Làng Maxley – nơi xảy ra những chuyện kỳ lạ vào mùa hè năm rồi - nằm hiền hòa giữa những đồi núi thuộc vùng Sussex nước Anh. Đó là một ngôi làng nhỏ nhưng rất nên thơ với một nhà thờ cổ kính, vài tiệm hàng và những ngôi nhà cổ. Thông thường, ở đây rất vắng vẻ. Nhưng đến cuối tuần thì những cái không khí tĩnh lặng đó sẽ bị khuấy động bởi lũ lượt những chiếc xe hơi du lịch chở mọi người đi nghỉ mát sau một tuần làm việc mệt mỏi. Maxley nằm trên con đường giao thông huyết mạch nối London và Brighton. Tuy nhiên, qua khỏi ngày chủ nhật, khi mọi người trở về thành phố thì bầu không gian yên tĩnh sẽ quay trở lại.

Láng giềng cạnh tôi là ông Francis Urcombẹ Trước kia ông là giáo sư, công tác ở trường đại học Cambridgẹ Hiện nay, công việc của ông là nghiên cứu những điều kỳ bí trong cuộc sống. Những câu chuyện về hồn ma, những truyền thuyết về ma cà rồng hay các thông điệp của thần chết… là những điều làm ông mê saỵ “Một số người đùa cợt khi nghe đến những điều đó” - một lần ông nói với tôi – “Nhưng thật ra chúng ta rất thật”. Tôi cũng thường bàn luận với ông về những đề tài hấp dẫn ấy nên chúng tôi hay qua lại với nhau.

Thế rồi vào một ngày đầu xuân năm ngoái, có một thành viên mới xuất hiện ở làng chúng tôi. Sinh sống nhiều năm ở Ấn Độ, sau khi chồng mất, bà Amworth – tên người mới dọn đến – quay trở về nước Anh. Bà chọn Maxley làm nơi ở mới vì bà thích không khí đồng quê và nhất là dòng họ bà đã có mặt ở đây từ cả 100 năm về trước. Bà Amworth là một người thân thiện, dễ hòa đồng nên cả làng chúng tôi nhanh chóng mến bà, trừ ông Francis Urcombẹ Đôi lần ông bảo tôi rằng ông đang theo dõi bà Amworth. Trong những lần gặp mặt, ông đều chăm chú quan sát và lắng nghe bà Amworth. Tôi không hiểu nguyên nhân vì sao người láng giềng của mình lại có thái độ kỳ quặc như vậy. Theo nhận xét của tôi, bà Amworth vui vẻ, dễ mến và không có gì bí mật xung quanh bà. Bà nói với chúng tôi năm nay bà đã 45 tuổi nhưng nhìn bề ngoài có lẽ bà trẻ hơn đến gần 10 tuổi.

Bà ấy và tôi thường chơi bài vào những buổi tối, có lúc ở nhà tôi, có khi ở nhà bà. Thỉnh thoảng, ông Francis cũng có mặt. Nhưng ông không chơi mà ngồi yên, lặng lẽ ngậm tẩu thuốc, kín đáo quan sát bà Amworth.

Một buổi tối nọ, ông Francis và tôi chuyện trò với nhau xoay quanh đề tài ma cà rồng. Với kiến thức uyên bác được tích lũy qua nhiều năm dày công nghiên cứu, ông đã cho tôi biết rất nhiều điểm thú vị về loài quái vật này.

