Từng Thề Ước (Tập 2) - Chương 01 - Phần 1

Tóm tắt tác phẩm

Thời thượng cổ, ba đại Thần tộc: Thần Nông ở Trung Nguyên, Cao Tân ở Đông Nam và Hiên Viên ở Tây Bắc tạo thành thế chân vạc, chia ba thiên hạ.

Giữa thời loạn thế, từ nam nhi kiêu dũng đến thiếu nữ yêu kiều, từ kẻ thất phu nơi thảo dã đến bậc vương tử lầu vàng điện ngọc, đều có những khát vọng của riêng mình. Kẻ chỉ cầu hạnh phúc một đời bên người mình thương mến, người hằng mong ngao du khắp chốn, tự tại vô ưu, người lại ôm mộng bá đồ, muốn nhất thống thiên hạ.

Trong thiên hạ nổi lên hai vị anh hùng là Xi Vưu, Chiến thần của Thần Nông và Thiếu Hạo, vương tử của Cao Tân.

Xi Vưu vốn là thú vương, mấy trăm năm trước bị Thần Nông Viêm Đế thu phục, tính tình vừa tàn nhẫn lại vừa chân tình, vừa xảo trá lại vừa đơn thuần, vũ lực siêu quần, bách chiến bách thắng. Trong lòng hắn không có thanh quy giới luật, mục tiêu duy nhất chính là dùng vũ lực chinh phục thiên địa vạn vật.

Thiếu Hạo là vương tử Cao Tân, dung mạo tuấn tú, phong thái ung dung, vừa lạnh lùng hờ hững lại vừa dịu dàng ôn hòa. Trong lòng y không có tình thân, chỉ có tham vọng bá đồ, sẵn sàng bất chấp thủ đoạn để có thể giành được ngôi vương, đưa Cao Tân trở thành quốc gia hùng mạnh nhất.

Nói Xi Vưu như lửa đỏ thì Thiếu Hạo như nước biếc.

Mệnh vận trêu đùa, trên con đường bình định giang sơn, Xi Vưu đã gặp A Hành, công chúa của Hiên Viên, hai người thoạt đầu là hiểu lầm, sau đó lại nảy nở tình cảm.

Dưới gốc hoa đào, Xi Vưu đã thề với nàng, quyết định buông bỏ tất cả, ở bên nàng suốt đời.

Nào ngờ thời thế xoay chuyển, thiên hạ đại loạn, A Hành thân là công chúa Hiên Viên, vì sự sinh tồn của người nhà và dân chúng Hiên Viên, buộc phải kết hôn cùng Thiếu Hạo.

Xi Vưu không hiểu nội tình, cho rằng A Hành phản bội mình, vô cùng căm giận. Thù nhà nợ nước, ân oán giữa các chủng tộc đan cài giăng mắc, cuối cùng Xi Vưu cũng hiểu, thì ra hận còn khó hơn cả yêu.

Xi Vưu và A Hành, A Hành và Thiếu Hạo, quan hệ giữa họ không chỉ là yêu hận cá nhân, mà còn liên quan đến an nguy của gia tộc, hưng suy của đất nước cùng hạnh phúc của muôn dân toàn thiên hạ.

Tình yêu của Xi Vưu và A Hành những tưởng có thể vượt lên cả sống chết, đến cuối cùng vẫn bị cuốn phăng đi, bị vùi dập trong vòng xoáy thời cuộc.

Đến cuối cùng, liệu người trong cuộc có còn nhớ, nguyện vọng ban sơ nhất là gì?

Liệu người còn nhớ, mình từng thề ước cùng ai?

Lời thề năm ấy, đã thành hiện thực hay đã vĩnh viễn tuột khỏi tay?

Lấy bối cảnh thần thoại rộng dài cả về không gian và thời gian, Từng thề ước từng bước mở ra một thế giới với đủ thần, ma, yêu cùng vô vàn loài linh thú hiếm lạ. Để rồi, khi bước vào, ta lại nghe vang vọng khúc tráng ca về cuộc đối đầu đơn độc mà quyết liệt với vận mệnh của con người.

