Tác giả & Chương 1

James Hadley Chase là bút danh của tác giả người Anh - Rene Brabazon Raymond (24/12/1906 – 6/2/1985), người cũng đã viết dưới tên James L. Docherty, Ambrose Grant và Raymond Marshall.

Ông sinh ra ở Luân Đôn, là con của một đại tá người Anh phục vụ trong quân đội thuộc địa Ấn Độ, người dự định cho con trai mình có một sự nghiệp khoa học, bước đầu đã cho học tại trường học Hoàng gia, Rochester, Kent và sau đó học ở Calcutta. Ông rời gia đình ở tuổi 18 và làm nhiều công việc khác nhau, một nhà môi giới trong nhà sách, nhân viên bán sách bách khoa toàn thư của trẻ em, người bán sách sỉ trước khi tập trung vào sự nghiệp viết lách với hơn 80 cuốn sách trinh thám. Năm 1933, ông đã cưới Chase Sylvia Ray và có một con trai.

Trong Thế chiến II, ông phục vụ trong Không quân Hoàng gia, cuối cùng đạt được thứ hạng lãnh đạo Đội tàu chiến. Chase đã biên tập Tạp chí Không quân Hoàng gia cùng với David Langdon với nhiều câu chuyện, nó được phát hành sau chiến tranh trong cuốn sách Slipstream.

Chase chuyển đến Pháp năm 1956 và sau đó đến Thụy Sĩ vào năm 1961, sống một cuộc sống ẩn dật ở Corseaux-Sur-Vevey, phía bắc của hồ Geneva, từ năm 1974. Ông qua đời yên bình vào ngày 6/2/1985.

 

Các tác phẩm của James H. Chase đã được xuất bản tại Việt Nam: Tỉa Dần, Cái Chết Từ Trên Trời, Cả Thế Gian Trong Túi, Ôi Đàn Bà, Cạm Bẫy, Gã Hippi Trên Đường, Hứng Trọn 12 Viên, Đam Mê và Thu Hận, Tệ Đến Thế Là Cùng

 

 

Chương 1

Từ phía sau bức vách bằng kính của chiếc bàn viết tôi trông thấy người đàn ông đang bước vào phòng chờ đợi. Hắn tóc nâu, cao ráo mảnh dẻ khoảng ba mươi tuổi, tra trong người bộ phục bảnh choẹ. Người thợ cắt nào đó phải tay lành nghề, xuất thân từ ngành nghệ thuật tạo mẫu thời trang, đã tăng thêm cho hắn dáng vẻ phong lưu thanh lịch. Thoạt nhìn ngang khuôn mặt rắn rỏi của hắn, người ta liên tưởng hình ảnh một ngôi sao màu bạc, mà không một đạo diễn yêu nghề nào có thể bỏ qua cơ hội mời chọn hắn ký hợp đồng.

Sue Douglas, cô thư ký trẻ trung xinh đẹp và trung thành của tôi, đã đứng lên và ban cho hắn nụ cười chào khách rạng rỡ và nồng nhiệt nhất. Rất lâu, hiếm gã đàn ông cưỡng lại trước sức quyến rũ của Sue. Thùy mị duyên dáng, từ tốn đoan trang, thể hình hài hòa cân đối, Sue là thần tượng của cánh đàn ông. Thế mà, nụ cười tươi thắm của nàng từ từ tắt lịm như ngọn đèn dầu khô bấc, trước cái nhìn của hắn như vừa nom thấy con ruồi trong cốc rượu.

Hắn đảo mắt quanh quất và nhìn thấy tôi ngồi sau bàn làm việc. Qua bức vách trong suốt, bốn mắt chúng tôi chạm nhau trong một giây, rồi hắn thong dong xô cửa bước vào sau khi không quên lịch sự khép nó lại bằng... cái gót giày.

- Anh là giám đốc ở đây? - Hắn hỏi đổng.