“Cậu biết không, một con ma cà rồng có thể sử dụng cơ thể của người chết lẫn người sống. Nếu nó dùng một cơ thể sống làm bức bình phong thì người đó sẽ sinh hoạt bình thường không hề có chút khác biệt gì với mọi người. Tuy nhiên, đó chỉ là ban ngày. Đến đêm, người đó sẽ bay như một con dơi để tìm máu người. Và sau khi người đó chết đi, con ma cà rồng sẽ vẫn tiếp tục tồn tại trong cái cơ thể chết đó. Và dĩ nhiên, nó sẽ ở trong nghĩa trang lúc ban ngày và chỉ có thể ra ngoài vào ban đêm để thực hiện những hành vi tội ác. Có rất nhiều câu chuyện về ma cà rồng ở những nước châu Âu từ hàng trăm năm trước. Không lẽ chúng đều là hoang đường, huyễn hoặc? Tôi thì không nghĩ thế. Thậm chí, cậu có biết cách đây 300 năm về trước đã có một con ma cà rồng ở chính Maxley này đây không! Và chí cách nay 1, 2 năm, có một bài báo cáo về những con ma cà rồng ở một thị trấn miền Bắc Ấn Độ. Vì vậy, rất có thể ma cà rồng vẫn còn tồn tại quanh chúng ta” – Ông nói với tôi.

Vừa lúc đó có tiếng gõ cửa vang lên. Giọng rổn rảng quen thuộc của bà Amworth nhanh chóng tràn ngập khắp căn phòng.

“Mời vào. Hãy cứu tôi với!” – Tôi cười đùa – “Ông Francis đang nhát tôi bằng những truyện ma đây”.

“Tuyệt vậy sao?” – Bà Amworth reo lên thích thú – “Tôi thích nghe truyện ma lắm!”

Lúc này, ông Francis vẫn không rời mắt khỏi bà khách được mời vào – “Đó không phải là những truyện ma” – Ông chậm rãi nói – “Tôi đang nói về những con ma cà rồng nhân lúc đọc được một bài viết mới nhất về chúng ở đâu đó, hình như Ấn Độ thì phải”.

Bà Amworth giật mình nhìn sững ông Francis. Mất khoảng vài giây sau bà mới trấn tĩnh lại và nở một nụ cười gượng, “Ông nghe chúng ở đâu thế ông bạn? Tôi đã sống ở Ấn nhiều năm nhưng chưa từng nghe những chuyện như thế. Đó chỉ là những chuyện kể hù dọa trẻ con thôi”.

Ông Francis không phản đối, chỉ gục gặt đầu: “Vâng rất có thể là như vậy”.

Từ đó trở đi, thái độ của bà Amworth hoàn toàn đổi khác. Bà tỏ ra bối rối, lo lắng rồi mới được vài ván bài là bà đã đứng dậy từ giã ra về. Đóng cửa tiễn chân bà ấy xong, ông Francis mới bảo tôi: “Chồng bà ấy chết ở Ấn Độ mà tôi quên khuấy mất”.

Sau buổi tối đó, bà Amworth không bao giờ ghé nhà tôi nếu có mặt ông Francis ở đấy.

*=*=*

Xuân qua, hạ đến với vài cơn mưa lác đác. Không hiểu ở đâu trong làng lại xuất hiện những con côn trùng nhỏ xíu màu đen vào buổi tối. Nó rất nhỏ và bay cũng rất nhẹ nhàng làm cho bạn không hay biết, mãi đến khi nó cắn mới thấy đau. Mọi người trong làng đều bị nó cắn., gây đau rát, khó chịu. Thông thường, chúng cắn nhiều nhất là ở cổ.

Tháng tám, đứa bé trai 6 tuổi con bác làm vườn nhà bà Amworth bỗng đột nhiên mắc một chứng bệnh rất quái lạ. Đứa trẻ càng ngày càng suy nhược, suốt ngày chỉ nằm thiêm thiếp trên giường bệnh. Và mặc dù đã được tẩm bổ rất đầy đủ nhưng mỗi ngày qua trông nó gầy đi thấy rõ. Đặc biệt, nước da đứa bé nhợt nhạt, trắng xanh. Bác sĩ Ross sau khi khám xong đã cho biết có hai vết cắn nhỏ ở trên cổ bệnh nhân và ông nghĩ có lẽ do bọn côn trùng gây ra.

