan phong tước, ca ngợi công tích, nào ngờ hoàng đế lại đích thân hạ chiếu thư xử tử mình. Cũng như sùng bái tin tưởng một người đến cực điểm, niềm kỳ vọng rất sâu, đột nhiên phát hiện người ấy là kẻ hại chết mình, tâm trạng đau khổ tuyệt vọng ấy trên đời còn có gì đau đớn hơn?

Triều Âm hòa thượng gọi hai tiếng mà vẫn không thấy ông ta trả lời, trong lòng ngạc nhiên. Chợt thấy Vân Tĩnh chậm rãi đứng dậy, cầm cây cờ tiết đã theo ông ta hai mươi năm, dùng lực bẻ mạnh. Chỉ nghe bốp một tiếng, cây cờ tiết gãy thành hai đoạn.