Không mất một giây, đủ biết hắn là công dân vương quốc Anh, đã qua trường lớp ở Eton và Cambridge. Trong thời gian sáu tháng thăm viếng nước Anh, tôi đã quen thuộc hầu hết ngữ điệu của xứ sở này, nó thể hiện rõ nét của tầng lớp xã hội. Thế nên, tôi không thể nhầm lẫn giọng nói của hắn.

- Chính xác! - Tôi đáp và đứng lên, nở nụ cười chào khách. - Clay Burden có thể giúp được gì cho ông?

Tôi đưa tay chỉ chiếc ghế dành cho khách.

Hắn nhìn chiếc ghế vẻ ngờ vực và sau khi tin rằng bộ sậu sáng giá của mình không gặp nguy cơ vấy bẩn, hắn cẩn thận ngồi xuống.

- Anh vừa khai trương cửa hiệu này à? - Hắn hỏi, rồi liếc mắt nhìn quanh.

- Vâng, chúng tôi thành lập nó vừa đúng... sáu ngày, thưa ông.

Hắn nhíu mày, rồi nhún vai hàm chứa câu nói: "Không trách anh, không được biết tôi...".

- Tôi là Vernon Dyer, nổi tiếng ở đây!

- Hân hạnh cho tôi, thưa ông Dyer.

- Tôi đoán anh là người mới đến Paradise City?

- Thưa đúng, ông Dyer.

- Tôi nghĩ rằng chỗ của anh đã chọn được ai đó có năng lực?

Tôi vờ không nghe và lặp lại câu hỏi:

- Tôi giúp ích được gì cho ông, ông Dyer?

Không vội đáp hắn vặn lại:

- Nhân sự ở đây, chỉ có cô thư ký và anh, thôi à?

- Chúng tôi không đủ chỗ, ông Dyer ạ. - Tôi đáp. - Khách sạn không đồng ý cho chúng tôi thuê thêm mặt bằng. Nhưng thế này đã đủ.

- Chà, ngạc nhiên thật... Bên American Express sử dụng tới những mười lăm người.

- Không lâu đâu, bởi vì bên ấy không thể thiết đặt nơi làm việc như ở Spanish Bay Hotel này. Như ông biết đấy, nó là loại khách sạn sang trọng bậc nhất Paradise City.

- Tôi không quan tâm đến việc khách sạn có sang trọng hay không. - Hắn đốp chát khô khốc. - Điều tôi muốn biết đấy là khả năng phục vụ của một hãng đại lý du lịch có đạt được hiệu quả cao hay tồi!

- A, ông đã gõ đúng cửa rồi, ông Dyer, ở đây chúng tôi không nói chuyện trên bàn giấy, nhưng bằng những việc làm thiết thực và những hướng dẫn chính xác, cụ thể. Trụ sở chính của chúng tôi đặt ở Miami chuyên lo việc mua vé, cấp chi phiếu du lịch cũng như tất cả những thông tin, tài liệu hữu ích liên quan đến khách hàng, rồi chuyển về chi nhánh ở đây bằng phương tiện nhanh chóng nhất. Thí dụ khách hàng muốn đến New York bằng đường hàng không, chúng tôi sẽ cung cấp lịch trình chuyến bay, mua vé và đặt chỗ trước trên phi cơ ở đây cũng như ở phi cảng Miami. Văn phòng của chúng tôi đặc biệt quan tâm đến những nhu cầu của khách hàng để phục vụ đúng mức cho họ. Tóm lại, chúng tôi sẽ lo toan trọn gói từ A tới Z, ông Dyer ạ.

Hắn nuốt những thông tin này bằng cái duỗi dài đôi chân.

- Tôi cho rằng anh phải được biết danh tiếng vang như cồn của ngài Henry Vidal?

Câu hỏi hách dịch này làm tôi bắt đầu nóng máu:

- Ngài Henry Vidal à? Ôi, không... hoàn toàn không. Tên tuổi của ông ấy chưa hề bay tới Boston và ngay khi đặt chân tới thành phố này, tôi cũng chưa hề được nghe người nào đề cập tới nhân vật này. Nói chung, cái tên tuổi này chẳng nói lên nơi tôi cái tích sự gì cả.