Ban chiều, bác sĩ Ross gặp tôi và nhờ nhắn giúp ông Francis đi thăm bệnh cùng ông ấy. Ông Francis đồng ý và đi cùng bác sĩ Ross đến thăm bệnh của đứa trẻ. Ngồi một mình ở nhà cũng chán, tôi đi sang nhà bà Amworth chơi. Khi đề cập đến tình trạng bệnh của đứa trẻ. Bà Amworth chợt nói: “Tôi mới vừa thăm nó xong. Bệnh có lẽ nặng và tôi e rằng hôm nay là lần thăm nó cuối cùng của tôi”. Đôi mắt bà ánh lên những tia nhìn lạnh lẽo và độc ác.

Sau đó, bà cùng tôi quay trở về nhà tôi vì muốn mượn quyển sách dạy làm vườn. “Trời đêm nay thật trong lành, mát mẻ” – Bà nói – “Sống dưới khí trời tốt như thế này là một điều tốt cho sức khỏe”. Đón lấy quyển sách tôi trao, bà cảm ơn và chào tạm biệt. “Làm việc cật lực ngoài vườn, ngủ thật ngon với cửa sổ mở rộng đón gió trời ban đêm, cậu sẽ không bao giờ ngã bệnh”.

“Tôi thì luôn ngủ với cửa sổ mở toang” – Tôi cười đáp.

Tối đó, tôi mơ một giấc mơ thật hãi hùng. Trong giấc mơ, tôi tỉnh giấc và thấy hai cửa sổ phòng mình đều đóng kín. Tôi ngồi dậy và mở nó ra. Nhưng khi đến gần, một vật bên ngoài cửa sổ đã làm tôi kinh hoàng. Khuôn mặt của bà Amworth - chỉ duy nhất khuôn mặt của bà ta ẩn hiện trong bóng đêm, nhìn tôi mỉm cười qua tấm cửa kiếng bằng thủy tinh! Tôi quay lại và chạy về góc bên kia của căn phòng. Nơi cửa kiếng thứ hai, vẫn nụ cười quái dị của bà Amworth, nửa như hù dọa nửa như bỡn cợt! Mồ hôi tôi đổ ra như tắm. Bây giờ mình phải làm gì đây? Không thể mở cửa sổ, nếu không khuôn mặt của bà ta ùa vào như thể là một con chim kinh dị. Tôi thét to lên và giật mình tỉnh dậy. Căn phòng tôi vẫn bình thường. Gió thì thào thổi vào qua hai cánh cửa sổ mở toang. Trăng hắt một chút ánh sáng huyền dịu vào trong phòng. Nhưng tôi vẫn còn lo sợ và suốt đêm không tài nào chợp mắt lại được. Gần đến sáng, mệt quá, tôi ngủ thiếp đi. Mãi đến trưa, tôi mới tỉnh dậy nhờ tiếng gõ cửa của ông bạn láng giềng Francis.

“Tôi cần cậu giúp đây” - Vừa gặp tôi ông đã vội vã nói – “Nhưng trước hết để tôi kể cho cậu nghe cái này. Hồi hôm, tôi với bác sĩ Ross có ghé thăm đứa nhỏ. Nó gần chết rồi cậu ạ! Người nó tái nhợt, gần như không còn một giọt máu trong người. Ngay lập tức tôi biết ngay đã có một con ma cà rồng hút máu nó. Tôi đề nghị với bác làm vườn sẽ chuyển nó đến nhà tôi ở. Được sự đồng ý của bác ấy, chúng tôi ẵm nó đi. Ra đến bên ngoài, chúng tôi gặp ngay bà Amworth. Khi biết ý định của chúng tôi, ba ta rất ngạc nhiên và vô cùng tức tối”.

“Rồi sao nữa hở bác?” – Tôi sốt ruột hỏi.

“Sau đó, khi về đến nhà, tôi liền mở hết tất cả các đèn trong phòng, đặt thằng bé nằm đấy và canh chừng. Đến giữa khuya, chúng tôi nghe bên ngoài có vật gì đang cố đẩy cái cửa sổ mở to lên. Cậu biết rồi, phòng của tôi trên lầu mà. Tôi đến bên cửa sổ nhìn xuống. Khuôn mặt ma quái của bà Amworth đang nhìn dội lại tôi…

Hai bàn tay bà đang nhấc khung cửa lên. Ngay lập tức, tôi sập cánh cửa xuống và quay vào, bên tai còn nghe tiếng la vì đau của bà ta.

