Bốn người. Khi họ đến phía dưới tòa nhà thì đã quá nửa đêm. Đêm hè. Một cái nóng nặng nề và kết dính. Người trẻ nhất ba mươi sáu tuổi, anh tên là Thierry Carmona nhưng mọi người đều gọi anh là Titi. Anh là người dẫn đường. Anh ngước mắt lên nhìn cánh cửa sổ ở tầng ba và cũng là tầng cao nhất của tòa nhà. Một ánh sáng vàng rực len qua cửa chớp. Anh nhấn nút máy interphone.
Từ phía trên kia chị mở chốt cửa mà không cần hỏi đó là ai. Chị chờ anh. Anh không hẹn giờ. Anh chỉ nói là tối nay anh sẽ ghé qua cùng một vài thằng bạn. Đúng ra là ba. Điều ấy không thay đổi gì nhiều. Không, chị không quen biết gì họ. Không. Họ từ đảo Corse đến, họ đến đây nghỉ vài ngày, anh cho họ ở trong nhà. Bạn bè rất thân với nhau. Không vấn đề gì.
Chị mở toang cửa căn hộ rồi quay lại phía tủ lạnh. Chị cho đá vào một cái bát. Chị nghe tiếng họ đi lên. Tiếng bước chân của họ từ cầu thang, tiếng nói của họ vang vang, dễ nhận ra giọng nói của anh, một giọng nói lúc đầu thì nhỏ nhẹ nhưng sau đó ngân cao. Giọng của Titi là giọng chim hoàng yến. Nhưng người ta nhanh quen với giọng nói đó. Cái gì mà người ta chả quen.
Đó là một trong những tòa nhà cũ kỹ, chật hẹp nằm ở trung tâm thành phố, mới được cải tạo xong. Không có thang máy. Chị không quan tâm hàng xóm có thể nghĩ gì. Chị mở đĩa CD cũ của Shade. Đầu ngón tay chị bị cóng vì mân mê đá lạnh.
Họ dừng bước ở thềm nghỉ. Titi Carmona gõ vào cánh cửa đã mở. “Bọn anh đây”, anh nói.
Chị quay lại mỉm cười với anh. “Mời các anh vào.”.
Cả bốn người theo nhau ùa vào nhà. Trong tiếng cười của họ chị nhận ra một sự phấn khích và ngượng nghịu nào đó. Rồi sẽ qua thôi. Họ đã uống rồi, tất nhiên là như vậy. Chỉ uống đủ để thêm hứng khởi mà thôi. Chị lấy khăn lau tay rồi tiến tới tiếp họ.
Titi đặt một tay lên hông chị rồi hôn lên má. Anh ngửi thấy mùi muối biển. Anh giới thiệu. Antoine, Jean-Paul, Dominique. Chỉ là những cái tên không họ. Người nhiều tuổi nhất là bốn mươi tám, tóc màu xám, vóc người bằng chị. Bốn người đều mặc quần soóc lửng và đi dép. Chị cũng chỉ mặc một chiếc váy bằng vải mỏng, dải quai váy mềm mại bám hờ trên vai. Chị sợ nắng nên không phơi nắng bao giờ. Hè cũng như đông, da của chị trông như kem sữa. Đôi bàn chân trần của chị lún sâu trong lớp thảm. Màu sơn móng chân rất hợp với chiếc váy của chị. Chị đóng cửa lại rồi mời họ ngồi xuống.
Căn hộ nhỏ nhắn và êm ái. Sạch sẽ. Mọi thứ đều được đặt đúng chỗ. Có một phòng khách với một góc bếp, một phòng ngủ và một phòng tắm. Một chiếc đèn halogen được đặt ở góc phòng chính, ánh sáng lạnh lùng hướng lên trần nhà, trần nhà phản chiếu lại làm cho nó dịu đi. Đó là nguồn ánh sáng duy nhất. Bốn người đàn ông ngồi quanh một cái bàn thấp, hai người ngồi trên tràng kỷ, còn hai người kia ngồi trên ghế púp. Không gian được lấp đầy bằng sự hiện diện của họ. Chị đứng. Chị chỉ nhìn thoáng qua những gương mặt mới. Còn quá sớm.
Chị tiến lại gần chiếc thùng quý, một chiếc rương bằng gỗ được sơn lại màu vàng nghệ. Chị mở nắp thùng ra rồi nói một mạch không thở:
Chị thích làm thế. Tiếp theo đó là khoảng im lặng ngắn ngủi, ngạc nhiên và rồi mấy gã đàn ông trầm trồ, hớn hở. Người ta vỗ tay tán thưởng chị đến mấy lần. Titi biết mà cứ làm ra vẻ không để ý. Anh nhìn mấy người bạn, nhìn chị và có vẻ khá hãnh diện. Chiếc thùng tua tủa những cái cổ chai rỗng.
“Còn có nước cam nữa, chị nói, cho những ai thích.”.
Những đồ vặt vãnh kiểu này tạo nên một sự khác biệt rõ ràng.
Cô gái này thực sự quyến rũ. Chị rất xinh. Trông chị tử tế và hay hay.
Hoàn toàn khác với một con đĩ tầm thường. Mấy gã đàn ông vui lắm.
Chị dọn đồ uống mời khách. Chị đặt bát đá lạnh lên một cái bàn thấp.
Chị lấy ly của mình ở trên bồn rửa bát rồi tự pha một ly rượu gin trợ tim, đó là ly thứ ba trong tối hôm đó. Chị trở lại với họ, quỳ trên tấm thảm, trước cái bàn. Với một phong thái rất đỗi tự nhiên. Y như một con mèo lông vàng vậy.
“Xin mời”, Titi Carmona nói.
Họ đồng loạt tu một hơi.
“Thế đảo Corse trông thế nào?” Chị đặt ly xuống rồi hỏi.
Họ mất già nửa tiếng đồng hồ và hai vòng uống để giảm nhiệt. Chị đặt câu hỏi rồi nghe họ nói, mắt chị nhìn đăm đắm vào đôi mắt của người đang nói. Chị chăm chú lắng nghe. Chị nhen lửa, lửa bắt đầu bén trong người họ.
Lửa cháy bừng, mồ hôi nhỏ giọt dọc thái dương. Họ cảm thấy mỗi lúc mỗi dễ chịu hơn.
Họ giạng chân ra. Họ hay cười hơn, cười mỗi lúc mỗi to hơn và chị cười với họ. Thỉnh thoảng Titi Carmona nháy mắt với mấy người bạn ra ý muốn nói:
Thế nào, mình có phịa không nào?
Anh là người kiếm ra cô gái này.
Đá đã tan. Chị cầm bát rồi đứng dậy, lấy tay xoa những vết hồng trên đầu gối. Chị ra sau tủ lạnh rồi đổ nước còn thừa vào trong bồn rửa bát. Hai khay đầy đang chờ trong ngăn đá. Vấn đề tổ chức mà. Chị đi lại một lần nữa để đổ tàn thuốc lá nhưng không ngồi nữa. Chị đổi đĩa nhạc và tăng âm lượng cho giàn CD. Nhạc Cuba, kèn đồng và trống, chị bắt đầu uốn mình như một con rắn nhô cao.
“Chúng ta nhảy chứ?”. Chị nói.
“Ta nhảy đi”, Titi Carmona đáp lại.
Trong nhiều phút, chỉ có hai người họ nhảy, khi thì mặt đối mặt, khi thì anh quay quanh người chị hoặc ôm eo chị từ phía trước rồi từ phía sau, chị cứ để thế, hòa theo động tác, mềm dẻo và luôn duyên dáng. Cơ thể của họ sát sạt với nhau, đôi khi quyện vào nhau, và ngay cả trong những lúc đó, khi anh siết chặt hông chị rồi ép sát người chị vào mình, chị cũng vẫn có cảm giác rất thoải mái và tự do nhảy theo ý mình. Chị là người chủ động khiêu vũ. Không tài nào ép chị được.
Những người khác múa máy tại chỗ. Theo nhịp hoặc không theo nhịp.
Bỗng dưng họ trông có vẻ yếu ớt, yếu ớt như những đứa trẻ, cho dù tay họ có to, cổ của họ có yết hầu, chân mọc dày lông. Họ thôi không cười đùa nữa.
Họ không nói nữa. Tất cả những gì họ làm là không bỏ qua tí nào cảnh tượng đó. Trên gương mặt họ biểu lộ sự thán phục hoặc thanh thản. Dù thế, chị biết khi cần họ sẽ nhe răng nghiến lợi. Họ sẽ không rủ lòng thương. Ơn trời, chị không chờ những thứ ấy.
Họ tự rót rượu. Họ uống từng ngụm lớn. Ngay giữa vũ điệu salsa, Titi Carmona cởi áo sơmi. Anh mở từng cái cúc, bắt chước một vũ công thoát y hạng xoàng, rồi xoay chiếc áo trên đầu và vứt nó ra xa. Một người bạn bắt lấy cái áo và tiết mục này được vỗ tay tán thưởng theo thông lệ.
Chị cũng thấy nóng. Chị cũng toát mồ hôi và váy của chị dính vào da thịt, nhất là ở vùng thắt lưng, nơi mà đàn ông thích đặt tay hay áp má vào. Chị giữ tư thế. Chị để cho âm nhạc và nhịp điệu, để cho cái nóng và men say câu rút mình nhưng chị hoàn toàn nhận thức được mọi thứ. Rồi Titi Carmona quay sang mấy người bạn của mình. Anh vỗ tay.
“Ồ, các bạn, thế nào? Hết giờ ngủ trưa rồi! Nào! Đứng dậy cả đi!”.
Anh năn nỉ. Giọng chim sẻ của anh xuyên qua tiếng nhạc. Họ dốc cạn ly, dụi thuốc lá rồi đứng dậy. Chị thấy họ đi về phía mình, họ xốc người trong bước đầu tiên để lấy lại vẻ phấn khích. Họ không nói gì với chị cả. Theo bản năng họ đứng vây quanh chị, tạo thành một vòng tròn bằng thịt bằng da, rồi họ từ từ đặt dưới chân chị những lễ vật thô nhám, thể hiện sự sùng kính của mình. Mắt chị hé mở, một nụ cười e ấp nở trên môi. Chị cảm thấy dải đeo của váy mình tụt khỏi bờ vai nhưng không vì thế mà kéo lên.
Họ nhảy rất lâu. Vòng vây bắt đầu siết lại. Cánh đàn ông thỉnh thoảng rướn cổ thả ra những tiếng khàn khàn, những ngôn từ, những từ tượng thanh mà chị không cố tìm cách để hiểu nghĩa. Ở họ cái gì cũng trở nên sáng láng, gương mặt và ánh mắt của họ. Chị cố ban phát cho họ một cách công bằng.
Những lời hứa, những niềm hy vọng. Chị lẩn đi một lúc để mở lại đĩa nhạc, vẫn đĩa nhạc ấy vì điều đó không còn mấy quan trọng nữa. Họ giữ cho chỗ của chị luôn luôn ấm nóng.
Một lần nữa, Titi Carmona là người mở đường. Đúng lúc cao trào của bản độc tấu congas, chị quay lưng về phía anh, anh bước về phía trước hai bước, tay ôm vai chị và hôn nồng nàn lên bờ gáy trắng ngần của chị. Chị cảm thấy anh sắp cắn vào gáy mình. Một kẻ hút máu. Chị thoáng rùng mình rồi cứ để thế, chị ngửa cổ ra sau, mắt ngước lên trời, chắc để đoán chừng khoảng cách giữa anh và chị. Titi Carmona là một người thấp đậm, nửa thân trên lực lưỡng, và lúc đó ướt như ức của một con hải cẩu đang nhô lên mặt nước. Có mùi gì như mùi iốt. Anh kéo chị xoay người lại đối diện với mình rồi thắm thiết hôn lên môi chị. Khi buông chị ra, anh ra vẻ một chiến binh thắng trận. Những tưởng anh đã giật lưỡi của chị ra rồi ngoạm bằng hai hàm răng như một chiến lợi phẩm. Anh phá lên cười, mấy anh bạn cười theo. Bạn đồng hành của tôi, những người anh em của tôi. La noche es para todos! Đêm là dành cho tất cả mọi người!
Những nụ hôn, những nụ hôn, những cái cắn, những vuốt ve, mơn trớn. Những đôi chân nhớt nhát. Như đoán được trước, cái váy ngắn màu đỏ của chị nhanh chóng phơi ra dưới chân chị. Nổi lên trên làn da sữa của chị chỉ còn màu đỏ của cái quần con bé xíu bằng ren, những vết son đỏ trên môi, trên móng chân và những vết đỏ thâm thâm trên hai quầng vú. Những chi tiết.
Chị xoay, xoay người để cho tất cả mọi người cùng thưởng thức.
Titi Carmona đứng giữa vòng cùng chị và chị tiếp tục mớm cho anh từng tí chút. Những người khác thì chưa dám. Họ đã bao giờ tự nhiên được ban phát nhiều như vậy chưa? Họ rụt rè thâm nhập vào vũ đài và những cử chỉ của họ thường ngập ngừng. Chỉ vuốt nhẹ, chỉ đụng tay, cốt để tin vào điều đó, như để xem thử chị có nổ tung trước mặt mình như bong bóng xà phòng hay không. Một cách tự véo mình. Mỗi lần như thế, gương mặt họ rạng ngời một nụ cười hồn nhiên. Suy cho cùng, thật dễ để chiếm hữu lấy họ, về thể xác và tâm hồn.
Khi quỳ gối trước mặt Titi Carmona, khi kéo trượt cái khóa kéo của chiếc quần soóc lửng và khi chiếm lấy anh, chị giết họ. Họ không còn là họ nữa. Mệt nhoài. Họ sẽ không thể lại sức. Không bao giờ họ quên, cho dù cuộc đời của họ có dài lâu và sung túc (và cho dù nó có đáng nguyền rủa!). Tất cả những điều đó chị biết chắc như đinh đóng cột trong khi mà chính họ, họ chỉ lờ mờ loáng thoáng cảm nhận bằng trực giác.
Dù sao thì họ vẫn đứng như thế. Bướng bỉnh. Cố bám vào điệu nhảy, nếu có thể gọi như thế là nhảy. Những bước chân của họ quyện vào nhau, đầy ngẫu hứng và hoàn toàn lạc nhịp. Nếu nhạc có đột nhiên tắt ngúm thì họ cũng chẳng hay. Họ không rời mắt khỏi nữ thần đang quỳ gối, trong tim họ có sự giằng co giữa ham muốn và cơn điên, giữa nước mắt và niềm vui. Còn Titi Carmona thì đã khép mi mắt. Cơ thể uốn cong, bịt kín, hai quai hàm co lại, trong khi vẫn nén giữ niềm hân hoan. Rồi anh mở mi mắt ra và có một ánh mắt hoàn toàn khác. Anh vốc đầy tay một vạt tóc thưa đang rũ xuống ngang thắt lưng, nắm lại rồi để nó tuôn chảy giữa những ngón tay của mình. Chị đứng dậy. Ngoan ngoãn. Lại thêm những vết hồng hồng đang tan dần trên hai đầu gối. Không màng mặc quần áo vào, anh nhấc bổng chị lên, ôm chị vào lòng như người ta ôm một cô dâu trẻ đi qua ngưỡng cửa ngôi nhà mới.
Anh ngang nhiên quay lại trước mặt mọi người rồi bồng chị vào phòng bên cạnh, để cửa mở toang. Thế đó.
Sau đó, trong căn phòng này, anh chiêm ngưỡng chị từng nét một. Một kiểu ảnh chụp chớp nhoáng. Đó là điều đầu tiên chị nhớ lại mỗi lần chị cần.
Tại sao một số hình ảnh lại được lưu giữ và nổi trội đến vậy? Tại sao cứ hình ảnh này chứ không phải hình ảnh kia? Bí ẩn.
Chuyện đó xảy ra một lúc sau. Quanh chị là ba người. Họ có là mười, trăm, nghìn người cũng vậy thôi, đâu nhằm nhò gì, rốt cuộc họ cũng chỉ là một. Những gương mặt bị xóa nhòa. Những đường nét, màu sắc, vòng viền:
mờ, mờ, tất cả đều mờ. Tan biến. Không còn gì nhận ra họ nữa. Tổng thể có một độ nét nhất định nhưng họ chỉ là một thực thể duy nhất, một con người duy nhất được chia nhỏ, trong đó mỗi bộ phận sẽ được chi phối bởi những dòng chảy như nhau, sẽ hướng đến một mục đích duy nhất.
Họ trần truồng như nhộng. Một người nằm dài phía dưới chị, chị cưỡi ngược trên người anh ta. Hai người khác đứng hai bên chị. Hai tay chị nắm lấy hai người trong lòng tay. Sao mà dễ dàng thế. Nếu quan sát kỹ hơn, có thể nói là họ đang mệt. Nếu không là vì nhìn vào thú vui khiến cho họ sợ.
Còn chị, chị vẫn luôn mỉm cười. Các bạn có biết chị đẹp nhường nào trong những khoảnh khắc đó không? Không, các bạn không biết đâu. Chị tuyệt vời. Chị có cảm giác kiến bò ở bụng. Chị tạo ra thanh và nhịp. Vào giờ khắc này chị đang ở đó và chị đang sống.
Hình ảnh mà chị nhớ đến là như vậy đó. Nhưng chuyện đó diễn ra một ít lâu sau, như đã nói.
Ban đầu họ thay nhau ôm lấy chị. Titi Carmona đầu tiên, địa vị nào thì danh dự nấy. Gian phòng chỉ một tấm thảm rộng trải xuống đất, được lót kín bằng những tấm ga màu trắng. Những bức tường và trần nhà cũng trắng tinh dưới ánh sáng sống sượng của một bóng đèn trần mà chị đã bật lên khi đi qua. Chị muốn thế. Muốn nhìn thấy tất cả và không gì là đáng khinh ở đó cả.
Không chút bóng mờ trên bích họa. Cái lãng mạn có ra sao thì mặc kệ. Cái lãng mạn nằm gọn trong một cái giỏ bằng liễu nhỏ nhắn và tinh tế, đặt ở trên vải thảm, đầu tấm nệm. Nó đầy những bao cao su, vỏ của chúng óng ánh. Kẹo bánh cũng nhiều như thế. Những cánh hoa cũng nhiều như thế, những cánh hoa như mưa rơi trong đêm tân hôn mỹ mãn. Chị biết sở thích của Titi Carmona và cố gắng làm cho anh hạnh phúc. Ba người khác mon men đến gần cánh cửa đang mở. Giờ thì họ đã đứng trong cạp thảm, trông như những người theo hầu đang ngó trộm ông chủ của mình nô giỡn. Họ cứ cử động như thế để không bối rối nhưng họ cứ giậm chân tại chỗ, họ có chân đứng chân nhón như vậy thì cũng không nói lên bất cứ điều gì, ngoại trừ sự gấp gáp.
Chị thì chị cứ thong dong.
Biểu diễn. Chị vừa làm dáng vừa liếc mắt nhìn họ. Chị thấy họ đỏ mặt tía tai và tái mặt đi, chị thấy xương hàm của họ nhô lên và trán họ toát mồ hôi. Họ chờ ở cửa, ngoan ngoãn, cháy bỏng. Và lo lắng nữa. Khi sự lo lắng đó gần nổ tung thì chị trấn an họ, bằng một cái nhìn thẳng, ý nói:
hãy kiên nhẫn. Ý nói:
Các anh sẽ không sợ phải hưởng đồ thừa đâu. Các anh cũng sẽ có phần chất và thời lượng. Ai cũng sẽ có phần như nhau. Hãy kiên nhẫn.
Họ tin chị.
Một lúc sau, người nhiều tuổi nhất trong họ tên là Antoine ngả mình xuống tràng kỷ. Anh sẽ không động đậy gì nữa cho đến giờ phút cuối. Hoặc là vì ann không thể, hoặc là vì anh không muốn. Hình như anh đang chiếm hữu một cô gái cùng tuổi chị trên hòn đảo của riêng mình. Một con bé đáng yêu. Tóc màu nâu nhạt như tóc chị. Da cũng trắng như da của chị.
Những người khác chỉ có vợ danh chính ngôn thuận mà thôi, họ đứng trước cửa, nôn nóng chờ đến lượt mình.
Rồi đến lượt họ. Một, rồi một, rồi thêm một nữa. Họ thay nhau. Họ vào trong phòng, gồng người lên, phập phồng nhựa sống và lòng kiêu hãnh. Họ giật tung quần áo ra. Họ ra vẻ dữ tợn. Họ mím môi để khỏi nhỏ dãi. Những bàn tay to lớn của họ vọc vào cái giỏ bằng liễu mong manh, xé bao bằng hai hàm răng rồi hú họa nhổ mảnh vỏ bao. Em sẽ thấy, hình như họ muốn nói, rồi em sẽ thấy ... Họ nhảy xổ vào chị. Những con quỷ con tội nghiệp, biết bao từ ngữ để chỉ địa ngục? Chị nô giỡn với tất cả những sắc thái tinh tế của nụ cười và ánh mắt, và đó như là những vũ khí duy nhất mà chị sở hữu, lúc này chị nằm dài dưới ánh điện sáng trưng, trần truồng và trắng trẻo biết bao trên những tấm ga màu trắng. Sự trong trắng đấy, phải không nào? Sự trong trắng được bộc lộ. Chị thỏa hiệp với tất cả sự tài tình của mình. Chị là con cái bị hút hồn, bị chinh phục, bị thuần hóa, một con cái khêu gợi. Nhưng không quá đâu. Vừa đủ. Chưa khi nào trong cái nhìn trực diện vẻ thách thức của chị hay bất cứ cái gì đã có thể khiến cho họ thất vọng. Thế nên khi nào họ cũng nghĩ là mình còn cơ hội. Chị hơi cường điệu những tiếng ran, tiếng rên của chị.
Thỉnh thoảng chị nén lại. Vì những anh chàng này đẩy mạnh quá. Chị có năng khiếu làm cho họ lớn lên. Dù chỉ vì điều đó mà họ không từ bỏ ngay được.
Họ có lợi thế đông người. Họ nhường lượt cho nhau. Họ chờ ở cửa phòng. Người đi vào đã quên hết chút ít những gì đã học. Nên mới có một sự ngây thơ nào đó, một cái gì đó như là sự trắng trong, cái phần thanh cao mà chị thưởng thức bằng cách để cho nó tan ra dưới lưỡi. Người đi ra thì ngược lại, anh ngờ rằng họ không bao giờ đi đến tận cùng. Anh cố dẹp ý nghĩ đó vào chỗ tăm tối nhất trong khối óc của mình. Ít nhất cho đến bến đậu tới.
Những gì anh cần, anh nghĩ bụng, đó là vài phút nghỉ ngơi và ít nhiên liệu nạp thêm cho cỗ máy. Rốt cuộc anh cũng tin chắc điều đó. Anh không mặc quần áo vào. Anh giữ nguyên tư thế trên ghế púp hoặc trên tràng kỷ, phần sau cặp giò dính bết vào tấm vải còn cục thịt nhỏ nhắn trơ ra lòng thòng, bóng láng giữa một đám lông rậm rịt, thỉnh thoảng từ đó nhỏ xuống giọt nước mắt cuối cùng, giọt nước mắt bằng một thứ cồn ngọt kỳ diệu. Nhưng biết tin ai đây? Tin vào cái gì đây? Người đàn ông lấy hơi rồi lấy rượu băng bó những vết thương của mình. Cũng ngần ấy độ phục tùng.
Nhạc đã tắt nhưng không ai nghĩ đến việc mở lại. Chỉ còn âm thanh của những cơ thể và những âm thanh khác đệm vào. Vài tiếng ly chạm nhau lách cách. Chẳng mấy lời trao qua đổi lại. Vào một lúc nào đó, Titi Carmona lại gần ông bố đang co ro trên tràng kỷ, anh hất đầu vẻ như dò hỏi. Câu trả lời của người kia vỏn vẹn chỉ là một cử chỉ bằng tay mơ hồ và lỏng lẻo.
Titi Carmona lại hất đầu, lần này là cho chính mình. Hai người, rồi ba người cùng nhập cuộc.
Họ thèm được đánh bại chị. Họ thèm được đấm mạnh vào người chị, nhưng chị luôn nắm bắt kịp thời ánh mắt đăm đắm của họ và dập tắt nó ngay theo cách của mình. Nghệ thuật đánh đắm chính mình, chạm vào đáy rồi đột ngột ưỡn người ngoi lên. Họ thèm được trốn vào vòng tay của chị mà khóc. Họ không làm gì cả. Phải thú nhận là họ hoàn thành vai trò của mình một cách quả cảm. Chiến đấu đến bình minh và còn hơn thế nữa. Một bữa tiệc thật là xa hoa, một cuộc chiến thật là tuyệt diệu! Bụi bay phấp phới trong ánh vàng đầu tiên rọi nghiêng qua phòng khách, khi đó họ mới nhận ra sự thất bại, sự nhỏ nhoi của chính mình. Khi đó họ mới chấp nhận như thế. Thế là họ lặng lẽ mặc quần áo vào, không vội vàng, hấp tấp, tất cả đều mặc quần áo vào trong một gian phòng trong khi mà chị vẫn nằm dài trên tấm đệm, mi mắt hé mở, hai con ngươi đảo ngược đảo xuôi trong tròng mắt như những trái tim nhỏ xíu của chim non. Chị không muốn bỏ lỡ cảnh giã biệt tí nào. Người đàn ông có tên là Dominique, trán dài, đỉnh đầu hói như tu sĩ, phẩy tay bằng ngón cái và ngón trỏ. Ta có trả tiền không? Câu hỏi ngầm dành cho Titi Carmona. Anh lắc đầu ra hiệu không. Thôi, được rồi, đâu đã vào đấy. Dominique không cố nài thêm nữa.
Họ phải xốc ông Antoine dậy và dìu ông đi với bước đi loạng choạng. Họ ra về không lấy gì làm vinh quang, không quay lại mà chỉ lí nhí một câu chào tạm biệt, lòng biết rõ là sẽ không bao giờ gặp lại chị nữa. Chỉ có Titi Carmona là chịu khó bước lại cửa phòng. Anh dựa người vào khung cửa. Anh liếc mắt nhìn những bao cao su nhăn nheo vương vãi trên sàn nhà. Rồi anh quay lại với mấy ông bạn, nhẹ nhàng khép cửa sau lưng.
Họ đi rồi, chị mở mắt một lúc. Rồi chị cũng nhắm mắt lại.
Anh mà đòi yêu em à, chị nghĩ bụng, anh mà đòi làm cho em thỏa mãn à ...
Trời cao đem lại sắc màu cho biển rộng. Và cả đáy biển nữa, trong một phạm vi nhỏ hơn. Có những cái ở trên và có những cái ở dưới. Ở giữa biển và trời, không có biển và trời, màu sắc chỉ là một dải trong suốt mênh mông. Vô hình. Nước. Ta nhấn chìm ánh mắt xuống nước, ánh mắt lại nhìn nghiêng. Không gì ngăn giữ nó.
Có thể cũng như thế đối với một số người.
Đúng thế, nhưng mà ai vớt vào lòng mình những kẻ đắm tàu? Ai ngoan cố làm cho hao mòn những hốc đá cứng nhất và những nỗi sầu xưa cũ nhất mà con tim đã đeo mang?
Huyền thoại nào cũng nói ra điều đó.
Tôi còn nhớ chính xác ngày mà hắn tái xuất. Đó là ngày 24 tháng Mười hai, hôm trước lễ Giáng sinh. Một ngày dễ nhớ. Lúc đó là mười giờ sáng. Một ngày ảm đạm, mây thấp là chà, chực đổ mưa. Trời đã mưa vào sáng hôm đó và giờ còn có thể mưa nữa. Tôi đã tận dụng thời gian nghỉ ngơi này để đi dạo một vòng hóng gió với bọn trẻ. Chúng đi ủng và K-way là những bộ quần áo mà chúng thích nhất khi đi chơi. Còn tôi thì quần bò và giày bátkét. Chúng tôi đi đến tận cùng bãi biển. Hoang vu. Bọn trẻ chiếm lấy khu vực này cho riêng mình. Trò chơi chúng khoái nhất là nhảy lên những đống tảo ướt át.
Lúc đầu tôi có la lên lấy lệ, sau đó tôi để mặc chúng. Ở tuổi chúng tôi cũng đã từng làm thế.
Tôi luôn yêu bãi biển vào mùa đông.
Trong chốc lát tôi ngắm nhìn đám chim lượn bên bờ biển:
mòng biển, cu gáy, bồ câu. Chúng nhởn nhơ, con nào cũng dò tìm những gì mà sóng biển đã xô vào bờ sau cơn bão. Những cái khay vét thức ăn rơi vãi, âu dọn bùn. Trên cát ướt, dấu chân của chúng quyện lẫn vào nhau.
Cũng có vài dấu chân chó.
Sau đó tôi lại ngồi trên một ụ đất. Quay lưng với biển khơi. Mùa này các quán cà phê và các nhà hàng đều đóng cửa. Trừ quán Neptune ra. Đó là quán bar duy nhất trong khu phố mở cửa quanh năm. Tôi thường đến đó.
Thềm quán nào cũng vắng bóng người, chỉ còn những mái che bằng kim loại và những vạt phên bị gió lốc quật xuống. Trong mắt một khách lạ, đó có thể là một bức tranh hoang tàn. Còn trong mắt tôi thì không.
Tôi đứng đó chừng mười phút thì gặp hắn. Và nhận ra ngay. Hắn từ một góc quán Neptune đi ra, cách chỗ tôi năm mươi mét. Bóng người cao, đen trong cảnh âm u. Một vẻ lịch thiệp khác thường. Tôi thường nhớ tới hắn như nhớ tới một chàng Don Quichotte thời trẻ. Nếu như đó chỉ là một chàng hiệp sĩ có nhiều khát vọng cao thượng.
Không tia nắng nào đâm thủng tầng mây vào giờ khắc đó. Thời gian không đứng yên một chỗ, bọn trẻ tiếp tục nô đùa trên bãi biển. Nhưng tôi biết có gì đó đã thay đổi. Hắn đã không để ý thấy tôi. Ít nhất là tôi không tin như thế. Hắn đi về phía cửa quán. Ý nghĩ đầu tiên nảy ra trong đầu tôi, đó là hắn đang tìm tôi. Tôi cao ngạo mà. Lúc hắn bước qua cửa quán vài bước, tôi cầu trời khấn phật để hắn không biết tôi đang ở đó, rồi tôi lại cầu trời khấn phật để hắn nhìn thấy tôi.
Có thể hắn đã bắt gặp bóng tôi trên cửa kính quán bar, hắn đặt tay lên nắm đấm cửa rồi dừng bước, quay lại. Chúng tôi nhìn nhau chăm chăm một lúc như thế, từ xa. Đúng lúc đó, vâng, tim tôi như ngừng đập, trong tai tôi có tiếng ầm ì mà tôi chắc là không phải tiếng sóng vỗ.
Hắn thả nắm đấm cửa rồi đi về phía tôi.
Tôi không đứng dậy. Tôi không động đậy. Tôi để hắn đến.
Hắn đã không biến khỏi đời tôi, mà ngược lại. Sự vắng bóng của hắn chỉ là sự vắng bóng về hình hài, thể chất. Từ chín năm nay hắn đã ra đi, tôi có thể đếm được những ngày mà tôi không nghĩ đến hắn. Và tôi sợ điều này nhất:
ngày hắn trở về.
Hắn dừng chân trước mặt tôi và chúng tôi tiếp tục lặng lẽ nhìn nhau chằm chằm. Chúng tôi không thể ôm hôn nhau, cũng không thể bắt tay nhau.
Chúng tôi không thế. Không, sau quãng thời gian như thế. Chúng tôi không thể choàng tay ôm chầm lấy nhau và vỗ vỗ vào lưng nhau. Hắn là người mở lời đầu tiên.
– Chào Mathieu, hắn nói.
Hắn cười hiền lành, tôi thấy hắn thật hiền lành, gần như nhún nhường nữa là khác. Không giống hắn của mọi khi. Còn tôi lại thấy hắn không thay đổi.
Có chăng thì có lẽ là gương mặt hắn hơi hốc hác hơn, vết sẹo nhỏ dưới lông mày trông có vẻ rõ hơn. Thế thôi. Còn tôi, mấy năm gần đây tôi đã tăng khoảng mười ký và từ vài tháng nay sáu ngày tôi mới cạo râu một lần. Mặc một chiếc quần bò cũ kỹ và đi giày bátkét, tôi biết rõ mình có dáng vẻ như thế nào:
trông tôi như một gã đàn ông tầm thường. Thế thôi. Ý thích nếm nỗi đau xưa cũ trỗi dậy trong tôi không cưỡng lại được. Thật xấu hổ cho tôi.
Tôi cố giấu tất cả những điều ấy bằng cách bắt chước giọng hắn.
– Chào Ariel, tôi nói.
Hắn ngước mặt nhìn trời.
– Thời tiết như thế này chắc cậu thích lắm phải không?
Tôi gật đầu và cũng mỉm cười, nhưng không được chân thành cho lắm.
Lại im lặng. Chỉ có tiếng sóng dồi và tiếng chim mòng biển kêu lên ngượng nghịu. Rồi tôi đặt một câu hỏi mà bất cứ con người tầm thường nào cũng đặt ra trong tình thế đó.
– Thế nào, tôi hỏi, cậu thế nào rồi?
Nghèo nàn. Nghèo nàn về trí tuệ và ngôn từ. Tôi những muốn cắn lưỡi mà chết đi cho rồi. Tôi phải cố gắng lắm mới không cụp mắt xuống. Nếu như hắn cảm thấy thương hại tôi thì hắn đã không biểu lộ điều gì hết. Cảm ơn, người anh em. Hắn khẽ hít hà rồi trả lời câu hỏi của tôi một cách cực kỳ nghiêm trang.
Anh, Thụy Điển, Đan Mạch, Ý. Từ hai năm nay mình dừng chân ở Tây Ban Nha. Ở Costa Del Sol. Mình đã mở một công ty ở đó. Công ty mình sản xuất linh kiện máy vi tính. Đúng là làm ăn khá ổn. Mình có năm mươi nhân viên. Chính xác là bốn mươi chín. Tây Ban Nha là một đất nước đẹp. Một đất nước đầy hứa hẹn.
Tôi tưởng tượng mình đang lắc đầu nguầy nguậy như một thằng đần trong khi hắn nói. Bị chế ngự. Khi nhận ra hắn đã nói xong tôi trộm nghĩ:
“Hắn đang nói gì vậy?”. Tôi chờ đợi bất cứ câu trả lời nào khác chứ không phải câu ấy. Những “linh kiện máy vi tính” ... Mẹ kiếp! Có đúng là hắn đó không, Ariel Weiss? Chàng Don Quichotte lao mình vào công nghệ cao!
Hay là hắn không đếm xỉa gì đến tôi. Tôi nhìn chăm chăm vào mặt hắn và biết là không thể tin những gì hắn nói. Tất cả những gì tôi nói được, đó là:
– Mình không biết Tây Ban Nha.
Tôi xoa tay phía trên đùi. Hai bàn tay tôi nhớt nhát mồ hôi. Có một câu hỏi thứ hai tầm thường hơn chực thoát ra từ miệng tôi - “Cậu làm gì ở đây?”.
– Tôi không chắc là mình có thể giữ mồm giữ miệng được, may mà một trong hai đứa con của tôi kêu lên một tiếng khi đang chơi khiến tôi quay lại. Ariel nhìn theo hướng tôi nhìn. Khi tôi quay lại, hắn hỏi tôi:
– Con cậu đấy à?
