Chương 1

" Xin trả về cho nhau những dấu yêu cuối cùng. Vì thời gian trôi mau không giữ được tình tạ Dù lòng còn yêu nhau đã nói yêu mãi hoài... "

Buổi chiều xuống rất nhanh. Chúng được báo hiệu bằng vạt mây đỏ sẫm cuối trời. Chen chúc xung quanh là những tảng mây lớn nặng nề màu hạt dẻ, trên đó bám theo những vẩy mây trắng như những cụm lông cừu nhỏ. Không nghe được tiếng chim kêu. Chỉ nhìn thấy những cái bóng bé nhỏ của đàn chim chậm rãi bay về phương Nam. Bây giờ rõ hơn một chút, phía dưới kia những ngọn cây nhọn hoắt bắt đầu ngả sang nâu đen, những con sông sáng ánh thiếc, những tòa nhà cao tầng như những bệt màu trắng sổ mạnh trên cái nền lờ nhờ xám của bóng tối đang dần phủ xuống thành phố.

Máy bay sắp hạ cánh. Tiếng máy bay ầm ì nhọc mệt đè nặng lên trái tim tôi một cảm giác bất an và lo lắng. Tôi tưởng tượng ra một sân bay mênh mông đông nghẹt người. Những người to cao, tóc vàng mắt xanh. Những người không nói cùng ngôn ngữ. Những người xa lạ. Chắc chắn họ sẽ không để ý đến tôi. ( Thật khủng khiếp là họ sẽ không để ý đến tôi). Điều đó càng mang lại cảm giác cô độc ghê gớm giữa thế giới to rộng này.Rồi người ra đón tôi và tôi sẽ lạc vào trong đó mà không tìm được ra nhau. Tôi sẽ làm gì nếu chúng tôi không gặp nhau.

Ở cuối chân cầu thang máy bay, cô gái trẻ có mái tóc hung đỏ đi cùng chuyến với tôi đã gặp được người yêu- một anh chàng nhỏ nhắn đeo khuyên ở mũi và tóc nhuộm một chút đỏ ở mái như một cái mào Vẹt. Họ Ôm nhau, hôn nhau say đắm. Tôi đi ngang qua, len lén nhìn họ. Vô tình lúc ấy tôi trông thấy cô khóc. Nước mắt không chảy thành dòng mà viên lại thành từng giọt to, đục. Những giọt nước mắt của cô, mùi hương lài có lẽ tỏa ra từ những nếp váy nhàu nhò của cô làm tôi cảm động. Tôi liền vẽ ra trong đầu mình một câu chuyện tình lâm li bi đát. Tất nhiên không phải cứ gặp nhau, ôm nhau, hôn nhau và khóc là những tình tiết của một câu chuyện buồn. Nhưng rõ ràng bất cứ giọt nước mắt nào trong hoàn cảnh này cũng dễ dàng gợi lên sự thương cảm và sầu nhớ. Trong tình trạng hiện thời của tôi, không gì hay hơn là tưởng tượng ra một câu chuyện như thế. Bởi ngay lúc đó tôi thật sự muốn mình được khóc.

Phòng nhận hành lý, trần thấp lè tè và tăm tối. Những chiếc bánh xe lăn kêu kót két. Hành lý đổ xuống băng chuyền ồn ĩ. Bỗng nhiên ánh sáng từ trên cao, qua những lỗ hổng trên tường, đồng loạt ào xuống. Trong ánh sáng xanh nhợt nhạt đó, tôi nhìn thấy một người đàn ông to lớn, tóc bạc, mặc áo sơ mi trắng, đeo một chiếc xà cột bằng da nâu cứng. Trên tay ông cầm một tờ giấy ghi nguệch ngoạc hai chữ " Miss Giang" và trên ngực áo đeo một tấm bảng nhỏ đề tên của ông " Robert Palmer- người dẫn đường". Chúng tôi bắt tay nhau. Bàn tay ông mập mạp và ấm áp. Đôi mắt ông ánh lên những tia lửa nhỏ màu vàng. Từ chiếc áo khoác cũ kĩ dài chấm đầu gối của ông phả ra mùi bánh mì ủ lâu ngày lên men và mùi rượu hoa quả.