Hắn lấm lét nhìn như chừng tôi vừa làm cuộc đảo chính. Trong khi tôi vẫn dửng dưng và thích thú, hắn cố nắn câu thông báo:

- Cho anh biết, tôi có thể đoán chắc như đinh đóng cột rằng, ngài Vidal là nhân vật vô cùng quan trọng và có quyền lực hơn bất cứ ai ở Florida cũng như khắp nước Mỹ!

- Ôi, ông ấy nghĩ mình là ai chứ? Ông đừng nói là nhân vật trên cả Bill Clinton và đương kim Tổng Thống Hoa Kỳ Georges’ W Bush? - Tuy nhiên, tôi đấu dịu. - Tôi khó thể tha thứ cho mình là không biết chiêm ngưỡng uy tín và danh vọng của ngài Henry Vidal của ông, thưa ông Dyer:

Hai hòn bi trong cặp mắt hắn tóe lửa:

- Anh muốn tỏ ra bất lịch sự à?

- Cái ý nghĩ ấy còn quá xa đối với tôi, thưa ông Dyer. - Tôi nhìn hắn và lặp lại câu hỏi. - Thực tế, tôi có thể giúp gì cho ông?

- Tôi là trợ lý của ngài Vidal. - Hắn nói sau khi im lặng một lúc. - Ngài Vidal quyết định hủy hợp đồng hợp tác với hãng American Express, đồng thời tin tưởng nơi hãng đại lý du lịch của anh!

Hắn săm soi, dò xét:

- Có thể anh sẽ cho rằng số tài khoản ủy thác trong ngân hàng được rót vào một hãng như của anh sẽ không là bao, so với những công việc sẽ làm, ông Burden?

Hắn bắt đầu lưu ý đến cái tên của tôi.

- Không đáng là bao hoặc rất quan trọng và sẽ mang đến khó khăn hay không, đối với chúng tôi chẳng có sự khác biệt nào cả, thưa ông Dyer. Chúng tôi ở đây nhằm phục vụ lợi ích cho khách hàng của mình.

Một lần nữa hắn lại tỏ thái độ ngán ngẩm của một người trông thấy con ruồi đang bì bõm trong các cốc whisky của mình:

- Được thôi, tôi kỳ vọng vào điều đó và anh nên xem mình đang bắt đầu thực hành. Hãy mở một trương mục vãng lai mang tên Công ty Vidal và từ đó, mọi sự thương lượng với ngài Vidal đều được thông qua sự trung gian của tôi.

- Ông có thể cho tôi một ý niệm về số trương mục dự kiến đấy là bao nhiêu không?

- Tôi vừa khóa sổ trương mục của chúng tôi ở hãng đại lý du lịch American Express, đồng thời cũng đã thanh toán bảng kê ngân khoản trong sáu tháng. - Hắn ngưng nói, cặp mắt gắn vào tôi, trước khi thông báo. - Tổng số của nó là... Một trăm ba chục nghìn đô la!

Tôi nhìn chằm chằm vào hắn, không tin ở tai mình.

- Điều này có nghĩa là con số trương mục dự kiến sẽ vào khoảng hai trăm nghìn đô la mỗi năm? - Tôi hỏi dò.

Hắn búng tay, phẩy một hạt bụi tưởng tượng trên đầu gối.

- Đúng thế... Một cuộc trao đổi dựa trên những phương thức tốt đẹp cho đôi bên. Có thể còn nhiều hơn.

Tôi từ từ hít không khí. Đấy là một trương mục vãng lai, tôi không thể để trượt tầm tay.

- Ông có cần một bảng tổng kê vào mỗi sáu tháng?

- Đây đúng là cách chi trả của chúng tôi.

Tôi chưa rõ, rồi đây phản ứng của ông tổng giám đốc tôi sẽ thế nào, nhưng một khi American Express đã vui vẻ nhận một hợp đồng dịch vụ với Henry Vidal lên tới con số trăm nghìn đô la, thì American Travel Services cũng có thể bắt chước làm theo họ thôi!

- Tôi sẽ chuẩn bị làm ngay. - Tôi tuyên bố. - Tất nhiên sau khi đã thông qua vài thủ tục...