Tôi gật đầu.
– Con mình và Florence đấy, tôi nói.
Tôi xem phản ứng của hắn ra sao. Hắn chỉ khẽ nhíu mày. Có vẻ như hắn đã biết. Hắn mỉm cười như lúc đầu, rồi nói:
– Tốt ...
Hắn không hỏi tuổi chúng, cũng không hỏi tên chúng. Tôi thích thế hơn.
Hắn cũng không nhờ tôi chuyển lời chào đến Flo. Tôi những muốn lúc đó mưa rào bất chợt đổ xuống. Tôi những muốn đứng dậy và ra đi, vô tư lự, chào hắn như chào một người quen trong khu phố.
Nhưng chính hắn lại là người giã biệt tôi. Ariel Weiss biết những sở thích và bí mật của mày mà, mày quên rồi sao?
– Mình phải đi đây, hắn nói. Mình có bao nhiêu việc phải làm từ giờ cho đến tối. Mình muộn mất rồi.
– Tất nhiên rồi, tôi nói, tất nhiên rồi.
Một doanh nhân thì có lắm việc phải làm. Không thể khác được. Không cần thêm gì nữa, hình như thế. Không có “Chúc mừng Giáng sinh”, không có “hẹn gặp lại”. Trước khi đi hắn chỉ có một cử chỉ khốn nạn là đưa tay khẽ ra hiệu chào. Tôi thực sự tin, vào lúc đó, thời gian và khoảng cách đã đào giữa hai chúng tôi một vực thẳm không thể vượt qua. Tôi những tưởng là câu chuyện đã vĩnh viễn chuyển qua trang khác, tôi cứ nghĩ đó là điều tốt nhất có thể xảy ra.
Thế sao đột nhiên nỗi buồn lại mênh mông khôn tả?
Tôi nhìn hắn xa dần như nhìn một con voi già lặng lẽ ra đi, để chết. Con voi đã từng là loài vật vĩ đại nhất, mạnh mẽ nhất, đã từng một mình tàn phá hết rừng xanh. Đã từng giật những chùm quả ở tít trên cao để nuôi sống tất cả chúng ta.
Ariel.
Hắn vào quán bar và cánh cửa khép lại đằng sau một bóng đen mảnh khảnh.
Ariel Weiss và tất cả những gì tôi đã từng biết về hắn.
Và tất cả những gì hắn còn lại trong tôi. Không có con người này, có lẽ tôi đã không bao giờ gặp em. Thậm chí, tôi đã nghĩ, nhờ hắn mà tôi có những đứa con của mình.
Đúng là vì thế mà tôi đã khóc. Một vết nhơ tội nghiệp. Thật xấu hổ cho tôi một lần nữa. Tôi thở phào một cái.
Trong lòng tôi dằn vặt không yên. Trong đầu mày thế đấy, mày ạ. Trong đầu mày chỉ nghĩ tới điều đó.
Cuộc hội ngộ của chúng tôi chỉ kéo dài non ba phút. Tôi đứng như trời trồng nửa tiếng đồng hồ nữa, tôi đã không để ý thấy hắn ra đi. Rồi sấm sét rền rĩ trên đầu và mưa rào ào ào kéo đến. Tôi kêu bọn trẻ lại rồi chúng tôi đi như chạy trên con đường dọc theo bãi biển. Khi qua quán Neptune, tôi cố ý không ngoái đầu lại. Tôi nghĩ có thể hắn đang dõi theo tôi, đang nhìn chúng tôi qua cửa kính nhạt nhòa.
Mưa đã đem lại cho tôi điều tốt lành.
Chúng tôi về đến nơi thì người ướt như chuột lột. Bốt và quần bọn trẻ còn dính đầy rong nâu như băng dính. Trông vừa thảm hại vừa buồn cười.
– Nhìn mấy bố con kìa ... Florence thở dài khi trông thấy chúng tôi.
Nụ cười nở trên môi. Lạy Chúa, em đẹp quá. Chúng tôi cởi quần áo ra và lấy khăn kì cọ cho nhau. Bọn trẻ cười nói râm ran. Tất cả những điều đó nói lên một cảnh sinh hoạt gia đình hoàn hảo. Thậm chí đó là hình ảnh của sự hài hòa và hạnh phúc. Những kẻ yêu nhau. Và mỗi lần như vậy tôi không thể không tin như thế. Thế là tôi tìm mắt Florence và hy vọng tìm thấy trong đó sự đồng cảm. Nếu tôi đã học hỏi được cái gì đó, thì đó là nhận ra những bóng tối bao trùm trong đáy mắt Florence. Đầu tiên, tôi định giữ nguyên chuyện đó cho riêng mình. Tôi tự nhủ nếu Ariel không xuất hiện nữa thì Florence sẽ không bao giờ biết gì về việc chúng tôi gặp nhau. Dối bằng cách giả vờ quên. Tôi sẵn sàng làm tất cả để bảo vệ gia đình:
Florence, tôi và con chúng tôi, để gìn giữ những gì đã phải trả giá rất đắt mới đạt được, những gì mà tôi biết rất mong manh, dễ vỡ. Để làm gì? Tôi tự nhủ. Em biết hay không thì sẽ thay đổi được gì chứ? Thay đổi tất cả, tất nhiên rồi. Điều đó có thể thay đổi tất cả. Nhưng im lặng nói dối cũng không phải là giải pháp. Như thế nghĩa là lùi bước. Như thế là chấp nhận tôi không đủ sức để đấu tranh.
Là tôi không đủ trọng lượng. Cả khối tình của tôi không nặng bằng mây bằng gió. Im lặng, nói dối, đó là vĩnh viễn chấp nhận bóng tối bao trùm.
Người ta bảo là chừng nào chưa tìm ra thi hài của người thân thì chừng ấy chưa tổ chức tang lễ. Hơn cả một bóng ma, đưa về cho em một xác chết đã chết thực sự còn dễ hơn.
Chúc mừng Giáng sinh, em yêu!
Tôi nhâm nhi những lý lẽ này cho đến tối.
Tôi muốn đưa ra quyết định trước ngày hôm sau.
Tôi đã chuẩn bị những gì cần nói, tôi đã cân nhắc từng lời. Những câu nói đó nhiều lần lấp lửng trên môi, chỉ chực thoát ra. Tôi nuốt hết những gì mình định nói khi thấy cái bụng của Florence. Bụng của Florence tròn đầy. Đó cũng là một lý lẽ có trọng lượng trên bàn cân. Florence đang mang thai đứa con thứ ba của chúng tôi. Cái thai bảy tháng. Biến cố nào có thể gây một cú sốc quá nặng cho cái thai của Florence? Trong một khoảnh khắc đầy lo sợ, tôi thấy một em bé chui ra với cái mồm của Ariel Weiss. Mới sinh ra đã phải mang dấu ấn của tai họa. Tầm bậy.
Suốt ngày hôm đó trời đổ mưa từng cơn. Chúng tôi không ra ngoài nữa nhưng bọn trẻ đã chơi ngoan hơn. Cây thông, nhà trẻ. Những khâu chuẩn bị cuối cùng. Vẫn là cảm giác hạnh phúc đơn sơ và thanh thản đó. Một cái gì đó cực kỳ quý báu đối với tôi. Khốn nỗi, những uẩn khúc trong những góc sâu kín nhất của khối óc khiến tôi không thể vô tư hòa mình trọn vẹn trong đó.
Tôi nhìn thấy điều đó từ bên ngoài và niềm vui riêng của tôi, lễ hội nhỏ nhưng rất riêng của tôi đang phần nào bị hư hao. Dù chỉ vì điều này mà tôi giận Ariel đã xuất hiện trở lại đúng ngày hôm đó. Tôi khó mà tin vào sự tình cờ.
Cả bốn người cùng xúm lại chuẩn bị cho đêm Giáng sinh. Cây thông nhấp nháy trong một góc phòng. Florence đã thắp nến khắp nhà. Tôi cố xua đi ý nghĩ rằng đó giống như cảnh túc trực bên người chết. Tôi tập trung nhìn vào những gương mặt người thân. Gương mặt của Florence, của Étienne hiền triết, của Mattéo, của Mat-au-Marteau, ông vua việc vặt. Ba kiệt tác của tôi. Ba ngôi sao trên bầu trời đen tối của tôi. Ánh đèn dịu dịu phản chiếu lên làn da của chúng như bảo quản một ngọn lửa, mắt chúng sáng ngời. Tôi mong sao cảnh đó không bao giờ kết thúc.
Nhưng ai mà biết được những lời cầu nguyện của chúng ta thường mất hút về đâu?
Chúng tôi cho bọn trẻ đi ngủ lúc mười một giờ, khi chúng bắt đầu thấm mệt và phấn khích. Trước giờ giao thừa chúng vẫn chưa ngủ. Tôi ép Florence ngồi trên tràng kỷ trong khi tôi dọn dẹp. Dọn dẹp xong, tôi đứng ở cửa bếp nhìn Florence một lúc. Em ngồi thẳng, bất động như một bức tượng.
Mắt em chăm chú nhìn về phía cây thông. Em nhìn không chớp mắt. Tôi sợ em lơ đễnh lắm, thỉnh thoảng em vẫn như thế. Tôi những mong được biết lúc ấy em đang nghĩ đến điều gì.
Tôi lại ngồi bên cạnh em.
– Em khỏe chứ? Tôi hỏi.
– Em khỏe.
– Còn nó? Tôi hỏi, tay đặt lên bụng em. Florence nhìn xuống.
– Nó à, nó xoay ngược đảo xuôi. Nó thúc nó đẩy. Em nghĩ là nó đang tìm cách chui ra.
Chúng tôi đã biết đó sẽ là đứa con trai thứ ba.
Và như thế rất đúng với mong muốn của chúng tôi.
– Cần có không gian mà, - tôi nói - Bình thường thôi. Hãy kiên nhẫn.
– Kiên nhẫn ... Florence thì thầm.
Tôi vuốt ve những sợi tóc vương trên thái dương em. Tôi để ý thấy khu chung cư rất yên tĩnh, cho dù đó là ngày lễ. Một số đêm, từ đây, người ta có thể nghe thấy tiếng sóng biển rầm rì. Tôi muốn nói với em là tôi yêu em nhưng tôi đã không nói. Một lúc sau, tôi đứng dậy, ra vẻ bận tâm rồi nói:
– Anh có cảm giác chúng mình đang thiếu cái gì đó.
Em ngẩng đầu. Đôi lông mày mỏng manh chau lại và ngay lập tức, trong mắt em lộ ra một sự lo lắng nào đó làm tôi đau lòng. Tôi mỉm cười.
– Một vài món quà chẳng hạn? Tôi nói.
Mathieu láu lỉnh. Tính tình vui vẻ. Một người chồng và người cha lý tưởng. Tôi tặng hoa, tôi tặng cho em hàng trăm, hàng nghìn bó hoa, tôi tự nhủ chí ít em sẽ nhớ mãi mùi hương của chúng.
Mặt em tươi tỉnh hơn. Nụ cười của em vẫn còn hơi uể oải nhưng em chìa tay cho tôi. Tôi cầm lấy tay em. Tôi nhẹ nhàng ôm em vào lòng rồi hôn lên môi em. Rồi tôi nói:
– Anh đi đây.
Tôi vơ chùm chìa khóa ôtô đút vào túi quần trống rỗng rồi đi ra. Những gói quà đó nằm trong nhà kho ở phía dưới tòa nhà. Tôi phải đi lên đi xuống ba lần mới đưa lên hết những thứ đó. Ngoài trời, mưa vẫn rơi lác đác. Trước khi đưa đồ lên lần cuối, tôi đi tới chiếc xe hơi đậu ở bãi xe. Tôi đang mở cửa xe thì nghe tiếng sỏi xào xạo sau lưng. Tôi quay lại. Tôi chẳng thấy gì cả.
Đêm tối dày đặc, không trăng. Tôi chờ một lúc nhưng không có gì động đậy cả. Rồi tôi cúi xuống hộp đựng găng tay, tôi lấy một cái hộp, một cái hộp nhỏ xíu rồi đút vào túi quần.
Tôi đóng cửa xe rồi đi về. Lần thứ hai, tôi lại nghe một tiếng động sau lưng.
Tiếng chân người bước trên sỏi. Tôi nín thở và nhìn chăm chú hơn vào bóng đêm. Không có gì. Tôi không thể không nghĩ đến hắn. Tôi có sợ đâu, chẳng qua là do cơn giận dữ sưng phồng. Tôi nghiến răng nghiến lợi thách thức với bóng đêm bao quanh một cách mù quáng và câm lặng. Kẻ cắp, bóng ma hay quỷ hiện hình, cho dù bay là ai nữa thì cũng chớ có bén mảng tới nơi này!
Không ai có thể tưởng tượng khả năng của tôi có thể đến đâu.
Tôi leo lên hai tầng, vừa đi lên vừa cố tự khuyên nhủ mình. Cố tự trấn an mình. Tôi gần như đạt được điều đó. Cùng Florence, chúng tôi đã xếp một nhà thờ bằng những món quà dưới chân cây thông. Có quá nhiều quà, như thường lệ. Như thể chúng được dành cho cả một cô nhi viện. Đó là một điều hổ thẹn.
Đó là một sở thích. Chúng tôi đứng bên nhau nhìn ngắm tác phẩm của mình, môi nở một nụ cười mông lung.
Tôi nghĩ bố mẹ nào cũng hiểu điều đó. Sau đó chúng tôi đi ngủ. Lúc đó là hai giờ sáng.
Florence nằm nghiêng. Cái bụng nặng nề, hai bầu vú nặng nề. Tôi ôm lấy vợ nhưng không ôm chặt quá. Cốt chỉ để cảm nhận làn da của em. Không có gì mịn màng hơn. Tôi thiếu lòng dũng cảm nên tắt đèn trước khi bắt chuyện.
Trong bóng đêm, sau một vài phút gì đó, tôi thì thào:
– Em biết không ... Anh đã gặp lại hắn.
Người tôi áp vào người Florence. Tay tôi đặt lên hông em, nếu em có rùng mình thì tôi chắc chắn đã cảm thấy điều đó. Em không nói năng gì. Em không hỏi tôi gặp ai. Sau một lúc im lặng, em hỏi:
– Khi nào thế?
Giọng em cũng không có gì khác.
– Sáng nay - tôi nói - Khi đưa bọn trẻ đi chơi.
– Thế à, em nói.
Tôi chờ Florence nói tiếp nhưng em đã không nói gì thêm. Không hỏi gì khác, không bình luận gì khác. Chủ đề có vẻ như đã khép lại. Một lúc sau, em cầm tay tôi và thì thào:
– Anh ngủ đi.
Tuyệt vời quá. Tuyệt vời đến mức lúc đầu tôi không thể tin. Tôi nghĩ:
Như vậy là chúng tôi hoàn toàn không phải như trước đây nữa ư? Thời gian và khoảng cách. Để gió xua đi. Để nước cuốn đi. Cuộc đời.
Tôi nghĩ:
Ngay cả những cơn ác mộng ghê sợ nhất cũng đã được giải thoát, chúng không còn ám ảnh chúng tôi nữa và đang chết già. “Anh ngủ đi”, em đã nói.
Tôi chưa bao giờ mơ đến sự thờ ơ mà em đang thể hiện. Tôi đã để cách xa niềm hy vọng, tôi đã chôn vùi niềm hy vọng đó trong sâu thẳm lòng mình, tôi đã lo dập tắt ngọn lửa hy vọng vì sợ nó bùng lên và đột nhiên đốt cháy tôi, thiêu sống tôi như một cây xanh bị sét đánh.
Nhưng đêm đó, trong sự tĩnh mịch và bóng tối bao trùm, tôi đã yếu đuối buông mình.
Hai thằng con trời đánh nhảy xổ lên giường chúng tôi lúc 6 giờ 42 phút sáng. Trong vài giây gì đó, tôi đã nguyền rủa lễ Giáng sinh, nguyền rủa cây thông Noel, nguyền rủa nhà trẻ, nguyền rủa quà cáp. Bọn trẻ đã quay lại phòng khách. Tôi đặt một nụ hôn giữa hai bả vai của Florence. Tôi hít hà mùi hương của em. Tôi thở dài:
– Khi phải đi thì phải đi thôi ...
Chúng tôi dậy, điệu bộ uể oải như những cụ già tám mươi kiệt sức. Tôi ngụp đầu vào nước rồi trở lại với cả ba trong hang Ali Baba. Các gói quà đã được mở ra. Giấy gói quà bị xé nát vương vãi khắp nơi. Étienne phụ trách việc chia quà.
Nó lấy một gói quà một cách ngẫu nhiên, đọc tên trên nhãn rồi chia quà cho em mình. Cả hai đứa mở hết gói quà này sang gói quà khác. Háu ăn.
Phàm uống. Tôi nhìn con chia quà, lòng thấy vui lây khi thấy nét mặt hớn hở của chúng, khi nghe tiếng kêu vui mừng của chúng. Tôi cảm thấy thoải mái.
Tôi ngạc nhiên khi nghe Étienne gọi:
“Bố!”. Tôi cầm lấy gói quà mà nó đưa cho tôi và kiểm tra cái nhãn. Đúng như thế. Bố. Chữ của Florence. Từ này luôn đem lại cho tôi cảm xúc. Tôi quay lại nhìn vợ:
mặt em có vẻ hơi ma mãnh.
Đó là một gói quà khá bẹt, hình chữ nhật. Cỡ khoảng 40 x 60. Tôi nghĩ đến một cuốn sách nghệ thuật hoặc một khung ảnh, đại loại như thế. Tôi không mở ngay. Niềm vui lan tỏa.
Đống quà vơi dần. Khi không còn gì nữa, tôi kiên nhẫn chờ nửa phút, sau đó đi vòng quanh cây thông rồi cúi xuống.
– Étienne này, - tôi vừa nói vừa đứng dậy - bố nghĩ là con đã quên một thứ.
Tiết mục của tôi bắt đầu như vậy đó. Tay tôi cầm một gói quà nhỏ đã lấy ra từ hộp đựng găng tay tối qua. Gói quà đó không đề tên. Làm sao biết nó dành cho ai?
Tôi xoay đi trở lại gói quà đó. Tôi lắc lắc bên tai. Tôi đưa lên mũi ngửi.
– Thế nào? Étienne hỏi.
– Mở ra thì biết thôi, Mattéo nói.
– Không được, - tôi kêu lên - Kẻ nào mở một gói quà không phải của mình thì gói quà đó sẽ tan thành mây khói!
Tôi nói với cái giọng bi thảm và độc địa của một lão phù thủy hung ác. Chúng im re. Kinh ngạc.
– Các con biết ta sẽ làm gì không? - Tôi nói tiếp - Chúng ta sẽ cầu khấn Thần linh. Thần Noel. Chỉ có vị thần đó mới giúp chúng ta được.
Cả hai đứa đứng trước mặt tôi, mắt ngước lên, gương mặt tỏ vẻ lo lắng.
Lơ lửng trong hơi thở của tôi. Tôi rất ưa bộ mặt của chúng lúc ấy.
Tôi đọc thần chú:
– Thưa Thần Noel, xin Thần hãy chỉ đường đưa lối cho chúng con!
Thưa Thần Noel, xin Thần hãy dắt tay con!
Rồi tôi giả vờ như bị hồn ma nhập vào. Tôi run người lên. Tôi bị ám. Tay tôi chìa ra phía trước như cây gậy của lão phù thủy, đầu cây gậy là gói quà trong bàn tay đang mở ra của tôi. Tôi từ từ xoay người. Rồi xoay người lần nữa. Trước khi đứng bất động trước mặt Florence.
– Thần đã chỉ em. Món quà này là dành cho em.
Im lặng lại rơi xuống như mưa cát. Có một khoảnh khắc chết. Rồi Étienne nhún vai và buột miệng:
– Được thôi, đồng ý thôi ...
Thằng anh của nó thì nháy mắt một cái rồi cũng đồng ý, xóa sạch những cặn bã cuối cùng của sự cả tin.
– Em chắc chắn mà, - nó nói thêm - lúc nào mà chả thế!
Có vài tiếng càu nhàu, kêu ca, cái trò này thường như thế, rồi cả hai quay lại với những món quà của chúng, không đoái hoài gì nữa đến thần linh, cũng chẳng còn bận tâm đến tôi. Thậm chí không có thời giờ để chào. Thế là quá đủ rồi.
Sự ngây thơ rồi cũng sẽ mất đi, tôi nghĩ bụng. Như tất cả mọi thứ. Nhưng mà suy cho cùng, chúng không hề thất vọng, tôi lại càng không. Tôi đã pha trò cho chúng, tôi đã nhấc chúng khỏi mặt đất trong vài khoảnh khắc và đưa chúng đi theo mình. Tệ nhất là không có gì cho chúng, và tôi không nói đến những gì người ta tìm thấy trong các quán xá.
Tay tôi vẫn chìa ra. Florence nhón lấy gói quà từ lòng bàn tay tôi.
– Cảm ơn anh, em thì thầm.
Florence mở quà mà không phải xé giấy bọc ra. Em nhấc nắp hộp lên.
Trong đó có hai giọt nước mắt xanh. Khuyên tai ấy mà. Đó không phải là những trang sức có giá trị như người ta vẫn thường thấy, tôi không có điều kiện để mua những thứ đó, mà tôi cũng không thích. Đó chỉ là đôi khuyên tai bằng thủy tinh thôi. Qua hình dạng, thậm chí qua sự giản dị, chúng gợi cho tôi một cái gì đó thuần khiết. Tôi đã chọn đôi khuyên tai này chủ yếu vì màu sắc của chúng. Đó là một màu lơ sâu thẳm và đặc quánh, rất đặc biệt. Màu lơ mà bầu trời chỉ khoác lên vào thời khắc nào đó của buổi chiều tà, và chỉ trong một vài phút chóng vánh mà thôi. Màu xanh này đúng là màu xanh đôi mắt em.
– Đẹp quá, Florence nói.
Em đưa nắp hộp cho tôi rồi đeo khuyên tai vào. Em khẽ lắc đầu.
– Thế nào?
– Tuyệt, tôi nói.
Em nghiêng người về phía tôi. Em vuốt má tôi.
– Thế còn anh, - em nói - anh không mở quà của mình à?
Gói quà đang nằm trên tràng kỷ. Tôi đọc chữ “Bố” trên nhãn một lần nữa. Rồi tôi mở quả. Đó là một bức tranh. Bức tranh một bé gái đang bước đi trong cảnh tuyết rơi. Một con đường mờ nhạt chốn thôn quê, rải rác có một vài cây trụi lá. Bé gái đang xa dần. Bước chân của nó in dấu trên đường. Em được vẽ ba phần tư lưng, chỉ có cái mặt là quay lại và đôi mắt nhìn thẳng vào người xem. Như thể người nghệ sĩ đã gọi nó rồi phác họa nó trong khoảnh khắc nó ngừng bước. Nếu có gì đó làm cho người xem bối rối ở cái nhìn đầu tiên, thì đó là gương mặt hoàn toàn không biểu cảm. Không ngạc nhiên, không sợ hãi, thậm chí một nụ cười thoảng qua cũng không. Đứa trẻ này hình như không có bất cứ cảm giác nào của những con người bằng xương bằng thịt. Toàn cảnh toát lên một cảm giác u sầu không thể chối cãi. Một cái gì đó rất nhỏ bé nhưng rất thân thiết. Florence quá hiểu tôi. Tôi thích bức tranh đó ngay. Tôi lần tìm chữ ký. Ở góc dưới, tôi đọc được hai chữ viết tắt:
E. D.
Tôi tần ngần một lúc, mắt không thể nào rời bức tranh. Từ lúc đó, cho dù người ta có chia lìa tôi với vợ tôi, người ta có làm cho vợ tôi biến mất thì tôi cũng sẽ không bao giờ quên em. Khi cuối cùng tôi cũng quay lại với Florence, tôi không biết nên nói gì. Tôi ôm chặt lấy vợ, vùi mặt vào cổ và vai em. Cuối cùng đến lượt tôi thầm thì:
– Cảm ơn em.
Cảm ơn em vô cùng.
Tận dụng lửa và hơi nóng. Tận dụng than hồng rực cháy trước khi lạnh giá ngập tràn.
Đó là một buổi sáng Noel, tôi có hai đứa con cưng tuyệt vời đang chơi đùa trên sàn nhà lát gạch vuông ở phòng khách, cái gì tôi cũng có, người mẹ của hai đứa con mình, một người phụ nữ đáng yêu biết nhường nào, cái bụng thai to tròn, hai hạt ngọc trên mắt, hai giọt lệ thủy tinh đeo trên tai, cùng màu xanh như nhau. Tôi là một người đàn ông thỏa mãn. Tôi là một người đàn ông được tâng lên tận mây xanh.
Tôi thấy tôi xứng đáng được hưởng điều đó.
Có một điều ám ảnh tôi, đó là điều này:
Tôi nên làm gì để cuộc sống đó kéo dài? Việc gì đó, chẳng hạn như dựng tường rào, thành lũy, dựng cả một pháo đài bất khả xâm phạm, một tu viện giam giữ ái tình. Giá như chỉ thế thôi.
Nhưng tôi nghĩ nỗi đau đã an vị. Tôi nghĩ, và tôi biết, rằng nó đã ở đó, ở phía trong, nó ở đó đã lâu lắm rồi, và ý đồ khốn khổ của tôi là triệt tiêu nó, những cử chỉ hoa chân múa tay chân thành nhưng vô nghĩa chỉ có tác dụng duy nhất, đó là làm cho nỗi đau đó lắng dịu. Ngủ yên dưới những cánh hoa.
Mùi hương tạo cảm giác đê mê. Nhưng nỗi đau nằm đó, đúng như thế. U uẩn. Sống động. Nỗi đau trong lòng. Nỗi đau nằm chờ thời khắc của nó. Nỗi đau đã bị đánh thức.
Việc đó xảy ra non nửa tiếng sau.
Florence tắm xong rồi xuống bếp gặp tôi. Ăn sáng. Tôi pha cà phê, dọn bát ra. Bọn trẻ còn chơi trong phòng bên. Âm thanh mà tôi rất chuộng. Chỉ còn hai vợ chồng tôi. Tôi ngồi chống khuỷu tay lên bàn. Florence đứng trước lò nướng bánh mì, quay lưng lại tôi. Tôi nhìn vợ tôi. Tôi nghĩ đến việc vợ tôi không bao giờ có những ham muốn thúc bách và ngông mà người ta thường gán cho những phụ nữ có thai. Tiếc quá. Hẳn tôi sẽ không phải là không thích thú khi cố thỏa mãn những ham muốn đó của vợ mình. Bánh mì đã nướng xong, tôi nghe máy nướng kêu cạch một tiếng, và ngay sau đó, tôi nghe tiếng vợ tôi hỏi:
– Anh đã nói chuyện với hắn à?
Phải sau một vài giây sau tôi mới hiểu. Tôi bỗng nảy ra ý đó trong đầu.
Tôi đang ngụp lặn trong dòng nước hạnh phúc thì bỗng hẫng chân. Bỗng đáy biển hút người tôi xuống. Tôi há hốc mồm, câm lặng.
Em thì vẫn chưa quay lại. Em với tay lấy một cái dĩa trong tủ tường, bỏ bánh mì vào dĩa và nướng thêm hai lát bánh mì nữa. Sau đó em quay lại và lại ngồi đối diện với tôi. Em đặt dĩa bánh giữa bàn, giữa hai chúng tôi. Một cái dĩa màu trắng và hai lát bánh mì nướng vàng. Tôi dõi theo từng cử chỉ của vợ tôi. Giờ đây Florence đang ngồi im và tôi nhận ra em đang nhìn tôi chằm chằm. Em chờ một câu trả lời. Tôi cảm thấy vai tôi còng xuống.
– Có, - tôi nói - Ba phút. Thậm chí không đến.
– Hắn đã nói gì với anh?
– Có gì quan trọng đâu ...
– Gì? Florence nài nỉ.
Giọng vợ tôi đanh lại, có cái gì đó toát ra từ ánh mắt. Hẳn đó là những sắc thái tinh tế mà chỉ mỗi mình tôi nhận ra. Không còn nghe tiếng ồn của bọn trẻ nữa, tiếng sóng dồi mỗi lúc mỗi to hơn. Tôi hắng giọng.
– Em quan tâm đến điều đó thật à? Tôi nói.
Em không trả lời. Em vẫn luôn đeo khuyên tai nhưng chúng không còn xanh như đôi mắt em nữa.
– Hắn đã nói với anh là hắn đã đi đây đó khá nhiều. Theo anh hiểu, hắn đã trở thành một chủ doanh nghiệp. Hắn đã thành lập một công ty chuyên sản xuất linh kiện máy tính. Công ty hắn có năm mươi công nhân. Hắn nói Tây Ban Nha là một đất nước đẹp.
Tôi im lặng. Giọng nói của tôi trở nên lạ lẫm với chính tôi.
– Linh kiện máy tính ... Florence nhắc lại.
Đó gần như là một lời thì thầm. Tôi thấy những lời nói thành hình trên môi vợ tôi. Tôi ra hiệu đồng ý. Tôi nói:
– Chính xác là bốn mươi chín.
– Cái gì?
– Bốn mươi chín nhân công.
Hai lát bánh mì mới nhảy lưng tưng trong lò nướng nhưng không ai đứng dậy cả.
– Mấy cái trò tầm bậy! Florence sổ toẹt.
– Anh biết.
– Vớ va vớ vẩn.
– Đúng thế.
Em nghiến răng nghiến lợi, hai cánh mũi hóp lại và tím tái.
– Rồi gì nữa? Hắn đã nói gì với anh nữa?
Phải chăng em muốn biết hắn có nói về em không, hắn có hỏi thăm em không?
– Chỉ thế thôi, tôi nói.
Rồi tôi đứng dậy. Tôi đi lấy những lát bánh mì nướng. Chúng nguội mất rồi. Tôi để những lát bánh mì vào dĩa cùng những lát khác. Sau đó, tôi cầm ấm pha cà phê rồi nghiêng người qua vai Florence.
– Cà phê chứ? Tôi hỏi.
Tôi rót cà phê cho em trước khi em trả lời. Tôi rót cà phê vào ly của mình, để ấm pha cà phê vào chỗ cũ rồi ngồi xuống.
– Sao hắn lại quay lại? - Florence hỏi - Tại sao hắn lại có mặt ở đây?
– Anh có biết đâu, - tôi nói. Rồi tôi nói thêm - có thể hắn muốn nghỉ Giáng sinh cùng gia đình cũng nên ...
Tôi có tinh quái gì đâu, tôi đang đau khổ thì có. Tôi muốn khóc, muốn đập bàn, muốn đập cho nó tan tành. Tôi còn nói thêm:
– Hắn đã trông thấy bọn trẻ, trên bãi biển. Hắn đã hỏi có phải đó là con anh không. Anh đã trả lời đó cũng là những đứa con của em. Những đứa con của chúng ta.
Florence không nói gì. Tôi có cảm giác ánh mắt của em mất hút qua những biên giới rõ ràng và cụ thể. Thậm chí tôi không còn là vật cản trên hành trình của vợ mình nữa. Tôi lấy một lát bánh mì và bắt đầu phết bơ, phết mứt. Đó là sáng ngày lễ Giáng sinh. Tay tôi run run. Tôi đặt lát bánh mì phết bơ trước mặt em. Em không nhìn thấy. Tôi lấy lát thứ hai và lại tiếp tục. Bỗng em nói:
– Hắn sẽ không dừng lại ở đó đâu. Hắn sẽ lấn tới cho mà xem. Bằng cách này hay cách khác. Không thể để hắn muốn làm gì thì làm. Em không muốn hắn đặt chân vào ngôi nhà này. Không bao giờ. Em cũng không muốn hắn lại gần bọn trẻ. Kể cả gần anh nữa. Không bao giờ, anh nghe không? Không bao giờ!
Lần này, trong giọng nói của em có sự sợ hãi và tức giận. Một cơn hoảng sợ không thể kiềm chế. Hiếm khi em như vậy và điều này lại càng làm cho tôi đau khổ hơn. Bóng tối đã phủ kín đôi mắt vợ tôi. Tôi nghĩ đến một người lính trên mặt trận, trong những chiến hào lầy lội. Cổ họng tôi thắt lại. Thế còn tôi thì sao. Tôi muốn nói với hắn:
Tôi đang ở đây ... Tôi sợ đó chỉ là những lời nói ra trên sa mạc mênh mông.
Em có lý. Tất nhiên là em có lý. Từ lúc đó tôi đã biết điều đó. Tôi biết chắc là chưa xong đâu, đồng thời tôi biết chuyện ấy sẽ kết thúc như thế nào.
Tôi đặt lát bánh mì phết bơ thứ hai bên cạnh lát của em. Tất cả những gì tôi nói được, đó là:
– Ăn đi, em yêu.
Nhẽ ra tôi nên nghi ngờ ở điểm là chỉ có một con ma đĩ điếm mới chúc mừng tôi.
Đã từ lâu tôi không còn nhận được thư của ai. Ngay cả vào thời điểm này trong năm. Tôi đã tuyệt giao với người đời, đã cắt hết mọi quan hệ, tôi không nghĩ có ai đó lại chịu khó chèo thuyền để đến với tôi.
Nói thế để nói rằng tôi rất ít khi ngó ngàng đến hộp quà của tôi, chỉ để biết là tôi mắc nợ người này kẻ khác bao nhiêu. Tôi phát hiện ra chiếc hộp gần như tình cờ. Phát hiện này đã có thể xảy ra muộn hơn.
Đó là một bọc giấy bao bì khá dày. Tên và địa chỉ của tôi được đề bằng tay:
Ông Alesandre Astrid, 106 đường Carmes ... Không có tên người gửi.
Theo dấu bưu điện thì nó đã được bỏ vào hộp thư mười ba ngày trước đó, tại bưu điện thành phố Saintes-sur-mer. Tôi cảm thấy như bị điện giật khi đọc địa danh này. Một sự kết nối được hình thành đâu đó trên những hành trình cũ.
Đáng ghét. Tôi lấy gói quà về rồi đặt trên bàn ăn.
Tôi lượn lờ một lúc. Giờ sự kết nối đã được thiết lập, nó tiếp tục rung động ở bên trong, ở dưới đáy sâu, kêu ro ro như sóng điện áp thấp. Một cảm giác mà tôi chưa từng có từ khi trời mưa to đến giờ. Tôi nhìn cái phong bì. Tôi đoán già đoán non. Bạn hay thù? Bưu kiện cài bom? Báo động giả? Khó mà tin vào sự nhạy bén của mình. Sự nhạy bén huyền thoại của tôi đã tiêu tan trong sự suy sụp với những gì còn lại.
Cuối cùng tôi cũng đã đi đến quyết định. Tôi lấy một con dao và mạnh tay rạch mở gói quà.
Phong bì đựng một tập giấy in. Giấy in cỡ A4. Được đánh máy, và được đánh số thứ tự, không đóng thành quyển. Tập giấy được trình bày như một tiểu thuyết hoặc một truyện ngắn tựa đề:
So I turn 'd to the Garden of Love That so many sweet flowers bore ...
(Thế là ta đã quay về Khu vườn Tình yêu Nơi ngàn hoa đang tỏa hương ngào ngạt ...) Nếu có thể gọi đó là một tựa đề. Tác giả đã quên ký tên vào tác phẩm của mình.
Tôi nhìn đồng hồ, theo phản xạ. Tôi không còn việc gì cần làm gấp. Tôi ngồi xuống và bắt đầu đọc.