“Vô lý, không thể được!” – Tôi ngạc nhiên kêu lên – “Làm cách nào bà ta có thể bay được?” Nhưng tôi chợt im lặng vì nhớ đến giấc mơ kinh hoàng đêm qua.

“Thật đấy! Suốt đêm qua bà ta cứ bay vòng vòng như một con dơi khổng lồ và tìm cách để lọi vào bên trong căn phòng. Mãi đến khi trời sáng, bà ta mới bỏ đi”.

“Còn bây giờ, ta sẽ bàn đến những vấn đề sau” – Ông Francis tiếp tục – “Thứ nhất tôi vừa tìm được tên thị trấn Ấn Độ, nơi bài viết về ma cà rồng đề cập đến. Bà Amworth cùng chồng trước kia cũng sống ở chính thị trấn đó. Thứ hai, bà ta rất tức tối khi tôi chuyển đứa bé vào phòng của mình. Thứ ba, bà ta, à mà không, con ma cà rồng sống trong cơ thể bà ta, tìm mọi cách lọt vào căn phòng của tôi đêm quạ Thứ tư, cách đây 300 năm về trước, có một con ma cà rồng sống ở Maxley này. Và con quỷ hút máu đó, theo Elizabeth Chaston thì Chaston cũng chính là tên của bà Amworth lúc chưa kết hôn. Thứ năm, qua một đêm bình yên, đứa trẻ đã đỡ hơn vào sáng naỵ Bà Amworth không thể đem nó đi hồi tối hôm qua”.

Trong một lúc lâu, chúng tôi im lặng suy nghĩ. Sự kinh dị của con ma cà rồng càng lúc càng “thật” đối với tôi. Hít một hơi thở sâu, tôi kể cho ông Francis nghe giấc mơ đêm qua của mình.

“Thật may mắn là cậu thức dậy kịp lúc” – Ông nói – “Cả cậu cũng đang bị nguy hiểm đó. Bây giờ hãy giúp tôi một tay”.

“Nhưng tôi giúp bác việc gì?”

“Việc đầu tiên là canh chừng đứa trẻ, không được để bà ta đến gần. Sau đó, chúng ta sẽ tìm cách giết nó – con quỷ đội lốt bà Amworth”.

“Vậy chắc ban đêm mới nguy hiểm phải không bác?”

“Chưa chắc” – Ông Francis lắc đầu trả lời – “Chỉ có những con ma cà rồng mượn xác người chết làm nơi trú ẩn mới không thể đứng dưới ánh sáng mặt trời, còn con quỷ này đang đội lốt một cơ thể sống mà”.

Suốt 24 tiếng đồng hồ, cả tôi và ông Francis đều túc trực bên giường bệnh nhân.

Ngày hôm sau là ngày thứ bảy, đường phố bắt đầu nhộn nhịp những chiếc xe chạy về Brighton. Trên đường quay trở qua nhà ông Francis, tôi cẩn thận trước những chiếc xe phóng bạt mạng. Đón tôi nơi cửa, ông Francis vui vẻ cho biết đứa trẻ đang trên đà hồi phục sức khỏe. Ngay lúc đó, tôi thấy bà Amworth xăm xăm đi về hướng chúng tôi.

“Xin chào” – Bà dài giọng khiêu khích – “Tôi nghe nói đứa trẻ khỏe lại rồi nên định đến thăm nó”.

Ông Francis nhìn bà một lát rồi nghiêm giọng nói “Không được! Rất tiếc, chúng tôi phải từ chối lời đề nghị của bà và bà cũng biết tại sao phải như vậy chứ?” Đoạn, ông giơ tay trước mặt làm dấu thánh giá.