Tôi bỏ lửng câu nói, nhìn thẳng vào Dyer.

- Phải thế thôi. - Hắn rút trong áo một mảnh giấy xếp đôi. - Đây là những chi tiết cần thiết: địa chỉ nhà ở của ông Vidal, người đại diện của ông ấy, tên của các ngân hàng có tài khoản đã ủy thác và tên các nhân viên hối đoái. - Hắn đặt tờ giấy lên mặt bàn. - Anh sẽ nhận thấy tất cả đều toàn hảo. Trong khi chờ đợi, anh chuyển đến chúng tôi: bảng thời khắc biểu các chuyến bay hàng tuần đến Tokyo, Johannesburg và Hong Kong; bảng đơn giá vé hạng nhất cho hai du khách trong mỗi chuyến bay khứ hồi; bảng khai giá thuê một xe du lịch dành riêng cho họ di chuyển trong sáu ngày; bảng chiết tính tiền thuê hai căn phòng trong một khách sạn thượng hạng và tiền ăn theo tiêu chuẩn tuyệt hảo của Hoa Kỳ, cũng trong sáu ngày. Ngay khi nhận được văn kiện định tổng giá phí của hãng American Travel Services, tôi sẽ trao anh một số chi tiết cụ thể khác. Tất cả những thông tin liên lạc đều phải gởi đến tôi qua địa chỉ nơi ở của ông Vidal. Anh nắm vững tất cả rồi chứ?

Tôi gật đầu đồng ý.

Hắn đứng lên:

- Thế thì, tôi có thể nói tạm từ giã anh.

Quên hẳn việc bắt tay tôi, hắn rời văn phòng, bước qua nơi của Sue, không màng nhìn nàng, rồi đi xuống một hành lang rộng thênh thang của khách sạn, hai bên đặt những gian hàng bán mỹ phẩm, chi nhánh của Luce và Fremlin, những cửa hiệu đá quý và thời trang của Saks và Elizabeth Arden cùng những thứ thời thượng khác. Dõi mắt theo đến khi hắn khuất dạng, tôi ra hiệu cho Sue bước vào bàn giấy.

- Gã quái vật hách dịch này là ai thế nhỉ? - Nàng đỏ mặt, hỏi.

- Vernon Dyer! Từ nay chúng ta sẽ còn gặp lại hắn nhiều lần.

Sau khi được nghe tôi thuật vắn tắt, Sue tròn xoe mắt kêu to:

- Hai trăm nghìn đô la?

- Đấy là hắn nói, phải chờ kiểm chứng lại. - Tôi viết nguệch ngoạc lên tờ giấy trong cuốn sổ tay, rứt nó ra rồi trao cho nàng. - Làm một bảng định giá trong một tuần lễ dựa trên tờ liệt kê những công việc này!

- Nàng gật đầu, cầm tờ giấy, trở về bàn viết của mình.

Tôi nhìn đồng hồ, nó báo mười hai giờ ba mươi lăm phút. Tôi với tay kéo chiếc điện thoại, quay số và yêu cầu nói chuyện với Joe Harkness, tổng giám đốc khu vực của American Express. Chúng tôi quen biết nhau đã lâu, có nhiều quan hệ bạn bè với nhau. Tuy là đối thủ của nhau trong công việc, nhưng ở Paradise City chẳng có mấy khách hàng, nên tình hữu nghị giữa hai cơ sở vẫn duy trì nguyên vẹn.

- Chào, Joe. Clay đây. - Tôi nói, khi nghe tiếng của hắn bên kia đầu dây. - Cậu nói thế nào về một bánh sandwich với tớ ở Howard Johnson?

- Nếu tớ không lầm, thì ở tiệm ăn ấy còn nhiều thứ sáng giá hơn miếng sandwich của cậu? - Joe đáp, vui vẻ.

- Được thôi, ma mãnh. Đến đấy đi, tớ sẽ biếu cậu món bò tẩm hương liệu xông khói.

