Ngày xưa ở đất Đồng cống, làng Hữu Thanh, tỉnh Thái Bình (Bắc Việt) có một người mõ tên là lão Đốp. Lão Đốp sinh được một con trai tên là Bé. Bé không được học hành, lên chín mười tuổi cả ngày chỉ vác mõ thay bố rao làng nước mỗi khi có tin tức gì cần loan báo và đi chia phần biếu cho các quan viên.

Bấy giờ có một cụ thượng, tên là cụ thượng Lê, giữ chức tiên chỉ trong làng. Cụ thượng Lê có một người con gái đẹp lắm tên là Ngọc. Không hiểu vì bé có cái tài gì mà cô Ngọc say mê rồi ốm tương tư, một hai nếu không lấy được con lão Đốp thì chết chớ không chịu sống.

Cụ thượng Lê thấy thế xấu hổ vô cùng vì con gái một vị thượng quan mà lại đi say mê một gã thường đinh mừ chữ. Đành phải chiều lòng con gái vì lúc ấy Ngọc ốm tương tư thập tử nhất sinh, cụ thượng Lê cho Ngọc lấy Bé nhưng đuổi con đi, nhất định không nhận con gái nữa.

Không nản chí, Ngọc đưa chồng đi vào Thanh Hóa tìm cụ thượng Phùng là bạn cụ thượng Lê để xin cho chồng theo học trường của cụ thượng Phùng. Tìm được trường của cụ thượng Phùng rồi, Ngọc xưng tên tuổi họ hàng và nói thác ra Bé là em trai vì học dốt nát và biếng lười nên cụ thượng Lê đuổi đi. Vì thương sót em, Ngọc phải bán tư trang, đưa em lặn ngòi non nước đưa em vào đây để xin thụ giáo.

Từ đó, Ngọc thắt lưng buộc bụng buôn bán lấy tiền cho Bé theo học cụ thượng Phùng. Bé ở luôn nhà cụ còn Ngọc thì dọn một quán nước ở riêng, một tháng đôi lần đến thăm Bé và đem lương cho chàng.

Sau đó ít lâu, Bé vỡ trí, học đâu nhớ đấy và chẳng mấy lúc nổi tiếng là thơ hay, phú giỏi, đứng đầu trường Bé học được thì ba năm, một hôm cụ thượng Phùng gọi Ngọc đến bảo rằng:

- Em cháu chắc khoa này đỗ đầu thiên hạ, vậy cháu phải về thưa ngay với bác làm tờ khai co em cháu đi học để kịp ngày thi.

- Bấy giờ Ngọc phải thú thực Bé là chồng mình. Nàng kể lại hết cả đầu đuôi câu chuyện từ khi gặp Bé rồi bố giận đuổi đi, bấy giờ sợ không dám về. Suy nghĩ một giây, cụ thượng Phùng bảo Ngọc về quán, để cụ tìm cách lo liệu cho Bé. Cụ viết một bức thư cho cụ thượng Lê kể lại từ khi Ngọc đưa Bé đến xin nhập học; cuối thư hết lời ca ngợi tính tình của Bé và quả quyết nếu Bé được đi thi kỳ này thì thế nào cũng đoạt được khôi giáp. Kèm với thư, cụ thượng Phùng lại gửi một ít văn bài của Bé để cho cụ thượng Lê coi.

Được thư cụ thượng Lê bèn vào Thanh tìm cụ thượng Phùng để xem việc thực hư ra thế nào. Cụ thượng Phùng cho gọi Bé vào hầu. Cụ thượng Lê hỏi câu nào Bé đối đáp chôi chảy, mạch lạc, làm cho cụ rất dỗi ngạc nhiên. Cụ thượng Lê ra cho Bé một đè tài bắt làm bài thơ đường, vịnh cái mõ. Bé cầm bút, quỳ xuống đất viết ngay:

Vì thiên hạ điếc đã lâu ngày,
Trời mới sinh ra chiếu mõ thầy.
Phép nước vang lừng ran cửa miệng,
Lệnh làng thét lẹt khét trong tay.
Việc quan thúc bách ba dùi đốp,
Lộc thánh gia ban mấy hộc đầy.
Lộc cốc tre già măng lại mọc,
Đầu đình chót vót bổng tầng mây.

Cụ thượng Lê xem xong chịu là hay và nói "Rõ là khẩu khí con lão Đốp". Rồi bảo rằng: "Ta không thể lấy họ Lê làm con rể; mầy là con lão Đốp thì ta đặt cho mầy họ Khiếu mà tên là Hữu Thanh".

Sau đó ít lâu cụ về làng bắt lý trưởng loại khai cho hạch thi.

Khoa thi hương năm ấy, Khiếu Hữu Thanh giật giải nguyên. Lúc xướng danh ban yến, cụ thượng Lê viết thư bảo Hữu Thanh về làng chơi, nhưng Hữu Thanh không chịu. Hữu Thanh về thẳng cụ thượng Phùng xin ở lại theo học nữa để chờ thi hội và thi đình.

Tới kỳ Xuân thủ luôn bốn phen thông ưu, Hữu Thanh đỗ hộ nguyện được vua Lê sắc từ "Đệ nhật giấy tiến sĩ cấp đệ đệ nhất danh". Lúc vào thượng uyển xem hoa, vua Lê ngỏ ý muốn gả công chúa Quỳnh Hoa cho Hữu Thanh. Hữu Thanh tâu lên rằng đã có vợ, không thể phụ nghĩa được. Vua khen ăn ở thủy chung.

Cụ thượng Hà, bạn của cụ Thượng Lê và cụ thượng Phùng cũng muốn gả con gái tên là Bích châu cho Hữu Thanh chàng cũng từ chối luôn. Vợ chàng là Ngọc nói:

- Chàng từ chối không lấy công chúa Quỳnh Hoa làm vợ là vì công chúa giầu sang, sinh đẹp hơn em. Còn như Bích Châu thì tài mạo cũng như em, đối với em lại là bạn từ tấm bé, sao chàng không lấy để cho em có bạn cùng gánh vác giang sơn cho chàng.

Được lời của Ngọc, Hữu Thanh mới bằng lòng.

Hữu Thanh từ đó được là Trạng Khiếu. Chàng làm quan liêm chính, chỉ sáu bảy năm thì lên được chức thượng thư, rồi tể tướng. Đến lúc cáo lão về làng, dân làng lập từ, nay là đền quan trạng Khiếu tại quê cũ. Về sau, nói về trạng Khiếu xuất thân làm mõ, người ta có câu thơ rằng:

Họ Khiếu vàng trời kêu tiếng mõ kêu !

Hết