Một trăm năm mươi ba trang cả thảy. Tôi mất cả một buổi sáng để đọc hết. Thỉnh thoảng tôi có dừng lại để uống cà phê. Khi tôi gần bị nuốt chửng.
Một số đoạn đã giày vò tôi. Bằng những cú sát phạt. Chắc chắn là có tác động rồi - đồ chết tiệt - tôi nghiến răng. Tôi dốc hết cà phê. Tôi đọc đến cùng.
Đọc trang cuối xong, tôi ngả người vào lưng ghế.
“Đồ chết tiệt!” Tôi sổ toẹt lần thứ mười lăm.
Ý muốn quẳng thứ ấy vào lửa, vào lò sưởi xâm chiếm lấy tôi. Nhưng tôi đã không làm thế. Tôi không có lò sưởi. Có vẻ như sự giận dữ nhiều khi có ích.
Tôi ra vườn, cốt để hít thở một ít không khí. Trời đất u ám, không lạnh lắm. Tôi thấy cay mắt. Tôi đã mất thói quen đọc sách vở. Năm phút sau, con mèo của người hàng xóm đến cà mình vào bắp chân tôi. Tôi chưa bao giờ cho nó ăn, chưa bao giờ vuốt ve nó, nhưng nó luôn quấn quýt tôi. Đó hoặc là một biểu hiện tình cảm, theo bản năng và sự thành thật, hoặc đơn giản chỉ là một điều ngớ ngẩn. Tôi chưa quyết định dứt khoát được.
Bây giờ câu hỏi đặt ra là:
tôi sẽ làm gì với thông điệp đó? Với lời chứng đó? Sự thú nhận đó. Thậm chí tôi không biết gọi tên nó nữa. Một câu chuyện khiến người ta bị ác mộng khi không biết đầu đuôi thế nào. Thằng đểu này mong gì ở tôi mà lại bắn tên lửa vào người tôi qua bưu điện thế? Muốn tôi đừng có độc đoán quá ư? Thoạt nhìn, có thể chia câu chuyện này thành ba phần:
một phần hư cấu, một phần thực tế, một phần mê sảng. Nhưng chắc hắn ta chỉ muốn làm cho tôi đau khổ thôi. Ngoáy ngoáy lưỡi dao. Khêu khêu rác rưởi và từ từ nhấn mặt tôi vào đó.
Tôi cố hiểu. Tôi cũng đã đánh mất thói quen suy nghĩ.
Tôi lỡ chân giẫm lên chân con mèo làm nó gào lên eo éo rồi chuồn đi. Tôi về nhà. Tôi bật nhẹ đĩa nhạc Haendel rồi nằm soài trên tràng kỷ, hai mắt nhắm nghiền. Tôi thường làm thế khi có ý định trút bỏ tất cả những gì có trong đầu, với hy vọng không còn nghĩ đến bất cứ điều gì nữa. Thỉnh thoảng tôi làm được. Thêm một chút may mắn, tôi còn có thể ngủ thiếp đi và nhờ vậy mà những đêm mất ngủ của tôi phần nào được bù đắp.
Hôm đó thì không. Tôi không có may mắn đó. Nhiều đoạn văn trong câu chuyện đó cứ giăng hàng dưới mi mắt tôi như trên chiếc máy prompter.
Từng từ một. In chồng lên đó là những hình ảnh, những hoạt cảnh, những gương mặt. Cũng ngần ấy mẩu chuyện. Cũng ngần ấy hồi tưởng. Những con côn trùng dơ dáy bám đầy đèn xe ôtô, và rốt cuộc chúng đều bị xóa nhòa trên kính chắn gió.
Tôi cầm cự được nửa giờ, rồi đứng lên. Tôi hâm nóng cà phê, cốt để có việc gì đó mà làm. Cuốn sổ tay vẫn luôn ở trên bàn ăn. Nằm chờ ở đó. Đúng là một tập giấy đấy, nhưng trên thực tế là một tấm bia mộ đen trắng. Mộ tôi chỉ thiếu một thứ. Dưới đáy huyệt đạo của mình, tôi còn có thể thấy mây bao phủ trên đầu, cho dù tôi chẳng hề quan tâm, hôm nay cái đồ dòi bọ này chìa cho tôi một cái nắp quan vừa vặn. Tôi tha hồ mà làm ngơ hay lấp đầy lỗ trống để nằm trong bóng đêm, một lần cho mãi mãi.
Tha hồ ư? ... Bởi vì người ta thực sự có quyền lựa chọn ư?
Mày đã đánh cắp những xác chết của tao, tôi nghĩ bụng. Mày muốn gì cơ chứ? Muốn chia xương ư? Tạ lỗi ư? Xá tội ư? ...
Mày cút đi mau!
Tôi có bỏ ba viên đường cũng bằng thừa, cà phê của tôi đắng nghét. Tôi đổ hết vào bồn rửa bát. Đúng lúc ấy, điện mạnh trở lại và tôi bị giật điếng người. Tôi vừa vỡ lẽ điều hắn ta đang mong chờ ở tôi. Tôi đờ người một lúc, rồi buột miệng:
“Được. Được rồi ... Một lần nữa mày đã thắng. Mày gọi tao thì tao đến. Sứ mạng được chấp thuận!”.
Tôi tạm thời gác lại tất cả. Tôi vào phòng, lại cái tủ nhỏ đầu giường, mở ngăn kéo và lấy khẩu Berreta ra. Tôi không được mang vũ khí nữa, nhưng khẩu súng này là tài sản bí mật riêng của tôi. Một tay ma cô người Ý đã biếu không cho tôi khẩu súng đó khi hắn bị tôi tóm cổ. Chính hắn đã cuỗm khẩu súng đó của một anh lính sen đầm trước khi tay này làm mồi cho cá dưới đáy vịnh. Đó là phi vụ lớn đầu tiên của tôi và tôi muốn lưu lại một kỷ niệm.
Một chiến lợi phẩm.
Bây giờ, khẩu súng đó đối với tôi như một người yêu trong những đêm không ngủ. Tôi mân mê, tôi siết chặt vào lòng, tôi bú liếm. Súng không có đạn. Quá hèn nên không thể cụ thể hóa niềm tin của mình. Tôi giấu một hộp đạn trong căn phòng chật chội, dưới những tấm cáctông. Tôi chưa bao giờ, dù chỉ một lần, thử vượt qua chút trở ngại đó. Tôi chỉ chơi. Tôi chỉ chơi với khẩu Beretta, lòng tự nhủ:
Nếu mình muốn là được.
Đó là một trong những nét tính cách đáng tiếc của tôi. Với rượu tôi cũng đã như vậy. Tôi đã dừng ngay khi ông thầy thuốc cho tôi biết là tôi đã vượt qua giới hạn cuối cùng. Tối đa là sáu tháng:
cứ theo cái đà ấy, thì đó là tất cả những gì ông ta cho tôi trước khi tiêu đời nhà ma. Thế đó không đúng là những gì tôi muốn chăng? Mục đích đang tìm kiếm:
tiêu đời nhà ma ư?
Mặc dầu vậy, ngay tối hôm đó, tôi đã chôn khẩu phần vodka cuối cùng của mình trong vườn, dưới tám mươi xentimet đất. Một chai đầy. Tôi đã không đánh dấu chỗ chính xác. Cỏ đã mọc lên. Nhưng tôi biết rằng thuốc độc vẫn đang ở đâu đó. Nếu tôi muốn thì tôi có thể. Hèn quá, không thể có lòng tin.
Kết luận của tôi là cái ác rốt cuộc rồi cũng trở thành bản chất thứ yếu.
Người ta thiết tha với nó. Người ta đằm mình trong đó. Và tính tự mãn là một trong những dưỡng chất tốt nhất mà tôi biết để nuôi dưỡng cái ác.
Hôm đó, sau khi đọc cuốn sổ tay xong, tôi đi lấy đạn ở trong căn phòng nhỏ. Tôi bỏ đạn và khẩu Berreta trong túi áo bludông. Tôi mặc chiếc áo bludông vào. Rồi tôi ra khỏi nhà, vừa đi ra vừa sổ toẹt một lần nữa:
“Đồ chết tiệt!”.
Tôi lái xe chầm chậm. Đến giữa quãng đường, ông trời đã bộc lộ sự khinh bỉ đối với tôi bằng một cơn mưa phùn nho nhỏ. Tôi không phản ứng gì. Có lúc tôi nghĩ đến việc báo cho Sở cảnh sát về sự vắng mặt của mình. Phản xạ cổ lỗ sĩ mà, bị gạt ngay tức khắc. Như thế là làm ra vẻ quan trọng quá. Chả có ai mất công đi lục soát trong các tủ tường để xem tôi có ở trong đó không.
Theo thông tin chính thức thì tôi vẫn luôn có trong quân số. Tôi vẫn là nhân viên cảnh sát và lĩnh lương theo hình thức tính công. Trên thực tế, tôi là một vết nhơ trong đám cảnh sát quèn. Không sao loại bỏ nó được, nhưng chừng nào người ta ít bắt gặp nó hơn thì chừng ấy người ta thấy khỏe hơn.
Ngay lúc tôi đi - đi lần thứ hai - người ta đã nhắc quân lệnh cho tôi:
không ồn ào, không di chuyển, không mùi mẫn. Một người vô hình. Dẫu sao, người ta không còn tin tưởng gì ở tôi và sẽ chẳng sai tôi làm gì hết, tuyệt đối không sai gì, ngay cả việc đi lấy cà phê cũng không nốt. Thế đã rõ ràng chưa?
Thế là rõ ràng rồi. Và tôi cứ thế mà làm.
Dần dà tôi thôi việc đến cho có mặt, ít nhất là cũng không đến thường xuyên nữa. Tôi trốn công sở. Không phải xin lỗi ai cả. Tôi gần như tự do đi đi về về. Một vị thế mà một số đồng nghiệp của tôi coi như một đặc ân. Những kẻ dốt nát này ghen tị với tôi. Nhưng những kẻ đó thường là những kẻ mới đến, họ chưa biết chuyện. Một khi biết chuyện thì họ sẽ câm họng cho mà xem.
Tóm lại, tôi có thể đi về phía số phận của riêng mình một cách vô tội vạ trong những giờ làm việc.
Tôi mất chưa đến một tiếng để đi qua tám mươi cây số đến Saintes.
Tôi những mong đường dài tám mươi nghìn cây số. Xe tôi xăng còn thoải mái. Càng đến gần tôi càng giảm tốc độ. Tôi nhận ra mình không hề quên đường. Đường đi được khắc ghi trong trí não của tôi cho dù năm tháng trôi qua, tôi không hề do dự khi đến các ngã tư.
Tôi đậu xe gần biệt thự, dọc bờ tường ngoài. Tôi tắt động cơ và thấy im lặng bao trùm. Bên ngoài trời vẫn mưa lâm thâm ... Mưa như nước bọt không kết dính. Xung quanh không có xe nào khác. Có lẽ tôi đã nhầm. Tôi ngồi yên trong xe. Một phút. Hai phút. Rồi tôi giơ tay ra, xòe bàn tay ra xem có run không.
Tay tôi đang run. Không có gì là bất thường cả, tôi tự nhủ. Cà phê. Đã nốc một lít rưỡi. Hít sâu, thở ra từ từ ... Bài tập ngắn ngủn. Tôi rút hộp đạn và khẩu súng ra. Tôi nạp đạn vào. Tôi bỏ súng vào túi áo. Tôi ra khỏi xe và đi dọc bờ tường đến tận cánh cổng nhỏ ở bên cạnh. Song sắt tét rỉ. Tôi liếc mắt nhìn ngang.
Theo những gì tôi thấy được, căn nhà này cũng đã trở nên tồi tàn. Nếu trước đây là một căn nhà lộng lẫy thì giờ nó sắp trở thành đổ nát. Bị bỏ hoang từ bảy đời rồi. Chỗ trú cho những kẻ vô gia cư hay những kẻ tác oai tác quái khác. Chúng đều để lại dấu vết. Khu vườn trông giống khu vườn nhà tôi, nhưng lớn hơn gấp mười lần. Một thí dụ hoàn hảo cho sự trở về với thiên nhiên. Cây cối mọc lên bất cứ chỗ nào, bất cứ ra sao và trong phạm vi cực lớn. Tarzan cũng không thể tìm ra những đứa con của mình trong đó.
Cái cổng đẩy một cái là mở ra ngay. Dây xích buộc cổng cuộn tròn dưới đất như một con rắn nước. Cũng tét rỉ. Tôi lần theo một con đường mòn, vừa đi vừa rẽ những cành cây chắn ngang lối đi. Tôi đi đến lối đi giữa. Những gì còn lại ở đó:
Đá lát vỡ, cỏ gà nhô lên từ những chỗ bị rạn nứt. Xa hơn một tí là một cây bạch đàn tróc vỏ. Dưới gốc cây là một chiếc thuyền buồm cũ kỹ, một bức tranh bị tróc màu, một chiếc gối dựa rách tươm, mút bị ướt và mốc meo. Tôi bỏ đi chỗ khác.
Ít nhất có cái gì đó vẫn chưa làm mất đi vẻ hào nhoáng của nó. Từ đây nhìn ra ta thấy một cảnh đẹp tuyệt vời. Không còn giới hạn nào khác ngoài giới hạn của đường chân trời. Mặt nước rung rinh màu xám. “Trời cao đem lại sắc màu cho biển rộng ...”. Dường như người ta đã có thể hài lòng với thiên đường. Ngồi ngắm. Chỉ thế thôi. Một cách bình thản. Cảm thấy thời gian và sắc đẹp trôi đi. Nóng. Những con ác thú no nê nằm phơi nắng.
“Lãng phí chưa kìa”, tôi nghĩ bụng.
Khu vườn kết thúc bằng một dốc đứng chừng hai mươi mét. Ở phía dưới là những mỏm đá và nước.
Không có barie bảo vệ nào. Tôi nghĩ không có rào chắn rõ ràng là rất nguy hiểm. Tôi tiến sát bờ, rồi cúi xuống nhìn. Thêm một phản xạ cổ lỗ sĩ nữa, phản xạ có điều kiện. Tôi nhớ lần trước vất vả lắm mới vớt được xác lên.
Tôi không thấy dấu vết gì trên các hốc đá. Tôi quay lại biệt thự một lần nữa. Một khung cảnh lồ lộ trước mắt. Tất cả các cửa sổ đều đóng hết, trừ cửa sổ sát đất ở tầng trệt và cửa sổ con ở trên mái nhà.
Tôi đi lên với cảm giác khó chịu là bị theo dõi. Cảm giác hơi bị kim châm nơi đỉnh đầu. Quần áo tôi bắt đầu ướt, tay tôi lạnh buốt. Phần trên tấm kính cửa sổ sát đất đã bị vỡ. Những mảnh kính vỡ vụn trên mặt đất. Tôi thò tay qua lỗ hổng đó và xoay quả đấm cửa từ bên trong. Cánh cửa mở ra. Tôi đi vào, tránh giẫm lên vụn miểng chai dưới chân giày.
Gian phòng trống rỗng và bẩn thỉu. Có mùi của đá lạnh, của không khí ẩm ướt, mùi hăng hắc bốc lên từ những đống phân người và động vật. Tôi căng tai nghe. Tôi chỉ nghe tiếng mình thở và tiếng con tim mình đập. Tôi đi xuống bếp. Một chiếc ghế đẩu nằm chỏng queo dưới đất. Vách trên bồn rửa bát chỉ được trang trí bằng một câu đề:
“Squizz chuột nhắt”, viết nguệch ngoạc bằng sơn đen. Tôi trở lại phòng khách. Tôi đi chuyển chậm chạp. Mỗi bước chân của tôi âm vang nặng nề. Tôi bước lên cầu thang, bụng tôi bắt đầu co cứng. Nghỉ chân ở tầng hai. Vẫn luôn vểnh tai nghe, cố nuốt cơn giận vào bụng. Tôi nắm lấy khẩu súng trong túi quần, khi siết khẩu súng trong tay, tôi cảm thấy dễ chịu hơn. Tôi đẩy từng cánh cửa, lục soát từng gian phòng, phòng nào cũng mang lại cho tôi cảm giác hoang tàn. Tôi tiếp tục đi lên.
Tôi càng đi lên càng thấy ánh sáng mờ hơn. Ở tầng ba, chỉ còn ánh sáng mờ mờ xuyên qua các cửa chớp. Tôi tiếp tục vòng lên, dùng chân đẩy các cửa phòng, tay lăm lăm khẩu Beretta. Kết quả vẫn thế. Không có ai. Khu làng không còn một ai vào giờ đại họa. Bọn cướp đã đến trước tôi, chúng đã cuỗm đi tất cả, kể cả bóng đèn và riđô. Ma quỷ dường như cũng đã tháo chạy. Có thể tôi đã nhầm. Tôi trở lại cầu thang. Tôi ngước mắt lên. Tôi chỉ còn phải kiểm tra thềm nghỉ nữa thôi. Nơi ấy được bố trí kiểu một nửa tầng dưới mái nhà. Tôi biết rằng phòng hắn ở trên đó. Hang ổ của hắn. Tôi biết nhẽ ra mình nên kiểm tra chỗ ấy trước tiên. Cho đến khi đó, tôi chỉ có thể lùi bước mà thôi - nếu muốn thì tôi có thể ... Tôi còn để dành khá nhiều cái cớ để quay đi chỗ khác. Bỏ cuộc. Chạy trốn. Mặc lại thật nhanh bộ quần áo âm binh rộng rãi. Để làm gì? Tôi tự nhủ. Trận đánh cuối cùng này sẽ không phải vì danh dự, tôi đã đánh mất danh dự trên đường và tôi cũng cóc cần. Cũng không phải để cho linh hồn mình được giải thoát, vì linh hồn tôi cũng đã rời đi từ tám hoánh rồi. Thế thì vì cái gì?
Có thể đơn giản chỉ để biết xem tôi có nhầm hay không thôi.
Tôi leo lên bậc thang đầu tiên, rồi những bậc thang tiếp theo. Trên kia, hành lang chìm trong tranh tối tranh sáng. Một đường hầm chật hẹp và trần thấp. Chỉ có hai cánh cửa, một cánh bên trái và một cánh bên phải. Cánh cửa thứ nhất đang mở và hướng về phòng tắm. Chậu rửa bị ghét bẩn bám vào một lớp dày trên men sứ, vòi hoa sen bị hỏng, thanh treo riđô bị tháo tung. Không gì khác. Tôi lại để ý cánh cửa cuối cùng. Cánh cửa này đang đóng. Một hình chữ nhật hơi nhợt nhạt trong tranh tối tranh sáng. Tôi tiến lại đó chầm chậm, từng bước một. Lưng tôi ướt đẫm mồ hôi và nước mưa.
Đứng trước cánh cửa, tôi nhắm mắt lại và nín thở. Cuối cùng tôi cũng nghe được tiếng động. Một tiếng lách cách đều đặn của kim loại chạm vào nhau.
chân đứng vững, gối gập lại, tay giơ thẳng, súng chĩa ra. Lệnh đứng lại nghèn nghẹn ngang cổ họng. Thô thiển. Tôi nhìn bao quát cảnh tượng trong chốc lát. Một cảnh tượng đập vào mắt.
Không, tôi không nhầm. Lần này, tên chết tiệt này không làm tôi ngạc nhiên nữa. Hắn sõng soài nằm ngửa dưới đất. Người để trần và lấm chấm những túm tóc - những mớ tóc màu sáng đã bị cắt. Tóc bị cắt phủ lên người hắn. Mặt hắn hơi nghiêng về phía bên trái. Ít nhất là những gì còn lại của khuôn mặt. Phần trên của trán hắn đã bị một viên đạn súng lục giật ra toang hoác. Đạn calip 38 đặc biệt. Những ngón tay phải của hắn còn bấu chặt vào khẩu Ruger cũ kỹ.
Tôi đứng như trời trồng trong chốc lát. Rồi tôi tiến lại gần, súng vẫn nhằm vào thi thể chĩa thẳng. Tôi cúi xuống người hắn. Thằng cha đàng điếm này vẫn đang mở mắt. Khoảng trời vuông từ cửa mái soi rọi vào đôi mắt hắn.
Hắn đẹp trai. Cho dù da hắn có nhiều mảng tím tái, cho dù người hắn đầm trong quầng máu, óc và xương của hắn nhão nhoét. Mày nhìn thấy cái gì?
Cái gì làm mày vui thích như thế? ... Những tưởng như một nụ cười phảng phất trên đôi môi của hắn. Tôi hạ nòng súng xuống mép miệng hắn. Tôi run lên lẩy bẩy. Vì bất lực, vì điên tiết. Thậm chí hắn không cho tôi niềm an ủi nhỏ nhoi là được hoàn thành việc giết người. Tôi cảm thấy ngón tay trỏ co lại trên cò súng, tôi nghiến răng nghiến lợi, cả người tôi nạp đầy đạn, nén lại, dồn hết vào mẩu thịt đang tì lên mẩu kim loại và sẵn sàng nổ tung.
Chỉ có nước mắt là rơm rớm trên mí mắt tôi. Tôi đứng dậy, một tiếng gầm gừ khan khản thoát ra từ lồng ngực tôi. Ba mươi giây sau, tôi khô người đi. Đứng bên chân hắn, tôi nhìn thi thể rồi nhìn hộp gỗ ở bên cạnh. Hộp xì gà. Như vậy là hắn tồn tại thực sự. Hộp đựng của cải, hộp đựng bí mật.
Trống rỗng.
Tiếng lách cách vẫn dai dẳng sau lưng tôi, nó đến từ một con lắc, từ những hòn bi kim loại va chạm vào nhau. Một sự chuyển động đều đặn. Tôi biết thứ này. Nó ở trên giá, chỗ bờ tường. Một sự dàn dựng hoàn hảo ... Đồ đàng điếm bệnh hoạn! Tôi đột ngột xoay người rồi bắn bâng quơ sáu phát đạn. Tiếng súng nổ kinh hoàng. Những miểng gỗ và thạch cao văng ra. Con lắc vỡ vụn khi trúng phát đạn thứ hai. Thời gian bất động.
Sau đó, chỉ còn bụi bay trong không khí và tiếng rít bên tai tôi. Tôi liếc nhìn xác chết lần cuối. Nó không còn là gì nữa. Tôi đi ra, thậm chí không thèm nhổ lên thi thể đó nữa.
“Tôi yêu Jona. Không ai có quyền phản đối. Những kẻ phản đối là những kẻ nói dối và là những kẻ độc ác. Những kẻ đó không nói năng một cách bình thường mà là gièm pha độc mồm độc miệng, là nôn mửa.
Và em cũng thế, em yêu tôi”.
Chúng tôi luôn ở bên nhau, không rời nhau nửa bước từ sáng chí tối, thậm chí về đêm, chúng tôi thường băng qua hành lang, em hoặc tôi, chúng tôi đến với nhau, để ngủ với nhau. Một hành lang dài, dài và tối như ở dưới hầm, nhưng hành lang đó vững chắc hơn bản thân chúng tôi. Nếu bạn bẻ gãy cánh một con chim thì nó sẽ rơi xuống, không thể bay được nữa. Cũng như vậy thôi. Hai chúng tôi. Chỉ có hai chúng tôi, khi nào cũng thế. Chúng tôi không ra ngoài. Chúng tôi không chơi với những đứa trẻ khác. Không láng giềng, không bè bạn. Chúng tôi cũng không đi học. Bà Greenhill đến nhà dạy chúng tôi sáng hai giờ, chiều hai giờ. Chúng tôi gọi bà ta là bà Gorila (khỉ dạng người). Dưới cằm bà có một vết lông lá màu hạt dẻ. Chúng tôi hay trêu chọc bà ta. Jona rất giỏi bắt chước bà ta, em khiến tôi cười chết đi được. Thế nên tôi thường bảo là em giống bà ta. Điên thật, tôi thấy thế, thỉnh thoảng trông em giống bà ta thế không biết.
Chuyện xảy ra ở đó, trong ngôi nhà lớn màu trắng, ngôi nhà Thiên nga.
Khoảnh khắc đẹp nhất, đó là sau khi học xong, khi bà Gorila đã về.
Cuối cùng chúng tôi cũng được tự do. Chúng tôi chui ra ngoài qua cửa xưởng giặt. Chúng tôi đi nhanh đến cuối công viên, đến chỗ sâu nhất, chỗ mà tôi thấy xa, rất xa, nhưng tôi những muốn chỗ ấy còn xa hơn nữa, chúng tôi nắm tay nhau cùng đi, tay của em nhỏ quá, tí tẹo trong tay tôi, cho dù em chỉ thua tôi một tuổi rưỡi, nhưng bàn tay ấy ấm áp và đầy sức sống, đôi khi tôi không thể cưỡng lại ý muốn nắm tay em thật chặt, siết tay em bằng hết sức bình sinh, Jona của tôi kêu:
“Ái!” nhưng đồng thời em mỉm cười, em không hề giận tôi, em hiểu tại sao. Tôi biết lúc ấy em hiểu.
Chúng tôi dừng chân ở bên hồ nước. Mẹ cấm chúng tôi bén mảng đến đó. Mẹ bảo chỗ ấy nguy hiểm. Mẹ bảo chúng tôi có thể bị sẩy chân ngã xuống nước và sau đó thì đã quá muộn. Là hết. Mẹ bảo những chuyện như thế xảy ra hàng ngày. Chúng tôi chưa học bơi, cả Jona và tôi.
Nhưng chúng tôi đến hồ nước không phải để làm mẹ phiền lòng, chúng tôi đến đó vì đó là nhà của chúng tôi. Chúng tôi đi dọc hồ một lúc là đến “nhà”. Có hai cây bị ngã quyện thân vào nhau. Tôi không biết đó là những cây gì. Những cái cây khổng lồ. Chúng tôi có thể ngồi ở phía dưới, như ngồi trong một túp lều châu Phi, nắng không rọi xuống được, ở đó cái gì cũng xanh và sẩm tối, da của chúng tôi cũng trở nên xanh xao. Ở phía trên, chúng tôi có thể leo trèo lên các tầng cây. Có nhiều tầng. Khi leo lên tầng cuối cùng ở trên cao, chúng tôi có thể chạm tay vào bầu trời. Chúng tôi thoáng thấy một góc mái nhà trắng, qua những cành cây, trông có vẻ nhỏ bé, như một lâu đài dành cho búp bê, nghìn lần nhỏ hơn ngôi nhà của chúng tôi. Ban đầu, chỗ này bừa bộn tứ tung, nhưng dần dần, Jona và tôi đã sắp xếp lại thực sự ngăn nắp.
Ngày nào chúng tôi cũng thay đổi một cái gì đó. Chúng tôi ở đó, hơi khó nhọc nhưng rất bõ công. Chúng tôi đã có thể sống ở đó. Chúng tôi đã có thể không bao giờ quay lại ngôi nhà kia mà ở lại ngôi nhà của hai chúng tôi. Chỉ có hai chúng tôi thôi. Đó là ước nguyện sâu sắc nhất của chúng tôi. Thường khi đêm xuống, tôi nói với Jona:
“Em ở lại đây. Ở lại với anh. Chúng mình sẽ ở đây.
Chúng mình muốn làm gì tùy ý. Họ sẽ không tìm ra chúng mình đâu.”.
Nhưng em không muốn. Tôi nói với em:
“Nếu mẹ không có đó thì em sẽ ở lại chứ? Nếu bố mẹ không có đó, nếu họ chết đi thì em sẽ ở lại đây với anh chứ?”.
Tôi chờ mùa xuân cho ngày dài thêm. Chúng tôi chơi những trò trẻ con. Chúng tôi chơi trò đâm mây chọc trời. Chúng tôi chơi trò đi tìm kho báu. Jona đi tìm kho báu cho tôi, còn tôi đi tìm kho báu cho em. Chúng tôi ban tặng kho báu cho nhau. Ở tầng hai có một phòng dành riêng cho trò chơi đó, phòng nghi lễ. Chúng tôi chơi trò lấy đất đá ném những con vịt hay thiên nga khi chúng bơi lại gần bờ. Chúng tôi chơi trò trốn tìm. Khi Jona bị lạc đường và tôi phải tìm lại em thì tôi cảm thấy đau khổ vô cùng. Tôi không thể kêu tên em vì sợ người ta biết chúng tôi đang ở đâu. Tôi thầm gọi tên em, tìm kiếm khắp nơi trong những khóm lá, bụi cây, mặt và tay tôi bị xước, tìm càng lâu tim tôi càng đập thình thịch trong lồng ngực, tôi thấy cay cay ở mắt, tôi nín khóc, tiếp tục gọi tên em, gọi nữa, gọi nữa, tôi van xin em, và khi nào cũng thế, khi tôi chực gào lên thì Jona bỗng nhiên xuất hiện, vừa cười vừa nhảy xổ vào người tôi. Tôi vui khi gặp lại em, vui đến nỗi cũng cười theo. Tôi vừa khóc vừa cười.
Tôi rất ghét trò này nhưng Jona lại rất thích cho nên tôi không thể không ưa. Thế là, khi chơi trò trốn tìm như vậy, lần đầu tiên chúng tôi đã gặp quỷ.
Hôm đó, tôi tìm Jona được một lúc rồi. Tôi lục tìm mọi ngõ ngách, nơi em thường trốn, nhưng không thấy. Thế là tôi tiếp tục đi tìm, đi xa, xa hơn nữa.
Đến khu rừng lớn. Từ ngôi nhà của chúng tôi dưới những cành cây, ở phía tầng trên, chúng tôi thấy khu rừng này, nhưng với chúng tôi nó trông như một xứ sở khác, như một hòn đảo ngoài khơi, ở tận chân trời. Chúng tôi chưa bao giờ bén mảng đến đó. Thậm chí chúng tôi không nghĩ tới. Và lần này, đi mãi, cuối cùng tôi cũng đến được rừng và đi vào đó mà không biết. “Jona, Jona, Jona”, tôi kêu tên em và tiếp tục đi. Đường đi khó, mỗi lúc mỗi tối, mỗi rậm rịt, cành và rễ cây như muốn níu chân tôi, nhưng tôi vẫn tiếp tục.
Em phải hiểu là anh đã có thể đi đến tận cùng. Nếu phải băng qua mọi khu rừng trên thế giới, nếu phải phá trụi hết, nếu phải nhổ từng cây một để tìm ra Jona thì tôi cũng đã làm. Em phải hiểu điều đó.
Em đã tìm ra tôi. Như thường lệ. Bỗng Jona từ đâu xuất hiện trước mặt tôi nhưng em không phá lên cười. Lần này thì không. Em đưa tay lên miệng và ra hiệu tôi đi theo. Tôi nắm lấy bàn tay em rồi không buông ra nữa. Em đã kéo tôi đến tận ngôi nhà quỷ dữ. Ngay giữa khu vườn.
Đó là một ngôi nhà thật sự. Một túp lều gỗ bé tí tẹo, nhưng có cửa và mái. Phải thính mũi lắm mới xác định được nó. Chúng tôi đi vòng quanh túp lều để càng ít gây tiếng động càng tốt. Đằng sau là một chỗ được phát quang thông thoáng tựa một cái sân nhỏ bé, ở giữa có một bếp lửa đã tắt.
Một đám tàn lửa nhỏ bé. Cũng có một sợi dây nhỏ bắt ngang giữa hai thân cây và có những thứ được treo lên sợi giây đó. Thoạt tiên, tôi nghĩ đó là đám dơi nhưng rồi tôi nhận ra đó là những con sóc. Khoảng mười hai con sóc đang treo mình bằng hai chân sau trên dây. Chúng đã bị cắt đuôi. Chúng đã bị lột da. Jona nhăn mặt nhìn tôi.
Chúng tôi trốn dưới những tán cây một lúc nữa, rồi Jona cúi xuống nhặt cái gậy. Tôi không kịp ngăn hành động của em. Cái gậy đập vào cái lều, tôi nghe một tiếng động kinh hãi khắp vương quốc đó. Chúng tôi chờ nhưng không có chuyện gì xảy ra. Không ai đi ra cả. Jona nói:
“Anh lại đây.”.
Cánh cửa không khóa. Tôi chỉ cần đẩy nhẹ một cái là nó mở ra. Chúng tôi thò đầu vào trong. Tôi có cảm giác không có ai trong đó. Trong đó tối quá không nhìn thấy gì. Chúng tôi bước thêm một bước, một bước ngắn.
Jona dựa hẳn vào người tôi và tôi nghĩ mình cảm nhận được nhịp đập của trái tim em, hoặc nếu không thì đó là trái tim tôi. Rồi mắt chúng tôi quen dần và tôi bắt đầu nhìn thấy. Có một cái gì đó như một chiếc ghế nằm dưới đất, trên đó có chăn và da thú hay gì đó tôi không rõ. Còn có một cái rương gỗ lật ngược và một chiếc đèn cũ kỹ treo trên trần, một chiếc đèn tàu. Đó gần như tất cả những gì mà tôi đã nhìn được. Sau đó Jona kêu lên. Tiếng kêu làm tôi đinh tai nhức óc, đầu tôi quay ngược về phía sau. Tôi cảm thấy Jona níu vào tay tôi. Tôi rùng mình. Tôi quay lại nhìn và thấy đôi mắt đỏ trong bóng đêm.
Trong ngõ ngách sâu nhất của túp lều, trong chỗ tối tăm nhất, không có gì khác ngoài đôi mắt đó, những tưởng chúng tự bồng bềnh trong khoảng không. Đôi mắt nhìn chúng tôi chằm chằm. Đúng lúc đó chúng tôi mới biết đó là quỷ.
Cả hai chúng tôi kéo nhau ba chân bốn cẳng chạy đi, chạy, chạy bạt mạng.
Không biết con quỷ đó có đuổi theo chúng tôi không. Chúng tôi chạy một mạch về nhà ... Váy Jona bị rách tả tơi, da của em bị xước nhiều chỗ. Tôi những muốn liếm những vết xước đó để chăm sóc em.
Lần thứ hai chúng tôi nhìn thấy quỷ lại là lần cuối cùng.
Tôi có bịt tai cũng bằng thừa, tôi hãy còn nghe tiếng hét của Jona. Đầu tôi ong ong. Thế còn hơn là sự im lặng. Thế còn hơn là không gì hết. Bạn biết đấy, em vẫn đang ở đó. Em đang ở với tôi. Em đã không rời xa tôi. Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn của em và siết rất mạnh. Tôi đúng là đang nắm tay em. Em có thể đi đâu được chứ? Chúng tôi vẫn ở bên nhau, cả hai chúng tôi. Chúng tôi sẽ mãi ở bên nhau, phải không nào? Những kẻ nào phản đối là những kẻ dối trá. Đừng có nghe họ, Jona của anh ạ. Đừng có tin họ ....
Chỉ có mình tôi biết hết mọi chuyện. Những người khác còn có những lỗ hổng cần lấp đầy, và hẳn là họ sẽ không bao giờ có thể lấp đầy. Đúng là như thế. Run rủi thế nào số phận đã đặt trong tay tôi những tài liệu quý giá, những vật chứng chủ đạo trong trò chơi kỳ cục không phải là duy nhất ấy.
Chỉ có ở trong tay tôi, tôi nhắc lại.
Ở đây tôi muốn nói đến những cuốn vở màu xanh của Florence, tôi cũng muốn nói đến khoảng mười hai cuốn sổ của Ariel, những cuốn sổ đóng gáy xoắn, cỡ nhỏ, tất cả đều giống nhau, nếu như không phải là nội dung của chúng, trước mắt tôi hãy còn những tờ giấy đầy rẫy những ký hiệu, những dòng chữ bị gạch xóa, bẩn thỉu, những nét bút cẩu thả thường rất khó đọc.