 

Chương 1:

Dù chẳng tương tư cũng khó quên­­ [1]

 

Sáu mươi năm thư qua tin lại, hắn chỉ thoáng trông đã nhận ra nét chữ của A Hành, nhìn thấy nét chữ quen thuộc như máu thịt, lòng hắn chợt quặn lên như dao cắt, đau đến nghẹt thở, nét chữ vẫn đây mà người nay đâu?

[1] Trích trong bài tử Giang thành tử - Ghi lại giấc mộng đêm hai mươi tháng Giêng năm Ất Mão của Tô Đông Pha (1036-1101). (ND)

Thế sự tựa bể dâu biến đổi vô thường, cả quãng thời gian dài đằng đẵng chẳng qua cũng như là bóng câu ngang cửa sổ.

Thiếu niên áo bào ngựa quý đã nằm dưới ba thước đất, thanh nữ dung mạo như hoa chỉ còn xương trắng cốt khô, biết bao bi hoan ly hợp ân oán tình thù đều trở thành câu chuyện phiếm cho đám người lê la đầu đường xó chợ, dẫu là truyền kỳ hào hùng mỹ lệ nhất cũng phai nhạt dần theo năm tháng rồi tan đi trong gió. Chỉ còn những đóa hoa dại nơi sườn núi ấy tự nở tự tàn, tự khoe sắc tự tỏa hương, tháng lại tháng, năm lại năm vẫn vẹn nguyên vẻ rỡ ràng ngày cũ.

Viêm Đế đời thứ tám Du Võng đã đăng cơ được hai trăm lẻ ba năm, người trên đại hoang cũng lãng quên Viêm Đế đời thứ bảy từ lâu, truyền thuyết về Thần Nông Thị nếm thử hàng trăm loại cỏ cây, sau cùng độc phát thân vong chỉ còn là câu chuyện nửa hư nửa thực.

Hiên Viên thành của Hiên Viên quốc nằm ở phía Đông Nam Hiên Viên, xung quanh được núi cao bao bọc, có lịch sử hơn ngàn năm nay, tuy không đồ sộ nhưng quy hoạch rất tề chỉnh, đẹp đẽ, lại là một tòa sơn thành, dễ thủ khó công.

Trong quán rượu ở Hiên Viên thành, một lão già tuổi chừng sáu mươi, nét mặt khắc khổ, lưng đeo cây tam huyền cầm đi khắp các bàn, tới bàn nào cũng cười cầu tài hỏi: “Khách quan muốn nghe một khúc nhạc không?”

Khách khứa trong quán vừa ngẩng đầu nhìn thấy lão đã bực bội xua tay lia lịa.

Một nam tử vẻ mặt thờ ơ lãnh đạm, mình vận hồng bào, dáng dấp cao lớn, đường nét rắn rỏi đang ngồi tại chiếc bàn kê sát bên song, nhìn chỉ ngoài đôi mươi nhưng gương mặt lại tái mét như có bệnh, hai bên tóc mai lốm đốm bạc, đượm vẻ phong trần.

“Khách quan có thích nghe tấu nhạc hay kể chuyện không?”

Nam tử thẫn thờ trông ra ngoài song cửa, chẳng buồn ngoảnh lại, chỉ thuận tay quăng cho lão già một xâu tiền, xua tay đuổi lão đi.

Tay lái buôn mập mạp thấy vậy liền kêu lên: “Này lão già, nhận tiền rồi thì mau kể chuyện giải sầu cho chúng ta đi.”

“Chẳng hay khách quan muốn nghe chuyện gì?”

“Tùy lão, chuyện gì cũng được, miễn là hay.”

Lão già ngồi xuống khẽ gảy cây đàn tam huyền tính tang mấy tiếng rồi hắng giọng kể: “Vậy lão xin kể chuyện tiệc Bàn Đào hầu khách quan. Truyền thuyết kể rằng, xưa kia cứ cách ba mươi năm Vương Mẫu trên Ngọc sơn lại bày tiệc Bàn Đào một lần, khách khứa tới dự được mời dùng đào tiên, nếm ngọc tủy, trước lúc ra về còn được tặng báu vật, quả là sự kiện trọng đại trong thiên hạ. Khách mời đều là những đại anh hùng trong Thần tộc, Yêu tộc và Nhân tộc. Ngọc sơn cao chót vót hơn vạn trượng, người thường vốn không thể leo lên, những kẻ phàm nhân như chúng ta chỉ có thể nghe kể lại mà thôi.”

