Tia sáng & Tựa

MỤC LỤC

TIA SÁNG

TỰA

CHƯƠNG I: Tình Thầy Trò của Socrate và các môn sinh

CHƯƠNG II: Tình Thầy Trò của Khổng Tử và các môn đồ

CHƯƠNG III: Tình Thầy Trò của Platon và Aristote

CHƯƠNG IV: Tình Thầy Trò của Aristote và Alexandre Le Grand

CHƯƠNG V:Tình Thầy Trò của Đức Thích Ca và các môn đệ

CHƯƠNG VI: Tình Thầy Trò của Đức Giêsu và các sứ đồ

CHƯƠNG VII: Tình Thầy Trò của Đức Mohamet và các đệ tử Đạo Hồi

CHƯƠNG VIII: Tình Thầy Trò của Huyền Trang và Giới Hiền Pháp Sư, của François Xavier và Ignace de Loyola

CHƯƠNG IX: Tình Thầy Trò của Albert Le Grand và Thomas d'Aquin

CHƯƠNG X:Tình Thầy Trò của Bossuet và Dauphin Le Grand

CHƯƠNG XI: Tình Thầy Trò của Fénélon và Duc de Bourgogne

CHƯƠNG XII: Tình Thầy Trò của Đức Bab, Tiên Phong và Đức Baha'u'llah, Giáo tổ  của Đạo Baha'i

CHƯƠNG XIII: Tình Thầy Trò của Đức Phật Thầy Tây An và mấy đệ tử Bửu Sơn Kỳ Hương

CHƯƠNG XIV: Tình Thầy Trò của Đức Ngô Văn Chiêu, Giáo tổ Cao Đài và các đệ tử

CHƯƠNG XV: Tình Thầy Trò của Đức Huỳnh Phú Sổ và các đệ tử Hòa Hảo giáo

CHƯƠNG XVI: Tình Thầy Trò của Alain và André Maurois

CHƯƠNG XVII: Tình Thầy Trò của Boule và Teilhard de Chardin

 

 

Tia sáng

1.- Nếu có khi đôi ba năm, năm mười năm ta mới được một ngày vui thâm trầm trọn vẹn, thì có khi trong đời may lắm ta mới gặp được một ông thầy cho ra thầy.  

Elizabeth Rosa

2.- Hai cái tình cờ định mệnh trong sư đệ là tình cờ ta gặp được minh sư để cả đời được chỉ giáo và tình cờ ta cãi minh sư mà vẫn xây được cho mình kim tự tháp sự nghiệp sáng giá.  

Waterstone

3.- Xưa nay trong nhân loại, thường thường đại sự là cái đại lý, cái bao thầu dành riêng cho những ông thầy lớn và những môn đồ lớn nhứt trong lãnh vực tinh thần, đạo đức.

Ferzinger

4.- Khi một thiên tài xuất hiện trên thế giới, người ta nhận ra họ bằng dấu hiệu nầy: Là hết các thằng ngốc nổi lên phản đối họ.  

R. Fréron

5.- Không thầy đố mầy làm nên.  

Tục ngữ Việt

6.- Nhứt nhựt chi sư chung thân vi phụ: một ngày làm thầy trọn đời làm cha.  

Khổng Tử

7.- Kính thầy mới được làm thầy.  

Những phường bội bạc sau nầy ra chi.

Ca dao

8.- Người ta thương địch thủ của mình hơn thương thầy mình.

Voltaire

9.- Ông thầy mới nào cũng luôn luôn chua chát.  

Eschyle

10.- Ai không có thầy sẽ bị Satan làm sư.  

Ngan Islam

11.- Ông thầy có một trăm con mắt.  

Phèdre

12.- Cặp mắt của thầy hành động nhiều hơn hai bàn tay của ông.  

B. Franklin

13.- Khi thầy mất, bức tường của Ibba khóc.  

Ngân Nga

14.- Dù bạn là ai, thầy bạn vẫn là thầy bạn.

Voltaire

15.- Thù địch của ta là thầy ta.