- Chà, nghe được đấy! Vâng, tớ sẽ đến với cậu trong ba mươi phút. - Hắn hứa và gác máy.

Tôi đọc kỹ tờ giấy do Dyer trao.

- Henry Vidal lưu ngụ tại Paradise Largo, nơi có những đại gia mới dám đến ở. Lão có tài sản ủy thác trong ngân hàng ở Paradise City, Miami và New York. Người thừa hành thường trực của lão là Jason Shackman, ba nhân viên hối đoái là Trice, Seigler và Joseph.

Tôi đến gặp Sue tại phòng chờ.

- Tôi đi nói qua một tiếng với Rhoda. - Tôi báo cho nàng biết. - Sau đó sẽ đi ăn trưa với Harkness.

Nàng gật đầu:

- Khi ông trở về, bảng tổng kê công việc và tờ định giá đã có sẵn trên bàn.

Tôi thoát ra và đi xuống dãy hành lang, dẫn đên Trendie cửa hiệu bán mỹ phẩm thời trang thiếu nữ, nơi Rhoda phục vụ với tư cách bán hàng. Nàng đang ngồi trên chiếc ghế cao, đôi mắt dán vào tờ tạp chí phụ nữ.

Chúng tôi cưới nhau gần hơn hai năm, lúc tôi còn làm giám đốc chi nhánh hãng đại lý du lịch American Travel Services ở Boston. Và nàng đã là trợ tá của "Trendie", một thương hiệu có rất nhiều chi nhánh ở những khách sạn trong các thành phố lớn. Trước khi lấy nhau, Rhoda có một gian phòng nhỏ nằm. trong cao ốc nơi tôi cư ngụ, nên tôi thường đến chỗ nàng, sau giờ làm việc. Ở chỗ chúng tôi có một quán ăn, nên gần như mỗi tối, chúng tôi đều đến đấy. Sau khi đã sống với nhau rồi, việc chi trả tiền ăn nàng đều để tôi lo. Thỉnh thoảng nàng nói "em phải tiết kiệm để dành tiền cho em", về phần tôi, tuyệt nhiên không nghe nàng đề cập tới. Của đáng tội, nàng còn rất trẻ, quyến rũ và đầy gợi cảm. Thế nên, tôi không quan tâm đến việc tích lũy tiền bạc, vả lại tôi đã quen sống cô đơn lâu rồi.

Ngỡ rằng mình bằng lòng sống với Rhoda, nhằm lãng quên hình bóng Valérie, người đàn bà tôi yêu say đắm và đã bỏ rơi tôi từ bốn năm nay, nhưng ý nghĩ này đã phản lại tôi, nhất là sau thời gian ăn ở với Rhoda, tôi cảm thấy chán chường. Dù đẹp, ăn mặc gọn gàng, trang điểm tinh tươm lúc đi làm, nhưng khi về đến nhà, người đàn bà này là con số không, bệ rạc lười biếng và xem việc nội trợ là tạp dịch khổ sai. Thậm chí đến việc giăng màn căng nệm, giặt giũ quần áo, nàng cũng khéo léo khước từ. Thế là tôi phải thuê người làm và việc ăn uống vẫn tiếp diễn nơi quán ăn, thường xuyên không sót bữa nào như những lúc chưa lấy nhau và dĩ nhiên, tôi phải chi thêm khoản này.

Tuy nhiên, nói chí tình số tiền lương của cả hai nhập lại đã cho chúng tôi được sống thoải mái tiện nghi, được đăng ký vào các câu lạc bộ thể thao và được cất giữ tiền riêng của mỗi người. Nói chung cuộc hôn nhân này chỉ mang lại cho tôi sự cân bằng về mặt ức chế tính dục, chứ chẳng có ý nghĩa thiêng liêng gì trong tình nghĩa vợ chồng.

- Rhoda. - Tôi nói, khi đặt chân lên bậc cửa. - Anh sẽ không đi ăn tối với em hôm nay, vì có hẹn.

Nàng miễn cưỡng ngước mắt khỏi tờ tạp chí:

- Nói gì vậy?

- Anh có hẹn. - Tôi gắng gượng lặp lại.