Khách khứa trong quán thảy đều đặt đũa xuống, dồn mắt vào lão già, tay lái buôn mập ú được thể lên giọng kể cả: “Đúng thế đấy, ông cố ta cũng từng kể lại. Thuở ông cố ta còn nhỏ từng gặp người trong Thần tộc, chính vị bằng hữu Thần tộc đó kể với ông cố. Tiếc rằng về sau Vương Mẫu chẳng bày tiệc Bàn Đào nữa, bằng không biết đâu ông cố lại nhờ vả được vị bằng hữu kia đánh cắp cho mình một trái đào tiên, cũng không tới nỗi qua đời sớm như vậy.” Dường như thấy mình pha trò rất thú vị, tay lái buôn phá lên cười ha hả.

Đám khách khứa lao xao hỏi: “Về sau sao Vương Mẫu lại không bày tiệc Bàn Đào nữa?”

Lão già vuốt vuốt chòm râu dê đáp: “Hơn hai trăm năm trước, Thần tộc xảy ra một sự kiện long trời lở đất, Viêm Đế đời thứ bảy của Thần Nông tộc qua đời, Viêm Đế đời thứ tám là Du Võng được sự phò tá của Đốc Quốc Đại tướng quân Xi Vưu lên ngôi kế vị. Nghe nói khi tin Viêm Đế qua đời truyền tới Ngọc sơn, đến trời xanh cũng phải tiếc thương Viêm Đế, Ngọc sơn vốn quanh năm đều ấm áp như mùa xuân, vậy mà lần này lại đổ tuyết, cả núi trắng xóa một màu, hoa đào ngàn năm không tàn úa bấy giờ nhất loạt héo khô rơi rụng, không còn hoa đào đương nhiên sẽ chẳng có trái đào, càng không có tiệc Bàn Đào.”

Khách khứa trong quán thảy đều thở than tiếc nuối: “Đến Ngọc sơn cũng tiếc thương mà đổ tuyết, xem ra Viêm Đế năm xưa quả nhiên là người tốt.”

Chỉ mình tay lái buôn phản bác: “Tốt cái gì? Chính ông ta hại mọi người không còn đào tiên mà ăn, cũng chẳng biết bao giờ rừng đào trên Ngọc sơn mới ra trái lần nữa. Lão già kia, kể chuyện nữa đi.”

Lão già chẳng buồn đôi co với hắn, chỉ gảy gảy dây đàn, nghĩ ngợi một hồi rồi chậm rãi kể: “Vậy lão xin thuật lại một chuyện bí mật giữa Hiên Viên tộc và Thần Nông tộc vậy. Hơn hai trăm năm trước Thần Nông và Hiên Viên khai chiến, tranh đấu liên miên mãi đến nay, bên nào cũng có thương vong, Tam vương tử của Hiên Viên chết trận, Chúc Dung của Thần Nông trọng thương, đến giờ vẫn phải bế quan chữa trị.”

Gã lái buôn sốt ruột ngắt lời: “Chuyện này ai mà chẳng biết, có gì bí mật đâu?”

Lão già thong thả đáp: “Nhưng theo lão được biết, Chúc Dung bị thương là do một nguyên nhân khác.”

“Lão nói xem nào! Đừng có câu giờ! Rốt cuộc là kẻ nào đả thương Chúc Dung?” Đám khách khứa nghe đến mê mải, hối hả giục.

Lão già cười khà đáp: “Thật ra Chúc Dung không phải bị người của Hiên Viên đả thương, mà chính là bị Hậu Thổ đánh trọng thương.”

“Gì cơ?”

Thấy mọi người kinh ngạc xôn xao, lão già đắc ý, lại khoan thai gảy mấy tiếng tinh tang, “Nguyên nhân cụ thể thì lão đây không rõ, chỉ biết hai trăm năm trước, Hậu Thổ một thân một mình xông vào doanh trại của Chúc Dung đánh cho y trọng thương, thậm chí linh thể suýt nữa bị tiêu tan, tĩnh dưỡng suốt hai trăm năm chưa khỏi.”