Chưa bao giờ tôi thấy một khuôn mặt đáng sơ kinh khiếp đến như thế. Da tái xanh, hai mắt long lên sòng sọc, ngay lập tức bà Amworth quay đầu bỏ chạy khi nhìn thấy dấu thánh. Hấp tấp qua đường, một chiếc xe phóng nhanh hất bà lên không trung. Một tiếng thét hãi hùng vang lên rồi sau đó tắt lịm. Bà Amworth gục chết ngay trên đường.

Hôm sau, quan tài bà Amworth được chôn ở nghĩa trang bên ngoài làng Maxleỵ Cả làng đều tiếc thương cho bà, trừ tôi và ông Francis, những người hiểu biết toàn bộ câu chuyện. Tuy nhiên, có một điều tôi vẫn còn thắc mắc vì nét mặt ông Francis vẫn đăm chiêu ra chiều lo lắng chứ không phải vui mừng khi con quỷ hút máu người đã bị tiêu diệt. Tôi có hỏi nhưng ông lại lảng tránh không trả lời.

Ít lâu sau, tôi mới khám phá ra được sự lo lắng của ông Francis. Hôm đó, vào một đêm tháng mười một, tôi từ bàn tiệc đám cưới ở làng kế bên trở về nhà. Trăng rất sáng và lúc tôi đi ngang qua nhà trước kia là nơi trú ngụ của bà Amworth, tôi chợt nghe tiếng cửa đóng sầm lại. Tôi giật mình vì căn nhà này đã bỏ hoang không một ai dám đến ở cả. Ngay sau đó, tôi nhìn thấy một người phụ nữ. Máu từ trong người tôi như đông cứng lại. Vâng, người phụ nữ đó không ai khác ngoài bà Amworth. Hình như bà ta không phát hiện ra tôi, có lẽ nhờ những bụi cây to bên đường che kín. Sải bước vội vã, bà ta đến ngôi nhà đối diện và đi vào bên trong. Một lát sau, bà ta trở ra và đi mất.

Lập tức, tôi ghé ngay nhà ông Francis. “Có chuyện gì vậy?” – Ông ngạc nhiên nhìn khuôn mặt cắt không còn giọt máu của tôi.

Cẩn thận ngó trước ngó sau, tôi khóa trái cửa lại và nói “Bác không đoán được đâu”.

“Mụ ta trở về và cậu đã nhìn thấy phải không?”

Tôi ngạc nhiên nhìn ông Francis rồi thuật lại cho ông nghe chuyện khi nãy.

“Đó là nhà của ông Persall. Thôi ta đi đến đó!

“Nhưng để làm gì?”

“Tôi cũng không biết, nhưng có lẽ chúng ta phải đi”.

Ít phút sau, chúng tôi có mặt ở nhà ông Persall. Vừa lúc đó, cửa nhà ông ấy cũng bật mở và chủ nhà chạy ào ra. Thấy chúng tôi, ông nói “Tôi đi gọi bác sĩ Ross đây. Vợ tôi đột nhiên lại mắc một chứng bệnh kỳ lạ. Bà ấy đi ngủ trước tôi. Và đến lúc tôi lên giường thì đã thấy vợ mình trắng bệch như chết rồi và miệng luôn thở dốc”.

“Đợi một chút, ông Persall” – Ông Francis hỏi nhanh – “Ông có thấy dấu lạ nào trên cổ bà nhà không?”

“Ủa, sao mà ông lại biết? – Ông Persall tròn mắt ngạc nhiên – “Trên cổ có nhiều máu trào ra từ hai lỗ nhỏ, có thể là côn trùng cắn, tôi nghĩ thế”.

“Vậy bây giờ có ai bên cạnh bà ấy không?”

“Có, những người giúp việc”.

Nói xong ông ấy hối hả chạy đi. Quay sang tôi, ông Francis ra lệnh “Bây giờ, cậu hãy trở về nhà mặc ngay bộ đồ cũ, sau đó đợi tôi”.

“Rồi làm gì nữa?”

“Đến nghĩa trang”.