Khi nàng đang chú tâm vào tờ báo, tôi thường phải lặp lại điều gì mình muốn nói.

- Được thôi! Em sẽ gặp lại anh lúc sáu giờ chứ?

Rhoda tiếp tục đọc báo, còn tôi ngồi vào xe lái thẳng tới chỗ hẹn. Tại đây tôi gọi một cốc whisky cho thêm đá, điều này hiếm có đối với tôi mỗi lần trước giờ ăn.

Tôi hỏi Sam, người quản lý đang đứng gần:

- Anh có nghe nói về ngài Henry Vidal không?

Sam lúc lắc đầu:

- Vidal nào? À, không, tôi không biết, thưa ông Burden.

- Người ta nói với tôi ông ấy là nhân vật nổi cộm nhất Florida!

- Đấy là do người ta nói thôi, thưa ông Burden.

Hắn cười ruồi, rồi bước đi.

Năm phút sau, Joe Harkness đến.

Người thấp bé, da màu mật, Joe bằng tuổi tôi. Đằng sau bộ mặt vui tươi hóm hỉnh của hắn là khối óc ẩn chứa sự mẫn tiệp nhạy bén và tinh ma trong công việc.

- A ha. - Hắn kéo ghế ngồi cạnh tôi trên ghế cao, trỏ tay vào cốc rượu của tôi đang đặt trên quầy. - Cái này nhất định đang chờ tớ đây.

- Nếu cậu không nhận, tớ sẵn sàng thu hồi. - Tôi nói và giơ tay làm hiệu cho Sam mang cốc whisky thứ hai. - Tớ vừa tiếp một khách hàng, Joe.

- Biết, trước đây tớ cũng đã thế rồi. Mà này anh bạn, tớ thành thật lo cho cậu đấy. Khi gã bẩn thỉu ấy tuyên bố đóng tài khoản ủy thác ở American Express tớ mừng như chết đi sống lại.

- Sao thế? Đừng hòng đánh lừa tớ, Joe.

- Clay, tớ không nói ngoa. Có là điên mới vui mừng trước việc để mất một tài khoản hai trăm ngàn đô la, nhưng thực tình tớ như được tháp cánh một khi đã cạn sạch bát dĩa nơi nhà Vidal và Dyer. Từ hơn mười tám tháng nay, chuyện này đã làm tớ ngập đầu. Thực hết cách...

- Cậu nói gì thế? Chẳng phải tài khoản ít ỏi sao?

- Không, trái lại nó sẽ còn tăng lên nữa. Đây là con số của năm rồi, và nhất định nó đã tăng trong năm nay, nhưng đừng hòng nghĩ rằng cậu đã vớ được cái mỏ vàng. Tớ sẽ bốc cậu ra khỏi ảo tưởng này. - Harkness nốc một hơi, cạn nửa cốc whisky, nói tiếp. - Vidal đòi hỏi chúng tôi nhập vào một số trương mục trong thời hạn sáu tháng. Nói cách khác, lão được sử dụng tiền của chúng tôi.

- Khoảng trăm nghìn đô la gì đó trong sáu tháng. Lão lấy số tiền này cho vay với lãi suất bảy phần trăm và thu được ba nghìn năm trăm đô la tiền lời của sáu tháng, trong khi chúng tôi mất trắng mối lợi này, trước khi lão hoàn lại tiền nhập số trương mục của chúng tôi. Chưa hết, lão còn yêu sách một chiết khấu năm phần trăm trong những dịch vụ vượt quá mười lăm nghìn đô la trong sáu tháng, mà trong đó lão được lãi ba nghìn bảy trăm năm mươi đô la, còn chúng tôi cũng bị mất nốt. Mỗi lục đầu cá nguyệt, con số một trăm nghìn đô la tiền dịch vụ làm ăn đã ký kết, lão chỉ cần trả có chín mươi hai nghìn bảy trăm năm chục đô la, nghĩa là mười lăm nghìn đô la trong một năm.