Tất cả, những cuốn vở hay những cuốn sổ, giữa chúng có một mối liên hệ không tên.
Ariel và Florence có chung sở thích viết. Giãi bày tâm hồn, cởi mở tấm lòng của họ trên giấy. Mỗi người theo cách của mình, mỗi người có phong cách riêng, hẳn Florence là người có năng khiếu nhất về lĩnh vực này. Giờ đây tôi đang cố gắng theo kịp cô ấy.
Tôi cũng cần phải nói rõ là Florence không biết những tập giấy này đang nằm trong tay tôi. Cái này thuộc về những bí mật nhỏ của tôi. Vì thế mà có những sự hiểu nhầm và oán hận. Nhưng tôi nhận thức được rất rõ. Tất cả những lời nói, hành động của tôi chưa bao giờ chỉ có tình yêu đưa đường chỉ lối.
Tôi biết Ariel Weiss ở trường trung học, năm tôi học lớp mười một. Hồi ấy tôi đúng mười sáu tuổi. Hắn không nhập học như tất cả mọi người mà chỉ xuất hiện vào đầu quý hai. Sự xuất hiện rất được chú ý. Hắn đã bận quần áo màu đen từ đầu tới chân, đã đẹp trai phong độ lắm rồi, đã tỏ ra biết đời là gì rồi. Một người hùng đơn độc. Hồi ấy tôi nghĩ những kiểu người như thế chỉ có trong tiểu thuyết.
Đẹp và bí ẩn kết hợp với sự mới lạ:
hơn cả những gì cần thiết để làm cho bọn con gái chết mê chết mệt. Giờ Ariel hẳn là đề tài bàn tán của bọn con gái trong khi trong mắt họ, chúng tôi từ chỗ tàng tàng đến chỗ không gì hết. Thậm chí cái tên của hắn cũng đủ làm lu mờ những cái tên của chúng tôi, nào là Patrick và Philippe hay Matthieu, những người trần thế khốn khổ - Ariel không phải là tên của một vị thần linh hay sao?
Đối với mấy thằng nhóc trong lớp, bẽ bàng vì sự cạnh tranh bất ngờ và được xem là không trung thực ấy, đó trước hết là dấu hiệu của sự thất bại.
Ngay cuối tuần đầu tiên, trên bảng giáo viên chủ nhiệm, một hàng chữ “Ariel = Ômô” đã được viết bằng phấn hồng như rồng bay phượng múa. Tất nhiên là nặc danh rồi.
Người ta hễ tự vệ được là cứ tự vệ.
Hầu hết mấy thằng con trai ban đầu đều có ác cảm với vị khách không mời mà đến đó. Chúng bắt đầu căm thù hắn, với một nỗi căm thù gần như bản năng và cơ hồ dai dẳng. Tôi thuộc những người theo dõi tiếp trước khi đưa ra quyết định dứt khoát.
Nhưng sự thể là tất cả chúng tôi, con gái cũng như con trai, những cô gái si tình hay những chàng trai ghen tuông, tất cả chúng tôi đã bị hắn cuốn hút.
Tất cả đều đã bị mê hoặc.
Tôi nghĩ Ariel biết mình có ảnh hưởng như thế nào. Mặc dù vậy, hắn không lạm dụng. Bản chất của hắn là thế và hắn không tìm cách o ép bản chất của mình, kể cả trong nghĩa này hay nghĩa khác. Ít nhất là chưa. Thời điểm đó thì chưa. Chỉ sau này mới có tính toán.
Thế là tôi chờ xem. Không theo phe nào. Không mủi lòng. Tôi bắt đầu quan sát con người có khả năng, chỉ bằng sự hiện diện của mình, làm xáo trộn cuộc sống thường nhật của chúng tôi, làm cho cuộc sống của chúng tôi tan thành mây khói. Lúc đầu là từ xa, rồi càng ngày càng gần hơn theo mức độ bị mê hoặc của mình. Tôi đã rình rập hắn. Tôi đã theo dõi hắn. Tôi đã có thói quen nhớ từng cử chỉ, hành động của hắn. Mỗi lời nói của hắn như hoa thơm cỏ lạ, ngay lập tức được thu nhận và cất giữ trong chiếc bình trí nhớ của tôi.
Tôi chờ đến tối để tha hồ uống lấy uống để. Tôi uống đi, uống lại, uống cho cạn kiệt thì thôi. Khi bắt đầu chợp mắt, tôi tập hợp từng khuôn, từng mảnh trên khuôn mặt hắn để tái tạo lại. Đêm, tôi mơ về hắn. Khi hắn không làm cho tôi mất ngủ.
Chỉ trong một thời gian ngắn - chưa đến ba tháng ở trường - tôi đã đến mức như thế này. Gác hết tất cả các hoạt động khác, không còn chơi với một số bạn bè, bỏ bê việc học hành, tôi chỉ còn hứng thú với hắn, quan tâm tới hắn.
Ariel đã trở thành niềm đam mê duy nhất của tôi. Ám ảnh của tôi.
Tất nhiên điều này hắn không hề hay biết. Trong thời gian ba tháng đầu này, tôi không nhớ là hắn có ban cho tôi dù chỉ một cái nhìn hay không. Tôi không nhớ là hai chúng tôi đã không trò chuyện với nhau một tí nào dù chỉ là một lần. Cho dù bỗng dưng ngày hôm sau tôi biến mất thì chắc gì hắn đã để ý sự vắng mặt của tôi. Ngay cả vầng dương cũng không nhận ra sự phân li bất ngờ của một trong hằng hà sa số vì tinh tú khốn khổ đang bay quanh vầng hào quang của hắn. Những cảm giác thật lạ. Đúng là thái độ của tôi thật lạ.
Tôi có xu hướng phân tích và dò xét:
lý do duy nhất mà tôi đưa ra để giải thích cho cơn địa chấn cá nhân này, đó là hình như tôi thiếu cái gì đó, thiếu ai đó, để cho cuộc sống của tôi thực sự có ý nghĩa. Và người đó chính là hắn.
Ariel. Mặt trời đen. Với hắn, rốt cuộc tôi đã tìm ra những gì mà tôi không biết.
Một cách giải thích đơn sơ và không mấy thỏa đáng, tôi công nhận như vậy.
Nhưng tôi không có cách giải thích nào khác.
Bản thân tôi khi ấy là một chàng trai hơi đơn độc và e dè. Một trai hiền, như người ta nói, không bao giờ biết gây sóng gió là gì. Không mấy khó khăn để tôi mường tượng ra con đường nhẽ ra đã là của riêng tôi:
một con đường thẳng, phẳng lì, thông thoáng từ đầu đến cuối. Tôi tin nhiều người có quỹ đạo như vậy, chỉ vì trời trên đầu đất dưới chân đều chưa có ngày mở rộng để cho họ thấy sự mênh mông vô hạn của những thế giới cần khám phá.
Thiên đường cũng như địa ngục không phải là những nơi trừu tượng.
Tôi biết điều đó, tôi đã từng đến đó.
Tuy nhiên, thật lạ khi thấy rằng, về cơ bản, tôi vẫn luôn là một chàng trai hiền như trước đây. Và cuộc sống được miêu tả như thế, gần như dưới dạng tiềm ẩn, gần như đó là cuộc sống mà tôi hằng khao khát kể từ khi Ariel rời bỏ nó. Tôi muốn Florence và các con của tôi luôn ở bên tôi. Tôi muốn chúng tôi được sống an bình và thanh thản. Thứ hạnh phúc trong suốt.
Không còn di chuyển nữa. Thế thôi.
Phải chăng như thế để nói rằng Ariel đã chỉ là một cái ngoặc đơn, một sự lệch lạc quái dị trong đời tôi, hay, tệ hơn nữa, một lầm lẫn tuổi trẻ?
Tôi những muốn trả lời là đúng như thế.
Ariel dường như không bị tác động bởi thái độ của các học sinh khác đối với mình. Hắn vượt qua tất cả những thứ đó. Phải nói rằng những thứ đó không bay cao bay xa là mấy. Những lời mỉa mai cay độc của đám con trai, những chiêu câu khách của bọn con gái. Thường thì người ta hài lòng với việc nói xỏ nói xiên gì đó khi hắn đi qua, hoặc ngược lại là một tiếng cười khùng khục, một tiếng thở dài ồn ào ngây ngất trong chốc lát làm ngắt quãng những điệu nhạc lễ nhẹ nhàng. Người ta lườm hắn bằng những cú lườm chết người hay bạc nhược, nhưng không hề đụng đến hắn ta. Không ai dám thẳng thừng đối đầu với hắn. Trừ một thằng tên là Cartereau, một kẻ tỏ ra thẳng thắn và chính xác hơn trong những đợt tấn công của mình, tất nhiên là với mục đích củng cố vị trí đầu têu trong lớp của nó. Tôi sẽ nói thêm về chuyện này sau.
Về phần tôi, tôi cần nhiều hơn thế. Thời gian quan sát và tôn sùng từ xa đã qua. Tôi cảm thấy nhu cầu tiếp xúc càng ngày càng bức thiết. Chưa bao giờ tôi có cảm giác mạnh như thế.
Cái chiêu gián điệp của tôi không cho tôi biết thêm về Ariel là mấy. Tôi biết hắn ở đâu:
Ở trên một vách đá, bên bờ biển, trong một biệt thự xa hoa, hẳn là biệt thự đẹp nhất thành phố, điều này chỉ làm cho hắn có uy hơn. Tôi biết hắn có sở thích là thỉnh thoảng đi đến một cái vũng biệt lập nào đó, nơi không ai trông thấy rồi đứng trên một tảng đá ngắm nhìn gì đó dưới nước hoặc ngoài khơi. Hắn đứng đó vài ba phút. Một thói quen khác của hắn mà tôi đã để ý qua nhiều lần theo dõi, một thói quen thú vị:
bên ngoài trường có một băng tội phạm trẻ em, những kẻ khi cần có thể tống tiền hoặc bán thuốc phiện - người ta thường gọi chúng bằng một cái tên chung là “tụi mạt hạng”.
Bọn này đã bỏ học, chỉ quanh quẩn gần đó vào giờ tan trường để bán hàng.
Chúng tôi biết mặt chúng nó, và chúng tôi chú ý tránh bọn chúng càng xa càng tốt.
Nhưng Ariel thì không làm thế. Tôi đã bắt gặp hắn nhiều lần cố tình lân la lại gần những tên vô lại đó và chuyện trò với chúng. Tôi thấy hắn đi cùng chúng đến một quán bar tồi tàn được chúng chọn làm đại bản doanh tại trung tâm thành phố. Tôi thấy chúng trao đổi nhau những thứ gì đó bí mật qua những cái bắt tay giả vờ và mau lẹ. Điều mà không ai tin được, đó là bọn lưu manh này đối xử ngang hàng ngang lứa với hắn. Chúng chào hắn.
Chúng tôn trọng hắn.
Điều đó thừa đủ để làm cho tôi càng tò mò hơn, nhưng quá ít để thỏa mãn sự tò mò đó.
Thêm vào đó là kỳ nghỉ Phục sinh đang đến gần và điều này khiến tôi đắm chìm trong lo sợ. Như thế đồng nghĩa với việc mười lăm ngày không gặp hắn, tôi tự hỏi một cách nghiêm túc là mình có cầm cự được không, và cầm cự như thế nào.
Trong hai tuần lễ dài lê thê này, phần lớn thời gian tôi lởn vởn quanh nhà hắn. Tôi cố gắng để không bị để ý, điều này không phải là việc nhỏ trong một khu phố giàu có và ít người lai vãng, nơi mà một người đi bộ thôi cũng có thể bị xem là một kẻ trộm cắp hèn hạ. Nhưng tôi bắt đầu giỏi phát hiện những nơi trú ẩn và có khiếu theo dõi những kẻ đáng nghi.
Khốn nỗi điều đó không giúp ích gì cho tôi. Ariel vẫn luôn vô hình trước mắt tôi. Tôi không thể nhìn thấy dù chỉ là bóng dáng của hắn, dù chỉ một lần duy nhất, không phải vì tôi không dò xét tất cả các cánh cửa sổ của ngôi nhà (lòng chắc mẩm cánh cửa này hay cánh cửa kia là phòng hắn), hay không rình rập giữa những bóng cây um tùm trong khu vườn tuyệt diệu mà những cửa sổ đó hướng ra. Tôi đã dành hàng giờ cho việc ấy. Trên thực tế, thậm chí tôi không biết Ariel có ở đây không nữa. Người duy nhất mà tôi đã thấy ở đó là một người đàn ông khoảng năm mươi tuổi, người cao, gầy, đầu gần hói hết. Chiều hôm đó, ông ta ra sưởi nắng ngoài thềm. Ông mặc một chiếc áo sơmi trắng và một chiếc quần dài nhưng lại đi chân đất. Ông ngồi trên một chiếc ghế sắt, tay cầm một cái ly rồi uống từng ngụm nhỏ suốt nửa tiếng đồng hồ. Sau đó ông vào nhà. Tôi nghĩ đó là cha của Ariel. Tôi đã đúng.
Điều mà tôi không thể ngờ lúc đó, đó là vài năm sau, tôi có dịp được gặp lại người đàn ông này khi ông ta đã chết, xác bị gập lại dưới vách đá, cách chỗ mà lúc bấy giờ tôi nấp khoảng hai mươi mét.
Khi đó tôi đã biết chuyện của họ.
Nhưng hiện tại, việc nhìn thấy người này đối với tôi chỉ là một sự an ủi quá nhỏ nhoi. Từ những chuyến dò la này, tôi trở về tay không mà lại còn bất mãn. Trơ trọi.
Kỳ nghỉ đáng nguyền rủa này chỉ có một mặt tích cực:
cuối cùng tôi đã tìm ra cách để tiếp xúc với thần tượng của mình. Không phải là không vò đầu bứt tóc. Hẳn vì quá e dè, tôi tìm cách làm một việc ngoạn mục cho lần đầu tiếp cận này. Một ngón gì đó thật lớn và chắc ăn, vì tôi nghĩ sẽ không có cơ hội thứ hai. Cái gì đó như kiểu:
một mất một còn, được làm vua thua làm giặc. Trong vô số những kế hoạch lờ mờ đã thoáng qua đầu, tôi chỉ nêu ở đây kế hoạch được thông qua.
Ở nhà tôi có một thứ vũ khí. Một khẩu súng lục. Tôi không rõ nguồn gốc của nó và vì sao mà nó ở đó. Cha tôi là một người ăn ở hiền lành nên tôi không nghĩ ông đã tìm cách có đồ vật ấy, sử dụng nó lại càng không. Vả lại, khẩu súng này được giấu kín trong một tủ tường, lẫn vào những đồ vật linh tinh.
Có thể nó đã bị lãng quên. Hai hay ba năm trước, tôi đã mó được khẩu súng đó khi đang lục lọi gì đó. Cái gói được bọc tấm vải dày bụi bặm có buộc một sợi dây nhỏ đã làm cho tôi phải suy nghĩ. Tôi nhớ khi mở cái bọc đó ra, tôi đã khẽ rùng mình. Đó là một khẩu súng có vẻ ngoài khá ấn tượng và rất giống với những khẩu súng mà các tội phạm hay cảnh sát thường dùng trong phim ảnh. Vài phút sau, khi đã loại bỏ nhiều kẻ vô hình và bất lương đang muốn lấy mạng tôi, tôi cẩn thận bỏ khẩu súng đó vào chỗ của nó và sau đó đến lượt mình cũng quên bẵng đi.
Đến hôm đó.
Tôi thấy ý tưởng của mình thật tuyệt. Một phát hiện. Tôi không lưỡng lự một giây. Lợi dụng lúc cha mẹ vắng nhà, tôi lấy khẩu súng ra, vứt bỏ tấm vải bọc rồi bỏ vào cặp. Tôi lại đi học. Khẩu súng vẫn chưa được rút ra từ cái bao mới của nó, tôi để khẩu súng lẫn trong sách vở và đem theo mình. Thật khoái khi tôi nghĩ đến nó! Rồi, hết ngày thứ năm, cơ hội mà tôi đang rình rập cuối cùng đã lộ ra. Tôi theo dõi Ariel. Tôi bắt quả tang hắn đi gặp bọn thanh niên hư hỏng trong phố một lần nữa. Bọn chúng vào quán bar. Tôi chờ Ariel ra rồi tiếp tục theo dõi hắn. Khi gần đến nhà hắn, tôi chạy hết sức mới đuổi kịp hắn. Tôi thấy chỗ ấy thích hợp vì vắng bóng người. Có lẽ hắn nghe tiếng bước chân của tôi sau lưng nên quay lại trước khi tôi gọi hắn.
– Chào cậu, tôi nói.
Hắn không trả lời. Hắn im lặng nhìn chằm chằm vào mặt tôi. Cách đó một giờ, trong lớp, tôi còn cách hắn hai hàng ghế, nhưng tôi biết hắn phải mất một ít thời gian để nhận ra tôi. Như một người từ quá khứ hiện về trong mơ hồ. Tôi có chuẩn bị cũng bằng thừa, hắn đã chơi tôi một vố khá đau. Tôi nói luôn:
– Cậu gặp phiền toái gì à?
– Phiền toái ư? Hắn hỏi lại.
– Với những thằng cha đó. Những thằng ở cổng trường đấy. Hình như mình đã thấy cậu đi với chúng nó. Mình thắc mắc không biết cậu có gặp rắc rối gì không ...
Sự thể không như tôi mong đợi. Tôi những mong một giọng điệu chắc chắn và cứng rắn hơn. Một giọng điệu hoàn hảo. Giọng của một lãnh chúa thực sự.
– Không, - hắn nói - không có phiền toái gì. Tôi lắc đầu.
– Nếu cậu cần mình giúp một tay thì đừng ngại nhé. Những gì cần mình có trong này.
Tôi vỗ vỗ cái cặp của mình. Tôi chờ một câu hỏi nhưng hắn không e hè.
– Cậu muốn xem không? Tôi nài nỉ.
Hắn tiếp tục nhìn tôi chằm chằm mà không nói gì. Tôi cho đó là một sự tán đồng. Tôi không thể chịu đựng được nữa. Tôi mở cặp ra và thò tay vào, tôi liếc ngược liếc xuôi, rồi trong khi mà trong đầu lùng bùng tiếng trống, tôi từ từ, rất từ từ lôi khẩu súng ra.
Không hài lòng với chính mình. Thanh kim loại diệu kỳ trong lòng bàn tay. Nếu xoay được khẩu súng trên đầu ngón tay trỏ như những tay cao bồi miền Tây thì tôi đã làm rồi.
Tôi đã nói là tôi mới mười sáu tuổi mà. Và tôi bị đam mê làm cho mù quáng. Làm sao tôi có thể nhận ra sự buồn cười và tình cảnh thê thảm lúc đó?
Một nụ cười phác họa trên bờ môi hắn. Cả nỗi niềm trắc ẩn của hắn. Đó là phản ứng rõ ràng duy nhất của hắn.
– Đồng ý, - hắn nói - mình sẽ để ý.
Rồi hắn quay lưng đi, bỏ mặc tôi một mình trên vỉa hè với khẩu súng nặng một ký trên tay và ý muốn nhảy xuống sông mà chết quách cho rồi ...
Tôi đi chưa được năm trăm mét đã phải vội vàng đậu xe bên vệ đường.
Tôi nhoài người ra và nôn thốc nôn tháo trên vỉa hè dưới con mắt tức giận của một ông già đang đưa chó đi đạo. Mùi cà phê Arabica bốc ra từ ruột gan. Đó là những gì tôi có trong bụng. Ông già kéo xích chó để cho con vật không lại hít bãi nôn. Tôi dựa người vào capô để bụng bớt co thắt. Rồi tôi ngồi lại, thề sẽ không bao giờ đặt chân đến thành phố này nữa.
Khi đi về tôi chạy xe không nhanh hơn. Tôi cần tái tạo không khí trong xe:
cửa đóng kín, tiếng vù vù nhẹ nhàng của động cơ, một kênh nhạc cổ điển mà rốt cuộc tôi đã dò được. Tôi nhận ra Brahms. Bản giao hưởng số 1 cung đô trưởng. Cần gạt nước mưa đánh lạc nhịp. Mẹ tôi những muốn tôi trở thành nhạc trưởng.
Hy vọng vỡ tan. Tôi đã mất mười một năm học xướng âm và piano trước khi mẹ tôi nhận ra sự thể và chấp nhận thất bại:
thằng con đáng yêu của bà có khiếu với nghệ thuật này như một con tê giác có khiếu với bộ môn khiêu vũ.
Cha tôi thì ngao ngán trong thầm lặng. Ông những muốn tôi đeo đuổi sự nghiệp nhà binh theo gương ông. Hy vọng bẽ bàng. Mặc dù vậy, cảnh sát quốc gia có một số điểm giống với quân đội:
tính nghiêm ngặt và kỷ luật được coi là những đặc trưng chung cho hai ngành, và gây chiến để gìn giữ hòa bình là sứ mệnh chung đầy nghịch lý của cả quân đội và cảnh sát. Cớm chẳng qua là một nghề bất đắc dĩ. Cha tôi ít đau lòng hơn mẹ tôi về cái nghề này.
Nhưng rốt cuộc chỉ có Mozart mới khoái chí về quyết định của tôi.
Tôi dừng lại ở cây xăng đầu tiên trên đường cao tốc. Tôi tìm thấy một cabin điện thoại và bấm số của Sở cảnh sát. Một giọng đàn ông khá trẻ vang lên từ tổng đài. Không thể biết người nói là ai. Phân nửa con số đã thay đổi theo năm tháng còn tôi thì không giao thiệp với tất cả những cảnh sát mới được nhận vào. Tôi không quen biết gì họ còn họ thì chỉ mới nghe danh tôi thôi. Tôi xưng tên với gã trực điện thoại rồi yêu cầu anh ta cho tôi được nói chuyện với cảnh sát trưởng. Tên vô lại oắt con đó đã bắt tôi phải chờ đợi.
Tôi phải chờ thêm một phút nữa. Đúng lúc tôi định dập máy thì một tiếng alô vang lên từ bên kia đầu dây. Khô khốc. Quả quyết.
– Georges đấy à? Tôi hỏi.
– Đúng vậy.
– Mình, Alexandré đây.
– Ừ.
Một lúc. Không vấn đề. Dĩ nhiên, tôi đang làm phiền.
– Mình chỉ muốn báo trước cho cậu thôi, - tôi nói - Cậu sắp được nhận thêm chiến lợi phẩm rồi.
– Có nghĩa là?
– Có nghĩa là xong rồi, mình đã tìm ra hắn. Một lúc.
– Ai kia? Cậu đang nói với mình về việc gì thế?
– Đúng ra, hắn chính là người đã tìm ra mình thì đúng hơn, tôi sửa lại. Một lúc. Hít thật sâu rồi tắc tị. Rồi cậu ta buột miệng:
– Mình biết đó thực sự không phải là vấn đề của cậu, Alex ạ, nhưng mình đang vội lắm. Như thường lệ. Cho nên, nếu cậu có điều gì đó muốn nói với mình thì làm ơn nói rõ hơn một tí!
Nén tức giận. Câu nói đó không xứng để tôi nổi khùng. Nhưng tôi cóc quan tâm đến ngón bịp của cậu ta. Tôi vẫn giữ nguyên giọng điệu.
– Mình đang nói với cậu về thằng bạn cũ của mình ấy mà, - tôi nói – Édouard Dayms. Bạn thân thường gọi hắn là Ed.
Một khoảng lặng. Rồi thở dài, rất dài. Từ đây tôi có thể thấy bộ mặt của cảnh sát trưởng Georges Hasbro. Người này đã từng là đồng nghiệp của tôi.
Đồng đội của tôi. Bạn thân của tôi. Tôi có thể mường tượng ra anh ta đang chống khuỷu tay lên bàn, đang banh mắt ra bằng ngón út và ngón trỏ ...
Georges Hasbro đã thăng tiến nhanh như tôi bị hạ xuống bậc thấp nhất. Vào khoảnh khắc đó, tôi có thể nắm bắt được dòng suy nghĩ của cậu ta. Tôi cắt ngang trrước khi cậu ta nói tiếp.
– Không, - tôi nói - Không, Georges ạ, mình đã không tái phạm. Mình hoàn toàn đang nhịn mà, và mình không có gì mờ ám cả.
Cậu ta bắt đầu rên rỉ:
– Quỷ thật, Alex ... Chuyện đó sẽ không tái diễn chứ?
Gần như van lơn. Chỉ tí xíu nữa thôi là tôi đã thương hại anh ta.
– Không có gì tái diễn cả, - tôi nói - Trái lại. Lần này thì xong rồi. Thực sự kết thúc rồi. Thằng đần ấy đã tự bắn vào đầu. Cái đầu tuyệt diệu của hắn chẳng còn cái gì đáng kể.
– Gì? ... Alex?
Tôi cảm thấy giọng cậu ta bắt đầu hoảng hốt. Sự nghi hoặc. Bán tín bán nghi ngay lập tức, một sự nghi ngờ không nói thành lời. Tôi trấn an cậu ta:
– Mình không làm gì đâu. Nếu mình làm thì mình cũng chẳng giấu giếm làm gì. Cậu biết mà. Thậm chí mình không có quyền được đền bù như thế.
Viên cảnh sát trưởng nuốt ừng ực trong điện thoại. Nhẹ nhõm cả người.
Bớt phiền toái.
– Đĩ thật, mình thật không ngờ! - Anh ta thở phào - Giờ hắn ở đâu?
– Đang ở nhà hắn. Ở Saintes. Ở cái lán to bên bờ biển, cậu nhớ chứ?
Ước chừng xác hắn đã được mười hai ngày. Mình nghĩ hắn đã tự sát vào ngày mùng một tháng giêng, để ăn Tết theo cách của hắn. Người ta sẽ nói đó là cách giải quyết hay ho, phải không nào?
– Và làm sao cậu ...
– Chưa phải bây giờ, Georges ạ. Sau này sẽ có lời giải thích.
Tôi quá biết cảnh sát nên không tội gì lâm vào tình thế bất lợi. Cảnh sát trưởng thôi không hỏi han gì nữa, tôi có là cấp dưới hạng bét nhất của anh ta cũng bằng thừa, anh ta không còn quyền hành gì đối với tôi nữa.
– Giờ thì cậu tạm thời thưởng thức đã, - tôi nói - Sự vụ đã đâu vào đấy. Đó là một tin vui, phải không nào? Những con số thống kê càng to lên theo chiều hướng có lợi cho ngài, thưa ngài cảnh sát trưởng. Xin chúc mừng. Và xin gửi những lời chúc tốt đẹp nhất cho toàn đội!
Tôi dập máy. Bỗng chân tay mềm nhũn, đầu óc quay cuồng. Tôi phải dựa người vào tường một lúc. Những lời mỉa mai cay độc mà tôi nói ra không làm cho tôi nguôi ngoai tí nào cả. Tôi cố lê bước giữa những quầy hàng, tìm mua một cái bánh mì kẹp giămbông phó mát, một gói lạc rang mặn và một chai nước khoáng lớn. Trong mắt của ả bán hàng, một người lùn mập đeo kính, tôi đọc được những điều làm tôi xấu hổ. Tôi vừa lái vừa ngốn hết gói lạc và toọc hết chai nước. Tôi không động đến bánh mì kẹp - vẫn còn nguyên gói, ngoan ngoãn nằm thế chỗ xác chết. Mưa bụi vẫn rơi.
Những âm thanh từ những nơi khác đến tràn ngập trong xe. Liszt, Ravel, rồi Bach. Tạ ơn Chúa.
Tôi về nhà. Như mỗi lần bước qua ngưỡng cửa, hơi ngạc nhiên vì chẳng có gì thay đổi trong khi tôi vắng nhà. Tôi chưa bao giờ quen với điều đó. Lúc ấy là bốn giờ chiều và đêm từ từ buông xuống. Tôi vào phòng mình. Ngồi lên giường, tôi rút khẩu Beretta ra và tháo hết những viên đạn còn lại. Tôi bỏ lại khẩu súng vào ngăn kéo của cái bàn đầu giường. Cả đạn nữa. Tôi nghĩ đến những cái vỏ đạn vương vãi ở nơi ấy nghĩ đến những vết đạn bắn lên tường, nghĩ đến dấu tay và dấu giày của mình. Nhiều dấu vết quá. Truy ra tôi là một việc mà bất cứ viên cảnh sát tập sự nào cũng có thể làm. Nhưng tôi tin cảnh sát trưởng Hasbro có thể tẩy sạch những chi tiết này và làm cho bọn cớm phải câm họng. Không cần sốt sắng. Anh ta chẳng quan tâm đến việc bỏ những con sư tử vào chuồng của tôi.
Còn bây giờ? Tôi nghĩ.
Tôi ngả người nằm dài trên giường. Một hố sâu màu đen nuốt chửng lấy tôi.
Còn thêm non hai tháng nữa tôi mới gặt hái được những thành quả do sự nỗ lực của mình. Những gì tôi đã làm được cho đến thời điểm đó, là được Ariel để ý. Kể từ đây sáng nào tôi cũng có quyền được hắn khẽ gật đầu chào, thỉnh thoảng hắn còn ban thêm cho tôi một vài cái nhìn trong ngày.
Bằng chứng cho thấy tôi đã thành công trong việc tách mình khỏi đám bạn.
Một kết quả suy cho cùng không đến nỗi tồi, nhưng còn cách những gì tôi mong đợi những năm tháng huy hoàng. Tôi e mình phải tự hài lòng với kết quả đó.
May thay còn có Cartereau. Người bạn cao, to, béo, lực lưỡng Cartereau. Một người sống trong hang kiểu mới. Có Lombric siêu phát triển.
Bạo quân của lớp, ít nhất đã có ba năm ở lại lớp, cơn ác mộng của các giáo viên nhưng không thể bị đuổi học vì hắn là đồng bọn với chú họ của ông thị trưởng (người ta còn đồn hắn chính là con hoang của quan chức đứng đầu).
Tay hắn dài bao nhiêu thì mắt hắn thiển cận bấy nhiêu.
Cartereau, giá như mày biết được. Vào thời đó, tao có thể hôn chân mày vì những gì mà sự ngu ngốc và bản tính độc ác của mày đã vô tình mang lại cho tao. Tôi đã nói là Cartereau là người duy nhất dám đối đầu với Ariel. Phải công nhận hắn dũng cảm, cho dù hắn cậy thế được bao che vô tội vạ.
Tốc độ tấn công của hắn đã được tăng lên trong mấy tuần vừa qua, kể cả sự tàn nhẫn cũng thế. Từ lời nói chúng chuyển sang hành hạ thể xác. Châm chọc và chửi rủa chưa đủ. Giờ chuyển sang dùng giấy vò lại và tẩy ném vào mặt. Những cú huých trong hành lang. Những cú xô đẩy. Những cú quèo chân. Đó là cách dùng cả cơ thể lực lưỡng để cản đường.
Cartereau khiêu khích nhưng Ariel không hề phản ứng. Hắn lảng tránh. Không phải vì sợ hãi mà đúng hơn là vì khinh bỉ. Để không chịu theo hình thức dọa dẫm này. Để không hạ mình ngang tầm tên đồ tể. Cũng có thể vì chắc hẳn hắn biết là sự đáp lại của mình sẽ rất kinh khủng và mang tính quyết định. Chính vì thế mà mọi việc bây giờ thành thứ như tôi đang thấy. Những hành động của Cartereau chưa bao giờ được thực hiện mà không có nhân chứng. Chúng diễn ra trước mặt bọn xun xoe của nó, một băng đồ tể hạng xoàng, cả bọn cộng lại chưa chắc đã bằng hắn. Và trước mắt tôi. Mỗi lần mà tôi nhìn thấy cảnh đó, tim tôi thắt lại, nắm tay siết chặt. Tôi nôn nóng xông vào. Nhẽ ra tôi đã xông vào rồi, bất chấp sự đáng sợ của Cartereau, nhẽ ra tôi có thể lao vào hỗ trợ Ariel nếu tôi chắc chắn làm như thế là giúp hắn. Nhưng trực giác mách bảo tôi để mặc hắn một mình tùy hắn. Đó là chưa tính đến tình tiết khẩu súng đã phần nào xoa dịu tôi. Rủi ro thực sự cho tôi không phải là bị Cartereau đánh một đòn chí mạng, cũng không phải là hứng phải cú đánh thứ hai của Ariel. Tay tôi vẫn chìa ra, hắn có bắt hay không thì tùy.
Kiên nhẫn ... như tôi vẫn thường nói.
Đối với những hạng người như Cartereau thì chiến thắng chỉ có thể mang tính đè bẹp. Toàn bộ sự tinh tế của hắn được ẩn chứa trong cái mông to bự, cái mông mà rốt cuộc hắn phải ngồi lên đối thủ mới được.
Thế nên phải chờ, và một hôm hắn đã có một cử chỉ thừa thãi. Cử chỉ này đã làm cho cuộc sống của tôi thay đổi theo một cách nào đó. Nhờ cử chỉ đó mà tôi đã hết lời ca tụng hắn trong một thời gian dài.
Một cái tát. Một cái tát ác ý ở cửa phòng thay đồ. Như trời giáng. Tôi hãy còn nhớ tiếng bép khô khốc và dấu bàn tay lực lưỡng của hắn trên má Ariel. Tôi còn nhớ sự im lặng tiếp theo. Không cười khẩy mà cũng chẳng cười to. Tất cả những ai làm chứng đều nhận ra ngay tính nghiêm trọng của sự việc. Một quả bom nổ trong hành lang chưa chắc đã gây chấn động hơn với chúng tôi. Cartereau vẫn đứng vững, đã chuẩn bị tư thế đáp trả. Tư thế giết người. Bởi vì tất cả chúng tôi đều thấy rõ là Ariel không thể nào thoát được nữa. Sự đối đầu đó quá trực diện, sự làm nhục đó quá cay độc nên hắn không còn có thể trốn tránh hay trì hoãn. Dù sao thì đó đúng là điều mà hắn có vẻ đang làm ngay khi đó. Sau khi lấy tay nhẹ nhàng xoa má, Ariel nhặt chiếc cặp đã bị rơi rồi đeo vào vai. Rồi hắn nhìn đối thủ một lúc mà không nói lời nào. Miệng hắn nở một nụ cười là lạ, nụ cười mà mãi sau này tôi mới cắt nghĩa được. Cuối cùng, hắn quay người bỏ đi.
Cho đến khi hắn mất dạng đầu hành lang, tôi vẫn nghĩ hắn giả vờ. Một chiến thuật gì đó. Hắn lấy đà, đột nhiên quay ngoắt lại và chạy đến bất ngờ giáng cho thằng béo đang chuẩn bị vênh vang một cú đấm chí mạng.
Thú thật là tôi hy vọng thế. Bất chấp khả năng bị Cartereau đè bẹp.
Tôi những muốn như thế hơn. Lần này, việc hắn không có phản ứng gì đã làm cho tôi rất xao động. Điều đó phần nào đã làm mờ đi cái vầng hào quang tuyệt vời và thiêng liêng mà tôi bao quanh hắn. Tôi có sai lầm không nhỉ? Có bị lừa phỉnh không nhỉ? Phải chăng thần tượng của tôi chỉ là một kẻ nhút nhát, hèn hạ, vĩnh viễn chỉ là một con người bình thường?
Tôi không kể đến sự đắc thắng của Cartereau.
Phải mất bốn mươi tám tiếng đồng hồ để cho những nghi ngờ của tôi tan biến, cuối cùng thì sau hai ngày Ariel đã quyết định bắt tay với tôi.