“Vậy mà Viêm Đế cũng để yên sao? Chắc người nhà của Chúc Dung phải thù Hậu Thổ đến ghi xương khắc cốt, vật nài Viêm Đế trừng trị Hậu Thổ ấy nhỉ?”

“Người nhà của Chúc Dung đáng lẽ nên cảm tạ Hậu Thổ mới phải.”

“Này lão kia, lão già quá lú lẫn rồi à? Đánh người ta gần chết còn đòi cảm tạ cái gì?”

Lão già cười hăng hắc, “Nếu Chúc Dung không bị Hậu Thổ đánh trọng thương, rồi thừa dịp đó trốn vào cổ trận trên Thần Nông sơn tĩnh dưỡng thì e rằng đã bị Xi Vưu giết chết, hoặc bị Xương Ý và Xương Phó suất lĩnh tinh binh Nhược Thủy ám sát từ lâu. Lão nghe nói sau khi Chúc Dung trọng thương được đưa vào bí trận, Xi Vưu vẫn không chịu buông tay, y điên cuồng tấn công cổ trận, toan xông vào lấy mạng Chúc Dung, Viêm Đế phái mấy trăm thần tướng đến cũng chẳng ngăn nổi. Về sau Viêm Đế phải năn nỉ Xi Vưu đừng phá hủy cổ trận kẻo làm tổn hại tới lăng mộ các đời Viêm Đế, y mới niệm tình thầy trò với Viêm Đế đời trước mà ngừng tay. Có người lại kể Xương Ý và Xương Phó dẫn theo một đội tinh binh Nhược Thủy nửa đêm tập kích Thần Nông, đến chẳng thấy hình đi không thấy bóng, chỉ trong một đêm đã giết chết mười tám thần tướng của Thần Nông, khiến cả Thần Nông hoang mang rối loạn, tướng sĩ Thần tộc chẳng ai dám chợp mắt, chỉ sợ nhắm mắt ngủ rồi sẽ không bao giờ tỉnh lại nữa.”

Khách khứa trong quán cười rộ lên, nhao nhao phản bác: “ Lão già này tham gạt gẫm chút tiền thưởng, bắt đầu đặt điều rồi, Tứ vương tử của Hiên Viên chúng ta nổi danh hòa nhã, cả đại hoang ai mà không biết.”

Tay lái buôn chợt buột miệng: “Nghe ông cố ta kể, năm xưa trong Thần tộc ngấm ngầm đồn đại rằng Hiên Viên vương cơ bị người trong Thần Nông tộc hại chết.”

Đám khách khứa khinh khỉnh vặn lại: “Vậy Đại vương tử phi của Cao Tân bây giờ là ai? Người ta vẫn còn sống sờ sờ trên Ngũ Thần sơn kìa.”

Tay lái buôn bị căn vặn chỉ biết ngượng ngập cười: “Thế nên mới nói là đồn đại!”

Một người khách Cao Tân có chút kiến thức lại hỏi: “Tạm không bàn tới việc Xương Ý hành thích Chúc Dung có thật hay không, chỉ xét chuyện Xi Vưu thôi nhé. Tuy Xi Vưu hung tàn bạo ngược nhưng không phải kẻ điên, vì sao y muốn lấy mạng Chúc Dung? Tại sao ngay đến Viêm Đế cũng chẳng ngăn nổi?”

Cả quán rượu đột nhiên lặng phắc như chết, từ đầu đến giờ khách khứa ai nấy đều cố không đề cập tới Xi Vưu, gắng lờ đi cái tên đồng nghĩa với tử vong này, nhưng trong lòng lại lấn cấn một nỗi tò mò rờn rợn.

Một gã thiếu niên Cao Tân vừa theo cha lên thuyền phụ việc, nghé con chưa biết sợ hổ liền nằn nì: “Ông ơi, ông kể chuyện về Xi Vưu cho mọi người nghe đi!”

Lão già gật gật đầu với thiếu niên, gảy lên mấy tiếng đàn tinh tang vui tai rồi kể tiếp: “Các vị có nghe nói tới Cửu Lê tộc của Thần Nông bao giờ chưa?”