Tôi cười vào mũi hắn:

- Còn thế nào nữa? Cậu là người ấn định các điều kiện, số trương mục vẫn còn đáng kể? Thế sao cậu lại rên rỉ?

- Tại sao tớ rên rỉ à? Tớ sẽ nói cho cậu nghe. Bọn tớ rất thích nguồn hàng của lão và mong đợi được chi trả sòng phẳng. Chúng tôi tính toán, dù với chiết khấu năm phần trăm tiền lãi khá khỉnh. Nhưng chúng tôi đã tự thọt tay vào mắt mình. - Hắn đặt bàn tay lên vai tôi. - Thôi nào, không khéo miếng thịt cháy khét.

Tôi trả tiền thức uống xong chúng tôi xông vào phòng ăn.

- Bởi vì Vidal hiện giờ là khách hàng của cậu, Clay, tớ sẽ không nói tới chuyện ấy nữa. - Harkness nói và ngồi vào bàn. - Tớ gọi thêm món cá hồi xông khói, món bít tết và cậu thấy thế nào về một chai rượu chát, loại hảo hạng?

Tôi gọi người phục vụ hai cá hồi xông khói, hai bít tết và chai rượu vang California.

- Không có rượu Bordeaux à? - Harkness hỏi, vẻ khổ sở.

- Tớ chưa vô mánh của Vidal. Cậu chẳng nói cái lão bạn hàng ấy không mang lại lợi ích nào à?

- Tớ không nói như thế, nhưng tớ may mắn chỉ thu được hai phần trăm. Nhưng mà thôi, cậu đừng nên tăng thêm phiền bực vốn đã quá nhiều rồi, mà chỉ có trời hiểu.

- Đến thế cơ à? Nhưng những phiền bực gì chứ?

- Tớ đã mất một cô thư ký ưu tú, khó thể có được...

Cô ấy đã xin thôi việc sau năm tháng lo công chuyện cho Vernon. Để Vernon còn giữ được hòa khí, một vụ bạo hành và để không bị đưa ra tòa, chúng tôi phải xì tiền. Ngoài những chuyện lăng nhăng này, Vernon còn luôn luôn tỏ vẻ háu ăn và không bao giờ chịu thỏa mãn.

Người hầu bàn đặt trước mặt chúng tôi các đĩa cá hồi xông khói.

Tôi hỏi Harkness:

- Chuyện bạo hành như thế nào?

Harkness cười mỉm:

- Một trong những nhân viên xuất sắc của hãng chúng tôi, trong cơn bức xúc đã gắn quả đấm vào mồm Vernon. Hắn kiện ngay lập tức và để yên chuyện, chúng tôi phải rót cho hắn năm nghìn đô la, đồng thời mất luôn anh nhân viên tiếp thị.

- Có cách nào để giữ cho Vernon bớt khó chịu không?

- Hắn không bao giờ bước chân tới hãng. Khi muốn nói chuyện công việc, hắn luôn luôn cho chúng tôi cái hẹn ở một trong những nhà hàng loại sang và đắt nhất của thành phố, mà hắn không bao giờ chi trả tiền ăn uổng. Tớ ước tính đã thâm hụt hơn bốn chục đô la trong vòng mười tháng để vỗ béo cho cái thứ rác rưởi này.

Chúng tôi ăn trong vài phút và tôi đã suy nghĩ về những điều vừa được nghe:

- Còn Vidal, cậu đã phăng được gì nơi lão?

- Hoàn toàn không nắm được. Chỉ biết sơ sài lão có ngôi biệt thự thuộc loại sấm sét trong khu Paradise Largo, sử dụng một du thuyền cao tốc, một chiếc Rolls hiện đại mui trần, một cô vợ người mẫu xinh đẹp và một núi tiền trong các ngân hàng. Tớ khó hình dung Henry Vidal thuộc nhân vật tầm cỡ thế nào. Lão chỉ giao thiệp với giới thượng lưu. Vernon chỉ lui tới những chỗ bình thường trong khu vực của lão.

- Vidal tạo lập tài sản bằng cách nào?