Chuyện đó xảy ra cách nhà tôi khoảng bốn đến năm trăm mét. Buổi tối, tôi đi học về. Ariel chờ tôi bên đường. Hắn chờ tôi! Hắn dựa người vào một cột đèn đường. Câu đầu tiên hắn nói với tôi, đó là:
– Cậu vẫn giữ thứ ấy chứ?
– Cái gì? Tôi hỏi lại. Rồi, giây tiếp theo:
– Súng à?
– Súng, Ariel nói. Tôi gật đầu.
– Mai 17 giờ hẹn gặp trước quán La Sirène nhé, - hắn nói - cậu biết chứ? Tôi lại hồ hởi gật đầu.
– Nhớ mang theo nhé, Ariel nói.
Hắn bỏ đi, không nói thêm lời nào nữa. Tôi còn nhớ mình đã ngửa mặt nhìn trời. Có thể là để tạ ơn. Cũng có thể là để tìm câu trả lời, nhưng trên trời không có câu trả lời nào cả.
Đêm trắng. Nhớ lại những sự kiện vừa xảy ra và một loạt câu hỏi được đặt ra. Bốn hay năm câu trao đổi gì đó với Ariel, hẳn tôi đã nhắc đi nhắc lại hai trăm lần trong nhà hát tí hon của riêng mình. Tôi chỉ bắt đầu thoáng thấy những hậu quả có thể xảy ra cho những hành động của tôi. Tôi là người đề nghị giúp đỡ hắn. Tôi là người cho hắn xem súng. Tôi chỉ tìm cách lôi cuốn sự chú ý của hắn, gây ấn tượng với hắn, hắn chộp ngay lời đề nghị của tôi. Tôi không thích Cartereau, nhưng lại không muốn giết hắn! Vì tôi chắc chắn đó là ý định của Ariel. Và, không thể tránh khỏi, tôi sẽ là đồng lõa với Ariel. Chúng tôi sẽ cùng giết Cartereau!
Tôi biết, bề ngoài nhìn vào thì người ta nghĩ rằng tôi còn có lựa chọn. Có vẻ như tôi đã có thể dừng lại ở đó. Từ bỏ ý định. Thậm chí tôi đã có thể cố thuyết phục Ariel từ bỏ quyết định của mình.
Khuyên can Ariel! .... Thật là những từ ngữ trống rỗng. Vô nghĩa. Ai hiểu tôi thì sẽ biết tại sao.
Bốn giờ sáng, một lần nữa tôi lặng lẽ đi lấy khẩu súng ở kho chứa đồ rồi bỏ vào cặp.
La Sirène là một quán cà phê ở đầu cảng. Tôi đến nơi được nửa phút thì bỗng nghe tiếng còi ôtô. Tôi cúi xuống ngó những chiếc ôtô đang đậu dọc vỉa hè. Qua kính chắn gió của một chiếc xe hơi, tôi nhận ra Ariel. Hắn đang ngồi ở vô lăng. Tôi mở cửa xe và ngồi bên cạnh hắn.
– Cái xe này là gì vậy? Tôi hỏi.
– Xe mình đấy, Ariel vừa trả lời vừa cho nổ máy.
– Vì ... vì ... cậu đã đến tuổi lái xe rồi ư?
Kiểu nhận xét tầm thường mà hắn ghê sợ. Ánh mắt của hắn đã cho tôi thấy ngay điều đó, và, như thể ngần ấy là chưa đủ, hắn nói thêm:
– Thế cậu đã đủ tuổi đi chơi cùng một khẩu Ruger calip 38 đặc biệt trong cặp rồi ư?
Nhờ vậy mà tôi biết được mác của khẩu súng mà tôi mang theo.
Ariel cho xe chạy. Tôi nghĩ tốt hơn là không hỏi chúng tôi đang đi đâu. Chúng tôi lặng lẽ ngồi trên xe khoảng hai mươi phút. Quá ít, thực quá ít.
Tôi đã có thể dốc hết tiền túi để được đi thêm vài vòng nữa. Một sự hưng phấn câm lặng và diệu kỳ bắt đầu xâm chiếm lấy tôi. Cảm giác về những sợi dây vô hình cuối cùng cũng được gỡ ra, những sợi dây cho đến lúc đó đã ngăn cản tôi vươn cao vươn xa. Chiếc xe đó là một con Saab. Nếu ngồi trên một tấm thảm bay hoặc trên lưng một con đại bàng thì chưa chắc tôi đã cảm thấy thoải mái hơn. Thế giới đang ở dưới chân tôi. Nhìn xuống tôi có thể thấy ngay phía dưới những con vật nhỏ đáng sợ đang bò lúc nhúc. Đó chỉ là một cái nhìn thoáng qua. Nhưng hẳn tôi đang chạm tay vào cái mà tôi có cảm giác mơ hồ mà Ariel sẽ mang đến cho tôi:
sự giải thoát.
Lúc hạ cánh còn gay go hơn. Tôi lại nhận ra vấn đề đúng vào lúc mà Ariel cho xe rẽ vào con đường dẫn tới quán Baulinh. Chúng tôi đang ở cách cửa ngõ phía tây của thành phố bốn cây số. Thời đó chỗ này chưa được quy hoạch thành khu thương mại và các siêu thị lớn đang còn manh nha dưới những mảnh đất hoang. Chỉ có quán Baulinh đã mọc lên. Một tòa nhà lớn hình chữ nhật thấp lè tè, phía trên là một cái biển hiệu rất to màu hồng. Bãi đậu xe nằm phía sau quán.
Khoảng mười xe ôtô đã đậu ở đó. Ariel cho xe chạy chậm lại, kiểm tra từng xe một, chăm chú quan sát toàn khu vực như đang chọn chỗ đậu xe một cách cẩn thận. Tôi vẫn không dám hỏi han gì hắn. Cuối cùng hắn cho xe đậu đối diện với bờ tường, hơi xa những xe khác. Hắn tắt công tắc. Mắt hắn chăm chăm nhìn vào khoảng không trong chốc lát rồi quay về phía tôi.
– Cho xem nào, hắn nói.
Tôi nhặt chiếc cặp dưới chân lên. Tôi mở cặp ra. Tôi lấy súng.
– Ít nhất là nó có đạn chứ? Ariel hỏi.
Câu hỏi đó như một cú đấm vào bụng. Không phải vì ẩn ý của nó mà, thật ngớ ngẩn, là bởi vì tôi chưa bao giờ tự đặt câu hỏi đó với chính mình.
Thật không thể nào tin được, tôi chưa nghĩ đến điều đó!
Tôi đỏ mặt tía tai vì xấu hổ. Tôi lắp bắp trong tiếng thì thào:
– Mình ... mình không biết ...
Ariel cắn môi, thở một hơi dài qua hai lỗ mũi. Hắn lấy khẩu súng từ tay tôi. Chưa đầy ba giây hắn đã tháo ổ đạn ra, xoay ổ đạn trên trục rồi lắp lại với một tiếng “cách” nhỏ, rõ ràng và chính xác. Kiểm tra đã xong. Như thể ngày nào trước mỗi bữa ăn hắn cũng làm việc đó.
– Không, - hắn buột miệng - Không có đạn. Tôi thấy tốt hơn hết là im lặng.
– Ta sẽ dùng tới nó, Ariel nói mà không nhìn tôi.
Việc biết khẩu súng không được nạp đạn gieo vào lòng tôi một cảm giác kỳ lạ, vừa nhẹ nhõm nhưng cũng vừa thất vọng. Tôi chờ một lúc, rồi mới lí nhí hỏi:
– Ta làm gì ở đây?
– Chờ, Ariel trả lời.
Khoảng 18 giờ 30 thì Cartereau đến trên con xe Renault 5 Alpine cải tiến, chủ yếu màu đỏ và mạ vàng. Trước khi thấy xe xuất hiện tôi đã nhận ra tiếng ồn của ống xả. Không thể lẫn vào đâu được. Cartereau thì đã đến tuổi lái xe. Hắn đã ở lại lớp hai lần, ba lần, bốn lần. Hắn là một trong những học sinh hiếm hoi trong trường có xe hơi.
Hắn ngồi một mình trong xe. Hắn đậu xe gần như bên cạnh chúng tôi.
Hắn không trông thấy chúng tôi. Hắn ra khỏi xe. Khi hắn đóng sập cửa xe lại thì Ariel mới mở của xe. Tôi do dự khoảng một phần tư giây rồi mới đi theo hắn. Cartereau quay mặt về phía hắn và có lẽ hắn cũng nhận ra tôi đang vội vã chạy theo sau. Lúc đầu hắn tỏ ra ngạc nhiên, rồi môi hắn co lại thành một nụ cười đểu cáng, hằn học, khinh khi, nụ cười này bất động ngay khi hắn thấy nắm đấm của Ariel và cái mà Ariel đang cầm trong tay.
Ruger, calip 38 đặc biệt - tôi đã thuộc bài rồi.
Thằng béo tái mặt. Hắn từ từ lùi lại, cuối cùng gót chân hắn đụng phải bức tường cao mù mắt của quán Baulinh. Ariel tiến lại.
– Mày định làm g ...? Cartereau nói.
Hắn không thể nói xong câu. Tôi là người đầu tiên ngạc nhiên về hành động thô bạo và mau lẹ của Ariel. Cả trọng lượng của khẩu súng đã đập vào mặt Cartereau, đúng vào sống mũi làm nó vỡ ngay. Tôi nghe thấy âm thanh giống như tiếng vỏ ốc sên bị người ta giẫm phải - phải chăng chỉ do tôi tưởng tượng? Tôi rùng mình. Máu bắt đầu rỉ ra. Cartereau đã mở miệng để hét toáng lên về cơn đau và nỗi sợ hãi của mình, Ariel lợi dụng lúc đó để nhấn sâu nòng súng vào cổ họng hắn.
– Có việc gì vậy, Cartereau? - Hắn nói - Mày đau à? Mày khóc à? ...
Mày đang làm tao thất vọng đấy. Tao tưởng mày là một thằng đàn ông, một thằng đàn ông thực sự chứ? Một thằng đàn ông thực sự có khóc bao giờ, Cartereau ạ. Mày đồng ý chứ? ... Còn nếu mày không phải là một thằng đàn ông thì mày là cái gì hử, Cartereau? Mày là cái gì?
Cú đánh thứ hai cũng nhanh và mạnh như cú đầu tiên. Cùng một chỗ.
Lần này, một tiếng hét vang lên. Nhưng ngoài chúng tôi ra chẳng có ai nghe thấy cả.
Và lần này, Ariel gí súng vào trán kẻ kia. Hắn tiếp tục:
– Để tao nói hộ mày, Cartereau. Tao sẽ cho mày biết mày là ai. Chính xác mày là gì. Và mày sẽ nhắc lại nhé, để cho nó chui vào trong hộp sọ mày. Để mày không quên. Không bao giờ. Mày hiểu chứ, Cartereau?
Người hai tên này gần bằng nhau. Mặt đối mặt. Mặt của Cartereau bị kẹp giữa tường bêtông và khẩu súng bằng kim loại lạnh băng. Bê bết nước mắt và máu, máu và nước mắt của hắn chảy ra ở má, ở mũi, ở miệng, ở cằm và trên áo sơmi. Ra ý đồng tình, hắn phát ra một âm thanh như tiếng mèo gào réo rắt.
– Thế thì nói theo tao, Ariel nói:
“Tôi là một đống cứt lớn.”.
Ariel chờ vài giây, sau đó hắn gí mạnh khẩu súng và đồng thời lên nòng. Cartereau giật nảy mình.
– Nói đi, Ariel nói.
Tôi đứng đó, bên cạnh. Tôi chứng kiến cảnh tượng đó. Tôi có biết khẩu súng không có đạn cũng bằng thừa, tôi tưởng tượng cảnh óc của Cartereau nổ tung. Tôi bắt gặp ánh mắt hắn nhìn tôi vẻ van lơn. Tôi không e hè.
Cartereau nhắm mắt lại.
– Tôi là một đống cứt lớn ... Hắn nói.
– Tốt, Ariel nói. Rồi hắn tiếp tục:
“Tôi là một con lợn nái nhơ nhớp và tôi muốn được người ta lắp đít.”.
Mặt của Cartereau co rúm lại. Hắn vẫn nhắm mắt. Hắn nói theo. Ariel tiếp tục.
– Tôi thích được mấy ông già đâm thủng hậu môn. Tôi thích được họ thọc dương vật vào miệng. Tôi thích mút liếm họ cho đến tận xương tủy và nuốt hết tinh trùng của họ ....
Hắn tiếp tục như thế trong khoảng hai phút. Miệng hắn tuôn ra những từ ngữ hết sức sống sượng và độc địa mà Cartereau phải nhắc lại giữa hai tiếng nấc bằng một giọng nói lí nha lí nhí hẳn chỉ xuất hiện từ thuở hắn còn bé dại. Nhưng kinh khủng nhất chính là giọng nói của Ariel. Một giọng nói không âm sắc và không ngữ điệu. Hoàn toàn lưng chừng. Qua đó người ta không cảm thấy có sự căm thù hay tức giận mà nhẽ ra cần để nuôi dưỡng nó.
Như thể chính Ariel đang nhắc lại những câu nói của một thế lực hoàn toàn xa lạ với hắn. Như thể hắn chỉ là một sứ giả. Một người làm trung gian. Khi rốt cuộc hắn không lải nhải và ép Cartereau nói nữa, Cartereau khuỵu xuống chân tường, đúng vào vũng nước đái của chính hắn. Hắn đau và khóc. Tôi nghĩ kể từ ngày hôm đó hắn sẽ không bao giờ là hắn nữa. Tôi nghĩ hắn đã mất mặt và tất nhiên còn mất cái gì đó quan trọng hơn. Phải nói rằng tôi không cảm thấy thương hại tí nào.
– Điều cuối cùng, - Ariel nói - Nếu không may tao và bạn tao đang có mặt ở đây gặp phiền toái gì, tao thề danh dự, tao thề sẽ cắn thủng bụng mày, Cartereau ạ.
Rồi, người hơi cúi xuống, hắn nói thêm:
– Mày không có đầu, Cartereau ạ. Mày không có tim. Mày chỉ còn mỗi cái bụng thôi!
Nói xong, hắn quay gót. Tôi còn nhớ khoảnh khắc đó như một khoảnh khắc ban ơn. Tôi nghe tiếng bước chân của Ariel nhỏ dần sau lưng tôi. Tôi nghe tiếng Cartereau rên rỉ. Nhưng trên hết tất cả, âm vang trong tôi lúc ấy là âm vang quyến rũ của những từ ngữ:
“bạn tao đang có mặt ở đây.”.
Bạn tao ... Bạn tao ... Bạn tao ...
Ariel bấm còi. Hắn chờ tôi. Tôi trở lại với hắn. Chúng tôi bỏ đi mà không hề liếc mắt nhìn con thú đang sóng soài dưới đất. Khi hắn đậu xe dưới chung cư tôi ở thì trời đã sẩm tối. Khu nhà yên bình và tĩnh mịch. Tôi không muốn xuống xe nữa. Tôi chỉ muốn nằm. Muốn úp mặt vào gối hắn, muốn mơ màng trong những cử chỉ vuốt ve của hắn.
Tôi ngủ như chết cho đến sáu giờ sáng hôm sau. Liên tục mười bốn tiếng. Không ai ghé thăm. Không mơ màng, không ác mộng. Một điều kỳ diệu. Mới đây thôi tôi đã qua đêm trong hôn mê vì rượu. Thêm một chút nữa thôi thì giờ hẳn là tôi đã thấy trời xanh, ai mà biết được?
Không được đi quá xa.
Khi mở mắt ra tôi mới nhận ra là mình đau. Áo giáp sắt và mũ chì. Vùng thắt lưng bị siết chặt, chân tay co cứng, kiến bò khắp nơi, cả trọng lượng tuổi tác và các mạch trên cơ thể tôi. Tưởng như tôi không bao giờ dậy được nếu không có cần cẩu đỡ lên.
Tôi đi tắm, để cho tia nước nóng làm tan kim loại trên da thịt mình. Tôi mặc quần áo sạch vào. Rồi tôi xuống bếp pha cà phê. Uống hết ly cà phê thứ hai thì nếp nhăn trên trán mới bắt đầu giãn ra. Tôi ngồi xuống và gom những tờ giấy của cuốn sổ tay lại thành một chồng bằng phẳng. Sau đó tôi hít thật sâu rồi say sưa đọc tiếp.
Tôi đọc lại cuốn sổ tay từ đầu chí cuối mà không rời ghế. Lần này tôi cảnh giác hơn. Tôi cố gắng lùi lại một khoảng cách cần thiết. Với một con mắt chuyên nghiệp và phê phán. Một con mắt cảnh sát. Qua cú sốc đầu tiên, tôi tìm lại cảm giác mà đã từ lâu lắm rồi chưa hề lướt qua:
cảm giác nghĩa vụ đang kêu gọi mình. Nghĩa vụ hiểu và giải quyết - về khoản trừng phạt thì đã xong xuôi. Vào thời đó tôi đã bỏ qua khá nhiều thứ. Tôi đã phớt lờ. Trực giác, đúng vậy, nhưng không nhiều yếu tố cụ thể, dễ nắm bắt, không gì có thể làm cho hồ sơ kết án đầy đủ hơn, trụ được trước ban hội thẩm lại càng không. Trừ phi có bằng chứng cuối cùng, đúng như vậy. Gần như không thể tránh được. Con mồi bị tuột mất. Nhưng đã quá muộn.
Giờ thì tôi không còn cách nào để trở về dĩ vãng và làm chệch dòng chảy của nó nữa. Cuốn sổ tay trước mắt chỉ cho phép tôi chơi nốt trò chơi ghép hình, vòng vo Tam quốc. Mặc dầu tôi còn phải biết cách giải mã nữa.
Bằng chứng giả này là tất cả, trừ tính khách quan, tôi đủ tầm để biết điều đó. Khi đọc lần thứ hai, trước tiên tôi buộc mình phải phân biệt đúng sai, có nghĩa là phân biệt phần ảo và phần thật của câu chuyện. Mệnh lệnh duy nhất:
bằng chứng, Alex ạ! Những bằng chứng được miêu tả qua những dòng chữ đó, những bằng chứng được gợi ý, được đối chiếu với những bằng chứng mà tôi biết - những bằng chứng đã được sáng tỏ. Từng bước một, tôi đi ngược con đường mà cuốn sổ tay đó đã vạch ra, vẫn với cảm giác đi dạo trong cung điện bằng băng ở hội chợ. Đầu óc nhằng nhịt rối rắm của Édouard Dayms. Bộ não sa sút trí tuệ của hắn. Khi thì đoán chắc là thằng cha này biết và đang cố tình đùa giỡn, khi thì nghĩ hắn cũng nhớn nhác như tôi.
Ba giờ sau, tôi cầm bút và một mẩu giấy, trên đó tôi viết:
Tại sao lại để tiêu đề này? Tiếp theo là một chuỗi câu hỏi và nhận xét mà nghĩ đến đâu tôi nguệch ngoạc viết ra đến đấy. Sau đó tôi đọc lại những ghi chép đó và tự nhủ:
Đối với một người, như thế đã là quá nhiều. Qua cửa sổ, tôi có thể nhận ra là trời không mưa nữa nhưng bầu trời vẫn luôn xám xịt. Và nặng trĩu. Tôi thở dài. Trước khi nhét mẩu giấy vào túi, tôi thêm một câu bình luận cuối cùng:
Đồ ngu, đừng nghe con tim mày mách bảo!
Rồi tôi bắt đầu bằng việc không nghe theo lời khuyên bảo tuyệt diệu đó.
Tức là tôi đã làm một việc mà tôi thường nghĩ đến, mà tôi cũng thường gạt đi vì một tá lý do, chính đáng và ít chính đáng hơn. Tôi lại đặt tay lên cuốn danh bạ điện thoại cũ, mở ra trang bắt đầu bằng chữ M, rồi tôi bấm số, hy vọng số đó vẫn còn hoạt động. Nghe tiếng chuông đầu tiên, tôi nhắm mắt lại.
Em không ở nhà.
Em không ở nhà, em không là người ngày đêm bên điện thoại để chờ tôi.
Tôi không hy vọng thế. Tôi không để lại lời nhắn vào máy tự động trả lời. Tôi quyết định đến chờ em tại cổng trường cấp hai. Tôi đến đó trước 15 giờ một chút. Khoảng chừng thế. Tôi không hề biết gì về thời gian biểu của em. Nói thật, thậm chí tôi không chắc là em còn dạy trường này. Tôi không thể nhớ lần cuối cùng tôi gặp em. Nếu em đã rời thành phố thì ai là người báo cho tôi? Nếu em đã từ bỏ cõi đời này thì sao? Tôi ngồi trong xe chờ.
Cổng trường trong tầm ngắm. Tan học lúc 15 giờ 30. Rồi 16 giờ 30. Cứ mỗi lần như thế tôi chăm chăm nhìn vào đám đông, sợ bỏ qua em. Và sợ thấy em xuất hiện. Vì thế, tôi phải bấu víu vào cái cớ của mình. Tôi có lý do chính đáng để có mặt tại đây:
xin chỉ dẫn một điều, xin trả lời một câu hỏi rất cụ thể - “Tại sao lại để tiêu đề này? - Nếu cần, tôi vẫn luôn có thể viện cớ mình đến xin chuyên gia tư vấn. Điều này có thể làm cho em cười cũng nên.
Nhưng em không có mặt trong đám đông. Tôi thấy học sinh ùa ra rồi, khi đã qua cổng, chúng tản ra mỗi người một hướng. Những cụm học sinh, con trai và con gái, đi bộ và đi xe đạp, một số đứa chờ xe buýt xa hơn một tí, những đứa khác chui vào xe ôtô của bố mẹ đang đậu thành hai hàng. Nhìn chúng, tôi cảm thấy xót xa vô cùng. Tôi kìm nén được một lúc, rồi tất cả bỗng nhiên vỡ òa. Tôi không thể không nghĩ đến chúng. Tôi biết quá ít về việc ấy:
công việc đưa con tới trường vào buổi sáng và đón con vào buổi chiều. Niềm vui chung không nói thành lời ấy. Tôi tự nhủ là phần lớn những ông bố bà mẹ không biết trân trọng sự may mắn của họ. Bình thường thôi. Tôi như thấy hình ảnh hai thiên thần của tôi trong số những đứa học sinh cấp hai này. Cùng tuổi, cùng nét mặt, cùng bộ dạng lố lăng. Tôi nhầm. Khốn nỗi, tôi nhẩm tính và kết quả đã làm tôi đau đớn cùng cực:
thằng lớn năm đó nhẽ ra đã hai mươi tư tuổi, còn thằng bé hai mươi hai.
Mẹ kiếp! Con tôi giờ nhẽ ra đã thành người lớn, còn tôi đúng là không thể tưởng tượng nổi gương mặt chúng như thế nào!
“Đến đi, Maria”, tôi nghĩ bụng. “Đến đi, anh xin em. Bây giờ là lúc anh cần em nhất. Em là chỗ dựa cuối cùng còn sống của anh”.
giờ 30, đám học sinh cuối cùng từ trong trường ào ra. Sàng lọc cẩn thận nhưng vô ích. Không thấy Marie. Cổng trường đã đóng lại. Đêm xuống.
Tôi nán lại một lúc trước cổng trường hoang vắng. Thật là tốt cho bộ dạng của tôi. Trở về thực tại với những hoạt động tầm thường của nó. Tôi còn phải học lại rất nhiều.
Tôi bật công tắc rồi quay xe ở đầu ngõ cụt. Khi tôi đi qua cổng trường, bóng một người phụ nữ đang đi qua. Về muộn. Dưới ánh đèn đường, tôi thấy người phụ nữ đó xuất hiện gần như cô đơn, giống như tôi. Tôi thắng gấp.
Tiếng két của phanh xe đã làm chị giật mình. Chị quay lại và mắt chúng tôi gặp nhau. Đúng lúc đó tôi mới thực sự nhận ra sự vắng bóng của tôi mênh mông đến thế nào. Tôi đã ở tận hoang đảo xa xôi lâu đến mức nào. Tôi đã không thấy gì lướt qua trước mắt mình. Quả bom nổ chậm đó đã lặng lẽ nổ ngay ở bụng tôi và lực của nó tiếp tục lan tỏa khắp lục phủ ngũ tạng trong khi mà hai chúng tôi ở đó, bất động, chăm chăm nhìn nhau qua kính chắn gió. Sự kinh ngạc của em hẳn thuộc loại khác.
Thật lạ là khi tôi nghĩ đến Marie, những hình ảnh thoáng qua đầu tôi là những hình ảnh khi em mười tám tuổi. Những chân dung khác, những điệu bộ khác. Người phụ nữ trẻ đang chơi đàn viôlôngxen:
Em đang ngồi trước ngựa đàn, nhạc cụ đặt giữa hai chân, một tay cầm vĩ, tay kia cầm đàn, mắt hé mở, vẻ rất tập trung, rất chuyên tâm và say đắm. Hoặc thiếu nữ trên bãi biển:
Ngồi trên tảng đá, mặc một chiếc váy in những bông hoa lớn mà em không chịu thay, váy bó chặt quanh hai đầu gối, gió thổi tung những lọn tóc dài, một nụ cười sầu muộn thoảng trên môi khi thấy chúng tôi từ dưới biển đi lên, người đầm đìa nước và lưng tưng như những con chó con ... Những thứ đại loại như thế. Câu chuyện của chúng tôi bắt đầu như thế. Tôi chỉ còn nhớ những khoảnh khắc đó. Mặc dầu vậy, tôi thường ôn lại chuyện của chúng tôi những năm sau đó. Em vẫn ở rất gần chúng tôi. Thành viên thứ năm trong gia đình. Bánh xe thứ năm của chiếc xe ngựa bốn bánh.
Chính Marie là người đã cho tôi biết tin. Vào thời đó, Marie là người duy nhất còn có thể kéo tôi ra khỏi hang. Một buổi sáng tháng Mười, vào lúc năm giờ ba mươi phút, trời vẫn nhá nhem tối. Khi trên tay tôi vẫn còn đôi tám chết tiệt thì người ta chuyển cuộc gọi của em cho tôi. Tôi không nhận ra giọng của em bên kia đầu dây:
“Alex ... Có một tai nạn ...”.
Kể từ lúc đó, không có gì và cũng không ai còn có uy lực với tôi nữa.
Ngoài Édouard Dayms ra.
Những tháng đầu tiên, Étienne, như nhiều đứa bé khác, thỉnh thoảng khóc ré lên vào ban đêm vì không ngủ được. Tôi dậy. Tôi lại giường gỗ bồng nó lên. Rồi tôi nằm ngửa xuống nền gạch, cho nó nằm trên ngực tôi. Nó nằm lọt thỏm trên ngực tôi. Người nó nhẹ tênh. Tôi thì thầm trong bóng đêm một lời ru tự sáng tác, mỗi lần ru mỗi khác, ru nó và ru cả tôi. Ngôn từ không có nghĩa gì cả, chỉ có giai điệu êm dịu, chầm chậm và bay bổng là quan trọng thôi.
Cuối cùng nó cũng bình tĩnh lại. Nó không còn khóc và cũng không còn giãy giụa nữa, rồi sau đó, tôi cảm thấy hơi thở ngắn và đều đều của nó trong giấc ngủ. Phía trên của bờ trán đầy lông tơ của nó kê dưới cằm tôi.
Nếu như trước khi thiu ngủ, tay nó theo phản xạ bấu lấy cổ tôi thì tôi xem đó là một phần thưởng vô giá.
Nó không nằm trên người tôi, nó nằm trong lòng tôi. Tôi biết không kẻ nào có thể cướp con của tôi.
Nó ngủ đã lâu mà tôi vẫn còn lầm rầm hát ru. Thậm chí nhiều khi tôi thấy ánh sáng ban ngày xuyên qua cửa sổ phòng nó, và trong ánh sáng lờ mờ đầu tiên này hiện ra cành nhánh của cái động tử treo trên trần, dường như nó đang từ từ hồi sinh.
Những đêm đẹp nhất kết thúc như thế.
Thời đó qua quá nhanh và tất nhiên nó sẽ không bao giờ trở lại. Đúng là thỉnh thoảng tôi thấy tiếc là Mattéo, thằng con thứ hai, đã chìm vào giấc ngủ say.
Tôi yêu tiếng bước chân của chúng khi chúng đi giày nhảy lưng tưng trong căn hộ. Tôi yêu khoảnh khắc chúng sợ, một nỗi sợ vô căn cứ những mụ phù thủy đến thăm chúng trong bóng tối. Tôi yêu và đố kỵ với sự tự do, rảnh rỗi của chúng. Điều này để chắc chắn rằng chúng ta đang nói về những chuyện như nhau, thưa ông Astrid.
Thế là một thời kỳ huy hoàng tráng lệ mở ra.
Cartereau không xuất hiện ở trường nữa. Tôi không tin hắn đã tiết lộ cho ai đó những lý do vắng mặt thật sự của hắn. Một số người nói hắn đã bị tai nạn giao thông, một số người khác lại nói là hắn mắc bệnh lao phổi, một số người khác nữa lại bảo hắn đã tòng quân trước hạn. Ai muốn nói gì thì nói. Ngoài những thằng ăn bám trung thành nhất của hắn, không ai khóc thương hắn cả, và bóng của hắn đã không trùm lên các hành lang và các lớp học trong một thời gian khá lâu.
Ariel không khoe khoang. Hắn không tìm kiếm vinh quang. Còn tôi, tôi quá sung sướng vì mình là người duy nhất biết bí mật, và quá đố kỵ nên không thể chia sẻ đặc quyền này cho bất cứ ai khác.
Tình bạn được hòa tan vào trong máu của một con rồng bị quật ngã. Ta hãy uống đi.
Tôi sẽ có thể lấy gì làm chỗ dựa cho những tuần, những tháng sau đó?
Bằng chứng, ngoại trừ trước mắt tôi, thì hẳn không có gì ghê gớm cả. Và ngôn từ thường bất lực khi cần đi sâu vào tình cảm. Ngôn từ vốn thường chuyển hướng và phản bội. Tất cả những gì thoát ra từ miệng chúng ta, tất cả những gì nằm trên giấy chỉ là thịt thối.
Tôi không còn đơn độc nữa.
Tôi và Ariel luôn ngầm ý giữ khoảng cách trên lớp, ai cũng thấy thế cả.
Tất cả chỉ diễn ra ở phía ngoài. Qua khuôn viên trường học, nếu có điều kiện là chúng tôi tìm đến nhau. Gặp nhau. Đi dạo. Lang thang đây đó. Dần dà, Ariel bắt đầu mở lòng tâm sự và qua đó thậm chí còn khai tâm cho tôi. Tôi sẽ không nhắc lại những lời hắn nói, những lời nói đó chỉ liên quan đến chúng tôi và dường như không có trọng lượng nào ở nơi khác, có chăng thì cũng chỉ đè nặng lên lương tâm tôi. Người ta phải hiểu rằng, không chỉ Ariel ngày này qua ngày khác đào một hố sâu trong lòng tôi, mà hắn còn từ từ lấp đầy hố sâu đó.
Tôi đã đến phòng hắn chơi. Phòng của Ariel nằm trong một ngôi nhà rộng lớn bên một vách đá. Hay tôi phải nói đó là “xà lim” của hắn? Căn phòng nằm ở phía trên cùng, ngay dưới mái nhà, phía đầu là một hành lang, khi đi qua hành lang này người ta không thể không cúi cổ xuống bởi trần quá thấp.
Ariel ở đó.
Tôi còn nhớ mình đã xúc động như thế nào khi lần đầu tiên xuất hiện trước cánh cửa nhỏ sơn trắng đó. Như đứng trước ngưỡng cửa một lối đi bí mật, một lối đi dẫn tôi đến trung tâm của bí ẩn. Và sự ngạc nhiên của tôi khi Ariel mở cửa ra.
Chỉ nhìn một cái tôi đã bao quát hết. Căn phòng có kích thước bằng một buồng tắm. Nó trần trụi, trống rỗng vô cùng. Chỗ nằm của Ariel là một tấm nệm được đặt dưới nền nhà. Một cái bàn học sinh cao cao thay cho bàn làm việc, muốn viết cái gì thì phải đứng. Cuối cùng, đồ vật cuối cùng trong phòng:
một cái giá sách đóng trên tường. Ariel chồng sách vở lên đó. Trên đó cũng có một chiếc hộp gỗ (đó là một loại hộp gỗ để giữ nhiệt cho thuốc xì gà) và một con lắc tí hon đang vận động liên tục, thời ấy con lắc này thịnh hành lắm. Bằng một động tác chính xác và tuyệt đối thăng bằng, hai viên bi kim loại va chạm nhau ở đầu que, viên này tạo đà cho viên kia và ngược lại, và cứ thế liên tục. Đúng điểm này là điểm mà Ariel định tâm kiểm tra lại:
rằng sự vĩnh cửu tồn tại trên cõi đời này.
Ariel đã khởi xướng sự vận động ngay khi mới ở phòng này. Điều này muốn nói rằng từ nhiều tuần, nhiều tháng nay, những hòn bi đó lúc lắc liên tục, lách cách phân đoạn ngày và đêm như những chiếc kim của cái đồng hồ báo thức quái gở.
Nếu chưa có ai nghĩ đến chuyện cho nó ngừng lại, có thể giờ âm thanh đó vẫn đang còn, trong sự tĩnh mịch của ngôi nhà trống rỗng, bị bỏ rơi. Cú đớp của con quạ lên áo giáp của những kẻ đã chết.
Chỉ sau này tôi mới biết hộp đựng xì gà đó có chứa cái gì.
Toàn cảnh chỉ có thế. Không có ghế, không có tủ, không có đĩa nhạc cũng như không có sách, dĩ nhiên trên tường cũng không có áp phích, không có tranh ảnh của gái đẹp hay ngôi sao, không có đồ gì vương vãi dưới nền nhà, cho dù nó sạch hay bẩn, thậm chí bụi bặm cũng không nốt. Tôi đang nói về gian phòng của một thanh niên chưa đến mười bảy tuổi!
Tôi thường tưởng tượng Ariel nằm dài trong cái hang bé nhỏ và khắc khổ khi đêm buông xuống. Chỉ hình ảnh tưởng tượng đó cũng đủ đè nặng lên lòng tôi.
Tạ ơn Chúa, từ trên đó người ta có thể thấy sóng biển thấp thoáng xa xa qua những ô cửa sổ, có chút ít ánh sáng xuyên qua cửa sổ đó. Có thể thấy đỉnh đồi.
Xa hơn nữa có thể thấy mỏm đá lớn màu xám nâu mà người ta gọi là Mũi Sừng.
Có thể thấy biển khơi và chân trời. Nhưng hẳn Ariei không cần nhiều không gian để chinh phục đến nhường ấy.
Hắn sống một mình với bố. Cả hai là những kẻ tha phương cầu thực. Họ từ Thụy Sĩ tới. Họ đã mua biệt thự này và dọn đến vài tháng trước đó. Gần như quá nhanh. Tại sao lại ở đây? Tại sao lại là vùng này? Những kỷ niệm tuổi thơ của Walter Weiss. Những kỳ nghỉ trong những vùng lân cận cùng bố mẹ. Hắn đã gợi lại không khí êm dịu của cuộc sống cũng như không gian tràn trề sinh lực của biển khơi ...
Một cuộc sống êm dịu!