La Fontaine

 

Tựa

1. Đại khái thời nay Thầy trách trò cái gì? Trách đủ thứ. Trò lười biếng học, cúp cua đi xi nê, tổ chức nhậu, chia phe đánh lộn, phá làng phá xóm. Trò vô lớp ăn mặc như kép hát, trai ngồi nhổ râu, gái ngồi mơ màng, bãi vở không thèm chép. Thầy giảng bài mặc thầy, cậu lo tán gẫu, đánh ca rô, cô lo viết thư tình. Trò nhóm chợ trong lớp, thầy dạy muốn yên, không đến đổi tay cầm sách tay cầm ma trắc, cổ đeo tu hít nhưng phải cầm thước hết nhịp đến la. Thầy đứng đầu lớp, trò cuối lớp hét như rượt giặc. Thầy xuống cuối lớp, trò đầu lớp hú lên như cảnh nhà cháy tàu chìm. Trò học nhảy lớp, lo lót tiền mua chứng chỉ, học bạ giả. Học lớp này có học bạ lớp khác. Trò có học bài ở đâu mà trả bài. Trả bài viết thì cả đám đánh bùa đánh phép. Trả bài miệng đứa nầy thì cả đám kia như ong vỡ ổ. Thầy trách trò cái gì nữa? Trò đi thi lận súng lục của cha anh làm ông bự theo. Trò nhảy dù bài thi, giám thị liều hồn mà im cái mồm nhé. Có trò sẽ xin tí huyết đấy. Trò học thoi đá, của thầy võ đem thí nghiệm ở thầy văn. Lâu lâu tổ chức đạp chơi thầy một bữa, tạt dầu song thập vào mắt thầy, tắt đèn lớp bất tử rồi tha hồ thụi. Ở một trường nọ, cô giáo có mang, mặc loại quần thun dài, đi lên thang lầu, ở sau có trò đạp lai quần cho tuột xuống. Cả đám trò cười ầm, la oái oái lên: Không phải em cô, không phải em cô. Cô giáo thẹn đỏ mặt và buồn đỏ mắt luôn. Trò khoái thầy nào vào lớp giảng lạc đề, thường nói tiếu lâm, lai rai pha trò tục tĩu. Thầy giảng trang nghiêm, dạy xây dựng trò cho de. Cô giảng bài hay dở không cần: trò chỉ nhắm cô đẹp hay xí thôi. Thầy đừng ỷ dạy hay dạy giỏi nhé: trò chỉ khoái ông nào đẹp trai, bay bướm lả lướt. Vô lớp trò dùng rặt tiếng lóng. Trò hô ghế ghế. Thầy cô đừng tưởng ghế cây ghế sắt nhé. Ghế đây là đồng phái với bà E-và mà tuổi còn hoa mộng đấy. Sau lưng thầy cô, trò kêu là: Thằng chả con mẻ. Trò cho mỗi thầy mỗi cô một tên riêng tùy khuyết điểm nào đó của mỗi người. Thầy mập phệ vào lớp trò bảo: Địa vào kìa tụi bây. Cô nước da đen vào lớp, trò bảo: Quần lãnh đến tụi bây. Ở một ký túc xá nọ, trò tối lén nhét phẩn vào hai chiếc giày của thầy, sáng bữa sau thầy không để ý thọt chân vào khổ ơi là khổ. Cũng ở một ký túc xá, trò dọn cà phê cho thầy uống, oán thầy đâu từ kiếp nào nay khạc đờm mai tiểu vào cà phê và như vậy kéo dài gần ba tháng. Một giám thị nọ, tối ngủ bị trò mò vào chui vô mền một ổ kiến vàng. Kiến bò cùng mình cắn như giặc công đồn đả viện. Khi trò ra trường rồi, thầy trách trò làm sao? Gặp thầy, trò hất mặt đi chỗ khác. Trò học cao hơn thầy, gặp thầy ra vẻ khinh khỉnh.  

Ngày xưa thầy lỡ có một hai khuyết điểm nào, trò không nhắc công thầy cực với khổ gì đâu, không khen thầy giỏi với hay gì đâu mà cứ nói toàn lỗi lầm của thầy. Trò nhắc mãi đến xuống lỗ rằng thầy nầy hung dữ, thầy kia 35, thầy nọ cao bồi, rằng cô A xí xọn, cô B lấy học trò, cô C "đá lông nheo" với hiệu trưởng, cô D hay khóc trong lớp. Thầy làm lớn mà không lo hết cho trò cũng là mắc nghiệp chướng nữa. Trò bảo thầy xạo, thầy thiên vị. Trò tổ chức viết báo chửi thầy, lên mặt dạy khôn lại thầy, bôi lọ thầy. Lúc thầy lên voi thì đến thầy tấp nập, không học chữ nào với ông nọ cũng tôn đại là thầy. Đến khi thầy xuống chó coi thầy như cỏ rác. Lúc thầy bị tai họa, tù đày trò coi thầy như người mắc bịnh hủi.