Harkness ăn hết đĩa cá hồi, ngồi dựa lưng vào ghế, thở phào khoan khoái:

- Bằng cách tung người theo mọi nhu cầu.

- Cách làm ăn quái quỷ gì thế?

- Lão có dưới trướng khoảng trên trăm mạng, được chọn lọc theo khả năng từng ngành nghề. Những gã này lùng sục khắp nơi, trong và ngoài nước. Có thể nói như hình thái vệ tinh chân rết và điều này giải thích tại sao con số tài khoản của lão trong các ngân hàng cứ tăng lên sau các chuyến du lịch như thế. Theo lời người ta mách tớ, phân nửa số gã này rong tìm những người có nhu cầu bán bất cứ thứ gì: đường, cà phê, kim loại kền, sắt thép, dầu hỏa, tàu thuyền v.v... Phân nửa số gã kia đi thăm dò nhũng ai có nhu cầu mua những thứ này. Sau đó, nhờ nắm bắt kịp thời những thông tin qua mạng lưới nhạy bén, Vidal nghiên cứu phối hợp giữa cung với cầu và thu được nguồn hoa hồng đáng kể. Vidal đã đề ra phương pháp ít tốn kém qua việc nắm bắt được thị trường mua bán, nên cuộc sống của lão sung mãn. Vừa rồi, tớ có đọc bài báo loan tin Lybie đã mua được nhiều chiếc tàu bọc sắt phế thải của Anh quốc. Tớ cược Vidal đã thương lượng vụ này với gã ít ra nhiều triệu đô la.

Tôi giật mình, kích động:

- Dyer đòi tớ một bảng thời gian biểu các chuyến bay đi...

Harkness đưa tay ngăn lại:

- Khoan nói, để tớ thử đoán: Tokyo, Johannesburg và Hong Kong, đúng không?

Tôi kinh ngạc, nhìn hắn:

- Chính xác... làm ơn tiếp nữa đi.

- Lo lắng đầu tiên của Vernon muốn biết cậu sẽ thực hiện việc này như thế nào và sẽ trả cho hắn bao nhiêu. Lấy trường hợp của tớ làm bằng chứng, tớ đã cung cấp cho hắn một bảng thời gian biểu nào đó vô hiệu dụng. Do đó, một khi có những công việc quan trọng cần trao đổi, hắn luôn luôn đút một cái hẹn tại nhà hàng. Cậu đừng mong chờ hắn sẽ trả tiền cho những bữa ăn hẹn hò kiểu này.

- Thế thì tiền nong như thế nào?

- Cậu đừng lo điều này. Vidal lúc nào cũng trả đủ.

- Cậu có tham khảo không?

- Hẳn rồi, ba ngân hàng và các nhân viên hối đoái... Một tuýp người hoàn toàn vô hại. Nếu cậu muốn, tớ sẽ cho xem các bảng nhiếp sao.

- Vâng, làm ơn giúp giùm...

Hầu bàn mang đến món bít tết.

- Thôi nào, chúng ta thông qua chuyện này. - Harkness đề nghị. - Nhìn miếng bít tết tớ lại thấy đói.

Chúng tôi cùng ăn trong một lúc, hắn nói tiếp:

- Hôm nào rảnh, chúng ta làm một ván golf, Clay?

- Được thôi, nếu cậu muốn không còn manh giáp. Ngày nào, chủ nhật này được không?

- Tại sao không? - Hắn cười rân, rồi ước định. - Chúng ta nên bắt đầu từ sáng sớm, lúc chín giờ nhé?

Ngày chủ nhật, Rhoda không bao giờ dậy trước hai mươi giờ.

Ngày nghỉ, quán ăn không mở cửa và Rhoda không biết làm bếp cũng chẳng muốn tập tành, nên tôi thường tự dọn cho mình mẩu bánh nhân thịt.

- Khi cậu muốn có những thông tin khác về Vidal hãy điện cho tớ. - Harkness nói và bước vào trong, rồi nhìn tôi khẽ lắc đầu. - Clay, tớ thành thật rất tiếc cho cậu...

Hắn đi khuất, để lại trong tôi niềm lo lắng mơ hồ.