Thật ra họ đã chạy trốn. Cố chạy trốn. Có những bóng ma đuổi theo, những cơn ám ảnh mà ông Weiss, cha của hắn, hẳn đã hy vọng có thể tan biến dưới ánh nắng mặt trời của miền Nam, cũng như những con ma cà rồng vốn sợ ánh sáng ban ngày.
Tôi rùng mình khi nghĩ đến sự căng thẳng ngự trị giữa người cha và người con. Không có cuộc trao đổi nào tỏ ra vô hại cả. Trong từng sự im lặng của họ cũng như trong từng lời nói hiếm hoi mà họ trao đổi với nhau, luôn vang lên trong thẳm sâu những âm thanh thấp trầm và réo rít của sự hận thù.
Từ những ánh mắt nhìn nhau của họ toát ra một sự oán hận nếu không phải là sự sâu cay của mối căm thù. Cho dù khi tôi có mặt, họ cố gắng đến mấy (và họ chẳng mấy khi cố gắng) để giấu giếm, để làm giảm bớt đi thì tôi vẫn cảm thấy điều đó. Trong quan hệ của họ cái gì cũng chất chứa sự đắng cay và bạo lực rất khó kiềm chế, đôi khi bị thổi bùng lên.
Hai con rắn. Hai con thú dữ trong một cái chuồng. Cùng đi quanh một xác chết.
Tôi không nghĩ mình đã có lần thấy Walter Weiss nhịn rượu. Ý tôi muốn nói là:
không có giọt rượu nào trong máu. Cũng không bao giờ say đến nỗi lăn dưới gầm bàn. Ông ta thuộc loại công tử bột say sưa nhưng vẫn biết giữ mình ngay cả thời điểm suy sụp. Ông Weiss có bờ trán cao, thân mình rắn chắc, từ lòng trắng trong mắt ông ánh lên những mạch máu hồng. Ông uống rượu thường xuyên nhưng uống ít, uống dàn trải suốt cả ngày và cả về đêm. Đến nỗi mà tình trạng say rượu của ông như đã trở thành một bản chất thứ hai.
Những ngày trời nắng và không khí tràn trề sinh lực, ông ngồi hàng giờ trong một chiếc ghế bành bằng da thuộc to tướng trong phòng đọc sách, nói phòng đọc sách nhưng thực ra không hề có sách, mắt ông nhìn về phía lò sưởi không có lửa. Rồi khi ông đâm ra chán, có trời mới biết vì lý do nào, ông đứng dậy và bắt đầu bước từng bước khắp phòng, đi dọc rồi lại đi ngang, đi lên rồi lại đi xuống, và đi chân đất (một đặc tính khác), ít khi ông bước chân ra khỏi giới hạn đó, ít khi ra thềm hoặc ra vườn.
Walter Weiss đã từng là một bác sĩ phẫu thuật rất giỏi. Có tiếng. Ông đã từng là một bác sĩ đầu ngành. Giờ ông không còn được như thế nữa.
Người ta không bao giờ cố ý giao phó mạng sống của mình cho những bàn tay run, cho đôi mắt tối sầm hơi rượu. Rượu đã kết liễu nghề nghiệp của ông:
rượu là nguyên nhân chứ không phải là hậu quả. Cũng như về cái chết của bà Ludmilla Weiss, mẹ của Ariel. Theo Ariel thì chính người cha nghiện ngập của hắn đã giết chết mẹ hắn. Giết dần giết mòn. Giết từng chút một. Người đàn bà khốn khổ đó đã chịu đựng quá nhiều, đã đau khổ quá nhiều, rốt cuộc bà đã chết vì điều đó.
Và chính Ariel là người đã phát hiện bà nằm sóng soài trên giường. Tím tái như ngủ mê giữa những chai lọ không. Sự giải thoát ở Valium. Đó không phải là sự oán thán, dù là nhỏ nhất, của hắn đối với cha mình.
Ludmilla Hortense Bérard, vợ Weiss. Mẹ.
Sau khi bà chết, họ đã quyết định chuyển nhà.
Trong thời gian này, tôi cũng đã có vinh dự được đi theo Ariel đến nơi bờ đá hoang vắng chật hẹp, chỗ mà hắn thích ẩn dật. Được đến thánh địa của hắn, ở đó, hắn đã dạy cho tôi cách nghe, nghe ra trò, lắng nghe tiếng hát của biển khơi và những gì có trong tiếng hát đó, ký ức, lịch sử loài người, những đau khổ và hy vọng, những tai họa và vinh quang trong quá khứ của họ. Thật đẹp. Tôi đã tin. Tôi nhận ra cho đến lúc đó mình chỉ mới tiếp cận thế giới một cách hời hợt. Thịt da, trí óc tôi trơn tru và trong trắng, không dấu vết và không có sẹo. Hắn đã giúp tôi mở mắt và mở tấm lòng. Tôi đã thấy màu sắc xuất hiện chỗ mà mới đó màu xám đang ngự trị. Ở chốn đồng bằng buồn tẻ, tôi đã thấy hiện lên những ụ đất mới lạ. Tôi đã nắm bắt. Tôi đã nuốt chửng, đã hấp thu, đã tái tạo tất cả cho riêng mình.
Khó mà hình dung nổi những gì tôi đã đền đáp công ơn của hắn.
Phần lớn thời gian chúng tôi ở bên nhau diễn ra như thế này:
hắn nói còn tôi ngồi nghe. Nguy nhất là cái nuôi sống các bạn cũng có thể nuốt sống các bạn, giày vò các bạn. Tôi đã gặp mối nguy đó.
Thế là tôi đã học cách hiểu Ariel. Tôi đã học cách “sống chung” - thêm một cách nói mà người ta thường dùng tầm bậy tầm bạ - và tôi thường tự hỏi làm thế nào mà đến lúc này tôi đã có thể “sống riêng”.
Tôi biết ông sẽ hiểu như thế, thưa ông Astrid khả kính. Liều thuốc độc nhỏ sẽ thành chén thuốc độc lớn.
Chúng tôi đến tuổi mười bảy, rồi mười tám. Học cấp ba xong. Sắp mở ra một kỷ nguyên mới. Câu lạc bộ của chúng tôi sẽ sớm được mở rộng, sẽ được bổ sung. Một nhân tố thứ ba sẽ nhập cuộc và khi đó, chúng tôi sẽ biết chắc chắn hơn nên xoay xở như thế nào.
Nhưng hiện tại chúng tôi không nghĩ đến điều đó. Chúng tôi cứ để mặc thế. Mùa hè trước khi chúng tôi vào đại học đã trôi qua không có biến động gì rõ ràng. Đó đúng là một kỳ nghỉ thực sự. Và để kết luận chương này, tôi sẽ giữ lại hình ảnh này của chúng tôi, hình ảnh hai chúng tôi ngồi bên nhau trên một chiếc ghế đu trong vườn, chúng tôi thường ngồi như thế vào cuối buổi tối.
Không khí ấm áp, dìu dịu. Một cây keo uy nghi bao bọc chúng tôi bằng những cành lá của nó. Chúng tôi thì thầm ru nhau, thì thầm nói. Đúng là không phải để tái tạo thế giới cũng như không phải để phá hoại nó.
Và khi đó, đêm xuống làm chúng tôi hòa lẫn với nhau mà chẳng ai hay.
Rốt cuộc tôi đã rời tay khỏi vô lăng để mở cửa xe. Marie vẫn đứng trước cổng trường. Mình khoác một chiếc áo choàng rộng, cổ quàng khăn, vai mang một chiếc túi xách nhỏ, tay xách một chiếc cặp da. Những thứ thích hợp với đôi vai của em. Tôi từ từ tiến lại gần và em cứ để tôi đến. Tôi đứng trước mặt em. Tôi mở mắt ra và thấy trước mặt mình là một người đàn bà năm mươi tuổi. Một người phụ nữ tuyệt vời. Tôi sợ em cũng thấy tôi như tôi thấy em. Em tiếp tục im lặng nhìn tôi soi mói. Em hoàn toàn có quyền quay lưng lại với tôi rồi bỏ đi không nói một lời. Em đã không làm thế. Em cười một nụ cười đượm buồn tuyệt diệu rồi nói:
– Thú thật em không còn tin nữa ...
Tôi những muốn trả lời thế nào đó nhưng tôi không thể. Tôi không lường trước được sự thể lại làm lòng tôi xao động đến thế. Tôi dang tay ra ôm lấy em. Ôm chặt. Úp mặt vào tóc em, tôi đã nhận ra và hít hà mùi hương của em. Tất cả những gì mà tôi có thể thì thầm bên tai em, đó là:
“Marie ...” Sự tiếp xúc này đã làm tôi tan nát cõi lòng. Một trận gió lớn giữa mùa đông. Sự trinh nguyên của em đã bắt đầu phần nào xâm chiếm lấy tôi. Tôi ôm em rất lâu vào lòng. Từ trên kia nhìn xuống, có lẽ người ta tưởng chúng tôi là hai học sinh cấp hai đang cô độc trên cõi đời, đang tràn trề nhựa sống và đầy ắp ảo tưởng. Chúng tôi đã từng như thế.
Marie không có bằng lái. Em nhận lời để tôi đưa em về. Em ngồi bên cạnh tôi sau khi tôi vứt ra sau chiếc bánh kẹp ăn dở và chiếc túi nhựa đựng cuốn sổ tay được buộc lại bằng một sợi dây chun. Trong suốt chuyến đi, chúng tôi thầm lặng trao nhau những cái nhìn trộm rụt rè. Em có vẻ thích như thế. Em chỉ nói:
– Thất vọng à?
Tôi ra hiệu không.
– Anh đã có mắt như mù trong một thời gian dài, thế thôi.
Má em phơn phớt đỏ, em quay mặt nhìn đường. Tôi để ý thấy một vài nếp nhăn đây đó trên mặt em, nếp môi trông rõ hơn, gân nổi nhiều hơn trên mu bàn tay. Ánh mắt của em chưa hề mất đi sự sáng trong hay chiều sâu của nó - trông như cánh cửa sổ mở ra một bầu trời sáng sủa. Một cách khái quát không thể xứng đáng hơn cho em. Tôi tránh bóng mình trong gương chiếu hậu.
Em vẫn ở tòa nhà cổ dành cho giới quý tộc, ngay tại trung tâm thành phố.
Một căn hộ thừa kế của bố mẹ. Tôi đậu xe, lấy túi đựng cuốn sổ tay rồi theo em bước lên cầu thang. Một luồng cảm xúc mới xâm chiếm lấy tôi khi vào trong căn hộ này. Marie đã cải tạo lại căn hộ theo ý mình từ lâu. Phía trong rất dịu mắt, tinh tế và ấm cúng. Một hộp đựng tư trang gần như hoàn hảo, có điều nó hơi rộng lớn so với một viên kim cương đơn độc.
Cây đàn piano đã biến mất. Trong một lọ hoa màu vàng cao cao có một bó hoa tươi. Marie cất đồ rồi ném áo khoác lên một chiếc ghế bành.
– Anh ngồi đi, em nói. Anh thích gì? Cà phê? Trà? Hay gì khác? ...
Không ít dấu chấm lửng sau “gì khác” này, nhưng tôi không thể trách em. Em không biết cụ thể tôi đã ở đâu.
– Em cho anh cà phê. Có lẽ hôm nay đây là ly thứ mười bốn của anh.
Mắt em ánh lên vẻ đồng tình. Tôi nghe em lục cục dưới bếp khoảng năm phút. Em quay lại cùng hai ly cà phê trên một cái khay nhỏ. Tôi vẫn đứng như thế, đung đưa chiếc túi trong tay. Tôi chờ em ngồi xuống rồi làm theo em. Em uống một ngụm rồi đặt ly xuống. Em nhìn tôi. Tôi chưa chuẩn bị được câu nào. Cuối cùng, em nói:
– Suốt ngày, em thấy bọn trẻ bị các thầy cô bắt lỗi:
mặt anh giờ cũng như mặt chúng!
– Lạ thật, tôi nói. Khi anh quay lại đây. Anh vẫn thường tự hỏi từ khi nào ...
– Lâu rồi, em ngắt lời tôi. Quá lâu rồi. Nhưng dẫu sao nét mặt anh có vẻ tươi tỉnh hơn lần trước.
Tôi không nhớ nổi nhưng tôi mường tượng khá rõ thảm họa. Vẻ mặt hối hận của tôi có lẽ đã bộc lộ rõ hơn tất cả. Em cúi người về phía trước rồi nói thêm:
– Em rất vui khi được gặp anh, Alex ạ. Thật sự đấy.
Tôi biết em chân thành. Tôi đã xua đi một loạt ăn năn hối hận, trói buộc chúng lại trước khi chúng trở nên nặng nề.
– Anh không chắc là em sẽ nói như lúc nãy, sau khi đã thấy cái mà anh mang đến cho em.
– Hừm, thêm một điều bất ngờ nữa chăng?
– Có thể nói như thế, tôi nói.
Tôi nắm lấy cái túi và trong khoảng mười lăm giây, tay tôi luống cuống ở chỗ buộc mà không mở ra được. Cuối cùng tôi xé cái bọc ra. Tôi cầm tập giấy đặt lên đùi. Hơi hướng cuối cùng của dã tâm. Kéo Marie vào đó không khác gì ném bùn xuống một dòng sông trong vắt. Không hãnh diện lắm, nhưng vẫn còn ích kỷ. Tôi thở dài:
– Anh cần em, Marie ạ.
– Thế thì tốt quá!
Tôi ngước mắt lên. Mắt em long lanh. Rồi em bỗng nhiên ngửa cổ cười thầm còn tôi nhảy lùi lại ba mươi năm.
– “Marie!” Em kêu lên. Không ai còn gọi em như vậy từ đời xửa đời xưa rồi! Sau đó, mặt em sững ra, như thể niềm vui chóng vánh đó đã làm cho em ngạc nhiên. Môi em mím lại thành một nụ cười thoảng qua.
– Để em xem nào, em nói.
Tôi chuyền cuốn sổ tay cho em qua mấy cái ly. Em gỡ dây chun ra rồi từ từ lướt tay trên trang đầu tiên, như để kiểm tra chất lượng giấy hoặc để phủi đi những vết bụi nhỏ. Em tranh thủ đọc tiêu đề một trăm lần.
– Anh viết à? Em hỏi.
– Không. Anh thấy trong thùng thư, sáng qua.
– Cái gì thế?
– Anh muốn em đọc trước rồi chúng ta sẽ nói chuyện.
Em cầm một tờ giấy lên, rồi một tờ khác một cách vô tình, đọc lướt qua vài dòng cùng một lúc. Mắt nheo lại.
– Đừng miễn cưỡng, Marie ạ, tôi nói. Em có thể để anh đi ra ngoài dạo chơi, anh sẽ không giận em đâu. Cái thứ này có khả năng ... làm em đau khổ đấy.
Em lắc đầu.
– Đồng ý. Anh cho em biết trước nhé.
Tôi lại thở dài. Chỉ như thế tôi mới cảm thấy thoải mái. Marie cúi xuống cái túi của tôi và nhặt lên cái hộp đựng kính, rồi em nhổm dậy, với cuốn sổ tay trên tay.
– Anh cho em ... ờ ... ba tiếng nhé? Tôi sửng sốt.
– Cái gì? Tôi nói. Em bắt đầu luôn bây giờ ư?
– Tại sao không? Tối nay em có dự định gì đặc biệt đâu. Còn anh?
– Ờ ... không.
– Tốt quá. Thế anh ngồi xuống đi. Đĩa nhạc đấy, sách đấy. Em đã pha cà phê ở dưới bếp. Nếu anh đói thì mở tủ lạnh ra thích gì ăn nấy. Được chứ?
Tôi vẫn chưa cởi áo bludông ra.
– Thế là quá đủ, tôi nói.
Em đi về phòng. Lúc em đang bước qua ngưỡng cửa thì tôi gọi giật lại.
– Marie!
Em quay người lại.
– Anh cũng vậy, tôi nói. Anh rất vui khi được gặp em. Em vào phòng, đóng cửa mà không nói thêm gì.
Khi chỉ còn lại một mình, tôi ngồi một lúc trên tràng kỷ, đầu óc bồng bềnh. Rồi tôi đứng dậy xem trên giá sách có gì. Những chồng đĩa nhạc. Tôi biết sở thích của Marie, xem ra những sở thích đó không thay đổi. Có một số đĩa nhạc cổ điển không thể thiếu, nhưng phần lớn bộ đĩa hát của em là tuyển tập ca khúc Pháp từ những năm sáu mươi đến nay, từ những ca sĩ bất hủ như Brel, Brassens, Ferré ... đến những ca sĩ tầm thường hơn. Marie đã làm cho tôi ngạc nhiên khi rất chuộng những ca sĩ mà tôi chỉ xem là những ca sĩ quèn ... Marie hát rất hay những ca khúc của Haydn và của Dvorák, đồng thời có thể nhỏ lệ khi nghe Salvatore Adamo ngâm nga bài Tuyết rơi ...
Tôi tự nhủ nếu mình cố thử thì thể nào em cũng mủi lòng. Tôi cho đĩa nhạc của Aznavour vào đầu đĩa rồi ngồi xuống tràng kỷ. Nghe đến bài thứ ba thì tôi thiếp ngủ, với lý do cáo lỗi duy nhất là cần ngủ bù cho hai nghìn năm ngủ muộn.
“Người đàn ông đó rất yêu mẹ. Ai cũng cảm thấy thế, ai cũng trông thấy thế. Đã qua năm mươi lăm tuổi rồi, ông vẫn sống chung với mẹ trong một căn hộ và trong một cuộc sống, không chịu nghe tiếng gọi câu thúc của nhà an dưỡng, cho dù mẹ mắc đủ thứ bệnh, cho dù mẹ bị tàn phế, cho dù bao nhiêu phức tạp mà bệnh tật kéo theo. Ân cần biết bao nhiêu, hy sinh biết bao nhiêu. Sáng chủ nhật, khi thời gian cho phép, người ta thấy hai mẹ con đi dọc theo những lối đi trong công viên thành phố. Người đàn ông có tuổi và bà già dìu nhau ngồi trên ghế bành, thường cúi xuống mái đầu bạc phơ của nhau để nói cho nhau nghe về cảm tưởng nào đó của mình, đưa ra lời bình luận nào đó về sự khoan dung của trời đất hay vẻ lộng lẫy của một cây mimosa đương hoa. Hay là về việc chọn những món tráng miệng ngọt ngào cho ngày chủ nhật. Bánh Minfơi, bánh chồng, bánh kem mứt ngọt lịm của hiệu Fourques. Mẹ thèm ăn gì nhất, mẹ yêu?
Người mẹ khốn khổ đã mất gần hết giác quan, nhưng vẫn còn một bộ răng rắn chắc. Và tình yêu thương bất di bất dịch của con trai mình.
Jean-Baptiste Cyrillus. Tiến sĩ văn chương. Giáo sư đại học đáng kính. Người mà sinh viên thường mệnh danh là “Elmer”, chủ yếu vì âm giọng của ông, giọng của ông không phải là không gợi nhớ tới giọng của kẻ bị Bugs Bunny và bạn bè của ông bắt nạt. Đúng là không hơn gì nét mặt của ông. Có thể tưởng tượng ra cảnh ông Elmer trung hậu này chăm sóc người mẹ bại liệt cho đến khi bà qua đời.
Complet màu sẫm vải sọc, cà vạt:
cùng kiểu ăn mặc trong tuần trên giảng đường cũng như trong công viên vào ngày nghỉ cuối tuần. Một người kín đáo và uyên bác, hơi gàn, ngoài mẹ ra, đối tượng tận tâm và sùng kính khác của ông là các nhà thơ thời Phục hưng - thế nên ông có thể ngâm những khổ xtăngxơ của Ronsard, và thơ của Du Bellay, ông cũng có khả năng phủ nhận toàn bộ dược điển của bệnh viêm đa khớp. Và tất cả những thứ đó luôn được thể hiện bằng giọng mũi của gã Elmer nhỏ con.
Chân dung phác họa. Phải chăng đó là chân dung mà người ta sẽ đặt trên lăng mộ ông sau này? Có thể như vậy lắm. Tuy nhiên, cần chỉnh sửa đôi chỗ:
Đúng, người đàn ông đó rất mực yêu thương người mẹ già của mình, say mê thơ thế kỷ 16 và cũng thích người ta nhét chai Perrier vào đít mình.
Và tại sao không? Chị tự nhủ.
Trước hết, đó là vấn đề thực tế. Tối đầu tiên mà ông xuất hiện, chị bị bất ngờ. Chị còn chưa biết sở thích của ông là gì. Như thế để nói rằng việc mở một loạt đồ uống là việc dở ẹc đáng nhớ. Ông thầy vẫn mặt lạnh như tiền.
Không bao giờ uống rượu. Chỉ thích mỗi nước uống có ga. Hơn nữa, không phải ông ở đó để đùa. Ông đang rất vội:
Người mẹ tội nghiệp của ông đang ở một mình trong căn hộ và ông không muốn thế.
Tuy nhiên, ông vẫn ở lại. Ông liếc mắt nhìn gian phòng rồi có vẻ hài lòng. Ngăn nắp, sạch sẽ, một chỗ hợp lý cho bà. Bà vẫn luôn săn sóc kỹ càng mọi ngóc ngách. Và săn sóc những người bệnh. Ông thầy ra chỉ dẫn một cách chính xác, cụ thể, với cái giọng y như đang giảng bài. Chị hiểu và ghi nhớ. Chỉ có điều, như ta đã nói, đồ đạc còn thiếu. Chẳng hạn như tối hôm đó, ông hẳn sẽ bằng lòng với một chai Schweppes, còn chị cảm thấy ông hơi phật ý nhưng thực ra hoàn toàn không phải thế. Chị cố gắng và quan tâm rất nhiều để bù đắp. Trước khi ông ra về, chính tay chị đã thắt lại cà vạt cho ông. Tuyệt! Hẳn đó là điều duy nhất khiến ông quyết định cho chị một cơ hội thứ hai.
Lần sau, chị chuẩn bị đầy đủ tất cả mọi thứ. Công việc tiếp phẩm đã xong. Một két sáu chai để dưới đất bên cạnh tủ lạnh. Perrier, 33 cl. Biết những chai nước đó dành để làm gì. Chị không thể uống loại nước uống đó.
Chị đổ hết vào bồn rửa bát. Để thấy chuyện gì xảy ra. Chị cũng đã bỏ tiền mua một chiếc áo blu trắng và một hộp dụng cụ y tế đầy đủ. Cuối cùng, ông thầy không cần phải gợi ý, chị đã học thuộc lòng một bài thơ sonnê của Étienne Jodelle (1532- 1573), chị tính nếu đọc đúng lúc, vài câu thơ này chỉ có thể làm cho quả ngon thêm vị ngọt mà thôi. Ranh ma phết.
Ông giáo trở lại, đúng như đã thông báo, vào ngày thứ sáu tuần sau đó, lúc 21 giờ. Đúng răm rắp. Cô thư ký mời ông vào ngồi trong phòng đợi. Ông ngoan ngoãn chờ đợi, tay lần giở một cuốn tạp chí trong khi chị thay đồ ở phòng bên cạnh. Khi mở cửa ra, chị mặc chiếc áo blu trắng và không hề ra vẻ đang đùa. “Thưa thầy, đến lượt thầy đấy”, chị nói. Qua cách ông liếc nhìn sau đôi tròng kính, chị biết mình nắm chắc phần thắng. Ông đặt tạp chí xuống, đứng dậy, hắng giọng. “Chào bác sĩ”, ông vừa nói vừa tiến về phía chị và chìa tay ra.
Một phong cách rất cổ điển. Nhưng lạy Chúa, con đường dẫn tới sự mê hoặc đôi khi rất dài và vòng vo.
Tiếp theo đó, sự việc diễn ra theo như dự kiến. Chị đưa ông thầy vào phòng khám rồi đóng cửa lại. “Thầy bị làm sao thế?” Ông tả mình đau thế nào, triệu chứng ra sao. Chị vừa lắng nghe vừa lắc đầu. Sau đó chị nói:
“Tốt, tốt.” Rồi chị nói:
“Thầy cởi quần áo ra, em sẽ xem thử xem sao.” Ông làm ngay, chỉ mặc mỗi chiếc quần sịp và đi một đôi tất vải sợi Êcốt. Đôi chân cứng đờ, phẳng lì, khuỷu chân như khuỷu chân gà. Chị bới lục trong số những dụng cụ của mình rồi lấy ra một cái đè lưỡi và một cái đèn pin nhỏ xíu. Chị lại gần ông, lúc ấy đang đứng giữa phòng, hai tay đu đưa. Ông có phần nhỏ người hơn chị. “Há ra”, chị nói. Chị thọc dụng cụ vào tận trong cổ họng ông.
Chị khám rất kỹ, và bỗng nhiên, trong một khoảnh khắc bất ngờ, chị nhận ra mình có thể ngã khuỵu, có thể bị nuốt chửng, cả người chị có thể chui vào trong cái lỗ đen ngòm, ẩm ướt đó, như chui vào đáy sâu của một cái hầm giam trong một lâu đài ma ám, nơi đó chị có gào, gào, gào mấy cũng thế thôi, chẳng có ai đến cứu giúp chị. Qua rồi. Chị banh mi mắt của ông lên rồi chĩa đèn vào con ngươi, một con côn trùng đen hốt hoảng. Mi mắt này rồi mi mắt kia. Sau đó, chị đeo ống nghe vào, đặt lên làn da xám, lên cơ thể gầy gò, cằn cỗi với cái bụng bắt đầu phình ra (Ôi! Bánh kem thông nổi tiếng ở nhà hàng Fourques!). Ở vùng tim, chị nghe tiếng đập dồn dập.
Ở chỗ khác, chị nhận ra những âm thanh khác không rõ nguồn gốc. “Ho đi”, chị bảo. Ông ho. Ông thầy này là một bệnh nhân ngoan ngoãn. Trong suốt thời gian nghe bệnh, chị chú ý để cho ánh mắt mình ra vẻ nghiêm trang và bàn tay mình ra vẻ lạnh lùng. Ánh mắt và cử chỉ của một thầy thuốc lão luyện. Giữ khoảng cách. Đấy không phải là việc khó nhất. Sáp lại gần quá, mùi tuổi già của người đàn ông xông lên mũi. Mùi của mẹ. Mùi thoảng qua thôi nhưng không phải không nhận ra, một mùi hôi của lọ hoa bốc lên từ những cánh hoa úa tàn trong nước ứ đọng hôi thối. Rồi một ngày nào đó, phải chăng chính mình cũng bộc lộ một tính chất như thế? Làn da của chị đang mát mẻ, gợi cảm như thế kia. Nàng hỡi, ta đi ngắm hoa hồng ...
Chị tiếp tục khám, thỉnh thoảng lại thì thầm “Tốt, tốt, tốt”, giọng chị như tiên đoán một điều ngược lại thì đúng hơn. Ông thầy cứ để mặc thế. Trong khi mà chị bận rộn khám lưng, ông cảm thấy hơi thở của chị phả vào gáy mình và không thể không rùng mình. Sự căng thẳng của ông tăng lên dần dần.
Cuối cùng, chị để các dụng cụ xuống. Chị thở dài. Chị cắn môi, nhíu mày. Một lúc sau, ông không thể chịu được nữa và hỏi:
“Có nghiêm trọng không, thưa bác sĩ?”. Và giọng của ông thành thực, ánh mắt của ông lo âu đến nỗi thậm chí chị không cảm thấy buồn cười nữa. Không, chị nghĩ, tất nhiên là không rồi. Không nghiêm trọng. Không có gì nghiêm trọng khi người ta nghĩ là như vậy. Nhất là đối với nhóc Elmer. Ai cũng biết là nhóc Elmer không chết. Ai cũng biết là nhóc Elmer lại trở về từng lúc. Một cú mắc lừa vĩnh cửu.
Chị không trả lời như thế. Chị lại thở dài và buột miệng:
“Để em đo thân nhiệt xem, thưa thầy Cyrillus. Thầy nằm sấp đi.”.
Giọng điệu hoàn hảo. Những gì nghiêm trọng bắt đầu. Ông thầy phải trả giá bằng việc bị đo nhiệt độ ở trán. Mắt ông lảng tránh. Dương vật của ông căng lên. Ồ, không có gì là hoành tráng cả nhưng thế đó, và điều này không thoát khỏi đôi mắt tinh tường của nữ bác sĩ. Túi trước hơi nhô lên một tí. Nó không dựng hẳn lên, có thể nói như vậy. Gương mặt thản nhiên. Chị chỉ tấm thảm trải dưới đất. “Mời thầy”, chị nói. Quả là bàn khám bệnh hơi thấp, nhưng một vài sự nhượng bộ không phải là hi sinh. Vả lại, từ khoảnh khắc này, nữ diễn viên kịch câm sắm vai thầy thuốc đã rã rời thân xác. Nghi thức bị phá hủy. Hay đang thoát ra, cũng có thể. Bệnh nhân nằm sấp, có nguy cơ đè bẹp sự cương cứng khiêm tốn của mình. Chị ở bên cạnh, bên tấm đệm. Chị tuột sịp của ông thầy xuống, thấy hai mông xanh xao tội nghiệp hơi trễ ra sau, gần như không có lông. “Giạng ra”, chị bảo. Ông giạng ra. Độ đàn hồi của chiếc quần sịp cho phép giạng bao nhiêu thì ông giạng bấy nhiêu.
Đúng lúc này thì chị mới dùng đến chai nước tạo bọt quen thuộc. Cần cho mọi chủ ý. Ca phẫu thuật rất khó, nhưng chị đã thành công. Ông thầy úp mặt vào gối càu nhàu. Vì đau ư? Vì sướng ư? Thân nhiệt tăng, tất nhiên rồi.
Đó là cả một kỹ thuật. Cả một nghệ thuật. Một tay phải giữ cổ chai, tay kia vỗ vỗ vào đít chai. “Và một chai Perrier loại nhỏ, một!”, chị không thể không nghĩ như thế. Thật đê tiện! Thậm chí không xứng một lang băm tầm thường đểu giả. Chị tự trách mình. Chị định thần lại. Chị vỗ, vỗ. Ông thầy bắt đầu rên rỉ. Vì đau ư? Vì sướng ư? Và như thế, khi chị quyết định bất ngờ tấn công. Vẻ như không. Chị lên giọng:
Cuối cùng cho chúng thấy sợ hãi là gì Với cánh tay đỏ lên vì sấm sét và giận dữ Tàn phá, đả thương, lòng đầy hãnh diện Với con quỷ này cả thế giới đều sai ...
Chị có biết cách nói chuyện với các bệnh nhân không, nữ bác sĩ tử tế này? Chị có biết cách chọn lựa ngôn từ, phong thái? Làm ơn theo bản năng!
Hiệu quả gần như ngay tức thì. Qua một thời gian ngạc nhiên rất ngắn ngủi, vừa hết khổ thơ, ông thầy đã bật lên một tiếng rú rất dài. Đúng như thế. Ông cảm thấy thích thú, vẻ am hiểu. Ông ưỡn lưng. Căng người. Cởi mở. Lần này không phải tự chất vấn làm gì nữa:
Đau hay thích thì có quan trọng gì, quan trọng là ông muốn tiếp tục như thế. Và nhiều hơn thế. Ông thầy đòi hỏi.
Chị vâng theo.
Những kẻ thù của sự nghỉ ngơi, của Chúa trời và của các hoàng tử Những kẻ thù của nhân dân và của các tỉnh lẻ Những kẻ thù bất tử của danh dự lăng mộ ....
Cả hai là những đứa trẻ. Cách đây chưa lâu lắm đâu, chị còn chơi trong vườn với một con chó lớn bằng chị. Một con chó bụ bẫm. Một tấm lông nhung sống động. Chị bá lấy cổ ông thầy. Mùa hè, chị chỉ mặc mỗi một chiếc quần ngắn bằng vải cotton trắng. Chị là Mowgli ở chốn rừng sâu, ông thầy là Bagheera kết hợp với Baloo. Chị những muốn ngủ với ông. Và rồi con chó đã chết. Vì sao ư? Đến giờ người ta vẫn chưa trả lời chị.
Chị vỗ, vỗ lên đít chai. Giờ thì ông thầy hí như ngựa. Đúng như thế đấy. Cách đây khá lâu - nhưng là gì so với sự vĩnh cửu - ông còn nắm tay mẹ, đi bên cạnh mẹ trên đường phố lát đá, cuối phố ông biết có một quán trà rất nổi tiếng. Hôm đó là chiều chủ nhật. Ông dạy buổi sáng. Thời đó mẹ ông chưa bị tàn phế.
Bà bận đồ đen. Quán trà ở trên tầng. Cả hai mẹ con ngồi vào một cái bàn đặt ở đầu phòng. Ông là đứa trẻ duy nhất trong quán. Ngồi thẳng đơ trên chiếc ghế bành Louis XV. Ông được ăn sôcôla nóng và hai cái bánh ngọt. Cả hai lặng lẽ ăn uống. Đèn trần chiếu sáng ngay giữa ban ngày. Một tỉ bóng đèn. Qua những ô cửa sổ cao cao, ông thấy những cành cây tiêu huyền đung đưa. Khi đó là mùa đông. Vẫn luôn là mùa đông và gió lạnh. Tôi hình dung thế.
Chị vỗ, vỗ, vỗ mạnh hơn, nhanh hơn. Chị đóng đinh. Trái với những gì người ta tưởng, không nên lẩn trốn vào những lúc đó. Không nên tìm cách thoát thân. Phải luôn hiện diện và ý thức được mọi chuyện. Ở hẳn bên trong.
Lội bì bõm. Lấy ra và tích trữ. Phải nuôi dưỡng, phải nặn được thành viên ở trong. Phải nhét vũ khí vào tận trong mồm.
Trên cả những tiếng rên, tiếng rú, tiếng hí, giọng của chị ngân lên:
Và cũng không lăng mộ, những xác người thối tha Bồng bềnh trên nước, trôi nổi lang thang Chỉ làm mồi cho cá và thức ăn cho quạ.
Ông thầy kêu lên. Ông bị co giật một cách lạ lùng, chân huơ lung tung may mà chị tránh kịp. Rồi ông thầy nằm bẹp xuống đệm, miệng há hốc, bọt mép sùi ra, vẻ kinh hãi, hoảng hốt. Chị vừa rút cái chai ra vừa thông báo:
“Đã hạ sốt rồi. Thầy có thể mặc quần áo vào.” Chị không cần phải thắt cà vạt cho ông. Lần này không, lần khác cũng không. Ông bị kẹt rồi. Nút đã được thắt.
Từ trên cao cửa sổ nhìn xuống, chị nhìn ông đi vào bóng đêm. Bóng ông ốm yếu, thoảng qua, đi sát những bờ tường. Bóng đè lên bóng.
“Ông mà đòi yêu tôi à”, chị nghĩ bụng, “ông mà đòi làm cho tôi thỏa mãn à?”.
Vài đoạn mà tôi cho ông đọc đó, rồi ông sẽ hiểu, là được rút ra từ các cuốn sổ ghi chép của Flo. Những đoạn khác được trích ra từ những cuốn sổ của Ariel. Tôi phân thân. Sở dĩ tôi đã chọn những đoạn này, đã trích lọc một cách trung thành, các bạn hãy tin như thế, là vì tôi thấy những đoạn đó có thể soi rọi phần nào những ngõ ngách tối tăm nhất. Cũng là vì một số nhân vật chính có trong đó không còn xa lạ gì nữa đối với ông.
Ý tôi muốn nói là, thưa ông Astrid, ông đã rất cận kề với sự thật. Nếu như có một sự thật. Và một sự thật duy nhất.