Khi ông ấy đến nhà tôi, trên tay cầm một cái cuốc, một cái xẻng và một cái tuốc nơ vít. Vừa đi ông vừa giải thích “Con ma cà rồng đội lốt bà Amworth lúc còn sống bây giờ lại dùng cơ thể chết của bà tạ Điều đó cũng là bình thường đối với bọn ma cà rồng. Nếu theo suy đoán của tôi, chúng ta sẽ tìm thấy xác bà ta vẫn còn nguyên vẹn!”

“Nhưng bà ta đã chết cách đây hơn hai tháng rồi, xác phải bị phân hủy chứ”.

“Hai tháng hay hai năm đều giống nhau cả. Mục đích chính của chúng ta bây giờ là tiêu diệt con quỷ khát máu người kia”.

“Vậy bước tiếp theo chúng ta sẽ làm gì?”

“Con ma cà rồng hiện giờ sẽ không còn ở trong xác của bà Amworth. Nó đang quanh quẩn đi tìm người để hút máu. Tuy nhiên, khi đến gần sáng thì nó sẽ phải trở về. Chúng ta chờ đến lúc đó sẽ quật mồ bà Amworth lên. Yên tâm, ban ngày, con quỷ đó không thể trốn được đâu. Sau đó, tôi sẽ dùng cái cuốc này bổ thẳng vào tim của xác chết. Cả bà Amworth và con ma cà rồng đó sẽ chết. Cuối cùng, chúng ta đặt xác bà ấy trở lại chỗ cũ. Lúc đó, bà ta mới chính thức yên giấc ngàn thu”.

Ánh trăng soi trên đầu sáng vằng vặc, soi đường cho chúng tôi đi. Đến nghĩa trang, sau khi tìm được chỗ núp, chúng tôi im lặng ngồi đợi con ma cà rồng. Hơn năm giờ sáng, xa xa phía chân trời đã có một vài tia nắng mặt trời. Bỗng ông Francis lay tôi. Bà Amworth đang quay trở về. Bước đi bà ta rất nhanh, gần như là lướt trên đường.

Đến bên mộ phần của mình, bà Amworth leo lên trên mộ, tự mỉm cười một mình. Tiếng cười nhỏ nhưng the thé, nghe hết sức kinh khiếp, làm tôi dựng tóc gáy cả lên. Hai tay giơ lên đầu, bà ta lắc lự Từ từ, đôi chân, thân người rồi cả cái đầu và đôi tay tuột dần xuống mộ! Đợi một chút cho trời sáng thêm, ông Francis khẽ hô “Lên!”.

Đất xung quanh ngôi mộ cũng không đến nỗi quá cứng nên chẳng mấy chốc chúng tôi đã đào đụng đến quan tài. Cỗ áo quan khá nặng nhưng cuối cùng chúng tôi cũng đã kéo được nó lên khỏi mặt đất. Với chiếc vít, ông Francis thoăn thoắt bẫy những mối đinh và bật nắp quan tài ra. Chúng tôi thận trọng nhìn vào bên trong. Đúng như lời dự đoán của ông Francis, xác bà Amworth không hề bị phân hủy, cứ như bà đang ngủ say một cách bình thường. Trên gương mặt bà Amworth, hai mắt vẫn mở to trừng trừng và cái miệng rộng đầy máu nhìn có vẻ như đang mỉm cười.

Ông Francis chụp lấy cái cuốc và hô to “Mày tiêu đời rồi!”. Lấy đà, ông vận sức cả hai tay bổ cuốc thật mạnh xuống tim của xác chết. Hai gò má bà Amworth mau chóng hóp sâu, lõm xuống. Làn da không còn hồng hào như lúc nãy, nó trắng bệch, nhăn nhúm, chuẩn bị như muốn rã ra.

“Tạ Ơn Chúa! Bây giờ tất cả đã được bình yên” – Ông Francis đưa tay làm dấu thánh.

Chúng tôi nhanh chóng đậy nắp quan tài và hạ xuống huyệt. Sau đó, lấp đất trả lại như vị trí ban đầu.

Khi hai chúng tôi quay về Maxley, trời đã sáng tỏ. Tiếng chim hót vang lên như chào đón một ngày mới tươi sáng bắt đầu./.

Hết