Thiếu niên le te đáp: “Cháu biết rồi! Đó là thị tộc sản sinh ra anh hùng, rất nhiều mãnh tướng Thần Nông là người Cửu Lê tộc, ngay cả Xi Vưu cũng vậy!” Giọng điệu đầy vẻ kính trọng xen lẫn sợ sệt.

Lão già lại gảy dăm tiếng đàn, “Hơn sáu trăm năm trước, Cửu Lê còn bị gọi là Cửu Di, dân chúng Cửu Lê bị xem như tiện dân, đàn ông phải làm tôi tớ, phụ nữ phải làm thị tỳ, không có cả tư cách hầu hạ người trong Thần tộc mà chỉ có thể làm nô lệ cho Nhân tộc.”

Khách khứa trong quán đều trợn tròn mắt nhìn lão già đầy nghi hoặc, Cửu Lê tộc, nơi sản sinh ra lớp lớp anh hùng mà là tiện dân ư?

Lão già nheo mắt hồi tưởng lại: “Mãi tới khi Xi Vưu xuất hiện mới thay đổi được tình cảnh đó, nghe nói Xi Vưu đấu với Thần tộc suốt trăm năm, buộc Thần tộc phải xóa bỏ cái tên miệt thị Cửu Di, Viêm Đế đời trước vô cùng nhân hậu, chẳng những không trách tội Xi Vưu, ngược lại còn nhận Xi Vưu làm đồ đệ, đến khi đương kim Viêm Đế lên ngôi, Xi Vưu lại được phong làm Đốc Quốc Đại tướng quân, nhưng khắp trên dưới Thần Nông không ai chịu phục y cả, ai nấy đều cười chê y, chửi rủa sau lưng y, thậm chí còn nói y sống không quá ba trăm năm nữa. Nhưng rồi suốt hai trăm năm, bọn họ dần dà trở nên khiếp sợ Xi Vưu, ở trước mặt Xi Vưu còn chẳng dám thở mạnh, chỉ e hễ sơ sảy sẽ chuốc lấy cái chết…”

Lão già ngưng bặt, vẻ sợ sệt ánh lên trong mắt, chỉ chăm chú gảy đàn, tấu lên một khúc réo rắt bi thương. Lạ thay, đám khách khứa cũng chẳng giục giã như mọi bận, ai nấy đều trầm lặng làm thinh. Mấy kẻ thuộc Thần Nông tộc càng tái mét mặt, nét kinh hoàng hằn lên ánh mắt.

Hồi lâu mới lại thấy lão già cất giọng khàn đặc thê lương: “Đám quý tộc Thần Nông vẫn luôn bất hòa với Xi Vưu, đôi bên tranh đấu kịch liệt, Xi Vưu dùng thủ đoạn tàn khốc tiêu diệt sạch những kẻ đối chọi mình, cải cách toàn bộ triều chính, khiến tám mươi bảy hộ của Thần Nông quốc phải diệt môn, Thần tộc, Nhân tộc, Yêu tộc đều không ngoại lệ, những kẻ bị xử cực hình mà chết lên tới năm ngàn ba trăm chín mươi sáu người! Nghe nói Đại vương cơ Vân Tang của Thần Nông vốn đứng về phía Xi Vưu, lúc Xi Vưu còn chưa đủ lông đủ cánh, Đại vương cơ từng chở che bênh vực cho y suốt một thời gian dài, nhưng dù sao Đại vương cơ vẫn là quý tộc, không chấp nhận nổi thủ đoạn tàn bạo của Xi Vưu, bèn lập mưu liên kết với Hậu Thổ để kiềm chế y. Sự việc bị Xi Vưu phát hiện, y chẳng chút niệm tình, một lèo giết sạch tâm phúc của Đại vương cơ, ép Đại vương cơ phải thề độc trước mọi người trên đỉnh Tử Kim, từ nay về sau không can dự triều chính nữa, nếu trái lời thề sẽ chết không toàn thây.”