Về những ghi chép của Florence, hẳn ông sẽ để ý thấy cách mà chị nói về mình rất lạ, chị sử dụng ngôi thứ ba. Như thể đó là câu chuyện về một người con gái khác, một người đàn bà khác. Sự chia lìa giữa thể xác và tinh thần ư? Sự tách rời chính mình một cách tuyệt đối ư? Có cần thiết như vậy không, có phải đó là điều phải làm không? Quả là tôi đã thắc mắc phải chăng tất cả chúng ta, tùy theo hoàn cảnh mà phải viện đến hạ sách này để cho cuộc sống tiếp tục có thể chịu đựng được. Những hành vi của chúng ta có vẻ như đôi khi tách rời tâm hồn của chúng ta. Và ngược lại. Có đúng như thế không hay đó chỉ là một cái mẹo thôi?
Ở trường hợp này, điều đó muốn nói là bộ mặt giấu kín thực sự gớm ghiếc, và khi mặt nạ rơi xuống, không còn hy vọng nào nữa. Mỗi người sẽ tự nhận ra mình, những tấm gương sẽ tan ra thành nghìn mảnh, nghìn mảnh gương kinh hãi và đáng xấu hổ. Tôi hiểu là người ta có thể nói ở ngôi thứ hai hay ngôi thứ ba. Tôi hiểu người ta thường thích đổ lỗi cho người khác, trút gánh nặng lên người khác. Và chính mình thì hài lòng với việc chịu tang.
Những thứ đó phức tạp lắm.
Tôi đã chứng kiến, cách đây vài tháng, một cảnh tượng gây ấn tượng mạnh. Lúc đó là buổi sáng sớm, gần nhà ga. Tôi đang từ chỗ đậu xe đi bộ ra thì thấy trước mắt mình, trên vỉa hè, hai con chim:
một con chim mòng biển và một con cu gáy. Chim cu gáy đã chết. Nó nằm trên vỉa hè rải nhựa, bị mổ bụng, phanh thây. Con chim mòng biển đang ăn nó. Hơn thế nữa, nó bám riết lấy con mồi, xé nát thịt da nó ra. Nhìn cảnh nó như đang nhảy múa xung quanh xác chết, nhìn cách quần con mồi, cách bất thình lình dang cánh ra rồi kêu lên giận dữ, sự rồ dại trong đôi mắt tròn xoe của nó, nhìn những cú mổ mạnh bạo của nó, tôi không có cảm tưởng mình chỉ đang chứng kiến bữa ăn trời phú của con kền kền. Điều đó làm cho ta nghĩ đến sự thỏa mãn mối hận thù đã gặm nhấm từ lâu. Như thể con cu gáy là kẻ thù truyền kiếp, kẻ thù không đội trời chung mà nó vừa đánh bại. Bản năng sơ đẳng trỗi dậy. Sau bao thế kỷ bị gò bó, mối căm thù, sự tàn bạo thắng thế và tha hồ thả cửa.
Cho dù điều này diễn ra giữa những kẻ đồng loại.
Tôi gọi nó là chim cu gáy nhưng nó giờ chỉ còn là một tấm giẻ rách thảm hại không lời nào có thể tả nổi. Cái mỏ của con chim mòng biển nhuốm máu, lông trắng ở cổ nó cũng lốm đốm máu tươi.
Để hoàn chỉnh bức tranh này, trên vỉa hè đối diện có ba kẻ ăn xin đang nằm ườn dưới những tấm cáctông. Họ nằm trong hốc kê giường bằng bêtông dọc theo mặt trước khu nhà phụ của nhà ga. Tôi không nhìn rõ mặt họ.
Đàn ông hay đàn bà, trẻ hay già, sống hay chết. Dù sao đó cũng là những kẻ đồng loại với tôi.
Và hình như họ thờ ơ với số phận của những con chim.
Tôi thấy toàn bộ cảnh tượng đó. Có rút ra được bài học nào không? Ngay lập tức, tôi tự nhủ đơn giản:
Điều đó tồn tại, không chỉ trong đầu tôi.
Tôi nghĩ bụng:
Đây có thể là một cách nhìn, một hình ảnh biểu trưng của thế giới.
Nhưng hẳn tôi đang đi hơi quá xa câu chuyện mình đang kể. Về câu chuyện của chúng ta. Chúng ta quay lại câu chuyện này đi. Việc học tiếp đại học đối với tôi không phải là một sự lựa chọn khó khăn:
tôi sẽ theo Ariel. Cho dù hắn đi đâu đi nữa, tôi cũng sẽ đi theo, theo bất kỳ ngành học nào, đi bất cứ nơi đâu.
Tôi không nghĩ hắn đã từng mơ tưởng đến việc làm nghề gì đó sau này – nghề chủ doanh nghiệp hay giám đốc công ty vi tính lại càng không. Với hắn, công việc không phải là mục đích cuối cùng, cũng không phải là cách để phát triển, và kiếm sống đối với hắn không phải là một việc cần thiết. Chỉ riêng gia sản hiện tại cũng giúp hắn sống ung dung cho đến hết đời. Hơn nữa, trong tính cách của hắn không có gì đại loại như sự tham lam. Tất cả những gì hắn đã có thể làm thì hắn đã làm, không phải làm miễn phí nhưng không hề vì mục đích vụ lợi. Rõ ràng là như thế.
Trường đại học gần nhất cách đó tám mươi cây số. Không thể ngày nào cũng đi đi về về được, Ariel đề nghị tôi ở chung căn hộ với hắn:
Một lời mời mà, dĩ nhiên, tôi hồ hởi chấp nhận. Trong mắt tôi, bất cứ xó xỉnh nào cũng xong, miễn là chúng tôi ở chung là được. Thế là cuối tháng Chín năm ngoái, lần đầu tiên tôi tạm biệt bố mẹ và thành phố nhỏ Saintes-sur-Mer nơi tôi đang sống. Còn mười lăm ngày trước khi nhập học, Ariel và tôi dành để khám phá một vùng đất mới. Tôi vẫn còn nhớ như in những ngày ngập tràn niềm vui đó.
Tôi còn nhớ trời rất đẹp. Mùa hè ấn Độ kéo dài mãi không thôi. Chúng tôi chạy xe hàng giờ trên chiếc Saab (giờ Ariel đã đủ tuổi lái xe), chúng tôi đi theo những đường phố lớn như bị cuốn theo một luồng gió uể oải. Chỉ riêng những cái tên đường mà tôi đọc được trên những tấm biển cũng đã chứa đựng cái gì đó ngoại lai và hứa hẹn những chuyến phiêu lưu thú vị. Tôi thấy cái gì cũng đẹp, cũng đầy phấn khởi, tuyệt diệu. Tôi tưởng như mình đang ở trong một xứ sở thần tiên. Có thể mắt tôi đang vẽ hào quang lên tất cả những vật, những người mà chúng tôi bắt gặp. Có thể ngay sau khi chúng tôi đi qua, những thứ đó, những con người đó sẽ lại trở về với vẻ ngoài tẻ nhạt thường nhật. Tôi không quay lại. Tôi mỉm cười khoan khoái. Bàn tay Chúa đặt lên vai tôi ...
Một lần nữa, phải nhận thấy khuynh hướng tai hại của tôi, đó là khuynh hướng miêu tả những ngày hạnh phúc. Tôi sợ điều đó làm cho câu chuyện của tôi lệch lạc. Tôi phô diễn niềm vui, sự kinh ngạc, sự khoan khoái dịu dàng, tôi nói về trời xanh và những tình cảm cao thượng, nhưng phải chăng tôi không biết những gì đang ẩn giấu ở đằng sau? Về điểm này, phải chăng tôi ngây thơ khờ dại, đến nỗi không hề linh cảm thấy những gì đang được thêu dệt:
sự ghê tởm dưới vỏ bọc của sự sảng khoái, thanh thản?
Như tôi đã nói, tôi không tin vào sự tình cờ thuần túy. Vả lại, tôi cũng không tin vào số phận được định sẵn một cách nghiệt ngã, như một định mệnh. Cuộc sống là sự kết hợp tinh tế giữa hai điều ấy thì hơn. Đường đời lắm nẻo, chúng ta tha hồ mà dấn thân vào đường này hay nẻo khác. Quả là phần lớn thời gian không thấy phần cuối con đường. Cái đích sự lựa chọn của chúng ta hiện giờ đang lẩn tránh chúng ta (và đôi khi mãi mãi), nhưng sự lựa chọn này là có thật. Tôi muốn tin như thế. Bởi vì nếu như chỉ có sự tình cờ thống trị, hay chỉ có số phận khắc nghiệt, thì sẽ không có công lý ở đời.
Sẽ không ai chịu trách nhiệm và cũng không ai có tội. Và không chịu trách nhiệm hay không có tội thì cũng không phải nhờ tài cán gì. Trong việc này chỉ có nạn nhân mà thôi.
Quá dễ. Tôi không muốn giấu giếm, tôi không muốn lúc nào cũng lẩn tránh. Phô diễn trần trụi sự xấu xí của mình:
điều này quả là khó. Sự chân thành luôn có cái giá của nó.
Thế là, lùi lại một tí, tôi có thể khẳng định là tôi đã từng đánh hơi thấy mùi máu trước khi nó chảy. Và tôi tự nhủ chính vì lí do này mà, sau khi đã suy nghĩ kỹ xong, tôi theo con đường này. Đường này chứ không phải đường kia.
Tôi không cần phải xin lỗi.
Thế nên, nếu chỉ để nêu thí dụ về ông thầy đó, ông Cyrillus, tôi không cần phải mất nhiều thời gian để thấy được kết cục của câu chuyện. Như ông biết đấy, một buổi sáng, người ta đã phát hiện ra một xác chết ở bụi cây trong công viên thành phố mà ông ta biết rất rõ. Cơ thể ông ta trần truồng và biến dạng. Một tội ác man rợ đã làm cả khu phố chấn động, đặc biệt là trường đại học nơi ông ta đã dạy. Ai có thể mong chờ một sự ghê tởm như thế, cho dù đã từ lâu, người ta đồn nhiều về những thói quen kỳ quặc của ông thầy, về những mối quan hệ mà không phải lúc nào cũng đáng noi theo.
Elmer nhỏ con tội nghiệp. Người ta không còn nghe giọng mũi của ông khắp các giảng đường nữa. Trên ghế đá, mỗi người bình luận một kiểu theo quan điểm riêng của mình. Tôi thu lượm đây đó một số chi tiết, một số mẩu chuyện khả dĩ có thể làm tôi mỉm cười nếu như tôi còn lòng dạ để cười.
Tôi thì tôi im lặng. Tôi không cần phải khai báo gì hết. Chỉ có duy nhất một câu hỏi mà tôi đã có thể tự đặt cho mình vào thời điểm đó:
Tôi có quyền làm cho câu chuyện xoay sang chiều hướng khác hay không?
Nhưng đề cập quá sớm đấy. Tất cả câu chuyện này chỉ diễn ra khi chúng tôi học đại học năm thứ hai. Trước đó, có một sự kiện trọng đại liên quan trực tiếp đến chúng tôi. Trước đó, có một cuộc gặp gỡ.
Ariel và Florence đã nhận ra nhau ngay. Florence không phải kiểu con gái mà nếu ở bên cạnh người ta không cảm thấy bối rối tí nào. Bây giờ cũng thế, cho dù ở nhiều khía cạnh, em đã thay đổi rất nhiều. Có một số người mà chỉ riêng sự hiện diện cũng đủ làm cho bạn xao động, kể cả các giác quan và tâm hồn. Tôi không hiểu tại sao. Tôi không hiểu bản chất của cái mùi hương không tên mà những người đó tỏa ra, câu thần chú câm lặng về số phận mà họ truyền đến. Tôi chỉ biết là những thứ đó làm rung động. Như thế đó. Florence là con người như thế. Cũng như Ariel. Chính vì thế mà tôi nói về “sự nhận ra” giữa họ với nhau, chứ không nói về mối tình sét đánh hay tia chớp khác. Họ đã có thể ruồng rẫy nhau, như hai cực của những hòn nam châm giống nhau. Sau khi đã khinh bỉ nhìn nhau, thách thức nhau, căm thù nhau, đánh nhau, với cùng những vũ khí như nhau và vì một sự tự tôn.
Thoạt nhìn, họ rất hợp với nhau.
Hôm đó, bầu trời thấp lè tè, ánh sáng xám xịt. Các giờ học đã bắt đầu được ba tuần rồi. Vào giờ nghỉ trưa, tôi và Ariel có thói quen nhâm nhi một mẩu bánh mua ở quán Xnachba trong trường. Có vài bàn đặt ở bên ngoài quán, phía trong sân. Do thời tiết thay đổi bất thường nên quán gần như vắng bóng người, một vài tờ giấy bay vật vờ, lẫn vào lá vàng rơi. Lúc đó là mùa thu. Và em ở đó. Florence. Như một thành phố đẹp.
Nhưng khi đó tôi còn chưa biết tên em.
Em ngồi một mình, không ăn uống gì cả. Em hút thuốc. Nếu điều đó không gây khó dễ cho tôi, tôi có thể nói là em chờ hắn. Tôi còn nhớ Ariel bỗng nhiên lặng người giữa lưng chừng cầu thang dẫn đến cái sân đó. Tôi nhìn theo ánh mắt của hắn. Tôi đã hiểu. Mắt em giấu kín sau cặp kính đen nhưng tôi biết em cũng đang nhìn hắn chằm chằm. Hai người nhìn nhau trong một phần của sự vĩnh cửu. Tôi nhìn người này rồi lại nhìn người kia. Như một con chó lúc lắc cái đầu.
Từ lúc đó, tôi biết là tôi sẽ sớm đau khổ mà thôi. Tôi biết khoảng cách giữa em và hắn sớm thu thành một đoạn rất nhỏ, thu thành một kẽ hở trong đó tôi sẽ phải lẻn cả người vào. Tôi biết tôi sẽ phải thu mình bé lại, nhưng không thể thiếu, tôi biết mình phải cố bám víu để sống còn. Ai cũng có thể biết điều đó. Họ không cần trao nhau tín hiệu. Cô gái không nhúc nhích. Tôi chạm tay vào vai Ariel. “Cậu đi chứ?” tôi hỏi. Hắn nhìn tôi, vẻ không hiểu. Tôi nhắc lại:
“Đi nào.” Hắn nhúc nhích. Hắn chậm chạp đi theo tôi, đi như một kẻ mộng du. Chúng tôi vào trong quán Xnachba. Tôi mua hai cái bánh mì kẹp.
Ariel dường như không nói nên lời. Hắn lả người trước quầy, mắt nhìn chăm chăm, khác hẳn với cú sốc mạnh mà hắn vừa phải chịu đựng. Đừng có nhầm:
Thái độ của hắn không phải là lóa mắt vì tình, không phải là hoan hỉ, cũng không phải là bùng nổ bất ngờ và hân hoan của con tim. Không.
Không hề như thế. Nét mặt hắn hoàn toàn hoài nghi, không hiểu, thậm chí người ta còn cảm thấy lộ ra một sự lo sợ nào đó - thái độ mà người ta thường có khi một người thân tưởng như mãi mãi mất đi bỗng nhiên xuất hiện. Tôi chưa bao giờ thấy hắn ở trong tình trạng đó. Tôi phải kéo tay hắn thì hắn mới đi.
Và bây giờ, tôi thề rằng những gì tiếp theo là hoàn toàn có thật. Không giả tạo mà cũng không bịa đặt. Tôi lấy cái gì tôi quý nhất trên đời ra mà thề, tôi lấy đầu của những đứa con tôi ra mà thề.
Khi chúng tôi ra khỏi quán Xnachba, cô gái đó không còn ở đó nữa. Ở chỗ cô, đậu trên lưng ghế dựa mà cô đã ngồi là một con chim. Một con chim cổ đỏ. Tại sao lại là một con chim cổ đỏ ư? Tại sao đó không phải là con chim sẻ ngô ư? Tôi không biết.
Lần này, chúng tôi đồng thời bị bất ngờ khi nhìn thấy cảnh đó và sững người lại. Tôi nhìn con chim một lúc rồi quay về phía Ariel. Tôi chắc hắn cũng nghĩ như tôi. Tôi thấy ánh lửa lo âu cháy rực trong mắt hắn dần dần lụi tắt, sự băn khoăn của hắn bắt đầu tan biến. Tôi thấy hắn như nhẹ cả người.
Rồi nụ cười phảng phất trên môi hắn, một nụ cười đồng lõa, nụ cười mà chỉ có những người am hiểu mới nắm bắt được. Nụ cười đó không phải dành cho tôi. Ariel nhìn con chim không rời mắt. Vết đỏ son trên màu trắng của chất dẻo, trên màu xám của bêtông. Mặc dù vậy, không ai trong vài ba nhóm sinh viên đang la cà gần đó để ý thấy điều đó. Không ai có vẻ chú trọng điều đó.
Rồi tôi thấy Ariel rời tôi và tiến gần tới con chim. Con chim vẫn đậu trên ghế, không hề tỏ ra sợ hãi, thậm chí không hề run cánh. Hắn và con chim giờ đã đối diện nhau, cách nhau hai bước, hẳn đang chuyện trò với nhau bằng ngôn ngữ mà chỉ có họ thông hiểu. Tôi do dự không dám đến gần họ.
Tôi sợ sự có mặt đường đột của tôi làm cho cả hai sợ hãi và khiến cho sự kỳ diệu bị đổ vỡ. Tôi cảm thấy mình bất lực, bị bỏ rơi, ruồng rẫy. Đồng thời tôi nhận ra rằng đó là thời điểm then chốt, thời điểm mà số phận của chính tôi đang trong thế một mất một còn. Hoặc tôi cứ đứng trên bến mà nhìn họ xa dần trong đôi mắt nhòa lệ của tôi, hoặc tôi gò ép vận may của mình và cố lên thuyền bằng mọi giá, để cũng được đi theo. Lén lút như một kẻ cháy túi đi chui. Tôi đã quyết định. Tôi từ từ đi lại gần họ. Từ từ. Tôi thâm nhập phạm vi của họ. Tôi nhẹ nhõm cả người khi con chim không cất cánh bay xa. Tôi đứng đó, bên cạnh Ariel, hơi lùi một tí, ngoan ngoãn, bất động, lặng lẽ, tôn trọng cuộc đối thoại câm lặng mà giờ tôi chắc chắn là đang được kết nối giữa họ. Tay tôi vẫn cầm bánh mì kẹp. Sau một lúc lâu, Ariel lấy một cái bánh mà không quay đầu lại. Hắn bóp nát một miếng bánh rồi để cho những mẩu vụn rơi xuống bàn. Con chim chỉ nhảy một cú là đã đổi chỗ đậu. Quà đã nhận được. Nó bắt đầu mổ.
Làm sao tôi có thể quên điều đó, và nhất là làm sao tôi có thể không nhận ra điều đó?
Tôi chấp nhận rủi ro, là có thể bị xem là một kẻ ủy mị, một kẻ lãng mạn, bí hiểm, thậm chí bị coi là một người ngây thơ hay gì khác, nhưng tôi đoán chắc mình chưa bao giờ nhìn thấy một sự thông hiểu hơn giữa hai sinh vật. Đó là một điều kỳ diệu và xúc động vô cùng. Đó là một sự hiến thân thực sự.
Bởi vì, khi nghiền nát cái bánh trong tay, rõ ràng là Ariel đang nghiền nát chính trái tim mình và hắn làm như thế là để đặt con tim mình vào tầm với của con chim, để thu nhỏ con tim đúng tầm với của những cú mổ nhỏ nhẻ của nó. Con chim cứ tha hồ đánh chén. Nó cứ tha hồ hút hết tinh chất của con tim cho no nê suốt cả mùa đông này và những mùa đông sắp tới.
Ồ! Đúng thế, đó là một điều rất lớn lao, đẹp đẽ và cao thượng.
Khi con chim cổ đỏ đã thỏa lòng thỏa dạ, nó nhảy nhót, xoay một vòng lạ mắt trước mặt chúng tôi. Rồi nó cất cánh bay đi. Rồi nó biến mất trên bầu trời.
Chỉ còn vài mẩu bánh mì trên bàn. Và còn tôi với gánh nặng của mình.
Chân tôi bủn rủn. Tôi ngồi xuống, ngả người xuống ghế. Trong người có bao nhiêu hơi tôi thở ra hết. Đó là một điều quá đẹp, quá thanh cao đối với tôi.
Tôi dồn hết sức và nói:
“Có phải là em không?”.
Tôi còn chưa biết tên cô gái đó.
Ariel không trả lời. Một nụ cười là lạ vẫn phảng phất trên môi hắn, một nụ cười hiền từ, một nụ cười đầy sự mê ly thanh thản. Cái nụ cười chết tiệt đó đã kết liễu đời tôi!
Khi tôi mở mắt ra, sự im lặng bao trùm căn hộ như một dải sương mù.
Tôi như đang bơi và nhỏ dãi lên cái tay ghế. Tôi cởi áo bludông ra rồi ngồi thêm một lúc, khuỷu tay tì lên đầu gối, hai tay ôm đầu. Tôi biết mình đã mơ.
Mơ những giấc mơ chớp nhoáng, cháy bỏng và nối đuôi nhau với tốc độ chóng mặt. Khi tỉnh dậy, không còn biết mơ những gì nữa, chỉ còn cảm giác chói lòa, nóng rát nơi võng mạc. Phải mất nhiều thời gian cảm giác đó mới tan biến. Tôi hài lòng vì đang ở nhà Marie, chứ không phải ở nhà mình.
Tôi đi xuống phòng tắm rồi tiến về phòng ngủ. Cánh cửa hé mở. Tôi khẽ gõ cửa một tiếng rồi đẩy cửa vào. Gian phòng vắng tanh. Một cái đèn tỏa ánh sáng màu xanh ở góc phòng, trong một góc khác là cây đàn viôlôngxen còn ở trong tấm bọc, được đặt trên một chiếc ghế mây. Giường vẫn chưa được dọn dẹp. Nệm lông trắng tinh vẫn còn lưu giữ dấu vết mờ mờ của cơ thể. Tôi không vào.
Marie ở dưới bếp. Đứng khoanh tay gần cửa sổ, đôi vai thu lại như thể cái lạnh đang xuyên suốt người em. Em hướng về bóng đêm ở ngoài, không nói lời nào khi tôi đến gần. Cái bàn một chân nhỏ xíu chễm chệ ngay giữa gian phòng. Trên đó có xệp giấy, trên xệp giấy là một cặp kính. Em đã đọc xong. Tôi chờ một lúc, rồi hỏi:
– Mấy giờ rồi em?
Giọng tôi lạc đi. Tôi hắng giọng.
– Em không biết, Marie nói. Mười một giờ, mười hai giờ gì đấy ...
Tôi nhận ra em phải rất cố gắng để trả lời bằng một giọng nói gần như lấp lửng như thế. Trong khoảng im lặng tiếp theo, tưởng như có thể đào được một đường ngầm. Em không quay lại. Đèn báo màu vàng của ấm đun cà phê vẫn sáng.
– Anh đi pha tách cà phê đây. Em uống không? Em lắc đầu.
– Không. Cảm ơn anh.
Tôi lục đục đi tìm tách. Tôi chuẩn bị rót cà phê thì Marie xoay người đối diện với tôi. Em nhìn tôi chằm chằm. Bờ mi em sưng đỏ. Vào khoảnh khắc đó, sự giống nhau hiển nhiên đến nỗi mà tôi bị hút hồn. Léna! Tôi nghĩ thầm. Tôi bắt đầu run rẩy. Run rẩy đến khi mà Marie vừa thở vừa thốt lên:
– Em xin lỗi ...
Bừng tỉnh, miệng há hốc.
– Cái gì?
– Em xin lỗi, anh Alex ạ.
Đôi mắt em tràn trề thương cảm. Thánh Maria, Đức mẹ của tất cả những đứa con mồ côi trên trái đất chết tiệt này!
– Không, tôi nói. Anh, anh mới là người phải xin lỗi, Marie ạ. Em không biết anh giận mình đến mức nào khi làm khổ em như thế.
Ngay cả khi đó, tôi thấy những lời nói của mình cũng thật lạc lõng.
Em thoáng mỉm cười - một nụ cười buồn mà tôi chưa bao giờ thấy.
– Anh đã cho em biết trước mà, em nói.
Tôi những muốn ôm em trong vòng tay lần nữa. Tôi không dám. Em hít sâu. Im lặng lại kéo dài. Trong khoảng im lặng đó, em quay mặt nhìn vào mênh mông bất định, như thể đang tìm kiếm cái gì đó ngoài tầm hiểu biết của em. Một cái gì đó bất định. Rồi em chớp mắt hai lần.
– Giờ thì em lại muốn uống cà phê, em nói rồi ra khỏi phòng.
Kể từ ngày đó, tôi đã tìm em, đi tìm em khắp nơi. Tôi đi hết các hành lang ở trường đại học. Tôi, lùng khắp các lối đi trong trường. Tôi rình rập những cửa vào, lối ra của các giảng đường mỗi khi tôi không thể vào từng phòng học để nhìn ngó từng sinh viên có mặt. Vài ba lần, tôi tưởng mình đã thoáng thấy em đâu đó trong đám đông. Tôi vội vàng chạy tới. Hỡi ôi! Khuôn mặt mà tôi tưởng là em chỉ là một bản sao tái xanh và mơ hồ, một thế phẩm không hơn không kém. Không phải em. Chưa bao giờ là em.
Trưa nào tôi cũng quay lại nơi mà em đã tung cánh bay đi. Khó mà tưởng tượng nổi tim tôi đập như thế nào mỗi khi đẩy cánh cửa hướng ra cái sân ấy, khó mà tưởng tượng nổi hy vọng của tôi tràn trề như thế nào và sự thất vọng sau đó ê chề biết bao.
Có thể ai đó không tin nhưng thậm chí tôi đã lùng sục các bụi cây ở gần đó để xem có con chim cổ đỏ nào ẩn mình ở đó hay không.
Trong mơ tôi thấy mũi tên đỏ chót của nó xuyên qua đám mây u ám.
Trong gần một tháng trời, có thể nói tôi chỉ làm mỗi việc ấy.
Tôi tìm kiếm vô ích. Tôi như một kẻ do thám được cử đi khắp vương quốc để tìm gặp lại cô tiểu thư nông dân mà mình đã thoáng thấy trong một điệu valse, với những đường nét của một nàng công chúa đích thực. Tôi trở về tay không, cúi đầu trước cung điện. “Tâu bệ hạ, thần suýt đã ...”.
Nhưng không! Không! Thực ra không có sứ mạng, mà cũng chẳng có bảo kê. Không có vua cũng chẳng có hoàng tử. Cả Ariel cũng không. Tôi khẳng định mình làm như thế là vì hắn, như thể cuối cùng tôi đã có cơ hội để ban tặng cho hắn một món quà xứng đáng - một ý trung nhân trên một chiếc mâm bạc. Nhưng, tôi biết rõ mình làm thế vì mình và theo tiếng gọi của con tim mình. Tôi chỉ là kẻ do thám cho chính tôi mà thôi.
Ariel không bảo tôi làm gì hết. Thậm chí hắn cũng không đi tìm. Từ ngày đó hắn không nói về cô gái hay con chim nữa. Điều kỳ diệu đã xảy ra và dường như với hắn như thế đã là quá đủ. Hắn hãy còn thỏa mãn, còn hả lòng hả dạ rất lâu.
Ariel biết. Còn tôi thì không.
Ariel chờ ở Thời gian đã mất.
Hắn đã chọn quán cà phê trong khu phố cổ, gần tòa án. Thời gian đã mất. Tôi nghĩ ngay cái tên của quán cà phê cũng không làm hắn phật ý, và tính hỗn tạp của khách hàng cũng thế.
Ngày hay đêm, người ta có thể thấy trong quán nào là nhân viên của sở quản lý đường bộ, những người trồng rau, những ông bà hưu trí, những ông chủ ngân hàng thắt cà vạt, những kẻ thất nghiệp, một vài du khách, và nhất là sau khi màn đêm buông xuống, một đám sinh viên ồn ào. Một nơi rất mốt nhưng còn lưu giữ một chút thực tế nào đó. Chúng tôi đã lấy điểm này làm nơi găp gỡ.
Hai mươi tám ngày, để nói một cách chính xác, vừa trôi qua. Một chu kỳ.
Năm giờ chiều thứ tư. Tôi vào phố mua sắm một số thứ. Tay tôi xách hai túi nhựa trong đó chủ yếu là bánh bích quy và sữa tươi. Tôi đẩy cửa Thời gian đã mất rồi tiến về phía chỗ ngồi quen thuộc ở góc phòng. Ariel đã ở đó, nhưng không phải một mình. Cô gái đó cũng ở đó. Người mà tôi đã cất công đi tìm. Người đã làm cho tôi mất ăn mất ngủ. Một cô gái chưa hề quen biết. Một con chim ưng. Nàng công chúa bị mất tích. Em ngồi bên cạnh Ariel và hai người đang nói chuyện như đã quen thân nhau từ lâu lắm rồi.
Tôi sững người giữa gian phòng. Trong lúc nhúc và ồn ào huyên náo. Hai túi xách đung đưa trên tay tôi. Tôi bất động trên trái đất đang xoay. Tôi có thể đứng yên tại chỗ cho đến khi có ai đó đến thổi tung vụn xương tôi. Tôi có thể quay lại và cảm nhận luồng gió buốt giá ngoài trời. Tôi có thể cầm được nước mắt.
Ariel không ra hiệu cho tôi, hắn chỉ ngước mắt nhìn tôi. Cô gái quay lại.
Em mỉm cười với tôi. Trong chớp mắt, tôi thấy tái hiện hình ảnh con chim cổ đỏ đang mổ vụn bánh mì. Chúng tôi có những gì mình cần:
bánh bích quy và sữa. Tôi tiến tới. Ariel giới thiệu:
“Florence, đây là Matthieu. Matthieu, đây là Florence.” Chỉ có thế. Hai cái tên của chúng tôi đặt cạnh nhau, nối đuôi nhau. Sự vinh danh ngắn gọn. Tất cả những gì tôi có thể làm là khẽ gật đầu.
Có. Có. Mình muốn. Có. Mình nhận lời.
Còn một cái ghế trống, tôi ngồi xuống.
Kể từ lúc đó, chúng tôi là ba người và ba chúng tôi đã đủ. Chúng tôi không chờ ai nữa.
Tôi đã nói ra điều cơ bản, có lẽ như vậy.
Florence hơn chúng tôi hai tuổi. Em đăng ký thi học kỳ như một thí sinh tự do. Em có tham gia một số buổi học. Dè sẻn thôi. Em còn những việc khác phải làm. Trong mắt em, sinh viên phần lớn là những oắt con vô tư và dễ thương. (Ariel gật đầu đồng ý). Em thuê một căn hộ chật hẹp ở một khu phố cổ trung tâm thành phố. Em phải trả tiền thuê nhà và những khoản khác. Em biết rất rõ thành phố này. Em rất hiểu đàn ông. Theo tôi, em đã trải qua nhiều cuộc đời. Em có thể chắp cánh bay đi, chúng tôi biết điều đó. Em rất mạnh mẽ. Không có ai khác ngoài Ariel có thể bắt được em. Nhờ hắn, nếu không tôi đã phải dành phần còn lại của đời mình để đi tìm Florence.
Florence và Ariel. Ariel và Florence. Xung quanh hai cái đèn pha này, xung quanh hai tinh tú sinh đôi này là sa mạc và bóng đêm.
Tôi vẫn không thể giải thích vì sao họ đã cho phép tôi ẩn náu trong vầng sáng của họ. Hơn thế nữa:
Không những họ chấp nhận tôi, dung tha cho sự hiện diện của tôi mà còn kéo tôi ra khỏi hư vô và xem tôi là người của họ. Họ đã nuôi tôi khôn lớn. Họ đã cho tôi ăn và uống tinh chất của chính họ, họ đã sưởi ấm tôi bằng ngọn lửa của họ, họ đã làm tôi lớn hơn rất nhiều.
Họ không cần tôi, đó là một điều hiển nhiên mà chưa bao giờ họ cho tôi biết. Tôi những tưởng mình ngang hàng ngang lứa với họ. Tôi đã có thể nhắm mắt lại và thấy mình chói sáng mãnh liệt như họ. Giá như trong tôi không có một phần nào đó không muốn dối mình. Người thứ hai, thứ ba mà người ta hay nói.
Khi Florence viết:
“Anh mà đòi yêu em, anh mà đòi làm cho em thỏa mãn à” ... thì em nói với ai? Hãy cố trả lời câu hỏi này và những gì còn lại sẽ từ đó mà ra. Còn đối với tôi, hỡi ôi, học cách phân biệt là một việc gian nan nhất.
Đúng thế, kể từ đây, chúng tôi gồm ba người và họ xem tôi là người của họ. Ariel và Florence, Florence và tôi, tôi và Ariel. Hay cả ba cùng một lúc.
Bấy nhiêu cấu hình có thể. Chúng tôi không rời nhau nửa bước. Căn cứ của chúng tôi là Thời gian đã mất. Có một số chỗ khác mà chúng tôi ưa thích là bờ biển đá cuội (“Bờ biển yêu tinh”, Flo thường nói), dạo chơi ở đây dễ bị trật khớp chân như chơi, là trung tâm luyện tập cưỡi ngựa nằm lẩn khuất trong một vùng sa mạc thuộc Địa Trung Hải, cách thành phố khoảng mười lăm cây số. Hacienda. Florence rất thích ngựa. Em cưỡi ngựa một vài lần mỗi tuần.
Đó là nơi mà tôi rất thích dạo chơi cùng em. Tôi rất thích nhìn em xoay người trên mình ngựa, vượt qua các vật cản, đứng thẳng người trên yên. Tôi thích được gặp lại em gần chuồng ngựa, nơi mà em tháo yên cho ngựa, chải chuốt lông ngựa, tôi thích giọng nói êm ái của em khi em hết lời khen ngợi con ngựa. Con vật gườm gườm khi thấy tôi đến. Tôi giật cả mình khi nó thở phì phò và khua chân, Florence thấy thế cười ồ lên còn tôi thì không mong gì đẹp hơn thế. Ngay lần đến Hacienda đầu tiên, tôi tự hứa với mình là sẽ tặng em con tuấn mã thuần chủng cùng những đồng cỏ xanh tươi. Cho đến bây giờ, tôi không cảm thấy nuối tiếc vì đã giữ được lời hứa.
Khi Ariel có mặt, đúng là tôi thường tránh đi. Vô tình hay hữu ý.
Ngay trước khi hết quý một, tôi nhận ra là việc học hành của tôi năm này coi như công toi. Thỉnh thoảng tôi mới đi học, cốt để tự dối mình thôi. Tôi chẳng ghi chép gì cả, tôi không hiểu những gì giáo viên nói, tôi không quen biết những cô tú cậu tú ngồi xung quanh tôi, đó chỉ là nơi để tôi ngủ bù những đêm thức vì Florence, vì hình ảnh của Florence. Có một số giáo viên mà tôi chưa bao giờ nghe giảng. Sự quan tâm của tôi nằm ở nơi khác. Sự chú ý của tôi, suy nghĩ của tôi, trái tim của tôi, cuộc sống của tôi đang ở nơi khác. Chân trời của tôi không chỉ bó hẹp ở kỳ thi học kỳ sắp tới. Hạnh phúc của tôi chỉ là một sợi chỉ mong manh nối liền hai tinh tú cháy bỏng. Khi chúng tôi về nhà vào ngày nghỉ cuối tuần, thỉnh thoảng Florence về theo chúng tôi. Ariel để cho Florence lái chiếc xe Saab, hắn ngồi bên cạnh em, chỗ của tôi là ở phía sau. Luôn là như vậy, không phải thế sao?