ông đến từ New York, một thành phố ồn ào, náo nhiệt và hiện đại nhất của nước Mỹ rộng lớn. Nhưng ông hoàn toàn không cho ta cái vẻ gì là một người đã từng sinh ra, lớn lên và trải qua mấy mươi năm cuộc đời ở nơi đo,ù ngoại trừ sự nhanh nhẹn và năng động ít khi thấy có ở một ông già. Ông chỉ đi duy nhất một đôi giày to bằng da đen sờn vàmặc chiếc áo choàng cũ ngả vàng mỗi khi trời trở rét. Mỗi khi áp mặt vào tấm áo choàng, như lần đầu gặp ông ở sân bay, thoảng nghe mùi hương bánh mì và rượu quả lên chua từ chiếc áo, thậm chí từ đôi bàn tay khô nhám của ông, tôi lại tự hỏi sao mà nó quen thuộc và ấm áp. Có lẽ vì nó luôn thường xuyên gợi lại trong trí tôi những hình ảnh thân thương của ông tôi và ba tôi, trong những căn phòng tối thơm mùi mì nấu cải xanh.

Tôi thường nghĩ về nước Mỹ qua ông. Trong cái cách đi bộ hối hả, sải chân bước dài đến cả mét, đầu chúi về trước, tay giữ chặt chiếc xà cột để nó không đập bồm bộp vào đùi. Trong cách ông luôn chọn những quán hàng ăn rẻ tiền nhất và sục sạo vào những cửa hiệu bán các đồ lặt vặt tuồng như đã tồn tại cả hàng trăm năm. Trong cách ông cười tươi tỉnh với tôi vào buổi sớm mai và dáng ngồi cô độc của ông trên ghế đá ngoài bờ sông Iowa.

Bằng cách đó tôi đã hiểu rằng nước Mỹ không phải là thiên đường. Đằng sau bộ mặt xinh đẹp đến mê đắm của nước Mỹ còn có những cuộc đời cô đơn và buồn thảm. Sự đào thải khắc nghiệt trong công việc làm ăn, sống và tồn tại luôn làm con người căng thẳng. Họ sống lạnh lùng với nhau một phần cũng là vì đã quá mệt mỏi.

Chúng tôi rời sân bay, bắt đầu cho chuyến viễn du dài một nghìn bảy trăm năm mươi hai giờ. Bắt đầu cho một giấc mơ có thực trong cuộc đời. Chiều vẫn còn phảng phất hơi nóng của một ngày mùa hè tràn ngập ánh mặt trời. Nhưng lúc này phía ngoài bờ sông Potomac đã thổi vào những làn gió mỏng và mát, đủ làm lay động những tàn cây xanh biếc và thổi dạt những đám mây mỡ gà trên trời xa.

Chúng tôi ở trong một khách sạn nhỏ nhưng rất xinh đẹp số 2000 trên đường N. Nó giống như một ngôi nhà cổ nằm trầm mặc giữa vườn cây xanh với những chiếc lá con li ti ánh bạc, với những chú sóc nâu đuôi dài chỉ tìm cách leo lên cửa sổ, giương đôi mắt tròn đen nhánh tò mò nhìn vào trong phòng một cách không giấu giếm. Thỉnh thoảng chúng để lại trên bệ cửa những vỏ hạt dẻ bị cắn nham nhở hay những bông hoa lạ màu trắng xanh, bé như những cái khuỵ Máy lạnh chạy rầm rĩ suốt đêm. Chẳng mấy chốc nó đã làm căn phòng có những tấm rèm hoa sặc sỡ lạnh ngắt như trong tủ lạnh.