Lão già thở dài cảm thán: “Xi Vưu quả là kẻ lãnh khốc vô tình, bị Thần Nông chư hầu coi như ác ma, nhưng trong dân gian, tiếng tăm của y không quá tệ, bởi xưa nay y vẫn lấy lễ đối đãi với bọn giặc cỏ dân đen, đám thanh niên trai tráng chẳng những không sợ y, ngược lại còn coi y như đại anh hùng, hy vọng một ngày có thể tự mình tạo dựng sự nghiệp vang danh đại hoang như các tướng quân dưới trướng Xi Vưu vậy.”

Gã thanh niên Cao Tân gật đầu lia lịa, hào hứng nói: “Nếu Cao Tân có được một người như Xi Vưu thì hay quá, cháu cũng khỏi phải theo cha lên thuyền làm thuê, biết đâu còn có thể lên triều kiếm một chức quan, dẫn quân ra trận nữa kìa.”

Nghe con trai nói vậy, phụ thân gã đằng hắng mấy tiếng, hạ giọng mắng mỏ: “Con nói nhảm gì thế? Thân phận chúng ta… đừng có si tâm vọng tưởng!”

Thiếu niên bị mắng tiu nghỉu mặt mày nhưng dù sao vẫn là thiếu niên, chỉ lát sau hắn đã lấy lại tinh thần, cao hứng kể: “Có lần cả đám bạn bọn cháu tranh cãi với nhau xem Xi Vưu, Thiếu Hạo, Thanh Dương ai lợi hại hơn, suýt nữa còn động tay chân, bà chủ quán rượu bèn trêu: ‘Chỉ cần gói gọn ba câu về ba vị anh hùng của đại hoang là đủ. Thiếu niên đều hy vọng được trở thành Xi Vưu, thiếu nữ đều mong được gả cho Thiên Hạo, bậc làm cha mẹ đều muốn có đứa con trai như Thanh Dương’.”

Khách khứa trong quán càng nghĩ càng thấy chuẩn xác. Thiếu niên nào chẳng ngông cuồng ngạo mạn, mong một ngày được phong hầu bái tướng, thúc ngựa rong ruổi khắp núi sông, thả sức tung hoành như Xi Vưu? Thiếu nữ nào chẳng rộn rã lòng xuân, mong lấy được người chồng anh tuấn hào hoa, nổi danh thiên hạ, nghĩa nặng tình sâu như Thiếu Hạo? Cha mẹ nào lại chẳng mong con cái được giỏi giang, tiền đồ rộng mở, cung kính hiếu thuận như Thanh Dương?

Lão già vuốt chòm râu dê mỉm cười: “Bất kể người của Thần Nông khen hay chê Xi Vưu, hiện giờ y cũng nắm giữ một nửa quân đội Thần Nông, chỉ cần ho một tiếng thì cả Thần Nông phải run sợ, đúng là Đốc Quốc Đại tướng quân oai phong lừng lẫy.”

Chủ quán cũng lắc đầu thở dài: “Quân đội của Xi Vưu quả là ác mộng của Hiên Viên chúng ta.”

Bầu không khí trong quán vừa chùng xuống đã lại căng lên như dâu đàn, ngay gã lái luôn cũng phải thầm thở dài.

Chỉ mình thiếu niên ngơ ngác không hiểu, láu táu hỏi: “Sao lại thế?”

Tiếng đàn của lão già lại vang lên dồn dập mà réo rắt, tựa mây đen vần vũ, thành trì thất thủ, khiến lòng người nơm nớp không yên. Lẫn trong tiếng đàn là giọng nói trầm trầm nặng nề của lão: “Xi Vưu chỉ đích thân cầm quân đánh với Hiên Viên một trận duy nhất. Tám mươi hai năm trước trong trận Đại Thì sơn, Hiên Viên tộc giết chết Tĩnh tướng quân dưới trướng Xi Vưu, Xi Vưu liền đem quân tấn công Đại Thì sơn, tuyên bố nếu không đầu hàng sẽ đồ sát toàn thành. Nhưng binh lính Hiên Viên kiên cường bất khuất, anh dũng thiện chiến nổi tiếng đại hoang, đương nhiên không chịu đầu hàng mà quyết tử chiến cùng Xi Vưu. Sau khi phá được thành, Xi Vưu liền hạ lệnh đồ sát toàn thành.”