Trong khi tôi trở về với căn phòng của mình ở nhà bố mẹ tôi thì Florence qua đêm ở phòng của những người bạn sống trong khu biệt thự.
Điều đó khiến tôi không thể nào chợp mắt. Tôi ở cách con chim cổ đỏ vài trăm mét theo đường chim bay. Tôi nghĩ đến em. Đến họ. Tôi tìm cách gặp lại hai người càng nhanh càng tốt. Những bữa ăn trưa ngày chủ nhật cùng bố mẹ đối với tôi là sự giày vò dai dẳng khôn nguôi. Sau khi ăn ngấu nghiến món tráng miệng, tôi vội vội vàng vàng đến ngay biệt thự. Tôi đi như chạy. Đầu óc tôi đầy những linh cảm và những tưởng tượng vớ vẩn giăng hàng trước mắt tôi theo nhịp chạy. Tôi luôn sợ mình đến quá muộn.
Tôi thấy hai người đang ngoan ngoãn ngồi trên ghế đu trong vườn.
Chiếc ghế đu của chúng tôi. Tôi có vẻ ma mãnh, mặt đỏ ngầu, miệng phì phò như một con bò đực. Trong mắt Ariel ánh lên một cái nhìn láu cá. Tôi giả vờ lại vách đá ngồi ngắm cảnh từ trên cao, để lấy hơi và nguyền rủa sự ngu ngốc của mình. Cả buổi chiều chúng tôi ở với nhau. Đôi khi, tôi bắt gặp gương mặt của Weiss lấp ló sau cửa sổ. Tôi còn nhớ như in cuộc gặp gỡ đầu tiên của Florence và bố Ariel. Một buổi tối, chúng tôi vừa đến và cả ba đang ngồi trong phòng khách tầng một. Ông Weiss xuất hiện ở cầu thang. Chân trần, sơmi trắng. Ông bước xuống bốn bậc. Khi nhìn thấy Florence, nét mặt của ông gần giống với nét mặt của Ariel, ngày đầu tiên, tại quán Xnachba ở trường đại học. Có thể còn rõ nét hơn. Trong mắt ông có cái gì đó khó hiểu và sợ hãi. Ông quay về phía con trai, miệng há hốc, môi run run, tôi nghĩ kiểu gì ông cũng gào lên, nhưng không, ông chỉ lúng ba lúng búng:
“tôi ...”, hay là “toi ...”, ai mà biết được? Rồi ông rơm rớm nước mắt.
Ariel nhìn bố mình như một tay thợ săn tiến về phía cái bẫy mà mình đã giăng.
Tôi đã nói là họ giống nhau về mặt hình thức chưa nhỉ? Florence và Ariel ấy. Thật là ấn tượng. Không thể chối cãi. Đó là một chi tiết phải ghi vào bộ nhớ. Tối hôm đó, tôi đã thấy một người già đi trước mắt tôi. Trong vòng chưa đầy một phút, Walter Weiss đã già thêm mười tuổi. Ông lại nhìn Florence, bây giờ tôi nhìn nhận chính xác hơn cái nhìn thực sự của ông ấy. Rồi rốt cuộc ông Weiss cũng rút lui. Ông bước lên cầu thang, chậm chạp, thụt lùi, mắt không rời Florence. Ông biến mất ở vòng xoắn cầu thang.
Từ đó, nhiều lần tôi thoáng thấy gương mặt nhăn nheo, già nua của ông phía sau cửa sổ. Khi có Florence ở đó, ông tìm cách lảng tránh.
Đến giờ, tôi vẫn không rõ trong những ngày nghỉ chớp nhoáng đó, Ariel có đưa Florence đi thăm phòng mình hay không. Hắn có nói với Florence về sự vận động vĩnh cửu và về hộp đựng xì gà hay không. Tôi đã không hỏi hắn về việc đó. Tôi thấy không biết lại hay hơn.
Tối chủ nhật, cả ba chúng tôi lại lên đường. Đêm. Một dải nhựa đường dài ngoằng trong ánh sáng của đèn pha. Chúng tôi nói chuyện với nhau rất ít. Chúng tôi có thể đi bất cứ nơi đâu, tôi cóc cần. Tôi ở đó. Tôi ở cùng với họ. Florence lái xe. Ariel ngồi bên cạnh. Và ở phía sau là “con chó” đang lắc lư cái đầu.
Marie giam mình trong phòng tắm hơn mười lăm phút. Tôi rót đầy hai tách cà phê rồi đặt lên chiếc bàn ở trong phòng khách. Sau đó tôi về chỗ của mình trên tràng kỷ. Tôi chờ, tai dõi theo tiếng nước chảy qua vách ngăn.
Marie đi ra, mình mặc một chiếc áo choàng rộng thùng thình. Chân trần, tóc ướt búi ra sau. Em nằm dài trên ghế bành, chân khép lại. Em thổi cà phê rồi uống một ngụm. Có vẻ như em không nhận ra là cà phê đã nguội. Tôi đoán chắc là tâm trí em đang tìm ra những lời giải đáp, tìm ra một lối thoát nào đó trong cảnh hỗn mang. Cuối cùng, em bĩu môi buột miệng:
– Em không hiểu ...
– Anh không chắc chắn là mình có thể giải thích hết tất cả. Chưa đến lúc.
– Có thể nói là cái gã viết ra những điều ấy là một thằng điên.
– Đúng thế, Marie ạ. Đúng là như thế. Đó là một trường hợp lâm sàng.
Một kẻ bịa chuyện. Một kẻ bị tâm thần phân liệt. Một tên bị bệnh về nhân cách, em muốn sao cũng được.
– Nếu thế thì yên tâm rồi.
Tôi nghĩ ai mà đụng đến hắn thì kết cục sẽ như vậy thôi. Sau đó, đúng như tôi đang chờ đợi, một loạt câu hỏi ùa tới.
– Người đó là ai? Marie hỏi. Matthieu là ai? Hắn có quan hệ gì với anh? Tôi nói:
– Còn phức tạp hơn chúng ta tưởng, Marie ạ.
– Những câu chuyện quá đơn giản thì ai thèm quan tâm, Alex.
Thời gian suy nghĩ. Tôi cắn môi, không biết bắt đầu như thế nào.
Marie tưởng tôi không muốn nói. Em nói tiếp:
– Alex, có phải anh đến cho em biết tin rồi sau đó tìm cách lẩn trốn?
Đôi mắt to tròn sáng long lanh của em nhìn vào mắt tôi.
– Không, tôi nói. Anh sẽ không bỏ rơi em. Lần này thì không. Tôi dốc cạn tách cà phê, sau đó tôi nói:
– Matthieu không tồn tại.
Tôi dành cho Marie ba giây để nắm bắt được vấn đề rồi nói lại:
– Matthieu không tồn tại. Và người có tên là Ariel cũng không luôn. Chí ít là không phải như người ta tưởng. Họ không có sự tồn tại nào cụ thể. Đó là hai sáng tạo, hai nỗ lực hiện thân của một và chỉ một ảo ảnh, một thực thể, thực thể này cũng chỉ xuất phát từ bộ não của một kẻ tâm thần chó chết nào đó! Em hiểu chứ? Như thể thằng điên này lấy từ túi áo ra hai lá bài phăng-teo mà rằng:
“Các người thấy đấy, có phải tôi đâu, họ đấy chứ!”. Những lời xin lỗi chỉ là những lời xin lỗi!
Tôi đấm tay lên bàn. Tách cà phê của tôi rung lên. Lúc đó tôi nhận ra mình đã cao giọng. Một lần nữa, tôi cảm thấy mồ hôi vã trên trán. Nhìn vào nét mặt của Marie thì kẻ sa sút trí tuệ mà tôi tả chính là tôi.
Tôi nhắm mắt lại và ngả người trên lưng ghế.
– Xin lỗi em ... Tôi thì thầm.
Không khí căng thẳng hạ nhiệt dần dần. Marie tinh tế chờ đợi mà không bình luận gì. Cuối cùng, tôi tiếp tục:
– Có vẻ điên rồ đấy, nhưng thế đó. Không những Matthieu và Ariel chỉ là một, như mặt trước mặt sau của một lá bài, mà sự tồn tại của họ không được xác thực. Người ta tưởng tượng ra họ thế thôi.
Tôi nhận ra những lời giải thích này tối nghĩa đến mức nào. Marie cố hiểu, cố nắm bắt những thông tin mới này.
– Những nhân vật chứ gì? Như trong tiểu thuyết phải không?
– Có thể nói như thế.
– Có nghĩa là chuyện này chỉ là ... chỉ là hư cấu?
– Không. Thật không may là không. Lẫn lộn hết. Những nhân vật đó được phịa ra, nhưng phần lớn hành động của họ đã xảy ra thực sự. Những án mạng đã xảy ra thực sự. Những nạn nhân được tả là có thật. Vả lại, tên của họ đã không được thay đổi. Anh có thể xác thực một số yếu tố như thế. Có thể nói thằng đểu đó đã cố gắng thêm thắt một số chi tiết có thật, chỉ để người ta tin, chỉ để người ta lần theo dấu vết mà hắn đã vạch ra trong cánh rừng rậm rịt chết tiệt đó! Ngoài những chi tiết này ra, phần còn lại chỉ là những thứ rác rưởi. Hãy tự tìm kiếm đi! Hãy dò dẫm trong những bụi cây rậm rịt thì các người ắt sẽ tìm ra!
– Cái gì?
– Cái gì là cái gì?
– Có thể tìm ra cái gì? Dấu vết đó sẽ đưa chúng ta tới đâu?
Tôi phác một cử chỉ bâng quơ. Tay tôi thả lỏng trên đầu gối.
– Tới hắn, anh nghĩ vậy ... Hay nói đúng hơn là:
trong hắn. Ngay trong bộ não rối loạn của hắn. Tận sâu trong bóng đêm u tối của hắn! .... Đó là câu trả lời mà anh thấy có thể chấp nhận được. Điểm xuất phát cũng là hắn, điểm đến cũng là hắn. Câu trả lời đó khá phù hợp với nhân cách của hắn.
– Hắn? Marie hỏi. Hắn là ai? Anh vẫn chưa trả lời câu hỏi đầu tiên của em, anh Alex. Nếu tên Matthieu này không có thật, thế ... “kẻ bị tâm thần chết tiệt” đó là ai? Ai đã viết cái đó?
Tôi cảm thấy day dứt khi nêu tên hắn trước mặt em. Như thể thực sự đã đến lúc cầm tay em để cùng thực hiện một cú nhảy rất xa.
– Hắn tên là Édouard Dayms, tôi nói. Hắn đã từng mang tên đó.
– Đã từng ư?
– Hắn đã chết. Tự sát. Anh đã tìm thấy thi thể của hắn mới hôm qua. Marie ngoảnh mặt đi, hai chân khép lại.
– Thế thì, Marie thở phào, không thể nói là anh trở về tay không!
– Anh thì ...
– Không, em vừa nói vừa lắc đầu. Anh đừng có đụng tí là xin lỗi. Em xúc động. Em rất xúc động khi anh tìm đến với em.
Tôi nhìn Marie chằm chằm. Tôi nói:
– Anh không còn ai khác, Marie ạ.
Một lần nữa Marie ngoảnh mặt đi. Gương mặt mịn màng. Cổ dài như thiên nga, trắng trẻo và mảnh dẻ. Điệu bộ quý phái. Tất cả những câu chuyện đầy hình ảnh này rất hợp với em. Đứng cạnh em, tôi cảm thấy mình nặng nề, bẩn thỉu, xấu xa. Một biến cố bất ngờ.
– Anh xem đấy, em có biết bao nhiêu là câu hỏi lúc nhúc trong đầu, Marie nói tiếp. Tốt hơn hết là anh kể cho em nghe. Kể một cách chi tiết. Anh nghĩ là mình có thể làm được chứ?
Cửa sổ vẫn còn mở. Một phần tư mặt trăng xuất hiện phía trên cánh cửa, bị che phủ bởi những đám mây xám xịt và lùng nhùng. Giống như ánh đèn trên tấm kính. Marie chờ đợi. Tôi nhìn xuống cái túi nhựa nham nhở bên cạnh.
– Anh sẽ cố gắng, tôi nói.
Những sự việc đó xảy ra ở thế kỷ khác. Chúng diễn ra lùi lại mười lăm năm. Hồi đó, tôi đã là một cảnh sát già dặn. Theo hộ tịch thì tôi ba mươi sáu tuổi, nhưng gần một nửa số năm ấy ở trong nhà giam. Một số quãng thời gian được tính gấp đôi, thậm chí gấp ba. Một số quãng khác lòng vòng không dứt. Không ngừng tí nào.
Trước tiên, tôi buộc phải nói qua về cuộc đời tôi.
Nhìn chung, quãng đời mà tôi đã đi qua không có gì độc đáo lắm. Mười tám tuổi, tôi chuyển thẳng từ học viện âm nhạc sang trường cảnh sát. Từ những nút ngà sang báng súng bằng kim loại. Có trở lại những động cơ của tôi thì cũng chẳng để làm gì.
Kể từ đó, tôi theo dốc mà đi. Lúc đầu là lên cao. Chính đấu trường là nơi tôi chứng tỏ được mình, nhờ thế tôi được lên lon. Tôi là một cớm giỏi. Tôi có năng khiếu. Đặc biệt, tôi có niềm tin. Chưa bao giờ ngần ngại lao vào cuộc, đơn giản là bởi vì tôi tin vào chính nghĩa. Niềm tin, tôi nghĩ đó là điều tối thiểu phải có khi phải chĩa súng vào một thiếu niên nghiện ma túy mười bốn tuổi đang trên đà xuống dốc, tay cầm dao rựa, hay chĩa súng vào một kẻ hám lợi mặc đồ trắng đang bán thuốc phiện cho thiếu niên đó. Tôi đã có thể làm được. Tôi đã có thể bóp cò nếu cần thiết, nếu chắc chắn là mình đang bảo vệ người vợ góa chồng, đứa con côi cút và sự an bình của thế giới. Một anh lính vì hòa bình.
Sau này, tôi cũng đã có thể làm như thế. Nhưng không có mối bận tâm nào khác là tự cứu lấy mạng của mình, và bảo vệ những thành quả của bản thân.
Đồng thời, tôi không thể nói chính xác điều gì đã xảy ra. Có hay không một lúc cụ thể nào đó mà tất cả đã lung lay, đổ vỡ. Tôi không tin. Người ta thường buông xuôi một cách từ từ và với một sự thoải mái nào đó. Phải để cho ý thức có thời gian thích nghi với hành động, một cách chậm rãi, nhẹ nhàng.
Sau mười hay mười hai năm trong nghề, tôi thuộc lòng những cống rãnh của xã hội. Bởi vì, gần như một cách tự nhiên, bên kia bờ dốc dẫn tới những cống rãnh đó. Tất cả diễn ra ở đó. Chí ít là về phần tôi. Vì cứ muốn vớt vát phần mình, tôi có thể nhắm mắt mà vẽ cái hệ thống dơ dáy đó. Kể cả những phân nhánh nữa. Tôi đã thấy quá nhiều thứ, đã nghe quá nhiều điều nên có thể biết rõ hệ thống đó vận hành như thế nào. Tôi đã nhấn chìm sự ngây thơ, khờ dại, sự liêm khiết, niềm tin của mình ở đó. Tất cả những thứ ấy ngày càng xa lìa tôi như những vảy da hoại tử trôi theo dòng nước uế. Tôi đã quen với bóng đêm của những đường hầm và mùi hôi thối trong đó. Tôi có thể nêu tên và nắm chân của từng con chuột từ đó ngoi lên. Tại sao ư? Bởi vì từ giờ trở đi, tôi là người của chúng, ngay cả khi tôi không quan niệm điều đó một cách sống sượng và hiển nhiên như thế. Cả thập kỷ tôi đã ngụp lặn trong bùn, và tôi đã bắt đầu ham thích.
Lỗ của tôi đã đào xong, nó nằm giữa đáy trũng. Cái ổ của tôi.
Tất nhiên, tôi tiếp tục công việc của mình, tiếp tục truy bắt những kẻ độc ác – một cách hiệu quả là đằng khác, khi tôi cố gắng. Nhưng kinh nghiệm chỉ bảo cho tôi ít nhất hai điều căn bản:
lựa chọn và thỏa hiệp. Kẻ ác ở khắp nơi mọi chốn, rốt cuộc, người ta nhận ra là vô bổ biết bao nhiêu, kiêu ngạo biết bao nhiêu khi nghĩ mình có thể quét sạch bọn chúng. Thế thì phải lựa chọn. Ở đây, bất cứ kẻ nào có chút lương tri cũng chỉ có đúng một con bài:
trong lũ người ghê tởm chuyên gặm nhấm này, có những kẻ có ích cho chúng ta, rồi còn có những kẻ khác nữa. Với hạng người đầu tiên, chúng ta thỏa hiệp, với hạng người thứ hai, chúng ta tiêu diệt.
Khi đeo lon quận trưởng, người ta có quyền lựa chọn. Nhưng đó là sự lựa chọn duy nhất mà người ta có, duy nhất, đừng có tưởng bở.
Tôi nghe tiếng ai đó kêu lên phản đối, tôi nghe những câu chửi tục:
“thối nát”, “tha hóa” v.v ... Không đơn giản thế đâu. Ai lại đi trách một bác sĩ nào đó vì ông ta đã bị lây bệnh khi chữa bệnh? Ai dám cho rằng đó là bằng chứng cho thấy sự thiếu trung thực và sự vô dụng của ông ta? ... Cảnh sát thường thao diễn trong một thế giới mà anh ta phải biết cách hòa hợp. Anh ta ngụp lặn. Chìm đắm hoàn toàn. Đến nỗi mà mặt nước mỗi lúc mỗi rời xa, mỗi lúc mỗi mờ đục. Rốt cuộc ta cũng quên là nó tồn tại. Quên ở phía trên còn một thế giới khác. Rốt cuộc người ta cũng không biết bầu trời màu gì nữa.
Không ai, hoặc gần như thế, có thể trốn tránh quy luật.
Tôi cũng đã trục lợi. Không hơn không kém. Lợi dụng chức vụ của mình, thậm chí chưa đến mức lạm dụng - tôi chưa bao giờ hoang tưởng. Thói quen của tôi phụ thuộc vào đẳng cấp khiêm tốn của tôi. Như thế đã quá đủ.
Một số con nợ bảo đảm cho tôi có cái ăn cái ở, được đặt bàn ăn ở những cửa hàng sang trọng, nơi mà tôi được gặp những bậc đại gia sống trong khu phố cổ nơi tôi ở. Tôi không cần quần áo chỉnh tề. Đêm tôi thường ngủ trên một tấm thảm dạ phớt, trong phòng sau cửa tiệm ngụt khói hoặc trong phòng khách sang trọng của một vị dân biểu nào đó. Tôi đặt cược ở đó khoản lương phụ cấp của mình, hàng ngày tôi nghiến răng nghiến lợi trích ra một khoản tiền nhỏ. Chơi thì phải thế.
Trong những năm tháng đó, tôi đã bắt đầu uống rượu. Uống cầm chừng thôi. Cốt để giữ cho cái đầu được lạnh, cốt để nhấn chìm những âm vang xa xôi phát ra từ ý thức tội nghiệp của tôi, một cái lương tâm đang thét gào với kẻ phản bội.
Rượu như một chất kích thích khả dĩ biến màu xanh lục thành màu hồng.
Cũng chẳng có gì độc đáo cả.
Thật là thảm hại, nhưng đó là cuộc sống của tôi. Và tôi cảm thấy thoải mái. Sướng như tiên. Những tưởng điều đó sẽ kéo dài mãi mãi - phần lớn trường hợp là như thế. Mỗi khi đến giai đoạn này, người ta thường ổn định và cứ thế lần ra lối thoát cuối cùng. Về phần tôi, tôi có thể nói rõ ngày mà mọi chuyện kết thúc. Buổi sáng tháng Mười, vào lúc bình minh. Ngày mà tôi sẽ chết.
Bởi vì tôi cũng phải nói về Léna. Và về những thiên thần.
Những kẻ ngu ngốc như tôi chỉ hiểu những cú đánh đấm mà thôi. Sự đau đớn. Chỉ khi nào mắt bị thủng thì họ mới bắt đầu nhìn thấy. Tất nhiên là đã quá muộn. Không còn ai để thấy, cũng chẳng còn gì để thấy. Nếu không phải là cái mõm khốn nạn của chính mình.
Khi Hélène xuất hiện trong đời tôi, nàng xấp xỉ mười lăm tuổi. Nàng vừa “làm tình” với Rachmaninov trước khoảng ba mươi người, ba mươi người sững sờ, đờ dại. Không hổ thẹn, không ý tứ, với một sự hăng say mãnh liệt xuất phát từ tình yêu lẫn cuộc chiến đấu chí mạng. Thêm một điều mà mãi sau này tôi mới hiểu. Chính tôi cũng chưa đến mười bảy tuổi và tôi chẳng biết gì về ân ái cả. Hiến thân cũng không. Chuyện đó xảy ra trong giảng đường của nhạc viện. Khi Hélène đã buông phím đàn, một sự im lặng bao trùm sau đó.
Cũng chẳng có ai vỗ tay hoan hô. Tôi thấy ông thầy già hiếu chiến ngáp dài.
Bản thân ông ta cũng đang hoàn hồn. Tôi gần như chắc chắn là đúng vào ngày đó, tôi đã quyết định không chơi piano nữa. Hélène học trên tôi hai lớp.
Chúng tôi định học nhạc với nhau. Cái cớ lý tưởng để đến nhà nàng chơi vào những buổi chiều mùa đông, trong một căn hộ mà không khí làm cho tôi rất vui thích. Tôi thích ở đó. Mẹ của Hélène, bà Doukas, tiếp đãi tôi như một hoàng tử thất thế, lưu vong. Tôi bấm chuông là bà mở cửa và kêu lên:
“Các con ơi, Alexandre đến!”. Tôi thích bà kêu tên tôi với giọng miền Đông ngọt ngào ấy. Trước đây, bà đã từng là diễn viên múa balê, giờ bà vẫn còn giữ được dáng dấp và điệu bộ đi lại như nhón gót trên mười đầu ngón chân. Quê bà ở Budapest. Chồng bà cũng thế. Chồng bà là nhà vật lý thiên văn - là chuyên nghiên cứu về sao ấy. Ông chết trong một tai nạn tàu hỏa hai năm sau khi đến Pháp, và hai tháng trước khi Hélène chào đời. Bà Doukas gọi tôi là anh và năn nỉ tôi gọi bà là Anna. Tôi có thể ép mình nuốt thứ trà vừa đen vừa đắng mà bà liên tục mời tôi, tôi không phải trả giá quá đắt để có chỗ trong nhà họ. Giờ tôi vẫn tin là bà rất mến tôi.
Chủ nhật, Anna Doukas hoán cải thành nhà chiêm tinh. Bà có một quả cầu pha lê thật, thỉnh thoảng, bà mời tôi ngồi phía sau quả cầu pha lê đó. Số phận mà bà tiên đoán cho tôi chỉ toàn may mắn và thành công. Con đường hạnh phúc trải dài bất tận trước mặt tôi. Những lời tiên đoán may mắn. Nếu bà thực sự đọc được tương lai, có lẽ không bao giờ bà mời tôi đến nhà nữa. Có lẽ không bao giờ bà cho phép tôi bén mảng đến những người con gái của bà, dù cách cả một dải thiên hà. Chính từ miệng bà mà Hélène trở thành “Léna”.
và Marie trở thành “Maria”. Đó là những cách gọi chứa đựng biết bao yêu thương.
Hoặc là những người láng giềng sống trong chung cư bị điếc, hoặc họ là những người mê âm nhạc. Chưa ai có lời ra tiếng vào bao giờ. Khi Hélène chơi nhạc, khi những ngón tay của nàng lướt trên phím đàn, thế giới không còn như cũ nữa. Bất cứ bài tập nào, bất cứ gam nhạc nào của nàng cũng mang một giai điệu có khả năng làm cho chúng ta bay cao bay xa. Những bản nhạc khó về kỹ thuật mà tôi phải mất hai tuần làm việc cật lực liên tục mới vượt qua được thì nàng chỉ mất chưa đến hai tiếng đồng hồ. Nàng chơi dễ dàng biết bao nhiêu! Điêu luyện biết bao nhiêu! Đó không chỉ nhờ tài năng.
Hélène có năng khiếu thẩm thấu âm nhạc để rồi sau đó có thể trình bày lại.
Đó là sự khác nhau cơ bản giữa một tay thợ thủ công, dù anh ta có khéo léo đến mấy, và người nghệ sĩ.
Cho dù Hélène chơi nhạc phẩm nào đi chăng nữa thì nhạc phẩm đó cũng trở thành tác phẩm “của nàng”.
Tôi chỉ còn nước ngồi xuống và thả mình theo điệu nhạc. Căng tai ra, mở to đôi mắt, mở rộng trái tim. Tất cả những gì tôi được ban tặng là vẻ đẹp và sự hài hòa. Ngoài kia là mùa đông, là gió, là mưa. Là lạnh giá. Tôi ở đây suốt cả buổi chiều.
Marie ở đâu giữa tất cả những thứ đó? Nàng ở đó và tôi không quên.
Maria dịu dàng, kín đáo. Đó là bản chất của em. Léna là vầng dương, Maria là ánh nguyệt. Hai chị em khiến tim tôi bỏng cháy. Vào lúc đó, hình như chưa có gì chắc chắn. Marie là chị cả. Em cùng tuổi tôi. Khi nghĩ đến điều đó, tôi buộc phải chấp nhận là giữa Marie và tôi có nhiều điểm chung hơn là giữa tôi và Hélène. Hélène quyến rũ tôi, nhưng chính trong ánh mắt sáng ngời của Marie tôi mới tìm thấy sự yên bình. Một ánh sáng khác, một hào quang khác. Tôi khát khao được đắm mình trong đôi mắt đó. Khi hai chị em chơi với nhau, tôi là hoàng tử lưu vong hạnh phúc nhất.
Vâng, tôi có thể nói về thuở “hàn vi”. Ba người chúng tôi. Không phải trong khu vườn rộng mênh mông, trước biển khơi, chuyện trò trên ghế đu, mà trong phòng khách một căn hộ cũ rích, giữa một cây đàn piano và viôlôngxen.
Không bao giờ nên tách rời các yếu tố.
Bà Anna Doukas đáng kính đã đi gặp chồng mình trên những vì sao trước khi nhận ra những tiên đoán của bà sai lầm biết bao nhiêu. Bà là người duy nhất không để cho tôi có thời gian làm cho bà thất vọng.
Những ngày đẹp trời, chúng tôi làm như những chàng trai cô gái cùng trang lứa:
chúng tôi đi biển. Những khu phố mùa hè. Nơi mà chúng tôi thích nhất là một vũng nhỏ bị kẹp giữa những hốc đá. Sỏi hồng và be. Đủ chỗ cho cả ba chúng tôi. Người ngoài cứ tưởng vũng đó là của chúng tôi.
“Bãi biển yêu tinh” là có thật. Léna đã đặt tên như thế.
Quỷ thật.
Nếu chúng tôi không ở bên bờ biển, thì chắc chắn là đang ườn mình sưởi nắng ở bờ hiên nào đó nơi bến cảng. Giờ tôi vẫn còn cảm nhận được dư vị của nước chanh Gambetta. Tôi còn cảm thấy nắng táp lên da thịt mình.
Tôi ngồi giữa hai chị em. Tôi những muốn choàng tay ôm lấy cả hai. Vòng tay bá cổ hai chị em. Tôi biết một số người tưởng cả hai cô gái đều thuộc về tôi. Tôi không phản đối. Hẳn đó là ước muốn lớn nhất của tôi. Ngay cả trong những giấc mơ của tôi, gương mặt của hai chị em cũng lẫn lộn nhau - có Chúa mới biết tôi đã mơ bao lần. Tôi cảm thấy ngực tôi đủ rộng để cả hai chị em ngả đầu lên đó. Nhưng thực tế là tôi chưa sở hữu được cô nào.
Cuộc đời đã rành rọt với chúng tôi. Bệnh viêm họng tác quái, tuy không nghiêm trọng nhưng đã khiến Marie phải nằm liệt giường vài ngày.
Ngay giữa tháng Tám. Chỉ cần tí chút thôi là mọi việc đã thay đổi. Sự cân bằng bị phá hủy. Hélène và tôi cặp kè với nhau. Tò mò. Quyến rũ. Xác thịt.
Sự thể đã diễn ra như thế.
Tôi thường tự hỏi:
Marie đã thực sự hết đau họng chưa? Em vẫn luôn tỏ ra gương mẫu. Không khi nào em khiến cho sức nặng của tội lỗi và của sự phản bội đè nặng lên chúng tôi. Em đã không đấu tranh. Em đã hi sinh mình, đầu ngẩng cao, nụ cười phiền muộn trên môi. Em yêu mến chúng tôi.
Tưởng chừng như chưa có gì thay đổi. Gần như thế.
Điều mà tôi biết, đó là ba mươi năm sau, con tim em vẫn mãi cô đơn, và tôi vẫn luôn thấy lòng bình yên khi nhìn vào đôi mắt trong sáng của em.
Tôi đã lấy Hélène. Chúng tôi còn trẻ. Chúng tôi đã quá nóng vội. Tôi đã đi làm và đồng lương ít ỏi của tôi chỉ cho phép chúng tôi thuê một gian phòng ba mươi mét vuông sát mái nhà. Trong căn phòng ấy chỉ có mỗi cái giường đôi và một cái đàn piano nửa cánh sơn đen. Đêm, ân ái xong là vợ tôi lại dậy chơi đàn. Tôi thiu thiu ngủ trong điệu valse của Chopin, trong bản sonate của Bach, trong mắt tôi in dấu hình ảnh của Hélène ngồi trên ghế đẩu, xoay lưng lại, trần truồng, tuyệt đẹp.
Chúng tôi đã từng hạnh phúc.
Đó là thời mà tôi còn tưởng tượng Hélène trên sân khấu. Nghệ sĩ dương cầm được mến mộ. Hàng nghìn người hâm mộ và hoa hồng phủ phục dưới chân nàng, trên những sân khấu lớn nhất của hành tinh. Đến giờ tôi vẫn tin là nàng có khả năng. Nhưng thời đó nàng không màng tưởng đến. Tiền bạc, vinh quang không khiến nàng quan tâm. Nàng thường nói là nàng chỉ yêu nhạc và tôi. Nàng thường nói tôi là khán giả duy nhất xứng đáng, khán giả duy nhất mà nàng sẵn sàng chơi, chơi, chơi nữa và dâng hiến tất cả. Tất cả những điều ấy, nàng nói với tôi thành lời, nàng nói với tôi bằng những ngón tay, với những phím đàn. Làm sao nàng có thể nói dối được?
Nàng muốn có con với tôi.
Léna muốn cho tôi những gì tốt đẹp nhất. Những đỉnh cao chói lọi. Nàng có thể đưa tôi lên cao bằng tình yêu, bằng âm nhạc và bằng tất cả những gì nàng có và chia sẻ với tôi. Chỉ cần tôi đồng ý đi theo nàng. Chỉ cần tôi có cùng sở thích, cùng hy vọng, cùng mục đích. Cùng ánh mắt nhìn lên đỉnh cao.
Trong một thời gian, tôi đã có những thứ ấy. Và sau đó tôi đã buông xuôi.
Hélène đã phải đợi chờ sáu năm mới được làm mẹ. Đào sâu trí nhớ, tôi có thể nói là tôi đã cho nàng đứa con đó, đứa con đầu tiên, để bù đắp cho nàng.
Như một cách để tự khôi phục danh dự.
Tôi đã bắt đầu xuống dốc. Cuộc đời cảnh sát níu giữ tôi lại. Mỗi lúc tôi càng ít có mặt, càng ngày tôi càng ít rảnh rỗi, về thể chất cũng như về tinh thần. Tôi kéo lê những tối, những đêm. Khi tôi về nhà, Hélène giả vờ ngủ trên phần giường của mình, còn tôi giả vờ tin như thế. Cây đàn piano lặng tiếng cả tuần. Đơn giản thôi, Hélène quay đầu lại và nhận ra giờ nàng đã trắng tay.
Về phần tôi, tôi đã đặt lên tay nàng trọng lượng của đứa con.
Đó là một thằng con trai. Chúng tôi đặt tên nó là Étienne, cái tên bắt nguồn từ triều đại của các nhà vua Hungari lâu đời. Một cách tưởng nhớ cội nguồn và là một món quà tưởng nhớ đến Anna Doukas vừa mới qua đời.
Mattéo, thằng con thứ hai, sinh ra mười tám tháng sau. Étienne và Mattéo. Hai thằng con trai. Hai thiên thần của tôi ... Bao nhiêu năm sau, nói thì dễ thôi. Quyền gì mà tôi có thể gọi chúng như thế? Léna đã một mình nuôi nấng chúng. Nếu có lúc nào đó nàng tin là việc chúng ra đời sẽ làm cho tôi sáng mắt ra và sẽ khiến tôi gượng dậy, thì quả nàng đã nhầm. Tôi đã tiếp tục sa sút. Hélène trút tất cả lên đầu hai thằng con:
sự hăng say, niềm hi vọng, cơn thịnh nộ. Một buổi tối, tôi về nhà và thấy cây đàn piano đã biến mất. Nàng đã vứt bỏ cây đàn mà không hề nói với tôi. Một hành động đầy ẩn ý. Âm nhạc đã bị đẩy ra phía sau, đến với một cuộc sống khác, một phạm vi khác, trên những cái giá ở trong gian phòng chật hẹp, nơi mà những ảo tưởng, ước mơ đã mốc meo, tan vỡ. Tôi đã hiểu.
Tôi đã trở thành một luồng gió. Hélène nuôi con của chúng tôi khôn lớn còn tôi thì phung phí thời gian của mình với đám lưu manh, đầu trộm đuôi cướp, những kẻ tranh giành quyền lực. Tổ ấm của tôi, đó là thành phố và vùng ngoại ô. Còn gia đình đích thực của tôi ư? Tôi biết con cái của những người buôn cát trong phố còn hơn con của chính mình.
Sự tự do giả tạo này, tôi mua nó bằng những món quà. Trang sức, đồ chơi, hàng đểu. Hai tay bưng đầy quà và phân phát thì có khó gì đâu. Ông già Noel xuất hiện - khi nào cũng không đúng lúc. Cầm lấy, các con yêu, cầm lấy, cứ như thế đã, đợi lần tới nhé. Tiện nghi vật chất làm cho người ta lóa mắt. Đó là tất cả những gì tôi có thể cho các con tôi. Mấy thằng nhóc nhận quà nhưng Hélène thì không. Váy, áo lông, giày dép chất đống trong tủ tường, nguyên xi, một cái hộp nhỏ bằng gỗ mun đựng đầy nhẫn và dây chuyền chưa bao giờ đeo.
Tôi còn nhớ một buổi tối Noel, khi mà cả ba, - cả bốn, tính cả Marie - còn ở trong ngôi nhà mà rốt cuộc tôi đã bỏ tiền ra mua. Khoảng mười hộp quà chất đống dưới gốc cây thông. Thế là tôi tưởng đã mua được cái quyền ở xa nhà vài cây số vào giờ ấy, dưới ánh đèn nêông trong kho hàng hóa, để bật sâmpanh với năm sáu tên buôn lậu người Bỉ và mấy cô gái.