2. Còn nữa! Thầy còn nhiều chuyện động trời để trách trò. Nhưng ngược lại, trò trách thầy cái gì? Đại khái trò trách thầy như vậy: Thầy vào lớp ăn mặc cao bồi. Thầy dạy không dọn bài. Thầy chấm bài ẩu. Thầy lựa trò nào đẹp kêu lên trả bài riêng, cho điểm cao. Thầy giảng bài lạc đề. Thầy cắt nghĩa bài không ai hiểu hết mà trò hỏi lại thì cự nự, báo thù. Thầy chạy giờ như chạy áp phe. Thầy dạy câu giờ, giảng bài tán hươu tán vượn. Thầy mê nữ sinh. Cô giảng bài trong họng. Cô kiểu nhân vật chánh trong cuốn Vòng tay học trò. Thầy nịnh trò giàu, sợ con mấy ông lớn. Thầy chấm thi tùy hứng. Thầy đánh trò như lên võ đài. Thầy vô lớp "xổ nho" ăn nói như hàng tôm hàng cá. Thầy dốt sư phạm. Thầy bằng cấp giả. Thầy trốn quân dịch. Thầy vô lớp bất lực, thiếu tư cách khiến trò nổi giặc rồi trở lại chửi trò, chửi luôn trường. Thầy ăn mặc lè phè, nói năng lấc cấc. Thầy cắt nghĩa đùi, bị hỏi bí mà cứ cắt nghĩa nam tào bắc đẩu, ra vẻ như cái gì mình cũng biết. Thầy hợp hội đồng giáo sư chuyên môn nói xấu học sinh. Thầy ghét học sinh nào thì oán nó thiên thu. Thầy tra trông mặt mà bắt hình vong, cảm tưởng lần đầu thế nào về một trò thì in trí trò ấy tốt hoặc xấu mãi mãi. Có thứ thầy lạc hậu, ai nói gì, làm gì không hợp mình thì cho là sái trí, là khùng điên. Thầy khác ngôn hành mâu thuẫn dạy một đàng làm một ngả. Thầy dạy trò xong, hết xôi rồi việc không còn nhân nghĩa gì với trò. Thầy làm lớn coi trò như cỏ rác. Thầy dạy trò đã đi nói xấu trò. Thầy giỏi mồm dạy lý thuyết chứ không giúp trò thực hành được việc gì. Lâu năm thôi học, trò gặp lại thầy, thầy làm mặt lạ.

3. Không làm sao kể xiết lời qua tiếng lại trách nhau như bằm bầu giữa một số thầy trò thời nay. Ai phải ai quấy? Chắc bên nào cũng có lý mà cũng đáng trách. Do đâu mà quá tệ như vậy? Chắc do nhiều nguyên nhân. Có kẻ nói tại chiến tranh. Kẻ khác nói tại cha mẹ, tại chánh quyền không làm xong bổn phận. Người khác nói tại báo chí, sách vở, phim ảnh, kịch trường, phòng trà, tửu quán, xì-nắc-ba hè nhau đầu độc tuổi trẻ. Người khác nữa nói tại tôn giáo suy đồi, luân lý bệ rạc, tại nghèo đói, tại ngoại nhân, nhập cảng tồi phong bại tục làm dân tộc mất thuần phong mỹ tục ông bà xưa để lại, tại nước ấu trĩ học lóm dân chủ, hiểu tầm bậy tự do thành phóng túng. Vậy nguyên nhân gốc là đâu? Phức tạp quá. Chắc tại mọi cái một chút. Rồi có phải thầy trò ngày nay hoàn toàn tệ hơn thầy trò ngày xưa không? Nhiều người lớn tuổi dứt khoát bảo đúng vậy. Có đúng mà coi chừng hẳn nay hoàn toàn tệ hơn xưa. Thầy trò thời lên mặt trăng có kẻ tệ lắm thật. Nhưng xưa cũng có thầy như Platon thiên vị hất trò giỏi là Aristote ra để cháu mình là Pseusipus làm đầu trường Académus khiến nhiều môn đồ bất mãn ly khai trường phái của mình. Trò xưa như 5 môn đệ ban đầu của Đức Phật hiểu lầm thầy, bỏ thầy. Trò xưa của Judas bán thầy lấy 30 bạc trị giá ngày nay khoản vài ba ngàn đồng. Trò xưa như Hoàng tử cả, con vua Louis XIV là thứ trò bất trị. Thì ra xưa nay gì cũng có tốt mà cũng có xấu. Vấn đề thầy trò giống nhau như vấn đề tham nhũng ở chỗ thời nay tham nhũng tới họng mà thời xưa lúc đạo nho là đạo luân lý nghiêm khắc đang thịnh hành mà quan quân vào bắt cha nàng Kiều còn ra giá có ba trăm lạng việc nầy mới xong.