Lão già tay run bắn, tiếng đàn chợt ngưng bặt, khách khứa ngồi đây đa phần là người Hiên Viên, từng nghe thuật lại trận chiến đó, ai nấy đều cúi đầu trầm mặc.

Đột nhiên lão già lại cất tiếng phá tan bầu không khí ắng lặng: “Một trận chiến! Chỉ một trận chiến thôi! Mười hai vạn người bị giết! Hơn chín vạn trong số đó là dân thường! Từ đó cái tên Xi Vưu trở thành cơn ác mộng của dân chúng Hiên Viên!”

Khách khứa trong quán thảy đều làm thinh, chỉ mình gã thiếu niên Cao Tân vẫn lẵng nhẵng hỏi về việc Xi Vưu muốn lấy mạng Chúc Dung: “Ông lão, có phải vì Xi Vưu bênh vực cho những người như chúng ta, còn Chúc Dung lại đứng về phía quý tộc quan lại nên Xi Vưu muốn lấy mạng Chúc Dung không?”

Lão già ngẩn người, chợt nghe thiếu niên gọi: “Ông lão ơi?”

“Ừm!” Lão già định thần lại, vừa nghĩ ngợi vửa kể: “Có lẽ căn nguyên là bởi Chúc Dung và Xi Vưu đại diện cho lợi ích của hai loại người khác nhau, đôi bên thế như nước lửa, không thể dung hòa, còn bí mật như người ta đồn đại chỉ là ngòi nổ mà thôi.”

“Bí mật gì cơ?” Gã thiếu niên hồi hộp hỏi.

Lão già giơ tay che miệng, ráng nói thật khẽ nhưng tất cả mọi người đều nghe thấy, “Nghe đồn Chúc Dung giết chết Đại vương tử phi của Cao Tân các ngươi nên Xi Vưu muốn lấy mạng hắn báo thù.”

Gã thiếu niên ỉu xìu trách móc: “Ông gạt người ta!”

Khách khứa trong quán cũng cười rộ lên, bầu không khí nặng nề mà chuyện về Xi Vưu mang lại khi nãy liền bị xua tan.

Lão già cười cười thi lễ cáo từ tất cả khách khứa, “Chỉ là chuyện trà dư tửu hậu, nghe cho vui thôi mà.” Đoạn lão đeo cây đàn tam huyền cầm đứng dậy, vừa đi vừa lắc lư ngâm: “Thực là giả thời giả cũng thực, giả là thực thời thực cũng giả, thực thực giả giả đều là tướng, giả giả thực thực thảy đều không…” Bước ra khỏi quán, lão bất giác ngoảnh lại, trông thấy hồng y nam tử bên song cửa, lập tức sững cả người. Mấy trăm năm trước dưới Bác Phụ sơn, nam tử này trông cũng y như vậy, mấy trăm năm sau vẫn chẳng hề thay đổi. Năm đó lão tự phụ tu vi, nhận ra thanh y nữ tử xuất thân Thần tộc, bèn khích nàng ra tay dập lửa, nhưng không mảy may nhận ra nam tử kia có linh lực, đủ thấy linh lực của hắn sớm đã cao thâm khó lường.

Lão già râu dê vội quay vào quán, bước đến gần hồng y nam tử, cung kính hành lễ, “Không ngờ lại gặp người quen cũ, chẳng hay Tây Lăng cô nương có khỏe không?”

Hồng y nam tử chẳng buồn đáp, chỉ có chén rượu trong tay hơi sóng sánh, lão già lại cười hỏi tiếp: “Năm xưa lão có mắt như mù, dám hỏi công tử quý tính đại danh?”

Hồng y nam tử ngoảnh lại lạnh nhạt nhìn lão, khẽ thốt ra hai tiếng: “Xi Vưu!”

Lão già râu dê loạng choạng lùi lại rồi ngã phệt xuống đất, mặt cắt không còn giọt máu, ngây ra một thoáng, đoạn lết xết chạy thẳng ra ngoài, cả cây đàn tam huyền cầm cũng chẳng kịp nhặt lên. Khách khứa trong quán thấy vậy đều cười ầm ĩ, “Lão già này mới mấy chén đã say bò lăn bò càng rồi!”

Cả quán rượu xôn xao tiếng cười tiếng nói, riêng một người trơ trọi.

Xi Vưu cầm chén rượu vơi, đăm đăm nhìn về hướng Tây. Đương lúc mặt trời lặn, chân trời rạng rỡ lớp lớp mây ráng muôn màu, hoa lệ như gấm, tươi thắm tựa son nhưng trong mắt hắn chỉ có ngàn non tuyết muộn, vạn dặm mây chì.

Xi Vưu ngửa cổ dốc cạn chén rượu, đoạn đi thẳng ra cửa, đi mãi đến một nơi yên tĩnh mới gọi Tiêu Dao lại, bay về phía Cửu Lê.

Hôm nay là ngày giỗ của A Hành, hằng năm cứ đến ngày này hắn đều tới Ngu uyên cúng tế nàng, sau đó về Cửu Lê ở lại một đêm.

Tiêu Dao bay rất nhanh, chưa đầy một tuần trà đã đưa hắn tới Cửu Lê.

Xi Vưu bước vào gian nhà sàn giữa rừng hoa đào, lặng lẽ ngồi xuống, ánh trăng trong như nước loang khắp hiên nhà, gió lùa qua khóm trúc phượng vĩ vi vu. Xi Vưu tay phải bưng một ống trúc đầy Ca tửu, tay trái mâm mê Trụ Nhan hoa, vừa uống rượu vừa đăm đắm ngắm hoa đào nở đầy trên núi.

Đương vào độ tháng Tư, hoa đào nở rộ khắp núi đồi, rực rỡ như mây sớm ráng chiều, nhưng dưới cội hoa đào, nào đâu thấy người từng hẹn ước?

Xi Vưu nửa say nửa tỉnh, chếch choáng rút Bàn Cổ cung lấy được dưới địa cung Ngọc sơn từ mấy trăm năm trước ra, dốc hết linh lực giương cung thật căng bắn về phía Tây, nhưng chẳng thấy bất cứ động tĩnh gì.

Hai trăm năm nay, không biết bao nhiêu lần hắn giương Bàn Cổ cung lên, nhưng cây cung được truyền tụng có thể giúp người ta gặp lại người mình nhung nhớ bất kể ở chân trời góc biển nào lại chưa từng phát huy tác dụng.

Xi Vưu vẫn chưa chịu ngừng, liên tiếp giương cung, nhưng dù giương thế nào cũng vô hiệu. Lần nào lần nấy đều dốc hết toàn lực bắn ra, dù Xi Vưu thần lực cao cường cũng không sao duy trì được mãi, dần dà hắn sức cùng lực kiệt, ngã bệt xuống đất.

Xi Vưu nghiêng ống trúc, ừng ực dốc rượu vào miệng.

Xa xa trong núi, nghe văng vẳng khúc sơn ca vọng lại.

Tiễn chàng tiễn đến bên song

Mở toang cửa sổ mà trông lên trời

Trăng tròn vành vạch chàng ơi

Mà sao mãi chẳng thấy người đoàn viên?

Chàng đừng lầm lẫn tội em

Cuồng phong canh một, tạnh liền canh hai

Thoắt mưa đổ, thoắt nắng tươi

Đã trở mặt chẳng nhận người năm nao!

Ống rượu trong tay rơi tuột xuống sàn, Xi Vưu lắng tai nghe, nhưng tiếng hát đã ngừng bặt.

“A Hành!”

A Hành, nàng đang trách móc ta ư? Hắn nhảy xuống đất, đạp lên ánh trăng, loạng choạng tiến vào trong núi.

Càng đi sâu vào núi càng thấy bạt ngàn những cội đào, muôn vàn cánh hoa rụng rơi tan tác như mưa, đậu xuống mái đầu, xuống bờ vai, hoa rơi chẳng làm ướt áo, lại thấm ướt tim người.

“A Hành, A Hành, nàng ở đâu?”

Xi Vưu không ngừng réo gọi, gọi mãi gọi mãi, nào thấy bóng ai dưới cội đào?

Chỉ có gió đêm lạnh lẽo thổi tung mưa hoa, khi dồn dập, lúc lưa thưa, lả tả điêu linh như nước mắt đau thương của người con gái.