4. Nói như vậy không phải thời nay tự bào chữa, để đẩy trôi vấn đề mà cố ý nhận rằng sự kiện tình thầy trò sa sút là sự kiện thời nào cũng có, khác nhau về cường độ suy kém nhiều ít thôi. Vấn đề cần đặt ra là trong toàn bộ chương trình cải tạo xã hội, trong đó có việc khôi phục truyền thống dân tộc, nên lưu ý đến tầm quan trọng của tình thầy trò.  

Không cần hoàn toàn tin câu "Không thầy đố mày làm nên" những ai chấp nhận rằng trường học là lò chuẩn bị thành công cho trường đời thì rất tất nhiên chấp nhận vai trò của ông thầy. Thử tưởng tượng nếu không có ông thầy, bao nhiêu thế hệ trẻ sẽ ra sao, các công vụ lấy đâu người đủ khả năng để đảm trách. Không có thầy, vô số kiến văn cổ kim ai truyền thụ cho ta một cách có thẩm quyền. Đành rằng thư viện, sách báo là kho trữ văn hóa nhưng tự học trong nhiều trường hợp và nhiều phương tiện làm sao bằng học mà có thầy hướng dẫn.

Nếu hiểu thầy theo nghĩa rộng ngoài nghĩa thầy trò trong trường người, ta có biết bao nhiêu thứ thầy trò để phụ với mình xây sự nghiệp. Hầu hết những vĩ nhân của nhân loại để lại cho đời vô số công trình bất hủ đều nhờ thầy. Thầy theo nghĩa hẹp, thì trò Platon nhờ thay Socrate, trò Teilhard de Chardin nhờ thầy Marcellin Boule, mà tên tuổi sống nghìn thu. Thầy theo nghĩa rộng thì Léon Tolstoi đã từng chỉ đường dẫn lối cho Gandhi rồi Gandhi đối với cố thủ tướng Nehru là gì nếu không phải là thầy và từ Gandhi đến Nehru lập nên nghiệp cả, chắc đâu quên ơn thầy mình. Trò nhờ thầy như vậy còn thầy không nhờ trò gì sao? Thầy lý tưởng muốn có người nối chí kế nghiệp. Thầy nuôi nhiều mộng đồ mà vì hoàn cảnh, vì tuổi già sức yếu, ai thay thế mình thực hiện các mộng đồ ấy. Thầy dấn thân vào đại sự, ai tiếp tay đắc lực nhất với mình? Đức Thích Ca nằm xuống rồi ai truyền bá đạo pháp của Ngài. Tăng tử đã làm gì cho Khổng tử sau khi vạn thế sư biểu nầy tạ thế. Các tứ đồ từ Pétrus đến Paulus đã làm gì thay thế Đức Giêsu sau khi Ngài qui thiên. Thomas d'Aquin không phải là một Albert Le Grand mà vĩ đại hơn sao? André Maurois không thể hiện được bao nhiêu hoài bảo của Alain à? Không phải quá lố khi người ta nói trò đáng trò là hiện thân của thầy ra thầy.  

5. Tại sao người xưa nhà nho sắp tiếng Sư trước tiếng Phụ trong hệ thống "Quân Sư Phụ". Tại sao Socrate chết, Platon, Criton khóc thảm thiết. Tại sao Nhan Hồi chết, Khổng tử vừa khóc vừa bảo Trời hại ông? Tại sao phút cuối cùng, Đức Thích Ca chết trên tay đồ đệ Amanda. Tại sao suốt ba năm truyền bá chân lý, Đức Giêsu chú trọng đào tạo hệ thống môn đồ cán bộ? Tại sao cả đời Maurois danh lên đến mây xanh mà hể hở môi là nhắc tên thầy bảo rằng thầy dạy thế nầy, thầy khuyên thế kia? Tại sao cạnh xác Gandhi vừa bị ám sát, Nehru ngã lăn ôm thầy khóc như chết vợ chết con?

Ôi tình thầy trò quan trọng quá mà cũng cao cả, thâm trầm quá. Nó là thứ tình tổng hợp tinh hoa của các loại tình người. Khi Socrate tắt hơi cuối cùng, Platon nói tôi khóc không phải cho Socrate mà khóc cho tôi vì từ đây tôi không còn trên dương trần một người cha, một người anh, một người thầy, một người bạn. Lời nầy đúng cho Platon mà cũng đúng cho bất cứ ai trên đời có được minh sư. Có phước lắm, trò mới gặp được một tôn sư với trọn vẹn ý nghĩa của tiếng ấy. Có phước lắm thầy mới gặp được một hai trò để mình đầu thai trong đại chí và đại nghiệp.

Thiếu gì người cả đời không gặp được thầy, được trò như ý nguyện. Từ Bossuet đến Fénélon, ông bỏ 10 năm, ông bỏ 6 năm dạy dỗ chí tử công phu, đầu tư bao nhiêu hy vọng, lại trúng thứ trò gì đâu nên kẻ kể như thất bại, người tạm tạm thành công. Hai đệ tử đầu tiên của Đức Phật, phải bỏ hai thầy cũ để theo Đức Phật rồi mới được toại nguyện. Thì ra có khi mình muốn cầu sư, cầu đệ mà đâu phải thầy nào, trò nào cũng là đối tượng như ý.

Người cầu học, cầu tiến mà gặp được chân sư còn hơn trúng số. Họ tha hồ khai thác kiến văn, đạo hạnh, kinh nghiệm, mưu cơ. Trên đường đời họ được cố vấn đường khôn nẻo dại, họ được nguồn an ủi, ủy lạo tinh thần nhất là những khi đời họ qua truông, xuống dốc. Người đại chí, bất lực mà gặp ninh đồ trung đệ thì con bầy cũng không bằng vì họ có kẻ làm cho kiến thức, hoài bão của họ đâm chồi kết quả về thiên thu.

6. Nhưng tiếc thay, vô số người thành công mà không ý thức chiếc nôi của sự nghiệp của mình. Họ uống nước quên nguồn. Tội nghiệp nhiều lão sư và tuổi đời xế bóng không gặp lại được mấy môn đồ lui tới viếng thăm. Lòng họ như bến đò năm cũ, đìu hiu, cô quạnh. Cũng tiếc thay, thiếu gì người, đến khi xuống tuyền đài, hồn còn ngậm ngùi, tức tưởi nhỏ lệ vì chí lớn không thành mà cũng không ai đủ tài đủ sức nối tiếp cho.  

Thưa bạn! Tôi viết cuốn Gương Thầy Trò nầy chỉ nhằm mục đích nhỏ bé là ca tụng Tình Thầy Trò. Tôi thấy nó thần thánh quá, tuyệt vời quá và cũng quan trọng cho đời ta, cho quốc gia, cho nhân loại quá. Sao tôi thấy không vĩ nghiệp huân công nào dưới bóng mặt trời nầy mà không có dấu vết ít nhiều của công lao thầy trò. Tôi cũng thấy tương lai người bạn trẻ sẽ huy hoàng lắm nếu họ từ tuổi xuân gặp được minh sư.  

Trong tập sách nhỏ nầy, tôi sưu tầm một mớ gương thầy trò Tây-Đông kim cổ để phân tích tâm lý của tình sư đệ, để cố gắng vạch ra mấy nét chính của triết lý tình thầy trò để gạn lọc những bài học thiết dụng cho nghề làm thầy và cho đạo làm trò.  

HOÀNG XUÂN VIỆT

Saigon, 2 - 2 - 1973